Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Chết Ở Venice

Chương 2

Tác giả: Thomas Mann

Tác giả bản trường ca bằng văn xuôi trong trẻo và hùng tráng thuật lại cuộc đời Friedrich Đại đế[6]; người nghệ nhân cần cù đã nhẫn nại dệt vô vàn những số phận khác nhau hợp vào dưới bóng một tư tưởng, kết thành tấm thảm văn chương tuyệt mỹ tên gọi Maja; cha đẻ cuốn tiểu thuyết dày nhan đề Một người khốn khổ, tác phẩm nêu cao tinh thần trọng nghĩa khinh tài, vạch ra cho cả một thế hệ trẻ đầy cảm kích thấy khả năng kiên tâm giữ gìn đạo lý vượt lên trên mọi hiểu biết uyên thâm; sau rốt (và như thế đã vắn tắt đơn cử những tác phẩm trong thời kỳ sung mãn nhất của nhà văn), soạn giả khảo luận tâm huyết bàn về Trí tuệ và nghệ thuật, mà năng lực phân loại và bút pháp phản đề có thể được các nhà phê bình danh tiếng xếp ngang hàng với trước tác của schiller[7] luận về khuynh hướng thi ca hồn nhiên và thi ca tình cảm: người ấy là Gustav Aschenbach, con trai một công chức cao cấp ngành tư pháp, sinh quán ở thành phố L., huyện lị xứ schlesien[8]. Tổ tiên ông từng là sĩ quan, thẩm phán, quan chức chính quyền, thảy đều là những người đã dốc lòng phụng sự nhà vua, nhà nước và luôn giữ một nếp sống thanh liêm, chính trực. Trong dòng họ có một vị giáo sĩ được coi là hiện thân cho khả năng trí tuệ sắc sảo; từ thế hệ trước gia đình lại được truyền thêm dòng máu sôi nổi và đam mê của người mẹ thi sĩ, con gái một vị nhạc trưởng gốc gác Bohemia. Cũng nhờ bà mà dung mạo ông mang nhiều nét của người ngoại quốc. Cuộc phối ngẫu một bên là tinh thần trách nhiệm cao và lòng tận tụy với bên kia là tính khí bồng bột nặng về cảm xúc say mê đã cho ra đời một nghệ sĩ tài năng, chính là ông.

Bản tính nhiều cao vọng, nên từ rất sớm, với giọng văn quả quyết và súc tích ông đã được công chúng biết đến như một cây bút chín chắn và tinh xảo, nếu không muốn gọi là thần đồng. Ngay khi còn là cậu học sinh trung học ông đã nổi danh. Mười năm sau ông đã thành thạo trong việc tự thể hiện mình bên bàn viết, bồi đắp tiếng tăm bằng một loạt những bức thư tuy ngắn gọn (vì có rất nhiều yêu cầu đặt ra cho một nhân vật thành công và khả kính như ông), nhưng lời lẽ nhân hậu và trịnh trọng. Ở tuổi tứ tuần, đã mệt mỏi vì những căng thẳng và thăng trầm trong sáng tác ông vẫn phải ngày ngày trả lời vô số thư từ mang những con tem của rất nhiều quốc gia trên thế giới.

Không tầm thường mà cũng chẳng lập dị, tài năng của ông vừa chinh phục được lòng tin của đông đảo công chúng vừa đáp ứng được sự hâm mộ và những đòi hỏi khắt khe của giới sành điệu. Chính vì từ thuở thiếu thời đã quen nỗ lực để đạt đến thành công – mà là những thành công đáng kể, nên ông không bao giờ biết tới thói vô công rồi nghề hoặc kiểu làm việc qua loa đại khái là những căn bệnh phổ biến của tuổi trẻ. Năm ba mươi lăm tuổi, khi ông lâm bệnh nặng ở Vienna, một người quan sát tinh tế đã đưa ra nhận xét sau với mọi người: “Quý vị thấy không, từ trước tới nay Aschenbach vẫn luôn sống thế này” – người nói khép chặt mấy ngón bàn tay trái lại thành nắm đấm – “mà không hề biết sống thế này” – và ông ta để bàn tay mở buông hờ trên thành ghế một cách thoải mái. Quả là một nhận xét xác đáng; và điều đáng nói ở đây là đức tính quật cường đã giúp ông giữ một nếp sống căng thẳng, đòi hỏi nỗ lực cao đáng lý ra hoàn toàn không phù hợp với thể trạng bẩm sinh yếu ớt của ông.

