Vào chặng nào anh cũng biết, hay hầu như biết, chỗ anh bị giam cầm trong tòa nhà không cửa sổ. Có thể có chút khác biệt trong áp suất không khí. Các xà lim chứng kiến lính canh đánh anh ở một tầng dưới đất. Căn phòng trong đó anh bị O’Brien tra tấn ở tít gần mái. Nơi đây ở nhiều thước dưới hầm, sâu hết sức sâu.
Căn phòng lớn hơn các xà lim anh đã từng ở. Nhưng anh khó nhận ra cảnh xung quanh. Vẻn vẹn anh chỉ thấy được hai chiếc bàn nhỏ trước mặt anh, mỗi bàn đều có khăn xéc xanh phủ trùm. Một bàn chỉ cách anh có một hai thước, bàn kia xa hơn, gần cửa. Anh bị trói thẳng người trên ghế, chặt đến nỗi anh không cử động được gì, kể cả đầu anh. Một thứ nùi móc ghìm đầu anh từ phía sau, ép anh nhìn thẳng trước mặt anh.
Anh ở một mình một thời gian, rồi cánh cửa mở để cho O’Brien bước vào.
“Có lần anh hỏi tôi phòng 101 có gì,” O’Brien nói. “Tôi có bảo anh rằng anh thừa biết câu trả lời. Ai cũng biết nó. Cái ở trong phòng 101 là cái gớm ghê nhất thế giới.”
Cánh cửa lại mở. Một tên lính canh đi vào, cầm theo một vật gì bằng dây thép, một hộp hay giỏ gì đó. Hắn đặt nó xuống chiếc bàn ở xa. Vì bị O’Brien đứng che, Winston không nhìn được rõ vật đó là gì.
“Cái gớm ghê nhất thế giới,” O’Brien nói, “thay đổi với từng cá nhân. Nó có thể là bị chôn sống, bị đốt chết, bị chết đuối, hay bị cọc đâm xuyên người, hoặc năm chục kiểu chết khác. Có trường hợp nó là một vật rất tầm thường, không hề nguy hại.”
Ông hơi xê dịch sang một bên, khiến Winston nhìn thấy rõ hơn vật để trên bàn. Đấy là một cái lồng sắt thuôn dài, có quai xách ở trên. Đóng vào mặt tiền lồng là một cái gì giống như một tấm mặt nạ dùng để đấu gươm, với phần lồi hướng ra ngoài. Mặc dầu nó cách anh ba bốn thước, anh có thể nhận thấy chiếc lồng được ngăn ra làm hai theo bề dài, mỗi ngăn chứa một loại sinh vật. Chúng là chuột.
“Trong trường hợp anh,” O’Brien nói, “cái ghê gớm nhất thế giới xét ra là chuột.”
Một cơn run động báo hiệu, một nỗi ghê sợ không rõ lý do, đã xuyên qua mình Winston ngay khi anh thoạt nhìn thấy cái lồng. Nhưng lúc này ý nghĩa của tấm mặt nạ che mặt tiền lồng bỗng nhập óc anh. Lòng dạ anh hầu như nhũn ra thành nước.
“Ông không thể làm thế !” anh thét run lên. “Ông không thể, ông không thể ! Không thể làm thế.”
“Anh có nhớ cái cơn khủng hoảng thường ngoi lên trong giấc mơ của anh không ?” O’Brien nói. “Có một bức tường đen tối trước mặt anh, có một tiếng gầm vang trong tai anh. Có một vật khủng khiếp ở bên kia bức tường. Anh biết anh biết nó là gì nhưng anh không dám lôi nó ra ngoài ánh sáng. Vật ở bên kia bức tường chính là chuột.”
“O’Brien !” Winston vừa nói vừa cố kiềm chế giọng mình. “Ông biết không cần phải làm thế. Ông muốn tôi làm gì nào ?”
O’Brien không trả lời thẳng. Khi lên tiếng ông ta lấy cái vẻ thầy đồ mà ông thỉnh thoảng mượn. Ông trầm tư mặc tưởng nhìn vào xa xăm, như thể nói với một cử tọa ở đâu đó sau lưng Winston.
“Tự nó, sự đau đớn không bao giờ đủ,” ông nói. “Có những lúc con người chống lại được cơn đau, ngay cho tới mức chết. Nhưng mọi người ai cũng có một điều không chịu đựng nổi — một điều không thể lặng ngắm nổi. Không liên quan gì tới lòng can đảm hay hèn nhát. Nếu từ cao ngã xuống, bám vào giây thừng không có nghĩa là hèn. Nếu từ nước sâu nhô lên, hít không khí vào ngực không có nghĩa là hèn. Đó chỉ là một bản năng không thể hủy diệt được. Với chuột cũng vậy. Đối với anh chúng bất khả kham. Chúng là một hình thức áp lực anh không đương đầu nổi, dù anh có muốn. Anh sẽ thi hành điều đòi hỏi nơi anh.”
