Bạn hãy dành một chút thời gian để tưởng tượng rằng bạn đang sống trong thời kỳ tiền sử. Nửa đêm, bạn bị đánh thức bởi tiếng động như sấm của một đàn voi ma-mút đang di chuyển về phía lều trại của mình. Bây giờ bạn có thể yêu cầu bất cứ vĩ nhân nào của thế kỷ XX trở về môi trường nguyên thủy đó để giúp bạn thoát khỏi tình thế khó khăn này.
Ai sẽ là người sẽ giúp bạn? Albert Einstein? Không thể vì ông ấy quá nhỏ bé. James Joyce thì sao? Rất tiếc vì ông ta bị cận thị nặng. Vậy Franklin Delano Roosevelt thì sao? Có thể được, nếu ông ta không ngồi trên một chiếc xe lăn. Như vậy, những con người nổi tiếng nhất của thế kỷ XX trở nên ít hữu dụng vào chính lúc bạn đang cần. Trên thực tế là nhiều người trong số họ sẽ gặp nguy hiểm và nhanh chóng bị tiêu diệt trong môi trường nguyên thủy. Theo cách khác, nếu tôi gợi ý cho bạn đưa ra một ai đó như Michael Jordan hay Arnold Schwarzenegger thì chắc là họ sẽ giúp được bạn thoát khỏi tình thế khó khăn trên.
Trong hoàn cảnh này bạn cần có phản xạ nhanh, khả năng định hướng không gian nhạy bén, tốc độ, sức mạnh và sự lanh lẹ nhiều hơn là phương trình ánh sáng (E=MC2), một tác phẩm văn học (như Finnegans Wake của James Joyce) hay một chương trình cải cách kinh tế (New Deal). Ở thế kỷ XX, chúng ta đã trở nên quen thuộc với trí thông minh cấp độ cao trong cuộc sống cùng những người “mọt sách”, những nhà trí thức hay các viện sỹ.
Ngoài ra, còn có cách định nghĩa trí thông minh là khả năng ứng phó thành công với hoàn cảnh, điều kiện mới và năng lực học hỏi được từ kinh nghiệm đã trải qua của cá nhân khác.
Nếu xe hơi của bạn bị hỏng ngay giữa đường cao tốc, ai là người thông minh nhất để giải quyết vấn đề này? Liệu đó sẽ là một tiến sỹ triết học ở một trường đại học lớn hay là một thợ sửa xe với trình độ phổ thông trung học? Nếu bạn bị lạc ở giữa một thành phố rộng lớn thì ai có thể là người giúp đỡ bạn nhiều nhất? Sẽ là một vị giáo sư đãng trí hay là một cậu bé có giác quan định hướng ưu việt? Có thể thấy trí thông minh phụ thuộc vào hoàn cảnh, nhiệm vụ và những yêu cầu mà cuộc sống đặt ra cho chúng ta, chứ không phải căn cứ vào một chỉ số IQ, một tấm bằng đại học hay một chức danh uy tín. Kết quả nghiên cứu trên những chỉ số có tính dự đoán của các bài kiểm tra IQ đã khẳng định điều này.
Mặc dù các bài kiểm tra trí thông minh có thể dự đoán khá chính xác những thành công của học sinh, sinh viên khi còn đang đi học, nhưng những bài kiểm tra này không thể chỉ ra được các sinh viên sẽ làm việc ra sao trong cuộc sống thực tế sau khi rời ghế nhà trường. Một nghiên cứu đối với những nhà chuyên môn đã đạt được nhiều thành công trong cuộc sống cho thấy, một phần ba trong số họ có chỉ số IQ thấp. Như vậy, có một thông điệp rõ ràng là: các bài kiểm tra IQ mới chỉ đánh giá được một thứ có thể tạm gọi là “năng khiếu đi học”, trong khi trí thông minh thật sự phải được hiểu trong phạm vi rất rộng lớn với nhiều loại kỹ năng khác nhau.
Cuốn sách này bàn về những cách biểu hiện khác nhau của trí thông minh. Sẽ thú vị hơn việc ta chỉ nói về trí thông minh như thể nó là một dạng vật chất kỳ diệu nằm trong não, có thể đo được bằng cách kiểm tra chỉ số IQ, hay trí thông minh như là một nhiễm sắc thể ưu tú được ban tặng cho một số ít những cá nhân may mắn ngay từ lúc mới sinh ra, mà thay vào đó, chúng ta sẽ đề cập đến nhiều dạng trí thông minh khác nhau mà ta có thể gặp được trên mọi ngả đường của cuộc sống.
Chúng ta sẽ xem xét trí thông minh của một vận động viên, một nghệ sỹ, một nhà soạn nhạc, một nhà quản trị, nhà tâm thần học, kế toán viên, người bán hàng, giáo viên tiểu học, thợ hàn, thợ sửa chữa máy móc, kiến trúc sư và nhiều người khác nữa. Trên phạm vi toàn cầu, chúng ta cũng sẽ khảo sát về trí thông minh đã và đang tồn tại trong các nền văn hóa khác nhau, gồm có tài năng đi biển của những người Polynesian (Pôlinêdi), khả năng kể chuyện của những người hát sử thi dân tộc Nam Tư và sự nhạy bén của những nhà quản lý người Nhật Bản.
Trong cuốn sách này, bạn sẽ nghiên cứu về một ý tưởng có tính cách mạng, đang ngày càng thu hút được sự quan tâm của đông đảo các nhà khoa học cũng như của đông đảo công chúng. Đó là học thuyết về nhiều loại thông minh khác nhau, được nhà tâm lý học Howard Gardner xây dựng và phát triển từ mười lăm năm qua, học thuyết đã thách thức các định kiến cũ về quan niệm như thế nào là sự khôn khéo, thông minh. Gardner tin tưởng rằng, nền văn hóa của chúng ta đã quá chú trọng vào lối tư duy logic và tư duy bằng lời nói – những năng lực chủ yếu được đánh giá trong một bài kiểm tra trí thông minh, trong khi bỏ qua những dạng khác của trí tuệ và sự hiểu biết. Ông đưa ra ý kiến là có ít nhất bảy loại trí thông minh khác nhau, đều xứng đáng được coi như những cách thức quan trọng của suy nghĩ và tư duy.
