“Một mình (…). Tôi luôn một mình dù có chuyện gì xảy ra.”
Marilyn MONROE
San Francisco
Sáng thứ Hai
Ngày đã rạng trên đồi Telegraph. Những tia mặt trời đầu tiên lấp lánh trên bề mặt crôm của tủ lạnh khiến phòng bếp đang lờ mờ tối bỗng sáng bừng lên. Bị lòa mắt vì tia phản chiếu, Jonathan đưa tay lên che mặt.
Đã sáng rồi…
Kiệt sức vì thức trắng đêm trước màn hình máy tính, anh dụi mắt. Hai mắt anh cay sè, tai ù đặc, tâm trí toàn những cảnh ghê rợn.
Anh khó nhọc đứng dậy định bật máy pha cà phê, nhưng giống như một võ sĩ quyền Anh loạng choạng sau khi lãnh một loạt đòn tới tấp, anh mất hơn một phút đứng yên không phản ứng, mắt nhìn vô định, vẫn choáng váng vì cuộc ngụp lặn trong những cảnh tượng tăm tối đó. Anh thốt rùng mình; bóng ma của Alice, đi kèm là bóng Madeline, vẫn lảng vảng trong phòng. Trong tâm trí anh mọi thứ rối tung, hành động giết người điên rồ của tên Đao phủ Liverpool, cảnh khốn cùng của Cheatam Bridge, sự tàn phá của thuốc phiện, bản chất không thể phân định rõ ràng là tốt hay xấu của Danny Doyle, máu, nước mắt, chết chóc… Bất chấp nỗi chán ghét đó, anh chỉ có một khát khao duy nhất: lại ngồi xuống trước màn hình máy tính để tiếp tục khai thác thêm vài tài liệu trong hồ sơ mà anh còn chưa kịp mở ra kia. Nhưng Charly chẳng bao lâu nữa sẽ thức dậy và trước khi chuẩn bị bữa sáng cho con trai, anh cần tắm qua một chút để rũ sạch ham muốn điên rồ đó. Anh đứng hồi lâu dưới làn nước nóng bỏng, xát xà phòng đến trầy da để loại bỏ những hình ảnh của cơn ác mộng đang đeo đẳng tâm trí anh. Những câu hỏi đầy ám ảnh vẫn giày vò anh và cứ trở đi trở lại không thôi. Bishop đã bắt nạn nhân của mình phải chịu những trò tra tấn tàn bạo nào trước khi ra tay sát hại cô bé? Hắn đã tiết lộ những điều gì khác về Alice? Liệu Madeline có gặp lại Danny không và nhất là, làm thế nào cô cảnh sát tận tụy với nghề ở trường Manchester lại có thể trở thành cô chủ tiệm hoa dễ thương ở Paris?
Paris, quận XVI
10 giờ sáng
Madeline dựng chiếc Triumph vào chỗ đỗ dành cho xe hai bánh ở đầu đại lộ Victor-Hugo. Cô cởi mũ bảo hiểm ra, giũ cho tóc bông lên rồi đẩy cửa bước vào Đại bàng con, một quán rượu truyền thống mang dáng dấp bình dân trong khu phố khá là sang trọng này. Cô ngồi xuống bàn đầu tiên gần cửa sổ. Từ vị trí này, cô có thể dễ dàng quan sát Cà phê Fanfan, nhà hàng của George LaTulip với biển hiệu danh tiếng được treo chễm chệ ngay bên kia đường. Cô gọi một tách trà, một bánh sừng bò, lôi laptop từ ba lô ra rồi…
Mình đang làm cái quái gì ở đây thế này?
Câu hỏi đặt ra từ nửa kia trí óc khiến cô cứng họng. Tại sao cô lại bỗng chốc bước ra khỏi cuộc sống thoải mái mình đang có? Vị trí của cô là ở tiệm hoa, cùng với Takumi và các khách hàng chứ đâu phải ngồi rình mò trước nhà hàng của một gã cô chưa từng gặp hay nghe nói đến.
Mày có còn làm trong ngành cảnh sát nữa đâu! Mày không còn làm trong ngành cảnh sát nữa! cô nhắc đi nhắc lại hòng tự thuyết phục mình. Nhưng liệu người ta có vĩnh viễn từ bỏ được một nghề như nghề cảnh sát?