Hồi nhỏ, điều kiện sức khỏe không cho phép ông cắp sách đến trường mà phải học ở nhà với gia sư. Ông lớn lên đơn độc không bạn bè cùng trang lứa, sớm nhận biết mình thuộc về một gia tộc không thiếu tài năng, chỉ thiếu sức khỏe là yếu tố cần thiết để tài năng nảy nở – một dòng họ mà ai cũng dốc sức phấn đấu từ khi còn trẻ nhưng chẳng mấy người thọ được lâu. Mặc dù vậy, chữ ông ưa thích nhất vẫn là “bền bỉ” – dưới mắt ông tác phẩm về Friedrich Đại đế không khác gì lời tôn vinh châm ngôn như một mệnh lệnh ấy, đối với ông đó chính là hiện thân của đức tính hành nhẫn. Thực tình, trong thâm tâm ông cũng mong đạt đến tuổi thọ cao, vì xưa nay ông vẫn quan niệm rằng, người nghệ sĩ chỉ thực sự xuất chúng, toàn diện, nếu thể hiện được nét đặc trưng ở mọi độ tuổi của một đời người.

Và như thế, chất lên đôi vai gầy gánh nặng trách nhiệm của tài năng, để dấn bước trên con đường nghệ thuật xa vạn dặm, điều cần thiết nhất đối với ông là kỷ luật tự tu dưỡng rèn luyện – may thay đức tính này đã thấm nhuần trong máu huyết ông, được thừa kế từ tổ tiên họ nội. Ở cái tuổi bốn năm mươi, trong khi những người khác vẫn còn phung phí, đàn đúm, điềm nhiên tặc lưỡi trì hoãn những kế hoạch trọng đại, thì ông bắt đầu ngày mới bằng cách dậy sớm dội nước lạnh khắp người, rồi ngồi dưới ánh sáng đôi nến dài cắm trong cặp giá bạc để trên đầu bản thảo, ông dồn hết sức lực gom góp được qua giấc ngủ, say mê tận tụy cống hiến mình cho nghệ thuật trong vòng hai hay ba tiếng đồng hồ buổi ban mai. Có thể châm chước, thậm chí còn có thể coi đó là thắng lợi tinh thần về phía ông, nếu những người không am hiểu tưởng rằng thế giới Maja hoặc thiên anh hùng ca đồ sộ kể về những chiến công lẫy lừng của Friedrich Đại đế ra đời liền một mạch nhờ vào một nỗ lực phi thường; trong thực tế các tác phẩm này đã được bồi đắp mỗi ngày một chút như kiến tha lâu đầy tổ, từ hàng trăm cảm hứng riêng lẻ chất chồng lên đến tầm cao ấy, và chỉ có như vậy tác phẩm mới đạt được mức độ hoàn hảo tới từng chi tiết, bởi vì tác giả đã nhiều năm kiên trì tập trung trí lực vào chỉ một mục tiêu duy nhất, với ý chí bền bỉ dẻo dai, hệt như nhân vật chính của bản trường ca khi xưa chinh phục mảnh đất quê hương ông, để cuối cùng chắt lọc đưa vào trong tác phẩm thành quả những giờ phút sáng tạo xuất sắc và xứng đáng nhất.

Một sản phẩm tinh thần có giá trị nếu muốn ngay lập tức gây được tác động tinh thần sâu rộng, cần có mối liên hệ mật thiết, thậm chí một sự đồng nhất giữa số phận cá nhân tác giả với định mệnh chung của đông đảo công chúng đương thời. Quần chúng thường không biết tại sao họ ca ngợi một tác phẩm nghệ thuật. Khác xa giới chuyên môn, họ cứ tự tưởng tượng ra hàng trăm điều tốt đẹp ở đó để lý giải cho lòng ngưỡng mộ của mình; nhưng nguyên nhân đích thực khiến họ tán thưởng lại không thể đưa ra cân nhắc được, đó là thiện cảm. Có lần, ở một đoạn không mấy nổi bật Aschenbach đã thẳng thắn phát biểu rằng, hầu như tất cả những điều vĩ đại trên đời đều đứng vững trơ gan cùng tuế nguyệt, bất chấp khổ đau hành hạ, nghèo đói, cô đơn, bệnh tật, thói hư tật xấu, dục vọng đam mê và hàng ngàn trở ngại khác. Đó không chỉ đơn thuần là một nhận định, mà hơn thế đó là kinh nghiệm, hay còn có thể gọi là công thức áp dụng cho cuộc đời và sự nghiệp của ông, là chiếc chìa khóa mở đường vào tác phẩm của ông; và có gì là lạ khi điều đó cũng xuất hiện trong cá tính đạo đức và cử chỉ thái độ của những nhân vật tiêu biểu nhất của ông?