Bảy loại hình thông minh
Loại thứ nhất là sự thông minh về ngôn ngữ. Đây là trí thông minh của các phóng viên, nhà văn, người kể chuyện, các nhà thơ và luật sư. Loại tư duy này đã đem lại cho chúng ta tác phẩm Vua Lear của Shakespeare, Odyssey của Homer và truyền thuyết Nghìn lẻ một đêm của người Ả Rập. Người có khả năng về ngôn ngữ có thể tranh biện, thuyết phục, làm trò, hay hướng dẫn có hiệu quả thông qua sử dụng lời nói. Họ thường yêu thích các cách sử dụng âm thanh của từ ngữ thông qua việc chơi chữ, trò đố từ và cách uốn lưỡi. Đôi khi họ cũng hay đưa tin vặt bởi vì họ có khả năng nhớ các sự kiện. Họ có thể trở thành các bậc thầy về đọc và viết. Họ đọc một cách tham lam, có khả năng viết rõ ràng và có thể phóng đại ý nghĩa lên theo nhiều cách khác nhau từ những tin tức, bài báo, bức ảnh bình thường.
Loại thứ hai, thông minh logic toán học, là trí thông minh đối với những con số và sự logic. Đây là trí thông minh của các nhà khoa học, kế toán viên và những người lập trình máy tính. Newton đã điều khiển và khai thác được loại trí thông minh này khi ông phát minh ra các phép tính vi phân. Einstein, cũng tương tự, khi ông xây dựng và phát triển thuyết tương đối. Những nét tiêu biểu nhất của người thiên về trí thông minh logic toán học gồm có khả năng xác định nguyên nhân, chuỗi các sự kiện, cách tư duy theo dạng nguyên nhân – kết quả, khả năng sáng tạo các giả thuyết, tìm ra các mô hình số học hoặc quy tắc dựa trên các khái niệm, đồng thời ưa thích các quan điểm dựa trên lý trí trong cuộc sống nói chung.
Trí thông minh về không gian là loại năng lực thứ ba, liên quan đến việc suy nghĩ bằng hình ảnh, hình tượng và khả năng cảm nhận, chuyển đổi và tái tạo những góc độ khác nhau của thế giới không gian trực quan. Đó là mảnh đất sáng tạo của các kiến trúc sư, nhà nhiếp ảnh, nghệ sỹ, các phi công và các kỹ sư cơ khí máy móc. Những người đã thiết kế các Kim tự tháp ở Ai Cập có rất nhiều trí thông minh loại này. Cũng có khả năng như vậy là các cá nhân như Thomas Edison, Pablo Picasso và Ansel Adam Những cá nhân sở hữu loại trí thông minh không gian ở mức độ cao thường có độ nhạy cảm sắc bén với những chi tiết cụ thể trực quan và có thể hình dung được một cách sống động, vẽ ra hay phác họa những ý tưởng của họ dưới dạng hình ảnh, đồ họa, cũng như họ có khả năng tự định hướng bản thân dễ dàng trong không gian ba chiều.
Loại thông minh về âm nhạc là loại năng lực thứ tư. Đặc điểm cơ bản của trí thông minh loại này là khả năng cảm nhận, thưởng thức và tạo ra các tiết tấu nhịp điệu. Đó là trí thông minh của Bach, Beethoven, hay Brahms, đó là loại trí thông minh của các nhạc công chơi đàn hay những người hát sử thi của dân tộc Nam Tư. Ngoài ra, trí thông minh về âm nhạc còn có trong tiềm thức của bất cứ cá nhân nào, miễn là người đó có khả năng nghe tốt, có thể hát theo giai điệu, biết dành thời gian cho âm nhạc và nghe được nhiều tiết mục âm nhạc khác nhau với sự chính xác và sáng suốt của các giác quan.
Loại thông minh thứ năm, khả năng vận động thân thể, là loại thông minh của chính bản thân cơ thể. Nó bao gồm tài năng trong việc điều khiển các hoạt động thân thể của con người và cả trong thao tác cầm nắm các vật thể một cách khéo léo. Các vận động viên thể thao, những người làm nghề thủ công, thợ cơ khí và các bác sỹ phẫu thuật là những người sở hữu khả năng này. Cũng tương tự, diễn viên hài vĩ đại Charlie đã sử dụng tài năng loại này để thực hiện được rất nhiều động tác biểu diễn tài tình như trong vở Kẻ lang thang nhỏ bé. Những cá nhân có tài năng vận động thân thể có thể rất khéo léo và thành công trong nghề thêu may, nghề thợ mộc hay nghề tạo mẫu. Hoặc họ có thể ham thích và theo đuổi những hoạt động của cơ thể như đi bộ đường dài, khiêu vũ, chạy bộ, cắm trại, bơi lội hoặc đua thuyền, v.v… Họ là những người thực hành, nhạy cảm, thường xuyên muốn vận động cơ thể và có “phản ứng bản năng” với các tình huống, sự vật.
Loại thông minh thứ sáu là năng lực tương tác. Đây là năng lực hiểu và làm việc được với những người khác. Đặc biệt, loại thông minh này yêu cầu có khả năng cảm nhận và dễ chia sẻ với tâm trạng, tính cách, ý định và mong muốn của những người khác. Thuyền trưởng trên một chiếc tàu đi biển cần phải có loại trí thông minh này. Nó cũng cần cho một nhà quản lý của một tổng công ty lớn. Một cá nhân có trí thông minh về giao cảm có thể rất giàu lòng trắc ẩn và đầy tinh thần trách nhiệm đối với xã hội, chẳng hạn như Mahatma Gandhi, hoặc là người có sức lôi cuốn và khéo léo như Machiavelli, họ đều có khả năng nhìn thấu suốt vào bên trong những người khác và từ đó nhìn ra viễn cảnh của thế giới bên ngoài bằng chính cặp mắt của những con người đó. Trong thực tế, họ rất tuyệt vời với vai trò người môi giới, quản trị mạng, người hòa giải hoặc là thầy giáo.