Vài phút sai, cô chọn cách gạt sang một bên phương diện lý trí trong con người mình. Cô cầm theo cả tờ tạp chí lá cải đăng bài tiết lộ mối quan hệ giữa George và Francesca.
Mày hãy động não đi nào! cô vừa tự ra lệnh cho bản thân vừa trải rộng tờ tạp chí trên mặt bàn.
Cô săm soi kĩ lưỡng thêm lân nữa những bức ảnh được coi là bằng chứng không thể chối cãi về việc Francesca ngoại tình. Những tấm hình này có cái gì đó không ổn. Trông chúng quá nghệ thuật. Vốn là cựu người mẫu, Francesca sở hữu giác quan nhạy bén trong việc tạo dáng và tận dụng ánh sáng. Loạt ảnh này được xem như tác phẩm của một tay paparazzi, vậy mà Madeline tin chắc rằng chúng được dàn cảnh kĩ lưỡng, còn lâu mới là “chụp trộm”.
Nhưng dàn cảnh bởi ai? Và với mục đích gì?
Cô vừa kết nối laptop với Internet vừa ăn bánh sừng bò. Trên website của Cà phê Fanfan, cô dễ dàng tìm thấy số điện thoại của nhà hàng. Cô gọi điện và yêu cầu được nói chuyện với George, nhưng đầu dây bên kia trả lời rằng phải sau mười một giờ ông LaTulip mới tới. Cô tranh thủ quãng thời gian chờ đợi để thúc đẩy thêm chút nữa công cuộc tìm kiếm. Trang web tái hiện đúng hình ảnh của nhà hàng: hiện đại và xa hoa. Nhìn vào số tài khoản, người ta nhận thấy nhà hàng này thực ra thuộc tổ hợp khách sạn hạng sang Win Entertainment.
Tập đoàn đã mua lại toàn bộ hoạt động của Lempereur…
Trong các thực đơn có mức giá trên trời, cô nhận ra một vài món ăn đã góp phần tạo nên tên tuổi của Jonathan. George không chỉ đánh cắp vợ Jonathan mà cả những công thức món ăn nổi tiếng nhất của anh!
Thật bất công…
Madelineline mở một ô tìm kiếm với từ khóa George LaTulip, rồi nhấp chuột vào kết quả là một trang bog về…môn lặn. Hẳn là LaTulip đam mê môn chụp ảnh dưới biển. Được cập nhật thường xuyên, trang blog của hắn giống một tủ kính trưng bày những chuyến đi khác nhau và đăng tải hàng trăm bức ảnh tuyệt vời chụp các loại cá đủ màu sắc, những con rùa khổng lồ và những nhánh san hô rực rỡ. LaTulip thám hiểm thế giới từ nhiều năm nay. Hắn từng lặn ở Belize, Hawaii, Zanzibar, Maldives, Braxin, Mexico… Mọi thứ đều được sắp xếp, lưu trữ, ghi chú. Trong khi xem lướt qua những trang đó, Madeline dừng lại ở bức ảnh chụp một con cá mập báo tuyệt đẹp. Theo lời thuyết minh đi kèm, bức ảnh được chụp tại Maldives ngày 26 tháng Mười hai 2009. Dòng chữ đề ngày tháng khiến cô cựu cảnh sát nhăn mặt. Theo tờ tạp chí kia, những tấm hình chụp cùng Francesca được chụp ngày 28 tháng Mười hai 2009 trên một bãi biển tại Nassau, Bahamas. Ngoại trừ việc Maldives và Bahamas nằm cách nhau ít nhất là mười lăm nghìn cây sô, ở hai điểm hoàn toàn đối lập của địa cầu… Di chuyển từ địa điểm này đến địa điểm kia bằng máy bay trong quãng thời gian chưa đầy hai ngày chắc chắn là chuyện khả dĩ, nhưng lại khó thực hiện nếu tính đến nhiều chặng quá cảnh khác nhau. Tin chắc là đã nắm bắt được điều gì đo, cô cố đào sâu trực giác của mình. Xem hết trang này tới trang khác, cô nhận thấy không một kì nghỉ nào của LaTulip kéo dài dưới một tuần. Cũng hợp lý thôi khi người ta phải đến tận cùng trái đất để lặn xuống đáy đại dương… Thế mà chuyến đi tới Maldives của hắn lại chỉ kéo dài vỏn vẹn có hai ngày. Vậy thì mọi thông tin đều khiến người ta nghĩ rằng George dừng ngang kì nghỉ để tới gặp Francesca.