“Nhưng đó là gì, đó là gì ? Tôi sẽ thi hành sao được nếu tôi không biết đó là gì ?”
O’Brien nhấc lồng lên mang nó qua bàn ở gần. Ông ta cẩn thận đặt nó trên tấm khăn bàn xéc. Winston nghe được tiếng máu rì rầm trong tai anh. Anh có cảm tưởng mình ngồi trong cảnh cô đơn toàn vẹn. Anh ở giữa một đồng bằng rộng lớn trống rỗng, một bãi sa mạc phẳng dãi nắng, nghe mọi tiếng động băng tới tai anh từ mênh mông xa xẳm. Song le cái lồng chuột không xa anh quá hai thước. Đó là giống chuột kếch sù. Chúng tới cái tuổi mõm chúng trồi ra thô tợn và lông chúng đổi xám thành nâu.
“Giống chuột,” O’Brien vẫn nói như hướng về một cử tọa vô hình, “tuy thuộc loại gặm nhấm, là một giống ăn thịt. Anh biết thế. Chắc anh đã từng nghe kể những chuyện xảy ra trong các xóm nghèo thuộc thành phố này. Tại vài đường phố, phụ nữ không dám để con nhỏ một mình trong nhà, dù trong năm phút. Kẻo chắc chắn chuột sẽ tấn công đứa bé. Nội một thời gian ngắn chúng sẽ lột xương đứa nhỏ. Chúng cũng tấn công người ốm hoặc kẻ hấp hối.Chúng tỏ ra thông minh lạ lùng trong sự hiểu biết khi nào con người bất lực.”
Có tiếng thé từ lồng vang lên. Tiếng kêu như dội lại tai Winston từ xa thẳm. Chuột đang đánh nhau; chúng đang gắng lăn xả vào nhau qua vách ngăn. Anh lại nghe thấy một tiếng rên xiết vì thất vọng. Tiếng này cũng dường như từ xa vọng lại.
O’Brien nhấc lồng lên, và đồng thời bấm một nút gì trong đó. Có tiếng cạch nhọn. Winston hoảng loạn cố gắng giứt mình khỏi ghế. Vô vọng; mọi phần cơ thể anh, kể cả đầu anh, bị giữ chặt. O’Brien xích lồng lại gần hơn. Nó cách mặt Winston dưới một thước.
“Tôi đã bấm vào đòn bẩy đầu,” O’Brien nói. “Anh biết lối đóng lồng này. Tấm mặt nạ sẽ chùm kín đầu anh không chừa lối thoát. Khi tôi bấm vào đòn bẩy thứ hai, cửa lồng sẽ tuốt lên. Mấy hung thú đói sẽ tựa viên đạn bắn ra. Anh đã từng thấy chuột băng qua không trung chưa ? Chúng sẽ nhẩy vào mặt anh, tuôn tuột vào trong. Có khi chúng tấn công mắt trước. Có khi chúng đào má rồi cấu xé lưỡi.”
Cái lồng đến gần hơn; nó sáp lại. Winston nghe thấy một tràng tiếng rít tuồng như thốt ra từ không trung trên đầu anh. Nhưng anh mãnh liệt chống đối cơn khủng hoảng. Suy nghĩ, suy nghĩ, dù chỉ còn nửa giây nữa — suy nghĩ được là hy vọng duy nhất. Bất thình lình mùi tanh nồng của hung thú đập vào mũi anh. Cơn buồn nôn nổi lên dữ dội trong người anh, và anh gần như mê man. Mọi sự đen sầm lại. Trong giây lát anh là một con thú gầm hét điên loạn. Song anh thoát khỏi sự đen tối với một ý nghĩ bám lấy anh. Chỉ có một cách tự cứu, một cách duy nhất. Anh phải đặt một người khác, thân thể của một người khác, giữa anh và chuột.
Lúc này vòng mặt nạ đủ to để bít mọi hình ảnh khác. Cánh cửa lưới sắt cách mặt anh có hai tấc tay. Mấy con chuột biết điều gì sắp tới. Một con nhẩy lên nhẩy xuống, một con, là chuột cống già có da thành vẩy, đứng thẳng, chân trước màu hồng bám vào song cửa, dữ dằn hít không khí. Winston thấy rõ mấy râu mép với cỗ răng vàng. Lại nữa, cơn khủng hoảng tối đen xâm nhập anh. Anh mù lòa, bất lực, ngây dại.