Loại trí thông minh thứ bảy là năng lực tự nhận thức bản thân hay trí thông minh nội tâm. Một người có sở trường về loại trí tuệ này có thể dễ dàng tiếp cận và nhìn rõ được những cảm xúc của chính bản thân mình, phân biệt được giữa nhiều loại trạng thái tình cảm bên trong và sử dụng chính những hiểu biết về bản thân mình để làm phong phú thêm và vạch ra hướng đi cho cuộc đời. Các thí dụ về những người có trí thông minh thiên về kiểu này gồm có các nhà cố vấn, nhà thần học, những doanh nhân. Họ có thể là người rất hay tự xem xét nội tâm và ham thích được trầm tư suy nghĩ, được ở trong trạng thái tĩnh lặng hay các trạng thái tìm hiểu tinh thần một cách sâu sắc khác. Mặt khác họ có thể là người có tính độc lập mạnh mẽ, tính thẳng thắn cao độ và cực kỳ tự giác, có kỷ luật. Trong bất cứ trường hợp nào, họ thuộc dạng tự lập và thích làm việc một mình hơn là làm việc với người khác.
Bạn hãy nhớ rằng, cho dù bạn có nhận thấy rõ ràng bản thân mình thuộc một hoặc hai dạng thông minh trong số các loại đã được mô tả ở trên, thì trong thực tế, bạn vẫn luôn luôn sở hữu tất cả bảy loại trí thông minh. Hơn thế nữa, sự thật là bất kỳ một người bình thường nào cũng có thể phát triển một trong số bảy loại trí thông minh nói trên của tư duy đến một mức độ đáng kể để có thể sử dụng thành thạo.
Trong cuộc đời chúng ta, bảy loại hình thông minh được thể hiện theo các cách khác nhau và duy nhất ở mỗi người, không ai giống ai. Rất hiếm khi có người đạt được một mức độ thông minh cao ở cả sáu hoặc bảy loại trí thông minh. Đầu thế kỷ XX, nhà tư tưởng người Đức là Rudolf Steiner có thể được coi là một ví dụ về người có trí tuệ thông minh như vậy. Ông là một nhà triết học, nhà văn và là một nhà khoa học. Ông cũng là người sáng tạo ra một loạt các điệu nhảy, học thuyết về màu sắc và một hệ thống dụng cụ làm vườn, đồng thời ông còn là nhà điêu khắc, nhà nghiên cứu xã hội cũng như là một kiến trúc sư.
Mặt khác, có một số người có vẻ như đã phát triển và đạt đến một trình độ cao chỉ trong một loại trí thông minh nào đó, trong khi các loại trí thông minh khác của họ lại phát triển chậm hơn nhiều hoặc kém hẳn. Đây chính là những nhà bác học của nhân loại. Những người giống như nhân vật Raymond trong bộ phim Rainman (Người đàn ông trong mưa) đã đoạt giải Oscar, họ có thể tính toán các con số bằng tốc độ của ánh sáng nhưng không thể tự chăm sóc bản thân. Hay những cá nhân sở hữu tài năng về điêu khắc song lại không thể đọc được, hay có những người có khả năng xướng âm rất hoàn hảo nhưng lại cần người khác giúp buộc dây giày.
Đa số trong chúng ta là những người có phẩm chất trí tuệ ở vào khoảng giữa của nhà bác học với một con người phát triển bình thường trong xã hội. Mỗi chúng ta thường có một vài loại trí thông minh dường như nổi trội một chút, một vài loại trí thông minh khác có vẻ ở mức trung bình và vài loại khác nữa được xem như là gây khó khăn cho chúng ta trong cuộc sống. Dù sao đi nữa, điều quan trọng chúng ta cần phải hiểu là có nhiều cơ hội cho tất cả mọi người để phát triển và tỏa sáng, kể cả những kiểu trí thông minh không thường được sử dụng này. Người nông dân, các bậc cha mẹ, họa sỹ, thợ cơ khí và nhà buôn cũng xứng đáng sở hữu trí thông minh nhiều như các bác sỹ tâm lý, bác sỹ phẫu thuật não hay các giáo sư luật. Luận thuyết về nhiều loại trí thông minh đã tập hợp đầy đủ hàng loạt những khả năng của con người vào một hệ thống gồm bảy loại trí thông minh, tài năng, chúng có thể làm cho bất kỳ một cá nhân nào cũng có khả năng thành đạt trong cuộc sống và thu được kết quả mà mình mong muốn.
Những bằng chứng làm cơ sở cho thuyết Trí thông minh đa dạng
Thuyết Trí thông minh đa dạng không phải là khuôn mẫu đầu tiên đưa ra ý kiến cho rằng có nhiều cách khác nhau đế trở thành người khôn ngoan. Trong hai trăm năm qua, đã có rất nhiều loại luận thuyết về trí thông minh được đưa ra, theo đó có khoảng từ 1 đến 150 loại trí thông minh khác nhau. Vậy điều gì làm cho khuôn mẫu về trí tuệ của Gardner trở thành đặc biệt, hữu dụng và có sức thuyết phục? Dẫu sao đi nữa thì đó chính là vì ông đã tìm ra và kiểm chứng được những kết quả nghiên cứu của mình về vấn đề này từ việc nghiên cứu hàng loạt các lĩnh vực liên quan: nhân loại học, tâm lý học nhận thức, tâm lý học phát triển, phân tích tâm lý, khoa học tiểu sử, sinh lý học về động vật và giải phẫu về thần kinh học. Trong học thuyết của mình, Gardner đã thiết lập được các yêu cầu cần thiết đặc trưng mà mỗi loại trí thông minh phải đạt được để đủ điều kiện xác định đó là một loại trí thông minh. Sau đây là bốn trong số các tiêu chuẩn ấy:
Thứ nhất: Mỗi trí thông minh đều có khả năng được biểu tượng hóa. Thuyết trí thông minh đa dạng đã đưa ra một khía cạnh về khái niệm trí thông minh, cho rằng khả năng biểu tượng hóa trong tư duy con người, hay khả năng diễn đạt những ý tưởng, kinh nghiệm thông qua việc miêu tả các hình ảnh, con số và từ ngữ, là dấu hiệu để xác nhận đó là trí thông minh của con người. Khi Vanna White chỉ vào khoảng trống trong chữ “pr…gram” trên màn hình ti vi đang trình chiếu trò chơi “Bánh xe may mắn”, phần lớn những người xem có thể nói ngay chữ cái bị thiếu mất trong từ trên là gì, bởi vì họ cùng có chung một hệ thống ký tự giao tiếp thông thường là tiếng Anh (chữ bị thiếu là “o”). Đây là một thí dụ về hệ thống ký tự ngôn ngữ. Thuyết trí thông minh đa dạng cho rằng có nhiều cách khác nhau mà mỗi loại trí thông minh có thể sử dụng để biểu tượng hóa. Những người có tư duy logic toán học sử dụng con số và chữ số Hy Lạp, trong số các loại ký hiệu khác nhau, để đáp ứng các tư duy và nhu cầu có tính lý trí của họ. Ở một lĩnh vực khác, những nhà soạn nhạc hoặc nhạc sỹ lại thường hay sử dụng các nốt nhạc trầm bổng để biểu tượng hóa các giai điệu và tiết tấu. Marcel Marcean lại sử dụng các cử chỉ, động tác phức tạp và cách diễn giải bằng các dấu hiệu cử động thân thể để biểu diễn các khái niệm như sự tự do và trạng thái cô đơn. Ngoài ra cũng còn các ký hiệu mang tính xã hội, chẳng hạn như cái vẫy tay chào tạm biệt và những ký hiệu của cá nhân, như các hình ảnh của giấc mơ vào buổi sáng sớm.