Madeline cảm thấy bụng quặn lên. Một cảm giác nóng rực lâng lâng và thú vị, một cơn rùng mình dữ dội thường đến với cô mỗi khi phát hiện ra manh mối đầu tiên cho cuộc điều tra. Mày KHÔNG CÒN là cảnh sát nữa đâu, giọng nói bên trong cô nhắc lại.
Nhưng cô chọn cách lờ nó đi rồi bước ra vỉa hè vài phút để hút một điếu thuốc, tự hài lòng với phát hiện vừa xong.
San Francisco
– Con chào bố.
– Chào con trai, Jonathan nói rồi nhấc bổng Charly lên mà hôn trước khi đặt cậu bé xuống một trong những chiếc ghế đẩu trong bếp.
– Cậu nhóc dụi mắt rồi vục đầu vào bát sô cô la nóng. Jonathan phết bơ, phủ thêm một chút mật ong keo lên lát bánh mì rồi đưa cho con trai. Charly cảm ơn bố rồi hỏi liệu cậu có thể xem phim hoạt hình trên ti vi được không. Sáng hôm đó, Jonathan có lý do thỏa đáng để miễn cho cậu bài thuyết giáo chống lại truyền hình như mọi khi.
– Dĩ nhiên rồi, con yêu, anh đáp rồi tự tay dùng điều khiển bật ti vi.
Charly sán lại gần ti vi. Jonathan tranh thủ lúc con trai đang mải mê xem Bob Bọt Biển để ngồi vào trước màn hình máy tính và tiếp tục nghiên cứu “hồ sơ Dixon”.
Trong số các tài liệu anh chưa xem tới có một file video nén, anh đeo tai nghe vào rồi bật file đó lên. Hình ảnh không được rõ nét cho lắm. Rõ ràng là đoạn phim được quay bằng điện thoại hoặc máy kĩ thuật số hồi giữa những năm 2000. Tuy thế âm thanh vẫn nghe rõ.
Ở tiền cảnh, người ta nhìn thấy Madeline, hai mắt nhắm nghiền. Cô nằm trên giường bệnh, dường như vẫn đang hôn mê hoặc ít nhất là đang ngủ say. Rồi người đàn ông cầm “camera” đặt nó lên bàn đầu giường và tự quay chính mình. Đó là một người đàn ông tóc nâu, rắn rỏi, khuôn mặt vuông vức, ánh mắt u ám và mỏi mệt.
– Lần này em sẽ tai qua nạn khỏi, Maddie ạ…, hắn bắt đầu nói bằng giọng đều đều không ngữ điệu.
Jonathan hiểu ngay người đàn ông đó chính là Danny Doyle…
Paris
Chiếc Porsche Panamera dừng lại trước nhà hàng lúc hơn mười một rưỡi trưa. George LaTulip xuống khỏi xe rồi đưa chìa khóa cho người đánh xe vào chỗ đỗ.
Ngồi sau ô cửa kính của quán cà phê, Madeline nheo mắt để nhìn cho kỹ đối tượng. Hắn đã già hơn đôi chút so với trong ảnh nhưng bề ngoài vẫn rất phong độ: dáng điệu chải chuốt, thân hình như vận động viên điền kinh. Dĩ nhiên là tóc hai bên thái dương đã chớm bác nhưng chưa đủ để xếp hắn vào hàng “đẹp lão”.
Cô quyết định nhẩn nha tìm hiểu và quan sát hắn. Dựa vào thời điểm hắn xuất hiện tại nhà hàng khá muộn, rõ ràng là George chuyên tâm vào quan hệ công chúng hơn là việc đứng bếp. Vậy nên cô tin chắc rằng hắn sẽ không nấn ná ở đó quá lâu một khi lượt phục vụ ăn trưa kết thúc.