“Đây là hình phạt thông thường tại Trung Hoa dưới hoàng triều,” O’Brien nói với vẻ mô phạm hơn bao giờ.
Tấm mặt nạ kề mặt anh. Dây thép cọ má anh. Và rồi — không, đó không phải là sự giải cứu, chỉ là một niềm hy vọng, một tia hy vọng nhỏ. Quá chậm, có lẽ quá chậm. Nhưng anh đã bỗng hiểu rằng trong toàn thể thế giới chỉ có một người anh có thể truyền cho hình phạt của anh — chỉ một thân thể anh quẳng được ra giữa anh và chuột. Và anh hét loạn lên, hét đi hét lại.
“Hành Julia ấy ! Hành Julia ấy ! Không hành tôi ! Julia ấy ! Tôi bất cần ông làm gì nàng. Cứ xé toạc mặt nàng, lột xương nàng. Không hành tôi ! Julia ấy ! Không hành tôi !”
Anh ngã ra sau, rơi vào những cõi sâu thẳm, xa lìa giống chuột. Anh vẫn bị trói trên ghế nhưng anh đã rớt xuyên sàn, xuyên tường tòa nhà, xuyên lòng đất, xuyên biển cả, xuyên quyển khí, vào trong không gian vời vợi, vào trong các vịnh giữa sao — mãi mãi xa lìa, xa lìa giống chuột. Anh xa cách chúng hàng năm ánh sáng, nhưng O’Brien vẫn đứng cạnh anh. Vẫn có dây thép lạnh cọ má anh. Nhưng qua đám tối bao trùm anh, anh nghe thấy một tiếng kim cạch khác và hiểu rằng cửa lồng đã cạch đóng chứ không mở.
Quán Cây Lật gần như trống rỗng. Một tia nắng xuyên chéo qua cửa sổ rớt xuống mặt bàn bụi bậm. Đó vào lúc vắng vẻ, hồi mười lăm giờ. Một điệu nhạc đanh đảnh tuôn ra từ những máy truyền hình.
Winston ngồi tại xó thường lệ, đăm đăm nhìn một cốc cạn. Thỉnh thoảng anh ngước nhìn một khuôn mặt to lớn ngó anh từ tường trước mặt. BÁC ĐANG NHÌN BẠN, câu chú ghi như vậy. Không cần gọi, một người bồi bàn tới rót rượu gin Chiến Thắng đầy cốc anh, và lắc vào trong đó vài giọt rỉ từ ống nút một chai khác. Đó là đường tinh ướp đinh hương, đặc sản của quán nước.
Winston lắng nghe máy truyền hình. Hiện nó chỉ phát thanh nhạc, nhưng có thể có thông báo đặc biệt của Bộ Hòa Bình vào bất cứ lúc nào. Tin tức về mặt trận Phi Châu hết sức đáng lo ngại. Cả ngày cứ chốc chốc anh lại phập phồng về chuyện đó. Một quân đoàn Âu Á (Đại Dương đánh nhau với Âu Á: Đại Dương bao giờ cũng đánh nhau với Âu Á) đang tiến về phía nam với một tốc độ dễ sợ. Thông báo hồi trưa không nêu đích xác khu nào, nhưng có lẽ cửa miệng sông Congo đã thành một bãi chiến trường. Brazzaville và Leopoldville lâm nguy. Không cần phải xem địa đồ mới biết thế nghĩa là gì. Đó không chỉ là vấn đề mất vùng Trung Phi Châu; lần đầu tiên trong suốt cuộc chiến, chính lãnh thổ Đại Dương bị đe dọa.