Thứ hai: Mỗi trí thông minh đều có một lịch sử phát triển của riêng nó. Trí thông minh không phải là một điểu gì lạ thường có tính tuyệt đối như những người trung thành với quan niệm về trí thông minh theo kiểu chỉ số IQ phát biểu. Những người này cho rằng trí thông minh được sinh ra rồi duy trì ổn định, bền vững trong suốt cả chiều dài cuộc đời của mỗi người. Theo thuyết trí thông minh đa dạng, mỗi loại trí thông minh biểu hiện vào một thời điểm xác định trong thời thơ ấu, chúng đều có một chu kỳ bộc lộ và phát triển tiềm năng rực rỡ trong suốt cuộc đời, và mỗi loại có một hình mẫu duy nhất về quá trình suy giảm nhanh chóng hay từ từ khi một người bị già đi. Nhà soạn nhạc vĩ đại Mozart đã sáng tạo ra những âm điệu đơn giản từ khi lên ba tuổi và viết được những bản giao hưởng vào năm lên chín tuổi. Những tài năng âm nhạc vẫn được duy trì và còn tương đối lớn mạnh cả khi tuổi đời đã cao, bằng chứng trong cuộc sống thực tế là những nhà sáng tác như Pablo Casals, Igor Stravinsky và George Friedrich Handel.
Loại tư duy logic toán học, lại có kiểu mô hình phát triển khác với loại trên. Loại này xuất hiện hơi muộn một chút trong thời thơ ấu, phát triển đạt đến đỉnh cao vào tuổi thanh niên, sau đó suy giảm muộn hơn trong cuộc đời của con người. Nhìn vào lịch sử của tư duy toán học, ta nhận thấy một số khám phá lớn trong toán học do những nhà bác học có tuổi đời ngoài bốn mươi. Sự thực là, có nhiều khám phá quan trọng là của những người còn ở độ tuổi niên thiếu, chẳng hạn như Blaise Pascal và Evaiste Galois. Thậm chí Albert Einstein đã đạt được những hiểu biết sâu sắc ban đầu về Thuyết tương đối khi ông mới mười sáu tuổi.
Tương tự như vậy, mỗi loại trí thông minh có một mô hình tăng trưởng, phát triển và suy giảm theo cách riêng của mình, trong vòng đời của một con người.
Thứ ba: Mỗi loại trí thông minh đều sẽ bị tốn thương và biến mất khi có các tác động xâm phạm và gây hại đến những vùng đặc trưng riêng biệt của nó trong bộ não người. Thuyết về trí thông minh đa dạng tiên đoán rằng trong thực tế trí thông minh có thể bị cô lập khi bộ não bị tổn thương. Gardner đã đưa ra ý kiến là: Để được công nhận và có thể tồn tại, bất kỳ một lý thuyết nào về trí thông minh đều phải dựa trên cơ sở sinh học, nghĩa là được bắt nguồn từ cấu trúc vật chất của não bộ. Với vai trò là một nhà tâm lý học thần kinh ở Ban Quản lý Cựu chiến binh Boston, Gardner đã làm việc với những nạn nhân bị tổn thương não, một phần nào đó trong bảy loại trí thông minh của họ bị ảnh hưởng, thí dụ như: Một người có thương tích ở thùy trước trong bán cầu não trái thì không thể nói và viết bình thường được nhưng vẫn có thể hát, vẽ và nhảy múa mà không hề gặp khó khăn nào. Trong trường hợp này, trí thông minh về ngôn ngữ của anh ta đã bị suy giảm, hư hại một phần. Mặt khác, những người bị thương ở thùy thái dương bên phải có thể khó khăn khi thực hiện những công việc mang tính chất âm nhạc nhưng anh ta có thể nói, đọc và viết một cách dễ dàng. Những bệnh nhân bị thương ở thùy chẩm của bán cầu não bên phải có thể bị suy giảm đáng kể những khả năng về nhận biết gương mặt, khả năng quan sát hoặc nhận biết những chi tiết trực quan.
Lý thuyết về trí thông minh còn đang tranh luận về việc có tồn tại hay không bảy hệ thống của não bộ hoạt động một cách tương đối độc lập. Trí thông minh ngôn ngữ được xem như là một chức năng chính của bán cầu não trái ở đa số mọi người, trong khi đó, trí thông minh về âm nhạc, không gian và năng lực tương tác lại có xu hướng tập trung tại bán cầu não phải nhiều hơn. Trí thông minh về năng lực vận động thân thể gồm có vỏ não vận động, những hạch thần kinh cơ sở và bộ phận trước não. Thùy trước trán là đặc biệt quan trọng đối với trí thông minh của con người.