Càng gần đến giờ trưa thì Đại bàng con – quán cà phê nhỏ nơi cô đang ẩn náu – càng đông đúc. Bà chủ quán hỏi liệu cô có muốn nếm món ăn nào đó không, cô nhận lời vì không muốn mất vị trí quan sát của mình. Cô gọi món chính của ngày hôm đó. Thực đơn không giống như nhà hàng bên kia đường nhưng cô đói đên mức chỉ bằng vài miếng đã kết thúc món “xúc xích Toulouse trộn húng và hành trắng nước hàng”.
Vậy đó, cô đã quay trở lại với lĩnh vực chuyên môn xưa kia: Những nơi ẩn nấp, những buỗi theo dõi đối tượng tình nghi, những điều phán đoán, những bữa ăn vội vàng… Vậy mà cô từng tin chắc rằng mình đã gạt bỏ được toàn bộ những chuyện đó, nhưng những phản xạ xưa cũ nhanh chóng quay trở lại. Cô đang tìm cách chứng minh điều gì? Chứng minh rằng cô vẫn chưa đánh mất sự tinh nhanh nhạy bén ư? Rằng cô vẫn còn khả năng tháo gỡ những nút thắt của một bí mật ư?
Chuyện này khiến cô háo hức bao nhiêu thì cũng khiến cô khiếp sợ bấy nhiêu. Hơn hai năm nay, cô tìm mọi cách xóa sạch quá khứ của mình, và hôm nay cô e rằng nó đã trỗi dậy một cách tàn nhẫn, như một con quỷ sống khỏi chốn giam cầm. Cô như một con nghiện ma túy hay nghiện rượu: không bao giờ cai được hẳn, có thể tái nghiện bất cứ lúc nào trước cám dỗ dù nhỏ nhất.
Khi nhớ về quá khứ, mắt cô lại ngân ngấn nước. Giữ cho mình tránh xa khỏi nỗi muộn phiền. Nhất là không được nhớ tới Alice. Cuộc điều tra cuối cùng đã đẩy cô xuống đáy vực. Cô đã tỉnh dậy trong bệnh viện sau hai ngày hôn mê vì tự tử hụt. Khi mở mắt cô đã thấy tay mình cầm chiếc điện thoại. Vẫn đang trong trạng thái ngây dại đờ đẫn, cô nhìn màn hình điện thoại mà không hiểu gì hết. Trên bàn đầu giường có một bì thư đặt gần bó hoa violet giản dị, cô mở ra và thấy bên trong là một tấm danh thiếp:
“Chúng ta luôn có quyền chọn lựa”
Em nhớ bảo trọng
Daniel
Cô quay lại với điện thoại của mình và nhận thấy ai đó đã dùng nó để quay phim. Khi cô mở file hình ảnh đó ra thì thấy gương mặt Danny hiện lên trên màn hình. Cô chưa bao giờ nhìn thấy hắn mệt mỏi như thế và cũng “người” đến thế:
– Lần này em sẽ tai qua nạn khỏi, Maddie ạ…, hắn bắt đầu nói bằng giọng đều đều không ngữ điệu.
Lần này em sẽ tai qua nạn khỏi, Maddie ạ, nhưng không phải lần nào cũng được như vậy đâu. Anh biết cảnh sát mà: họ không khác với những gã như anh là mấy. Anh biết phần lớn rồi cuối cùng cũng sẽ đi chung trên một con đường khiến người ta vỡ mông: con đường dẫn vào bóng tối, bạo lực, nỗi đau khổ, những nỗi ám ảnh, cái chết…
Anh biết em luôn ngủ mà không rời khẩu súng. Anh biết em bị nỗi sợ hãi ám ảnh. Anh biết hằng đêm em ngủ không yên giấc, giấc mơ của em đầy những bóng ma, xác chết và quỷ dữ. Anh biết quyết tâm của em, nhưng cũng biết cả mảng tối ấy trong em. Phần đó đã hiện hữu từ khi em còn là một cô bé và công việc của em chỉ khiến nó phình to thêm. Nhưng nó cũng đã biến em thành một cái xác biết đi còn sống mà như đã chết. Em đã đánh mất sự trong sáng, vẻ tươi tắn và ánh sáng của mình. Từ nay về sau, ánh sáng duy nhất thắp lên trong em là tia sáng le lói của cuộc vây dồn. Thực chất, em không khác người mẹ nghiện ma túy của cô bé kia là mấy. Em đã trở thành một con kền kền, một con nghiện cần thỏa mãn định mức săn đuổi và bắt bớ mới có thể cảm thấy phấn khích. Đó là liều thuốc của em. Em tự chích những thứ đó vào người và em sẽ chết vì chúng…
Danny dừng lại châm một điếu thuốc như thể để tìm từ ngữ. Họ đang ở trong bệnh viện nơi hút thuốc dĩ nhiên là hành động bì cấm ngặt, nhưng luật lệ đó, nếu có giá trị thì chỉ đối với cộng đồng con người chứ không liên quan đến một kẻ như Doyle.