Một cơn xúc động mạnh, không hẳn là sợ hãi mà là một thứ kích động không biệt hóa, bốc lên trong người anh, rồi lại biến mất. Anh ngưng nghĩ về chiến tranh. Dạo này anh không bao giờ chú tâm được vào việc gì quá vài phút. Anh nâng cốc lên uống cạn một mạch. Như mọi lần rượu gin làm anh rùng mình và cả hơi buồn nôn nữa. Cái chất thật tởm. Đinh hương với đường tinh, tự chúng đã đủ gớm như thuốc đắng rồi, không cải được mùi dầu nhạt nhẽo; tệ nhất là cái mùi rượu cứ dính chặt lấy anh đêm ngày, pha lẫn rối răm trong óc anh với mùi ấy —
Anh không bao giờ gọi tên thứ ấy, ngay cả trong tâm tư anh, và anh hết sức tránh không bao giờ cho nó hiện hình. Đấy là một thứ anh nhận thức nửa chừng, nó lởn vởn kề mặt anh, mùi nó bám lấy lỗ mũi anh. Khi rượu gin bốc lên trong anh từ đôi môi thâm của anh thoát ra một tiếng ợ. Anh mập ra từ hồi được tha, và đã lấy lại được diện sắc cũ — thực ra, anh hơn cả lấy lại nó. Nét mặt anh dày ra, da mũi và gò má anh đỏ thô, ngay cả cái đầu trọc của anh cũng hồng thẫm. Một người bồi bàn, cũng không cần được gọi, mang lại cho anh bàn cờ và số Thời Báo trong ngày đã được giở sẵn nơi trang có mục bài cờ. Rồi, thấy cốc Winston cạn, anh ta mang chai gin lại rót đầy rượu vào cốc. Không cần sai khiến. Họ biết thói quen của anh. Bàn cờ luôn luôn chờ đợi anh, góc bàn của anh luôn luôn được dành cho anh; ngay khi quán đông người, anh vẫn được giữ riêng phần góc ấy vì không ai thiết ngồi quá gần anh. Anh còn không bao giờ buồn đếm số cốc anh uống. Cách quãng đều nhà hàng đưa anh một tờ giấy bẩn bảo là hóa đơn, nhưng anh có cảm tưởng họ luôn luôn tính hạ cho anh. Nếu họ làm ngược lại cũng chẳng hề gì. Ngày nay anh có đầy tiền. Anh có cả một công ăn việc làm thật nhàn, lương cao hơn chỗ làm xưa kia của anh.
Tiếng nhạc từ máy truyền hình ngưng lại, được thay thế bởi một tiếng nói. Winston ngẩng đầu lên nghe. Tuy nhiên, không có thông báo từ chiến khu. Đó chỉ là một thông cáo ngắn của Bộ Sung Túc. Tam cá nguyệt trước, té ra định suất dây giầy ống trong Kế Hoạch Ba Năm Thứ Mười đã được hoàn thành vượt mức tới 98 phần trăm.
Anh xét bài cờ và đặt quân cờ. Đó là một bài cuối ván gai góc vận dụng một đôi mã. “Quân trắng đi hai nước thì thắng.” Winston ngẩng nhìn chân dung Bác. Quân trắng luôn luôn thắng, anh ngẫm nghĩ với một lòng sùng tín mơ hồ. Luôn luôn, không ngoại lệ, sự thể được sắp đặt như vậy. Từ thuở khai sáng thế giới đến giờ, chưa một bài cờ nào để cho quân đen thắng. Điều này chẳng tượng trưng cho sự đắc thắng vĩnh hằng, bất biến của Thiện trên Ác là gì ? Khuôn mặt vĩ đại nhìn lại anh, đầy uy quyền bình thản. Quân trắng luôn luôn thắng.
Tiếng nói từ máy truyền hình tạm ngưng rồi tiếp tục bằng một giọng khác trầm hơn. “Các bạn được khuyến nên đón một tin quan trọng vào mười lăm giờ ba mươi. Mười lăm giờ ba mươi ! Đấy là tin tối quan trọng. Coi chừng khỏi đón hụt. Mười lăm giờ ba mươi !” Tiếng nhạc leng keng lại trổ lên.
Tim Winston xao xuyến. Đấy là bản tin tiền tuyến, linh tính bảo anh tin dữ sắp đến. Suốt ngày, ý tưởng về một sự thất bại nặng nề tại Phi Châu lởn vởn trong tâm anh, làm anh khẽ rùng mình vì xúc động. Anh hầu như thực thấy quân đội Âu Á tràn qua biên giới chưa từng bị xâm phạm để rồi đổ ào vào mũi Phi Châu như một cột kiến. Tại sao lại không thể tấn công chúng từ phía sau lưng ? Đường nét bờ biển Tây Phi hiện rõ trong óc anh. Anh nhấc quân mã cho nó băng qua bàn cờ. Đấy là nước đúng. Đương lúc anh thấy bầy quân đen phóng xuống miền nam, anh thấy một lực lượng khác, đã được bí mật tập hợp, bất thình lình cắm sau lưng chúng, cắt đứt đường liên lạc bộ và thủy của chúng. Anh cảm như với ý chí anh có thể khiến cái lực lượng khác kia ra đời. Nhưng phải hành động nhanh. Nếu chúng nắm được toàn cõi Phi Châu, nếu các phi trường và căn cứ tàu ngầm tại Cape vào tay chúng, chúng sẽ cắt Đại Dương ra làm hai. Sự thể này có mọi ý nghĩa: thất bại, sụp đổ, thế giới bị phân chia lại, Đảng bị hủy diệt ! Anh thở dài. Một cảm giác hỗn hợp lạ lùng — nhưng đó không hẳn là một cảm giác hỗn hợp; đúng hơn đó là nhiều lớp cảm giác liền nhau, trong đó khó nói được lớp nào sâu hơn — tranh lấy người anh.