Bộ não là một tổ hợp phức tạp lạ thường đến mức khó tin nên không thể phân chia ra rõ ràng thành bảy khu vực có ranh giới như bản đồ. Tuy nhiên, thuyết trí thông minh đa dạng đã tổng hợp những kết quả được khám phá trong hơn hai mươi năm qua trong lĩnh vực tâm lý học thần kinh theo một cách riêng biệt đáng được chú ý.
Thứ tư: Mỗi loại trí thông minh có những nền tảng giá trị văn hóa riêng của nó. Thuyết trí thông minh đa dạng cho rằng, những biểu lộ của trí thông minh được đánh giá một cách tốt nhất bằng việc nhìn vào những khả năng đóng góp cao nhất của nó đối với xã hội, chứ không phải là việc giành được kết quả tốt hay không trong các cuộc kiểm tra. Những kỹ năng tiêu biểu cho việc kiểm tra chỉ số IQ, chẳng hạn như khả năng lặp lại những con số ngẫu nhiên theo chiều thuận hoặc chiều ngược hay năng lực để giải quyết những vấn đề nào đó có tính chất tương tự như vậy, đã làm hạn chế những giá trị văn hóa có trong trí thông minh của con người. Lần gần đây nhất, khi bạn thấy ông bà bế đứa cháu trong lòng và nói: “Ông (bà) muốn nói với cháu một điều đã từng rất có ý nghĩa với ông (bà) và hy vọng rằng giờ đây nó cũng thật sự có ý nghĩa đối với cháu: 23, 16, 94, 3, 12.
Trên một phương diện khác, điều gì đã đem lại những thành tựu và tiến bộ cho xã hội chúng ta, từ thế hệ này đến thế hệ khác, như những truyện cổ tích, truyện thần thoại, tác phẩm văn học, âm nhạc, những môn nghệ thuật cao quý, những khám phá khoa học và những kỹ năng vật lý.
Thuyết trí thông minh đa dạng cho rằng, cách tốt nhất để chúng ta có thể học được những điều thông minh là nghiên cứu, học tập những thí dụ về các công trình văn hóa có ích nhất cho xã hội, đối với từng loại trong số bảy lĩnh vực, chẳng hạn: Tác phẩm Moby Dick của Herman Melville tốt hơn là những âm tiết vô nghĩa trong cẩm nang tra cứu; Guernica của Pablo Picasso tốt hơn những thiết kế hình học trong những bài kiểm tra tính suy luận không gian; tác phẩm Magna Carta hay Sermon trên núi tốt hơn là “thước đo Vineland” về tính trưởng thành xã hội.
Ở mức độ cao hơn nữa, thuyết trí thông minh đa dạng tán thành và ca ngợi tính đa dạng trong cách thức mà trí thông minh được thể hiện ở những nền văn hóa khác nhau. Ở đây không coi các khám phá về từ ngữ và toán học của những người châu Âu da trắng như đỉnh cao của trí thông minh (mà nếu theo quan niệm này, một lần nữa sự kiểm tra trí tuệ bằng chỉ số IQ lại được ủng hộ và duy trì), thuyết thông minh đa dạng cung cấp một quan niệm rộng lớn hơn về trí thông minh của con người. Trong biểu đồ về trí thông minh này, các khả năng về trí tuệ của con người đều được ca ngợi và tôn trọng như nhau, đó là tài năng tìm đường của những người dân Himalaya, phương pháp phân loại phức tạp của thổ dân Nam Phi tộc Kalahari, những thiên tài âm nhạc của nền văn hóa Arang ở đất nước Nigieria, các hệ thống vẽ bản đồ độc nhất vô nhị của những người đi biển dân tộc Polynesian và những khả năng đặc biệt của nhiều dân tộc khác trên khắp thế giới.
Bổ sung thêm vào các đặc điểm nội dung trên, thuyết này còn đưa ra ý kiến là, trong các hoạt động của trí nhớ, mỗi loại trí thông minh có một quá trình xử lý nhận thức riêng sự tập trung, tri giác và cách giải quyết vấn đề riêng. Thí dụ, có thể bạn không nhớ các giai điệu nhưng lại nhớ hình ảnh gương mặt và con số. Tương tự như vậy, bạn có thể có tri giác nhạy bén về độ cao của nốt nhạc song bạn không thể phân biệt được sự khác nhau giữa cách phát âm của chữ “th” và “sh”. Thậm chí bảy loại trí thông minh còn có cả lịch sử tiến hóa riêng của môi loại. Trí thông minh về âm nhạc có một phần hàm chứa tiếng hót của chim muông, trong khi trí thông minh về vận động thân thể xuất hiện từ những hoạt động săn bắn trong những thời kỳ sơ khai đầu tiên của lịch sử loài người. Những ai muốn kiểm chứng luận điểm này có thể tham khảo các kết quả kiểm tra tâm lý và nghiên cứu thực nghiệm, đó sẽ là một sự ủng hộ và khẳng định khoa học. Thuyết trí thông minh đa dạng không chỉ là một ý kiến đơn thuần. Nó được lập nên từ việc tổng hợp các kết quả nghiên cứu mới nhất của những đề tài khoa học về trí thông minh hiện có.
Khám phá bảy loại hình thông minh của bạn
Bây giờ, sau khi đã biết được một vài điều về cơ sở khoa học của thuyết bảy loại hình thông minh, hãy đánh giá bản thân bạn phù hợp với mỗi loại hình thông minh đến mức nào. Trong quá trình tôi tổ chức các cuộc hội thảo và giảng bài trên khắp nước Mỹ, mọi người thường đặt ra câu hỏi: “Có bài kiểm tra nào để làm thử và biết được trí thông minh của tôi ra sao hay không?” Tôi hy vọng rằng không có. Cuốn sách này được xây dựng trên cơ sở của niềm tin là trí thông minh rất phong phú và đa dạng, vượt hẳn ra ngoài khái niệm trí thông minh bị gò ép chỉ trong một bài kiểm tra 90 phút. Mặc dù vẫn có nhiều bài kiểm tra cá nhân, chúng đánh giá những khía cạnh khác nhau của bảy loại hình thông minh, nhưng cách tốt nhất để khám phá xem các kiểu thông minh của bạn nhiều đến mức nào chính là thông qua sự đánh giá trung thực nhất, đó là xem bạn đã ứng dụng như thế nào trong cuộc sống hàng ngày.