– Em khao khát sự thật, hắn tiếp, nhưng công cuộc tìm kiếm cái tuyệt đối đó đang khiến em hao mòn và sẽ không bao giờ dừng lại. Sau Alice sẽ có những xác chết khác, những cuộc điều tra khác, những tội phạm khác cần bắt giữ… Và mỗi lần như thế, em sẽ cảm thấy phiền muộn hơn, cô độc hơn và chông chênh hơn. Em muốn vây dồn cái ác, nhưng cái ác chẳng có gì để làm với em hết. Nó sẽ phá hủy em và để lại em một mình đơn độc, có thế thôi. Rốt cuộc thì các ác luôn thắng, tin anh đi…
Em đang đi bên rìa cuộc đời mình, Maddie. Em cần phải thoát khỏi cái vòng xoáy trôn ốc này trước khi ngã nhào xuống một vực thăm nơi không lối nào thoát ra được nữa.
Anh không muốn em sống cuộc sống này. Anh không muốn em để mặc mình bị nghiền nát.
Hãy chuồn khỏi khu phố này, Maddie ạ. Hãy chuồn khỏi thành phố khốn kiếp này. Hãy biến những giấc mơ của em thành hiện thực. Tới Paris đi. Mở tiệm hoa mà em đã nhắc tới bao lâu nay! Đừng để nó chỉ là ảo tưởng. Em thậm chí đã tìm ra cho nó một cái tên, anh còn nhớ… Là gì nhỉ? Tên một bài hát Pháp xưa cũ, anh nghĩ thế: Khu vườn kì diệu…
Câu nói ngừng giữa chừng. Danny cởi cúc áo sơ mi rồi bồn chồn rít vài hơi thuốc, mắt rời khỏi ống kính máy quay. Hắn dụi mắt, thở dài, tìm điều gì đó để nói thêm, tay đưa lại gần điện thoại định tắt camera đi rồi lại đổi ý. Trông hắn như thể đang rất tuyệt vọng. Một dòng nước mắt mệt mỏi bất ngờ trào dâng trong mắt hắn rồi chảy tràn xuống má. Hắn quệt nước mắt bằng một cử chỉ vụng về, gần như con trẻ. Hẳn là trong đời mình Danny không khóc nhiều. Cuối cùng, hắn chỉ thì thầm:
– Anh yêu em.
Rồi hình ảnh giật lên trước khi mờ dần.
Và theo bản năng Madeline hiểu rằng Danny đã chết.
Nằm trên giường bệnh, cô nhìn bó violet rồi nhìn tấm danh thiếp lần nữa. Khi lật mặt sau, cô thấy một dãy số liên tiếp. Một số điện thoại mà cô bấm gọi ngay sau đó. Đó là số của một ngân hàng ở Thụy Sĩ. Cô xưng tên và người ta thông báo rằng một tài khoản đã được mở dưới tên cô, số dư của tài khoản hiện giờ là 300.000 euro.
San Francisco
Hình ảnh giật lên trước khi mờ dần.
Mất vài giây, Jonathan ngồi sửng sốt trước màn hình, dù không muốn nhưng anh vẫn cảm thấy có phần khâm phục kẻ gian ác này.
Gã Danny Doyle này… Cái gã kỳ quặc này…
Hai năm rưỡi qua hắn đã thành ra thế nào?
Ở cái thời đại đáng sợ mà chúng ta đang sống, phần lớn các câu hỏi không chống chọi với Internet được lâu, và thêm lần này nữa, Google đem lại cho anh câu trả lời gần như tức thì.