Chứng co cơ qua đi. Anh đặt quân mã trở lại chỗ cũ, nhưng trong một lúc anh không để tâm được vào sự nghiên cứu đứng đắn bài cờ. Tư tưởng anh lại lông bông. Gần như không ý thức, anh lấy ngón tay vẽ trên bụi bàn:
2 + 2 =
“Chúng không thể đi vào lòng mình,” nàng có nói. Nhưng chúng đi nổi vào lòng người. “Sự gì xảy ra với anh nơi đây còn đó mãi mãi,” O’Brien có nói. Lời này đúng. Có những điều, có những hành động của chính mình, khiến mình không bao giờ lành được. Cái gì đó đã bị hủy trong tim: bị thiêu đi, đốt mất.
Anh đã gặp nàng; anh đã cả nói chuyện với nàng. Không có gì nguy hiểm trong việc đó. Làm như linh tính cho anh biết rằng bây giờ họ hầu như không quan tâm đến hành động của anh. Anh có thể sắp đặt để gặp lại nàng nữa, nếu một trong hai người muốn. Thật ra thì hai người gặp nhau bữa đó vì tình cờ. Cuộc gặp mặt xảy ra trong Công Viên, vào một ngày tháng ba rét mướt, khi đất tựa như sắt và cỏ hình như chết, lúc không có một nụ nào nơi đâu ngoại trừ một vài đóa nghệ tây cố nhô đầu ra để bị gió bẻ gẫy. Tay cóng mắt ướt, anh đang vội đi thì thấy nàng cách anh khoảng dưới mười thước. Anh để ý ngay thấy nàng đã thay đổi một cách khó tả. Hai người gần như qua mặt nhau không một dấu hiệu, rồi anh quay trở lại bước theo nàng, không sốt sắng lắm. Anh biết không có gì nguy hiểm, không ai buồn chú ý đến anh. Nàng không nói gì. Nàng băng xéo qua cỏ làm như muốn đẩy anh đi, sau đó nàng dường như cam chịu để anh đi cạnh nàng. Bấy giờ họ đi giữa một khóm cây non không lá, chẳng có dụng tác che giấu họ cũng như che chở họ khỏi gió. Họ dừng chân. Trời lạnh buốt. Gió rít qua cành, quật vào mấy cây nghệ tây lơ thơ coi bẩn. Anh quàng tay quanh eo nàng.
Không có máy truyền hình, nhưng chắc có máy ghi âm ẩn: vả lại, họ có thể bị nhìn thấy. Không hề gì, không có gì quan hệ. Họ có thể nằm xuống đất và làm thế ấy nếu họ muốn. Thớ thịt anh giá băng vì ghê tởm tới ý nghĩ đó. Nàng không hề đáp lại sự xiết tay của anh; nàng không cả cố thoát người ra. Lúc này anh biết cái gì thay đổi trong nàng. Mặt nàng nhợt nhạt hơn, và có một vết sẹo dài, được tóc phủ một nửa, ngang trán và thái dương nàng; nhưng đấy không phải là điều thay đổi. Nó nằm ở chỗ eo nàng thô hơn, và chai cứng một cách bất ngờ. Anh nhớ lại một lần, sau vụ một trái bom lửa nổ, anh có phụ việc lôi một xác chết ra khỏi đống đổ nát, và đã ngạc nhiên làm sao không những trước sức nặng lạ thường của tử thi mà cả trước sự cứng đờ cũng như sự khó xê dịch của nó, khiến nó giống đá hơn là thịt. Thân thể nàng cho anh cảm giác hệt như vậy. Anh có ý tưởng cấu trúc da thịt nàng khác hẳn trước kia.
Anh không thử hôn nàng, và cả hai không nói gì. Đương lúc họ băng ngược lại bãi cỏ, lần đầu tiên nàng nhìn thẳng vào anh. Đấy chỉ là một cái nhìn thoáng, đầy vẻ khinh khi ghét bỏ. Anh không hiểu sự ghét bỏ này nguyên xuất phát từ quá khứ hay đã bị gợi bởi gương mặt phị và nước mắt cứ bị gió làm lã chã tuôn ra của anh. Họ ngồi xuống hai chiếc ghế sắt cạnh nhau nhưng không quá kề nhau. Anh hiểu rằng nàng sắp nói. Nàng xích chiếc giầy đóng vụng của nàng vài phân và rắp tâm giẫm lên một cành nhỏ. Anh để ý thấy chân nàng hầu như to ra.
“Tôi đã phản anh,” nàng nói.
“Tôi đã phản em,” anh nói.
Nàng lại ghét bỏ liếc nhìn anh.