Hãy xem xét những gì bạn làm hàng ngày, như là việc sử dụng điện thoại. Bạn có kỹ năng gì để ghi nhớ các số điện thoại không? Bạn có lặp lại các con số điện thoại bằng cách tự lẩm nhẩm khẽ đọc chúng trước khi quay số hay không? Nếu có thì đó là bạn đang sử dụng năng lực ngôn ngữ đấy. Hay bạn hình dung ra được các phím cần bấm trên máy điện thoại như tấm bản đồ có dạng một mạng kẻ ô vuông. Điều đó phản ánh một kiểu trí tuệ tư duy theo không gian trong công việc. Tôi đã từng nghe có người nói rằng họ nhớ số điện thoại bằng các âm điệu đặc trưng của phím bấm khi nhân. Họ phải là những người có trí thông minh về âm nhạc. Một điều nữa là trí thông minh của một người được sinh ra từ các hoạt động hàng ngày như tiến hành một cuộc gọi điện thoại chẳng hạn, chứ không phải từ những câu hỏi và thách thức trong một bài kiểm tra IQ.
Không có một kỹ năng nào được sắp xếp sẵn từ trước có thể định nghĩa được toàn bộ trí thông minh của bạn. Mặc dù vậy, bạn có thể tiến gần đến việc hiểu được kiểu suy nghĩ của bạn bằng cách khảo sát một sự kiện tiêu biểu trong số các sự kiện vẫn diễn ra thường xuyên trong cuộc đời mình. Danh sách kiểm tra với những đề mục sau đây sẽ giúp bạn làm việc này. Có một khoảng trống ở cuối mỗi mục để viết về những khả năng khác đã không được nhấn mạnh trong danh sách kiểm tra. Đừng coi danh sách kiểm tra này như là những gì quyết định cuối cùng về bảy loại hình trí tuệ của bạn. Còn có nhiêu bài tập và các hoạt động khác nhau trong cuốn sách này, chúng sẽ bổ sung thêm vào vốn hiểu biết của bạn cách làm thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất. Hãy coi danh sách kiểm tra này đơn giản chỉ là một cách để bắt đầu khám phá khi bạn muốn tìm đáp số thực về trí thông minh của bản thân mình.
Danh sách kiểm tra các loại trí thông minh
Với từng loại trí thông minh, bạn hãy kiểm tra xem những quan điểm dưới đây có đúng khi bạn áp dụng hay không:
TRÍ THÔNG MINH NGÔN NGỮ:
Những quyển sách rất quan trọng đối với tôi.
Tôi có thể nghe thấy những từ vang lên trong đầu mình trước khi đọc, nói hay viết chúng ra.
Tôi nghe đài hoặc nghe băng nhiều hơn là xem ti vi hay xem phim.
Tôi có khả năng từ ngữ trong các trò chơi như sắp chữ, đảo chữ hay mật khẩu.
Tôi thích giải trí hoặc chơi những trò phải tập uốn lưỡi, có những âm điệu vô nghĩa hay có chơi chữ.
Đôi khi những người khác phải dừng lại và đề nghị tôi giải thích ý nghĩa của những từ ngữ mà tôi sử dụng khi viết và nói.
Trong thời gian tôi còn đi học phổ thông, tiếng Anh, các môn học xã hội đối với tôi dễ hơn nhiều so với môn toán và khoa học.
Khi lái xe thong thả trên xa lộ, tôi thường chú ý vào những từ ngữ viết trên biển quảng cáo nhiều hơn chú ý quang cảnh xung quanh.
Cuộc nói chuyện, trao đổi của tôi thường liên quan đến những thông tin tham khảo mà tôi vừa được đọc hoặc nghe thấy.
Gần đây tôi đã viết về một số điều đã làm tôi đặc biệt tự hào hoặc những điều giúp tôi nổi bật giữa đám đông.
TRÍ THÔNG MINH LOGIC
Tôi có thể dễ dàng tính toán các con số trong đầu.
Toán và những môn khoa học được tôi yêu thích nhất khi còn học ở nhà trường.
Tôi thích thú với các trò chơi hay giải các câu hỏi hóc búa mang tính trí óc mà chúng đòi hỏi phải có suy nghĩ logic.
Tôi thích nghĩ ra và làm các thí nghiệm tìm kiếm “cái gì sẽ xảy ra” (Ví dụ như: “Cái gì sẽ xảy ra nếu tôi tăng gấp đôi số lượng nước tôi tưới hàng tuần vào bụi hoa hồng”).
Suy nghĩ của tôi là tìm tòi những khuôn dạng, luật lệ hay những trật tự có tính logic trong các sự vật, sự việc.
Tôi ham thích và hứng thú với những phát triển, tiến bộ mới của khoa học.
Tôi tin tưởng rằng, hầu hết mọi thứ đều có một cách lý giải hợp lý, chặt chẽ.
Đôi khi tôi tư duy bằng những khái niệm trừu tượng, tách biệt rõ ràng, không có từ ngữ và hình ảnh.
Tôi thích tìm kiếm những thiếu sót mang tính logic trong những thứ mà mọi người nói và làm ở nhà hay trong công việc.
Tôi cảm thấy thoải mái, dễ chịu hơn khi có một việc gì đó để đo đạc, xếp loại, phân tích và định lượng theo một phương pháp nào đó.
TRÍ THÔNG MINH KHÔNG GIAN
Tôi thường thấy được rõ ràng hình ảnh hiện lên khi tôi nhắm mắt lại.
Tôi nhạy cảm với màu sắc.
Tôi thường sử dụng máy quay phim hoặc máy ảnh để ghi lại những gì tôi nhìn thấy xung quanh.
Tôi thích việc giải câu đố, xếp hình, mê cung hay những câu đố khác sử dụng hình ảnh.
Tôi có những giấc mơ đầy hình ảnh sống động vào ban đêm.
Nói chung, tôi có thể tìm thấy đường cả ở những khu vực, địa bàn không quen biết.
Tôi thích vẽ hoặc viết nguệch ngoạc một cách lơ đãng.