Khám phá rùng rợn tại cửa ô Manchester
Bài báo đăng ngày 10 tháng Bảy 2009. Một hoặc hai ngày sau khi đoạn phim được ghi lại. Danny không lòe bịp, hắn biết mình đang gặp nguy hiểm chết người. Nhà báo giải thích rằng xác của bố già đạo tặc Danny “Dub” Doyle được tìm thấy trong tình trạng chân bị cắt cụt, răng bị nhổ sạch bằng kìm. Băng cướp Ukraina đã tung đòn trả thù dã man…
Khám phá mới này làm anh lạnh sống lưng. Jonathan trở lại màn hình chính. Chỉ còn một tài liệu cuối cùng chưa mở. Một file đuôi JPG: một bức ảnh. Anh di con trỏ trên màn hình máy tính, nhấp vào hình ảnh, và máu anh như đông lại.
Paris
Đại lộ Victor-Hugo
George LaTulip rời khỏi nhà hàng sau 14 giờ một chút. Ngay lập tức, Madeline leo lên mô tô rồi bám sát mục tiêu để không mất dấu hắn. Cô theo hắn đến tận phố Clément-Marot thuộc trung tâm khu Tam giác vàng. Chiếc Porsche đỗ vài giây trước một hãng bất động sản hạng sang. Người phụ nữ trẻ ngồi vào xe của George LaTulip và ôm hôn hắn thắm thiết. Rõ ràng cô là một cộng tác viên của hãng. Cao ráo, tóc vàng, trẻ trung, váy ngắn và nét quyến rũ đặc trưng của dân Slavơ. Gợi cảm, nhưng đủ thanh lịch để bán những căn hộ giá ba bốn triệu euro cho những khách hàng sang trọng. Chiếc xe rời quận VIII sang bờ tả sông Seine rồi tới bãi đỗ xe của trường Y. Tay trong tay, cặp đôi dạo bwowcsc dọc phố Saint-Sulpice, rẽ sang phố Bonoparte trước khi bước qua cổng vào một tòa nhà nằm trên phố Abbaye.
Madeline kiên nhẫn chờ khoảng hai mươi phút trước khi đến lượt một bà lớn tuổi về tới nơi. Cô vội theo chân bà ta vào bên trong để kiểm tra hòm thư của cư dân sống trong tòa nhà. Một trong số đó mang tên LaTulip. Rõ ràng là George đang sống đời vương giả: xe đẹp, bồ trẻ, căn hộ ở Saint-Germain-des-Prés. Không hề tệ đối với một người trước đây từng bán bánh mì kẹp xúc xích.
Khoảng lặng yêu đương của cặp tình nhân không kéo dài: khoảng mười lăm phút sau đã thấy họ sánh đôi bước ra phố. Họ rảo bước tới bãi đỗ xe, rồi George đưa cô bồ về lại nơi làm việc. Không nhận ra mình đang bị theo dõi, hắn về khu phố Ternes theo lối đại lộ Wagram, rẽ sang phố Néva rồi tiến qua cánh cổng oai nghiêm của một dinh thự màu trắng lợt.
Madeline lao thẳng mô tô lên vỉa hè rồi phanh khựng lại trước tấm biển mạ vàng có khắc chữ cái hiện đại cho biết tên của tòa nhà: Quỹ DeLillo.
Cô “cảnh sát” đỗ xe cách khán phòng Pleyel không xa rồi quay trở lại. Trận tuyết rơi hồi sáng đã nhường chỗ cho mặt trời nhưng cái lạnh vẫn cắt da cắt thịt khiến miệng của cô gái người Anh phả ra từng làn khói.
Cô đang ở trong khu phố sầm uất; những quán hàng ăn uống không thiếu: Marison du Chocolat, trà quán Mariage Frères… Không muốn rời mắt khỏi lối vào tòa nhà nhưng vẫn thèm sưởi ấm, Madeline ngồi vào một bàn nơi trà quán nổi tiếng nhất Paris.
Bao quanh quầy là các tầng giá gỗ sồi nguyên khối bày hàng chục hộp sắt đựng các loại trà khô quý giá bậc nhất. Không gian quán phảng phất mùi hương trầm và mùi hoa nhài. Danh mục các loại trà phong phú vô kể. Madeline chọn lựa có phần hú họa khi để mặc mình bị dẫn dắt bởi chất thơ của những cái tên và yêu cầu một tách trà “Sương mù Himalaya” kèm một bánh xốp bơ.