Nhiều năm trước, khi nhận xét về hình tượng anh hùng mới thường xuyên xuất hiện trong vai những nhân vật khác nhau được nhà văn tỏ ra ưu ái, một nhà phê bình chuyên chẻ sợi tóc làm tư đã viết rằng: đó là hình tượng “nam tính trẻ trung và trí tuệ”, “trong nỗi hổ thẹn đầy kiêu hãnh đã cắn chặt răng đứng im tại chỗ chịu cho gươm giáo phanh thây xẻ thịt mình”. Đó là một nhận định rất hay, thông minh và chính xác, mặc dầu ấn tượng tạo ra có thể bị cho là quá thụ động. Thực ra giữ được tư cách trong lúc hiểm nghèo, giữ được vẻ đẹp trong khi đau khổ, đó không chỉ đơn thuần là chịu đựng mà là nỗ lực tích cực, là thắng lợi tuyệt đối; và nhân vật sebastian[9] là biểu tượng đẹp nhất, nếu không phải của toàn bộ nghệ thuật nói chung thì chí ít cũng là của bộ môn nghệ thuật đang được nhắc đến ở đây. Nhìn vào thế giới chuyện kể của ông, người ta thấy tinh thần tự chế ngự bản thân đã kiêu hãnh che giấu đến giây phút cuối những hủy hoại bên trong và suy sụp bên ngoài trước con mắt người đời; thấy nhan sắc vàng vọt xấu xí bị rẻ rúng đã thổi bùng dục vọng âm ỉ thành ngọn lửa thuần khiết, để rồi cất cánh bay lên trở thành chúa tể vương quốc của cái đẹp; thấy thể chất xanh xao bất lực đã huy động sức mạnh từ thẳm sâu tinh thần rực lửa để buộc cả dân tộc tự cao tự đại quỳ gối dưới chân thánh giá, quỳ gối dưới chân mình; thấy thái độ nhã nhặn lịch thiệp trong hình thức phục vụ khuôn sáo và rỗng tuếch; thấy cuộc đời mạo hiểm đầy những ham muốn nhất thời và mưu mô lừa đảo của kẻ lưu manh. Theo dõi những số phận này và vô số mảnh đời tương tự người ta phải băn khoăn tự hỏi, không biết có còn tồn tại một chủ nghĩa anh hùng nào khác ngoài chủ nghĩa anh hùng của kẻ yếu. Và còn chủ nghĩa anh hùng nào hợp thời hơn chủ nghĩa anh hùng này? Gustav Aschenbach là nhà thơ của giới cần lao, những con người vắt hết sức mình ra làm việc, phải gánh chịu quá nhiều nặng nhọc, bị cuộc đời đày ải dày vò nhưng vẫn kiên cường chống đỡ, ông là thi sĩ của tất cả những tấm gương lao động ấy, tuy thân thể còm cõi và tài sản hao mòn, vẫn vận dụng hết sức mạnh ý chí và tài quản lý khôn khéo để nhất thời giành chút vinh quang. Có rất nhiều người như thế, họ là những anh hùng của thời đại chúng ta. Và tất cả những con người ấy nhận ra hình ảnh mình trong tác phẩm của ông, họ thấy mình được công nhận, được đề cao, được ca ngợi, cho nên họ biết ơn ông, họ tung hô tên tuổi ông.

Khi xưa, ông còn trẻ dại và cấp tiến một cách thô sơ, vì chưa được thời gian đào luyện nên ông đã bao phen vấp ngã, phạm bao lầm lỗi, tự bôi tro trát trấu lên mình, xử sự không lịch thiệp và thiếu khôn ngoan cả khi nói lẫn khi viết. Nhưng dần dà ông đã có được một phẩm giá mà, theo nhận định của ông, là mục tiêu phấn đấu tất yếu của mọi tài năng lớn, thật vậy, có thể nói rằng toàn bộ quá trình phát triển nhân cách ông là một sự vươn lên có ý thức và đầy thách thức, phá vỡ mọi xiềng xích hoài nghi và mai mỉa để đạt đến phẩm giá này.