Khi còn học phổ thông, đối với tôi môn hình học dễ hơn nhiều so với môn đại số.
Tôi có thể thoải mái tưởng tượng về hình ảnh của một sự vật hoặc một cảnh bất kỳ nào đó sẽ được hiện ra như thế nào, khi được nhìn từ trên cao xuống bằng đôi mắt của một con chim đang bay.
Tôi thích nhìn ngắm một tài liệu có nhiều hình ảnh minh họa hơn là đọc nó.
TRÍ THÔNG MINH VẬN ĐỘNG CƠ THỂ
Tôi tham gia ít nhất một môn thể thao hoặc hoạt động thân thể đều đặn và thường xuyên.
Tôi thấy thật khó khăn khi phải ngồi lì một chỗ trong một khoảng thời gian dài.
Tôi thích làm việc bằng tay với những công việc, hoạt động có tính cụ thể như nghề làm may, nghề thêu, chạm khắc, nghề thợ mộc hoặc tạo mẫu.
Những ý tưởng tốt nhất thường đến với tôi khi đang đi dạo hoặc chơi đùa ở bên ngoài, hoặc khi tôi tham gia vào một hoạt động cơ thể nào đó
Tôi thường thích dùng thời gian rỗi rãi đi dạo bên ngoài.
Tôi thường sử dụng các cử chỉ phức tạp của tay hoặc các dạng khác của ngôn ngữ cơ thể khi đối thoại, nói chuyện với một người nào đó.
Tôi cần được chạm vào các đồ vật để có thể hiểu rõ hơn về chúng.
Tôi ham thích được chơi các trò chơi tiêu khiển liều lĩnh, táo bạo hoặc tham gia những hoạt động thân thể tương tự, có thể đem lại cảm giác mạnh, hồi hộp, sợ hãi cho người chơi.
Tôi có thể tự vận động tốt cũng như dễ dàng phối hợp với người khác.
Tôi cần được thực tập một kỹ năng mới nhiều hơn là chỉ đơn thuần đọc về nó hay xem một băng video mô tả về nó.
TRÍ THÔNG MINH ÂM NHẠC
Tôi có giọng hát dịu dàng.
Tôi có thể nhận biết và phân biệt được khi một nốt nhạc bị lạc điệu.
Tôi thường nghe nhạc ở đài phát thanh, đĩa hát, băng từ hay đĩa CD.
Tôi chơi được một nhạc cụ.
Cuộc sống của tôi sẽ thật nghèo nàn, đơn điệu nếu thiếu âm nhạc.
Đôi khi tôi tự nhận thấy mình đang đi bộ trên đường phố với những đoạn quảng cáo trên ti vi được lặp đi lặp lại trong đầu hoặc những giai điệu nào đó đang lướt qua trong ý nghĩ.
Tôi có thể dễ dàng dành thời gian để nghe một đoạn nhạc được chơi chỉ với một dụng cụ gõ đơn giản.
Nếu tôi nghe một bản nhạc được tuyển chọn nào đó, sau một hoặc hai lần, tôi thường có thể hát lại tương đối chính xác.
Tôi thường tạo ra các âm thanh gõ nhè nhẹ hoặc hát những giai điệu nhỏ trong khi làm việc, nghiên cứu hoặc làm một điều gì mới.
TRÍ THÔNG MINH TƯƠNG TÁC CÁ NHÂN
Tôi thuộc dạng người mà những người khác thường tìm đến để được nghe lời khuyên và tư vấn về công việc hoặc về những người hàng xóm.
Tôi thích những môn thể thao có tính đồng đội như cầu lông, bóng chuyền… hơn là những môn thể thao mang tính cá nhân như môn bơi lội hoặc cưỡi ngựa.
Khi gặp phải rắc rối, khó khăn, tôi thích đi tìm một người khác giúp đỡ hơn là cố gắng tự mình giải quyết những vướng mắc, khó khăn.
Tôi có ít nhất là ba người bạn thân.
Tôi yêu thích những trò tiêu khiển có nhiều người tham gia như chơi bài brít hoặc bài Monopoly hơn là những trò chơi trên máy hoặc trò đánh bài một người.
Tôi thấy thích thú khi có cơ hội được dạy người khác hoặc hướng dẫn một nhóm người làm những điều gì tôi thành thạo.
Tôi tự coi mình là người lãnh đạo (hoặc những người khác gọi tôi như vậy).
Tôi cảm thấy thoải mái khi ở giữa một đám đông.
Tôi thích tham gia vào những hoạt động xã hội có liên quan đến công việc của mình, liên quan đến nhà thờ hoặc cộng đồng.
Tôi muốn dành buổi tối tham gia các cuộc hội họp đông người sống động hơn là ở nhà một mình.
TRÍ THÔNG MINH NỘI TÂM
Tôi thường dành thời gian một mình nghiền ngẫm, trầm ngâm hoặc suy nghĩ về những vấn đề quan trọng trong cuộc sống.
Tôi đều đặn đến dự các buổi tư vấn hoặc các cuộc hội thảo về sự trưởng thành của con người để hiểu biết nhiều hơn nữa về bản thân mình.
Tôi có những chính kiến khác hẳn đám đông khiến tôi tách biệt với họ.
Tôi có một sự hứng thú hoặc sở thích đặc biệt trong việc giữ bí mật thật nhiều điều tốt đẹp cho bản thân.
Tôi có một cách nhìn thực tế về những mặt mạnh và điểm yếu của bản thân mình (những điều này đã được khẳng định nhờ thông tin phản hồi từ nhiều nguồn tin khác nhau).
Tôi thích được ở một mình suốt thời gian cuối tuần trong một căn nhà nhỏ ở giữa rừng hơn là ở một khu nghỉ mát hấp dẫn có rất nhiều người xung quanh.
Tôi tự coi mình là người có ý chí mạnh mẽ hoặc là người có khuynh hướng độc lập.
Tôi giữ một cuốn sổ nhật ký cá nhân hoặc một cuốn sổ ghi lại những sự kiện trong đời sống nội tâm của mình.
Tôi tự tạo việc làm cho mình hoặc ít nhất là có những suy nghĩ nghiêm chỉnh về việc bắt đầu công việc hoặc nghề nghiệp của riêng mình.