Như một phản xạ, cô lấy laptop ra, kết nối wifi để truy cập Internet.
Công cuộc tìm kiếm với từ khóa Quỹ DeLillo cho cô biết rằng Francescank DeLillo, bố của Francesca, đã sáng lập tổ chức này chỉ vài năm trước khi qua đời. Hoạt động của quỹ thiên về cấp học bổng hỗ trợ để các học sinh xuất sắc có hoàn cảnh khó khăn có thể tiếp tục học lên cao. Hiệp hội này – một trong những hiệp hội hào phóng nhất trên thế giới – đặt trụ sở tại New York, nhưng có chi nhánh tại Paris mà người nắm quyền điều hành chính là… George LaTulip.
Madeline trầm ngâm nhấp một ngụm trà đượm vị quả phi và nho xạ. Gọng kìm đang siết chặt quanh LaTulip bởi mọi hướng điều tra đều quy về hắn. Nhờ phép màu nào mà người đàn ông vốn có xuất phát điểm là sô không tròn trĩnh ấy lại có thể được cả Francesca lẫn tập đoàn đã “tống cổ” Jonathan cùng trải thảm đỏ đón chào?
Mỗi khám phá mới lại đẩy cơn phấn khích của cô tăng lên một nấc. Cuộc điều tra này khiến cô thích thú. Ngay lúc này, cô không còn nghĩ tới những bó hoa, những đồ trang trí hay đến tiệm hoa nữa. Cô chỉ còn nghĩ tới việc khám phá bí mật của George LaTulip, cô chắc chắn đó cũng là bí mật cuộc chia tay giữa Francesca và Jonathan.
Hai tiếng rưỡi sau
Trời đã tối khi George rời khỏi tòa nhà của Quỹ DeLillo. Trong khoảng thời gian chờ đợi, Madeline đã kịp thưởng thức nhiều loại trà khác nhau. Cô vội vàng thanh toán một hóa đơn khá nặng đô rồi tới chỗ dựng mô tô đúng lúc chiếc Porsche phóng hết tốc lực ra đại lộ Courcelles.
Khỉ thật!
Cô cưỡi lên chiếc Triumph rồi vít ga nhưng tới được quảng trường Ternes thì mất dấu chiếc Panamera.
Đừng hoảng.
Xét theo logic của George hắn phải quay về nhà hàng để lo phục vụ bữa tối chứ nhỉ.
Trúng phóc! Cô lại gặp chiếc ô tô hòm của hắn ở đoạn quảng trường Ngôi sao. Một lần nữa, cô cảm thấy thoáng rùng mình vì phấn khích. Càng lúc cô càng nhập tâm vào trò chơi “điều tra” này. Cô PHẢI khui ra bí mật của George, PHẢI lục soát căn hộ của hắn, PHẢI hỏi cung hắn để buộc hắn thú tội, PHẢI…
STOP! Mày đâu còn là cảnh sát nữa! Giọng nói trong đầu cô thét bảo.
Đúng vậy, tiến hành một cuộc điều tra khó hơn nhiều khi không có thẻ nghiệp vụ. Không thể triệu tập hắn tới đồn cảnh sát hay xin lệnh khám xét nơi ở của hắn. Nhưng thiếu đi uy lực đó thì cô vẫn có thể sử dụng mẹo vặt để tìm ra cách tiếp cận với hắn để chiếm được lòng tin của hắn.
Cách nào nhỉ?
Mặt bạt gió, Madeline bám theo chiếc ô tô tới đại lộ Victor-Hugo rồi dừng lại cùng nó trước đèn đỏ. Cà phê Fanfan chỉ còn cách chừng hai mươi mét nữa.
Tìm ra kế gì đó. Ngay bây giờ.
Khi đèn tín hiệu chuyển sang xanh, cô tăng tốc để tiến lên ngang tầm chiếc Panamera.
Dù sao thì mày cũng sẽ không liều đến mức tự làm mình gãy xương đấy chứ!
Nhưng một sức mạnh đã đẩy cô về phía trước.
Đừng phá hoại chiếc mô tô đẹp đẽ của mày chứ!