“Có lúc,” nàng nói, “chúng mang dọa mình một thứ — một thứ mình không đương đầu nổi, không dám nghĩ đương đầu với. Rồi mình xin: “Chớ làm thế cho tôi, làm thế cho người khác, làm thế cho người này người nọ.” Có thể sau đó, mình ra điều đấy chỉ là một mánh khóe, mình chỉ nói thế để cốt chúng ngưng tay, nhưng thật ra mình không muốn thế. Nhưng không phải vậy. Lúc chuyện xảy ra mình quả muốn thế. Mình cho rằng không có cách tự cứu nguy nào khác, và hoàn toàn sẵn sàng tự giải nguy cách ấy. Mình muốn điều đó xảy ra cho người kia. Mình không màng gì đến sự đau khổ của người ta. Mình chỉ lo cho chính mình thôi.”
“Mình chỉ lo cho chính mình thôi,” anh lắp lại.
“Và sau đó, tình cảm của mình đối với ngưởi kia không còn như trước nữa.”
“Không,” anh nói, “tình cảm của mình không còn như trước nữa.”
Họ làm như không còn gì nói với nhau nữa. Gió quật bộ áo liền quần mỏng mảnh gí vào người họ. Hầu như tức thì sự ngồi yên đó đâm làm họ bối rối: vả lại trời quá rét không ngồi yên được. Nàng nói gì đó về sự phải lấy Tàu Hầm rồi dứng dậy ra đi.
“Chúng mình phải gặp lại nhau,” anh nói.
“Ừ, ” nàng nói, ” chúng mình phải gặp lại nhau.”
Anh lưỡng lự nối gót theo nàng hơi xa, một nửa bước sau lưng nàng. Họ không lên tiếng nữa. Nàng không thực sự cố gạt đuổi anh, nhưng nàng đi đủ nhanh để tránh không cho anh sánh được bước cùng nàng. Anh đã rắp tâm tiễn nàng đến tận trạm Tàu Hầm, nhưng bỗng nhiên cái trò lê chân trong tiết lạnh hình như vô duyên không chịu đuợc. Một lòng thèm muốn tràn ngập anh, không hẳn lòng mong rời xa Julia mà là lòng muốn trở vê quán Cây Lật lúc này đối với anh có vẻ quyến rũ hơn bao giờ hết. Anh hình dung đầy nhớ nhung góc bàn của anh với tờ báo, bàn cờ và rượu gin không bao giờ vợi. Hơn hết, nơi đó sẽ ấm áp. Lát sau, không hoàn toàn ngẫu nhiên, anh cho phép anh cách xa nàng một đám người nhỏ. Anh thử đuổi kịp theo nàng nhưng không mấy sốt sắng, rồi anh đi chậm lại, quay gót và bước về lối cũ. Đi được năm mươi thước anh quay đầu nhìn lại. Phố không đông người, nhưng chưa gì anh đã không nhận ra nàng nữa. Bất cứ hình dáng nào trong tá người hấp tấp kia có thể là nàng. Có lẽ thân hình thô cứng của nàng không còn dễ nhận từ phía sau nữa.
“Lúc chuyện xảy ra,” nàng có nói, “mình quả muốn thế.” Anh đã muốn thế. Anh đã không chỉ nói thế, anh đã mong thế. Anh đã cầu mong cho nàng chứ không phải anh bị trao cho —
Có sự thay đổi trong tiếng nhạc dội từ máy truyền hình. Một điệu ngắt nhạo, một nốt vàng hiện trong đó. Rồi thì — có lẽ nó không xuất hiện, có lẽ nó chỉ là một ký ức nhập vào âm nhạc — một giọng hát cất lên:
“Dưới chòm cây lật
Anh bán em và em bán anh —”
Nước mắt anh trào ra. Một người bồi bàn đi qua thấy cốc anh cạn trở lại với chai gin.