Sử dụng cuốn sách này như thế nào?
Việc thực hiện bài kiểm tra nói trên có thể cho bạn biết nhiều điều về bản thân, những điều mà có thể bạn đã biết rồi. Cuốn sách này phục vụ cho một mục đích là xác lập được niềm tin của bạn trong việc biết cách làm thế nào để học tập và suy nghĩ có hiệu quả nhất. Bạn có thể sung sướng nhận ra rằng, nhiều tài năng của bạn chính là đặc điểm và biểu hiện của trí thông minh. Đặc biệt là điều này có thể gợi cho bạn nhớ lại bạn đã từng nghĩ rằng, những tài năng đó có những khác biệt với kiểu thông minh logic, ngôn ngữ và cũng đáng được quý trọng trong nền văn hóa của chúng ta. Cũng có thể bạn sẽ khám phá ra ít nhất là vài điều đáng ngạc nhiên trong số những đánh giá ở trên, và có thể vì thế mà bạn háo hức khám phá nhiều hơn nữa về trí thông minh của mình. Trước khi tiếp tục với phần còn lại của cuốn sách này, dù sao đi nữa, bạn hãy ghi nhớ trong đầu những ý kiến sau đây:
Hãy nhìn vấn đề một cách toàn cảnh: Bạn có thể là thiên tài toán học, là lực sỹ đáng ngưỡng mộ, là biên tập viên giỏi, hoặc chỉ là người có trí tưởng tượng nghèo nàn, là người ham thích tiệc tùng, hay là một người mê âm nhạc – tất cả đều có liên quan đến nhau và được xếp chung trong một khối thống nhât. Điều đó giải thích tại sao việc đọc hết cuốn sách này, xem từng loại trí thông minh là rất quan trọng với bạn. Nhờ đó, bạn có thể thu được một hình ảnh đầy màu sắc về tất cả các khả năng của mình, chứ không phải chỉ đơn giản là một bức tranh đen trắng nghèo nàn về các khả năng đó.
Hãy yêu quý và biết ca ngợi những năng lực sẵn có của bạn: Một trong những đóng góp lớn nhất của thuyết trí thông minh đa dạng là nó tạo điều kiện cho tất cả mọi người đều có được cơ hội để tỏa sáng về một số mặt nào đó. Với vai trò của một chuyên gia nghiên cứu, tôi đã từng trò chuyện với rất nhiều người, họ đã trải qua gần hết cuộc đời nhưng đều nghĩ rằng họ là những người không thành công, bởi vì họ không phải là kiểu người có trí thông minh về ngôn ngữ hoặc logic, trong khi xã hội chỉ chú trọng và muốn họ trở thành người có trí thông minh kiểu này. Cuốn sách này mang lại cho những người ở trong tình trạng trên một dịp tốt để họ tự thể hiện trên thực tế với tư cách là những người có trí thông minh cao độ về một hoặc nhiều loại thông minh nào mà họ có.
Hãy tập trung chú ý vào những trí thông minh còn ẩn giấu trong con người bạn: Trong quá trình làm những bài tập trong cuốn sách này, bạn có thể phát hiện ra những năng lực mà bạn đã từng có từ thời thơ ấu – những năng lực này bạn đã bỏ qua, không chú ý tới từ nhiều năm nay. Những trí thông minh này là đại diện cho những tiềm năng ở ngay trong con người bạn mà đã bị bỏ quên không được khai thác. Có thể bạn đã cản trở chúng phát triển ngay từ khi còn trẻ do những kinh nghiệm tiêu cực từ gia đình và nhà trường. Hoặc đơn giản là bạn chưa bao giờ có người nào giúp đỡ để phát triển chúng. Dù lý do cho sự lãng quên những trí thông minh của bạn là gì đi nữa, bạn có thể sử dụng cuốn sách này để đánh thức những năng lực đang ngủ quên và mở rộng trí thông minh theo hướng mà bạn có thể chưa bao giờ tưởng tượng ra được. Chương 9 sẽ chỉ cho bạn biết cách làm thế nào để tìm tòi trong quá khứ và khôi phục trí thông minh đã bị quên lãng, từ đó bạn thử áp dụng nó vào trong những hoạt động thực tế hàng ngày.
Hãy lạc quan về những năng lực còn yếu của bạn: Đừng cảm thấy tuyệt vọng nếu bạn thấy mình là người vụng về, hoặc vì bạn không thể cân đối được tài chính của mình, hay vì có những điểm yếu khác luôn ám ảnh bạn. Có một số điều mà bạn có thể làm để tự mình đối phó với những khó khăn trong việc rèn luyện các kỹ năng. Chương 10 mô tả một phương pháp hữu hiệu để thực hiện các công việc cần thiết cho những loại trí thông minh bạn còn yếu. Và hãy nhớ rằng: mọi người đều có thể không rèn luyện được một vài kỹ năng nào đó. Picasso không thể nào nhớ được bảng chữ cái; Beethoven thì nổi tiếng về tính vụng về, lóng ngóng; Moses lại có tật nói lắp. Bạn cũng là người giống như họ mà thôi.
Dù bạn là người thích thú với những mặt mạnh của mình, hay bạn đang phải chống đỡ với những điểm yếu của bản thân, thì cuốn sách 7 loại hình thông minh này sẽ cung cấp cho bạn hàng trăm ý tưởng và sáng kiến để phát triển được bảy loại hình thông minh của bạn. Còn hơn thế nữa, cuốn sách này sẽ mang lại cho bạn một cách nhìn mới về bản thân. Ở một mức độ nào đó, đây còn là một cuốn sách giúp bạn mở rộng hơn nữa trí thông minh. Nhưng theo ý nghĩa rõ ràng hơn, chính là bạn đã làm tăng trí thông minh của mình. Đơn giản là bởi vì giờ đây, bạn biết được câu trả lời cho câu hỏi đã được nêu ra từ đầu cuốn sách, đó là “Bạn thông minh như thế nào?”. Trí thông minh của bạn còn đi xa hơn nhiều so với những gì mà bạn có thể hình dung được. Bạn hiểu biết nhiều hơn những gì bạn nghĩ, bởi vì bạn nghĩ nhiều hơn những gì bạn biết.