Đông đảo quần chúng dễ bị cuốn hút bởi những hình ảnh sinh động, cụ thể và không ràng buộc nhiều về tư tưởng, nhưng tuổi trẻ cực đoan và hăng hái lại chỉ quan tâm đến những đề tài tranh luận hóc búa: và Aschenbach thời đó cũng hóc búa, cũng cực đoan như bất cứ một chàng trai trẻ nào. Ông đã quên mình cống hiến cho tư tưởng, khai thác kiệt quệ tri thức, đổ cả hạt giống ra xay, tiết lộ bí mật, ngờ vực tài năng, phản bội nghệ thuật – đúng thế, trong khi các tác phẩm đầy hình ảnh của ông mua vui cho đám quần chúng cả tin, tâng bốc đề cao bọn họ, truyền sinh khí cho họ thì thế hệ tuổi đôi mươi lại hồi hộp nín thở theo dõi thái độ mỉa mai cay độc mà ông, người nghệ sĩ trẻ, dùng để chĩa mũi nhọn tấn công vào bản chất đáng ngờ của nghệ thuật, của nhân sinh quan nghệ sĩ.

Nhưng dường như không có cái gì làm cùn lụt một tinh thần cao thượng và nhiều năng lực một cách nhanh chóng, toàn diện hơn là ma lực sắc bén và cay độc của tri thức; và lẽ dĩ nhiên, thái độ triệt để tận tâm đầy ưu tư của chàng trai trẻ thời ấy còn rất nông cạn nếu đem so với quyết tâm của người nghệ sĩ bậc thầy, quyết tâm chối bỏ tri thức, phủ định hiểu biết, quay lưng lại với trí tuệ, chừng nào kiến thức còn được dùng để làm mất tinh thần, phá hủy giá trị của ý chí và hành động, làm tê liệt xúc cảm và niềm hăng say của con người. Câu chuyện nổi tiếng trong Một người khốn khổ làm sao có thể hiểu khác hơn là một tiếng thét phản kháng, tỏ thái độ ghê tởm trào lưu tôn sùng thái quá môn tâm lý học vô luân đương thời, hiện thân là tên lưu manh nửa mùa vừa hèn nhát vừa dốt nát, kẻ hy vọng bằng mánh lới gian tà có thể giành cho mình một số phận khá hơn; nhưng vì nhu nhược, vì thói hư tật xấu, vì đạo đức suy đồi y đã đẩy vợ mình vào vòng tay một tên mày râu nhẵn nhụi, mà tận đáy lòng y vẫn chắc mẩm rằng mình có quyền làm những điều không xứng đáng ấy? Bằng sức đột phá của ngôn từ, được dùng ở đây để đào thải những tư tưởng đáng bị đào thải, ông lên tiếng cự tuyệt mọi hồ nghi về đạo đức, mọi đồng tình với suy đồi, không chấp nhận thái độ dễ dãi của câu từ bi cửa miệng cho rằng hễ hiểu được là tha thứ được; và những gì đang hình thành hay đã thành hình ở đây, là cái “phép màu tái sinh tính hồn nhiên” mà sau đó ít lâu, trong một bài đối thoại của mình, tác giả có nhấn mạnh bằng giọng úp mở đầy bí mật. Những mối liên hệ lạ lùng thay! Phải chăng đó là thành quả tinh thần của sự “tái sinh”, của phẩm giá và nguyên tắc mới, mà cùng thời gian này người ta thấy bộc lộ ra qua mỹ cảm tăng lên hầu như quá độ ở ông, chất thanh tao, giản dị và hài hòa trong hình thức thể hiện từ đây về sau đã in lên các tác phẩm của ông một dấu ấn nổi bật, rất hữu ý, cho thấy một phong cách bậc thầy thấm nhuần tính cổ điển? Nhưng quyết tâm đề cao đạo đức lên trên tri thức, cái tri thức vừa giải thoát lại vừa ràng buộc con người ta – liệu điều đó có dẫn tới sự đơn giản hóa, đạo đức hóa một cách sơ sài cả thế giới lẫn tâm hồn, và như thế cũng có thể trở nên thái quá dẫn tới cái ác, điều cấm kỵ, tính vô luân? Và chẳng phải hình thức trong nghệ thuật vẫn luôn luôn có hai mặt đó sao? Chẳng phải hình thức vừa đạo đức lại đồng thời vô đạo đức – đạo đức vì nó là kết quả và biểu hiện của tu dưỡng rèn luyện, nhưng vô đạo đức và còn trái đạo lý nếu trong bản chất nó chứa đựng một sự lãnh đạm về luân lý, thậm chí chứa đựng khuynh hướng thống trị, buộc đạo đức khuất phục cây vương trượng độc đoán và kiêu căng của mình?