Anh nâng cốc lên hít. Chất lỏng không giảm mà tăng gớm với mỗi hớp thêm của anh. Nhưng nó dã trở thành nguyên tố anh bơi trong đó. Nó là đời sống, cái chết và sự tái sinh của anh. Chính rượu gin dìu anh vào trạng thái tê mê mỗi đêm, và chính rượu gin làm anh sống lại mỗi sáng. Khi tỉnh giấc, ít khi trước mười một trăm, với mí dính rỉ, miệng bỏng và lưng rã rời, anh không thể hết nằm mà ngồi dậy nổi nếu không có chai chén để suốt đêm cạnh giường. Cả giờ trưa, anh ngồi đực mặt nghe máy truyền hình, với chai kề tay. Từ mười lăm giờ tới lúc đóng cửa anh đóng đô tại quán Cây Lật. Không ai để ý tới hành vi của anh nữa, không có tiếng huýt còi nào đánh thức anh, không có máy truyền hình nào cảnh cáo anh. Thỉnh thoảng, khoảng hai lần một tuần, anh tới một văn phòng bụi bậm, như bị lãng quên tại Bộ Sự Thật làm một chút việc, hay cái được gọi là việc. Anh đã được bổ vào một tiểu ban của một tiểu ban xuất phát từ một trong vô số ban lo giải quyết những khó khăn nhỏ gặp trong việc soạn thảo bộ Từ Điển Ngôn Mới Bản Thứ Mười Một. Họ có phận sự thảo một bản Tường Trình Tạm Thời, nhưng tường trình về gì anh không bao giờ thật sự khám phá nổi. Nó có gì liên quan đến vấn đề nét phẩy phải được đặt trong hay ngoài dấu ngoặc. Có bốn người khác trong tiểu ban, cả bốn đều giống như anh. Có những ngày họ gặp nhau rồi giải tán nhanh, thành thật công nhận với nhau thực ra không có việc gì để làm cả. Nhưng cũng có ngày khác họ gần như hăng hái xông vào việc, hết sức ra điều ghi chú phác thảo hàng trang sổ tay không bao giờ hết — có bữa cuộc tranh luận về điều họ coi như phải bàn đến trở thành thật rắc rối khó hiểu, với những sự mặc cả về định nghĩa, những sự tán rộng xa đề, những sự cãi vã, ngay cả dọa dẫm thưa lên thượng cấp. Rồi bất thình lình sinh khí rời bỏ họ và họ ngồi quanh bàn lờ đờ đưa mắt nhìn nhau như thể ma biến dạng vào lúc gà gáy.
Máy truyền hình lặng im một lúc. Winston lại ngẩng đầu lên. Bản thông tin ! Nhưng không, đó chỉ là chuyện thay đổi nhạc. Sau mí mắt anh hiện ra tấm bản đồ Phi Châu. Sự vận hành của quân đội là một biểu đồ: một mũi tên đen xuyên dọc xuống miền nam, và một mũi tên trắng vạch ngang về phía đông băng qua dưới mũi trên. Như để được trấn an, anh nhìn lên khuôn mặt điềm nhiên trong bức chân dung. Có thể tưởng tượng được rằng không có mũi tên thứ hai không ?
Mối quan tâm của anh lại lắng xuống. Anh uống một hụm gin khác, nhấc quân mã trắng lên thử đi một nước. Chiếu tướng. Nhưng rõ ràng đó không phải là nước cờ đúng vì —
Không khêu mà một ký ức thoảng qua óc anh. Anh thấy một căn phòng thắp nến với một cái giường có khăn phủ trắng và chính anh, một cậu bé độ chín, mười tuổi, ngồi trên sàn nhà lắc một hộp súc sắc cười thích chí. Mẹ anh ngồi trước mặt anh cũng cười.
Đó vào khoảng một tháng trước khi bà mất tích. Đó là một lúc hòa giải, khi cơn đói meo trong bụng anh bị lãng quên và tình trìu mến trước đây của anh đối với bà nhất thời sống lại. Anh nhớ rõ ngày ấy, một ngày mưa dầm dề với nước chảy dòng dòng dọc cửa sổ và ánh sáng quá mờ không cho phép đọc. Sự buồn bực của hai đứa nhỏ trong căn phòng tối hẹp đâm quá sức chịu đựng. Winston rên rỉ làu nhàu, tầm phơ đòi ăn, lăng xăng quanh phòng đẩy mọi thứ khỏi chỗ, chân đá vào lớp phủ tường cho tới khi hàng xóm đập tường phản đối, trong khi em anh thét lên từng cơn. Tận cùng mẹ anh nói: ” Này ngoan đi con, rồi mẹ mua đồ chơi cho. Đồ chơi thích lắm — thế nào con cũng thích. “; và rồi bà đi dưới mưa đến một tiệm tạp hóa nhỏ còn mở lèo tèo gần đó, và bà trở về với một hộp bìa đựng một bộ Thang Rắn. Anh còn nhớ mùi bìa ẩm. Đó là một món đồ chơi xoàng xĩnh. Tấm bảng bị nứt, mấy con súc sắc bằng gỗ bị đẽo vụng đến nỗi khó đứng vững. Winston xịu mặt nhìn đồ chơi không chút hứng thú. Nhưng mẹ anh đốt một mẩu nến lên và mẹ con ngồi xuống sàn chơi. Chẳng bao lâu anh hưng phấn mạnh và phá lên cười khi mấy quân nhỏ leo thang với đầy hy vọng rồi tuột trở về điểm cũ nơi hang rắn. Mẹ con chơi tám ván, mỗi người thắng bốn ván. Em gái anh quá nhỏ không hiểu đó là trò chơi gì, cũng ngồi tựa vào gối mà cười vì người khác cười. Cả buổi chiều mẹ con sung sướng chơi với nhau như thuở ấu thơ xưa của anh.