Trong khi chiếc Porsche đi chậm lại, Madeline cắt ngang đường đi của nó, thình lình phanh gấp để khóa cứng bánh sau chiếc mô tô. Thanh chắn sốc đụng mạnh vào chiếc mô tô đúng lúc nó đổ nghiêng. Madeline văng ra khỏi chiếc Triumph đang trượt đi trên mặt đường rải nhựa và chỉ kết thúc hành trình trượt dài đó khi va vào một cột đèn đường. Người phụ nữ trẻ lăn trên mặt đường. Đầu cô dộng xuống đất nhưng được bảo vệ nhờ chiếc mũ bảo hiểm che kín đầu và chấn động nhẹ đi nhờ lúc xảy ra va chạm cả hai phương tiện đều đang chạy chậm.
Bốn bánh chiếc Panamera nghiến ken két, để lại trên mặt đường một vệt lốp rồi dừng khựng lại. George hốt hoảng rời khỏi con quái vật bằng thép của mình để chạy vội tới chỗ Madeline.
– Tôi… tôi xin lỗi! Cô đã cắt ngang đường tôi!
Madeline ghi nhận mức độ thiệt hại: Áo khoác của cô bị sờn, quần jean bị rách, hai bàn tay và cẳng tay trầy xước. Nhưng ngoài những thứ đó ra không có gì nghiêm trọng hết.
– Tôi sẽ gọi cứu thương. George vừa nói vừa mở điện thoại di động.
– Tôi nghĩ không cần đâu, cô đảm bảo rồi nhấc mũ bảo hiểm ra khỏi đầu.
Cô lùa tay cho tóc hơi rối lên rồi tặng cho hắn nụ cười đẹp nhất của mình.
Một tia ham muốn lóe lên trong mắt George – ánh nhìn sáng quắc của một gã thợ săn.
Nắm lấy bàn tay hắn vừa chìa ra để giúp cô đứng dậy, Madeline hiểu rằng cô vừa bước được một chân qua cánh cửa.
Đó là bước thứ nhất: thâm nhập hàng ngũ địch.
San Francisco
Jonathan nhấp chuột vào file cuối cùng. Bức ảnh mở ra ở chế độ toàn màn hình. Đó là bản sao tấm áp phích khổ nhỏ từng được niêm yết hàng nghìn bản trên khắp Vương quốc Anh để loan tin về vụ mất tích của Alice Dixon. Chính giữa trang áp phích là bức ảnh của một bé gái khoảng mười lăm tuổi, tóc vàng khô cứng, nụ cười chua xót và gương mặt hết sức xanh xao lấm tấm tàn nhang. Người ta chọn bức này bởi trong ảnh cô bé mặc đúng chiếc áo nỉ đã mặc hôm mất tích: một chiếc áo nỉ chui cổ lót bông có mũ màu hồng pha xám hiệu Abercrombie & Fitch. Một chiếc áo nỉ quá rộng so với khổ người được cô bé tạo nét khác biệt bằng cách khâu thêm một phù hiệu của đội bóng Manchester United.
Trong số các tài liệu khác của “hồ sơ Dixon”, Jonathan hầu như chỉ tập trung vào các ghi chép cá nhân của Madeline và các tài liệu chính thức của cuộc điều tra. Đây là bức chân dung đầu tiên của Alice mà anh thực sự bỏ thời gian quan sát.
Ngay khi bức ảnh xuất hiện trên màn hình, tim anh đã giật thót trong lồng ngực. Một cơn khó thở xâm chiếm anh. Rồi ánh mắt anh gặp phải ánh nhìn của Alice, lòng anh như thắt lại.
Anh biết cô bé này.
Anh từng gặp cô bé.
Anh từng nói chuyên với cô bé.
Sửng sốt và lo sợ, anh vội vã đóng máy tính lại. Tim anh đập dồn, tay anh run run. Anh hít thở sâu để trấn tĩnh lại nhưng không ăn thua.
Ký ức về cuộc gặp gỡ đã để lại trong tâm trí anh một vết sẹo không phai nhạt lại sống dậy mãnh liệt. Anh thử gạt nó đi, nhưng cơ thể anh lại run rét từng cơn như thể đang tan rã dưới tác động của nỗi sợ.
Anh cần phải biết rõ ràng từ đầu chí cuối.