Nhưng thôi, cũng đành phó mặc cho tạo hóa! Mỗi quá trình trưởng thành là một số phận; và lẽ nào số phận của người thu phục được lòng ngưỡng mộ của đông đảo công chúng lại không khác với người chẳng được hưởng những hào quang và hệ lụy của danh vọng? Chỉ có đám giang hồ tứ chiếng mới tỏ ý khinh thường và ưa mỉa mai cười nhạo một tài năng lớn đã thoát xác khỏi giai đoạn ấu trĩ tự do vô độ, đã hoàn toàn lĩnh hội được những giá trị tinh thần cao đẹp và chấp nhận nếp sống cô đơn hiền giả, không người cố vấn, tự lực cánh sinh chịu đựng khổ đau và phấn đấu hết mình để đạt đến quyền lực cùng danh dự hơn người. Thêm vào đó còn có biết bao nhiêu mưu toan, bao nhiêu ngoan cường, bao nhiêu vui thú trong quá trình tự hình thành tài năng ấy! Cùng với thời gian, ngòi bút Gustav Aschenbach dần dần trở nên chính thống và mô phạm, những năm sau này văn phong của ông mất đi cái táo bạo thẳng thắn, vắng bóng những sắc độ tinh tế mới, trở nên vững vàng và mẫu mực, trau chuốt và truyền thống, đến mức bảo thủ, công thức, thậm chí khuôn sáo; và giống như một giai thoại về vua Pháp Louis XIV, khi trở về già ông loại bỏ hết ra khỏi ngôn từ của mình những chữ thông tục tầm thường. Khi ấy xảy ra sự kiện bộ giáo dục chỉ thị đưa vào sách giáo khoa các trường phổ thông một số trang chọn lọc từ tác phẩm của ông. Điều này làm ông rất đẹp lòng, và ông cũng không khước từ nhã ý của một công vương Đức mới lên ngôi, khi vị vua này quyết định phong tước quý tộc cho tác giả sử thi Friedrich nhân dịp ông tròn năm mươi tuổi. sau vài năm long đong lận đận thử tìm chốn an cư lạc nghiệp ở một vài nơi, ông đã bén rễ tại München và sống một cuộc đời thị dân phong lưu, được trọng vọng nhờ có một số đóng góp đặc biệt về tư tưởng. Ông kết hôn từ khi còn trẻ, vợ ông xuất thân trong một gia đình trí thức, nhưng sau một thời gian hạnh phúc ngắn ngủi bà đã qua đời, để lại cho ông một người con gái nay đã vu quy. Ông không có con trai.

Gustav von Aschenbach người hơi thấp, tóc nâu, không để râu. Đầu ông có vẻ hơi lớn so với thân hình mảnh khảnh. Mái tóc ông, trên đỉnh đầu đã hơi thưa nhưng hai bên thái dương còn rất rậm và điểm bạc, được chải hất ra sau gáy để lộ vầng trán cao đầy nếp nhăn loáng thoáng rỗ hoa. Cặp kính gọng vàng hằn sâu một vết trên sống mũi cao hơi gồ lên. Miệng ông rộng, khi hé mở thì dễ dãi, khi mím chặt căng thẳng thì đầy cương quyết; cặp má hóp hằn sâu ngoặc đơn ngoặc kép, cái cằm cân đối xẻ một chút cánh én. Những ngọn đòn số phận dường như đều né tránh mái đầu thường hay đau khổ nghiêng nghiêng về một phía của ông, và chính nghệ thuật mới là thủ phạm khắc họa nên tướng mạo người nghệ sĩ, để lại những đường nét tưởng đâu là dấu ấn của một cuộc đời khó nhọc và nhiều biến cố. sau vầng trán kia đã nảy ra những câu đối đáp chớp nhoáng trong cuộc đối thoại giữa Voltaire[10] và nhà vua Phổ luận bàn về chiến tranh; đôi mắt ấy, mệt mỏi hõm sâu đằng sau cặp kính, đã chứng kiến cảnh các bệnh viện dã chiến chìm trong máu lửa của cuộc chiến tranh bảy năm[11]. Nghiệm vào cá nhân ông thì nghệ thuật cũng là cuộc đời ở mức độ cao hơn. Nghệ thuật mang đến cho ông niềm hạnh phúc sâu xa hơn, nhưng cũng làm ông tàn tạ nhanh hơn. Nó khắc lên gương mặt kẻ phụng sự nó dấu vết những cuộc phiêu lưu tinh thần hư cấu, và, dù cho ông có giữ nếp sống thanh tịnh như một tu sĩ, về lâu về dài nó vẫn làm thần kinh ông căng thẳng, khiến ông trở nên nhạy cảm quá mức, mệt mỏi và thao thức, gây ra những hậu quả không khác gì một lối sống phóng đãng chạy theo ham mê và lạc thú.

Bình luận