Anh đẩy hình ảnh đó khỏi óc anh. Đó là một ký ức sai lầm. Thỉnh thoảng anh bị quấy rối bởi nhiều ký ức lệch lạc. Không có gì đáng lo nếu biết nhận ra tính cách của chúng. Có những điều đã xảy ra, có những điều đã không xảy ra. Anh quay trở lại bàn cờ và lại nhấc quân mã trắng lên. Gần như đồng thời nó rơi xuống bàn cái cách. Anh đã giật mình như thể có một mũi kim đâm vào anh.
Một trống kèn nhọn chói không gian. Bản tin đây ! Chiến thắng ! Bao giờ tiếng kèn gọi có trước bản tin cũng báo hiệu chiến thắng. Một cơn dao động như nhiễm điện truyền qua quán nước. Ngay mấy người bồi bàn cũng giật mình vểnh tai lên.
Tiếng kèn gọi vang dội rất lớn. Chốc thì một giọng hí hửng láu táu xuất từ máy truyền hình nhưng vừa bắt đầu nó đã chìm dưới một tràng hoan hô kêu từ ngoài quán. Tin lành đã chạy quanh các phố như có ma thuật. Những điều thốt ra từ máy truyền hình, anh chỉ nghe được đủ để hiểu rằng toàn sự thể đã xảy ra hệt như anh tiên đoán: một đại hạm đội được bí mật tập trung, một cuộc tấn công bất thình lình vào hậu quân địch, mũi tên trắng xé ngang đuôi mũi tên đen. Nhiều mẩu văn đắc thắng lọt qua tiếng ồn ào: ” Cuộc thao diễn chiến lược lớn — sự phối hợp hoàn hảo — sự thất bại hoàn toàn — một nửa triệu tù binh — sự mất tinh thần trọn vẹn — kiểm soát toàn thể Phi Châu — đưa cuộc chiến tới chỗ chấm dứt nội một thời gian có thể ước chừng được — chiến thắng — chiến thắng lớn nhất trong lịch sử nhân loại — chiến thắng, chiến thắng, chiến thắng !”
Chân Winston co giật dưới bàn. Anh không rời ghế, nhưng trong tâm trí anh đang chạy, chạy nhanh, anh hòa mình với đám đông bên ngoài, hoan hô tới điếc. Anh lại nhìn lên chân dung Bác. Vị khổng lồ cưỡi thế giới ! Tảng đá ngăn chận lũ rợ Á Châu vô ích nhào tới ! Anh nghĩ sao mười phút trước — phải chỉ mười phút trước — trong lòng anh hãy còn hai mang khi anh tự hỏi tin từ chiến trường sẽ là chiến thắng hay thất bại. A, không chỉ quân đội Âu Á bị tiêu diệt ! Anh đã thay đổi nhiều từ cái ngày đầu tiên ấy tại Bộ Tình Yêu, nhưng sự thay đổi cuối cùng, cần thiết, chữa lành anh đến lúc này mới xảy ra.
Giọng nói từ máy truyền hình vẫn trút ra câu chuyện tù binh, chiến lợi phẩm và giết chóc, nhưng tiếng ồn bên ngoài đã lắng xuống một chút. Mấy người bồi bàn đã quay trở lại công việc. Một người lại gần anh với một chai gin. Winston ngồi đắm mình trong một mộng tưởng êm lành, không để ý đến cốc rượu được rót đầy. Anh không chạy hay hoan hô nữa. Anh quay về Bộ Tình Yêu, với mọi tội lỗi đã được tha thứ, tâm hồn trắng như tuyết. Anh ở trong khu bị cáo, thú nhận mọi tội, làm liên lụy mọi người. Anh bước dọc hành lang lát gạch trắng với cảm tưởng đi dưới ánh mặt trời, theo sau bởi một tên lính gác. Viên đạn được mong mỏi lâu ngày xuyên óc anh.
Anh nhìn lên khuôn mặt đồ sộ. Anh đã mất bốn mươi năm mới hiểu được ý nghĩa nụ cười giấu dưới bộ râu đen. Ôi sự hiểu nhầm ác nghiệt vô tích sự ! Ôi sự tự đọa đầy bướng bỉnh xa tấm lòng thương yêu ! Hai giọt nước mắt hôi mùi gin rỏ xuống hai sóng mũi anh. Nhưng tốt lành rồi, mọi sự tốt lành, cuộc đấu tranh đã chấm dứt. Anh đã thắng anh. Anh yêu thương Bác.