Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Kẻ Nhắc Tuồng

Chương 6

Tác giả: Donato Carrisi

Debby. Anneke. Sabine. Melissa. Caroline.

Mila lẩm nhẩm mấy cái tên trong đầu khi quan sát bố mẹ của các nạn nhân đã được nhận dạng qua lớp kính. Họ đã được triệu tập đến nhà xác của Viện pháp y. Đó là một tòa nhà kiểu gô-tích với nhiều cửa sổ rộng, bao quanh bởi một khuôn viên trơ trụi.

Còn thiếu hai người, Mila thầm nghĩ. Một ông bố và một bà mẹ chưa được tìm ra.

Cô muốn đặt một cái tên cho cánh tay trái số sáu bằng mọi giá. Đó là cô bé gái mà Albert đã bỏ nhiều công sức nhất với hỗn hợp thuốc kéo dài sự sống.

Gã muốn thưởng thức tấn tuồng.

Cô lại nghĩ đến vụ thầy giáo dạy nhạc, lúc cô giải thoát cho Pablo và Elisa. “Cô đã cứu ba mạng người”, Morexu đã nói như thế khi nhắc đến dòng ghi chú trong quyển sổ của tên bắt cóc. Cái tên đó…

Priscilla.

Ông sếp của cô nói có lý: cô bé ấy đã gặp may. Mila để ý đến một mối tương quan nghiệt ngã giữa cô bé và sáu nạn nhân bị chặt tay.

Priscilla đã bị tên bắt cóc lựa chọn. Cô bé không trở thành con mồi thuần túy là một việc ngẫu nhiên. Bây giờ cô bé đang ở nơi nào? Cuộc sống của em ra sao? Có thể một phần trong em, phần sâu kín và bí ẩn nhất, đã cảm thấy mình vừa thoát được một cái bẫy kinh hoàng.

Khi đặt chân lên nhà của thầy dạy nhạc, chính Mila đã cứu mạng cô bé. Nhưng cô bé sẽ không bao giờ biết chuyện đó. Cô bé sẽ không bao giờ cảm kích trước cuộc sống thứ hai mà mình đã nhận được.

Priscilla cũng giống như Debby, Anneke, Sabine, Melissa, Caroline. Số phận của em đã được định đoạt, nhưng không giống với các bé gái kia.

Priscilla cũng giống như số sáu. Một nạn nhân không có khuôn mặt, nhưng ít ra cô bé còn có một cái tên.

Bác sĩ Chang tin đây chỉ là vấn đề thời gian và sớm hay muộn thì người ta cũng sẽ biết được danh tính của nạn nhân số sáu. Tuy nhiên, Mila thấy ít có hy vọng. Ý nghĩ cho rằng cô bé đã mất tích mãi mãi gây trở ngại cho việc xem xét các khả năng khác của cô.

Nhưng lúc này, cô cần phải tỉnh táo. Đến lượt mình rồi, cô thầm nghĩ trong khi nhìn vào tấm kính ngăn cách cô với cha mẹ của những nạn nhân đã có tên. Cô nhìn vào thứ nom như một cái bể cá đầy người, quan sát chuyển động của những sinh vật sầu thảm và câm lặng ấy. Chẳng bao lâu nữa, cô sẽ phải vào trong đó để trao cho bố mẹ Debby Gordon cái tin sẽ khiến cho nỗi đau buồn của họ lên đến đỉnh điểm.

Hành lang nhà xác vừa dài vừa tối. Nó nằm ở tầng hầm của tòa nhà. Người ta có thể đến đó bằng một cái cầu thang, hoặc sử dụng chiếc thang máy nhỏ thường xuyên hỏng hóc. Những ô cửa sổ bé tẹo nằm hai bên trần nhà chỉ để một chút ánh sáng lọt qua. Lớp gạch men trắng ốp trên tường không tài nào phản xạ được ánh sáng, dường như đó là ý đồ của người lát gạch. Kết quả là tòa nhà luôn tăm tối dù vào ban ngày hay ban đêm và mấy chiếc đèn neon trên trần luôn phải bật sáng, phả vào không khí yên lặng ma quái tiếng ro ro bất tận.

Một nơi kinh khủng để đón nhận sự mất mát của đứa con yêu dấu, Mila nghĩ bụng trong khi quan sát nhóm người nhà các nạn nhân. Để tạo sự thoải mái cho họ, trong phòng chỉ có hai cái ghế nhựa vô danh cùng với một chiếc bàn, trên đó đặt vài quyển tạp chí với những khuôn mặt tươi cười ở trang bìa.

Debby. Anneke. Sabine. Melissa. Caroline.

– Nhìn đi. – Goran nói mà không quay lại nhìn Mila. – Em trông thấy gì?

Lúc nãy, trước sự hiện diện của những người khác, ông ta đã làm cô mất mặt. Thế mà bây giờ lại đòi xưng hô thân mật cơ đấy?

Mila tiếp tục quan sát một lúc lâu.

– Em thấy sự đau khổ của họ.

– Nhìn kỹ vào. Chẳng phải chỉ có thế thôi đâu.

– Em thấy những cô bé ấy. Mặc dù chúng không có mặt ở đây. Khuôn mặt của chúng là sự tổng hòa của dung mạo bố mẹ chúng. Do vậy em nhìn thấy các nạn nhân.

– Còn tôi, tôi nhìn thấy năm tế bào gia đình. Mỗi cái có một gốc gác xã hội khác biệt. Với thu nhập và mức sống khác nhau. Tôi thấy những cặp vợ chồng vì nguyên nhân thế này thế khác mà chỉ có độc một đứa con. Tôi thấy những người phụ nữ đã quá bốn mươi và do đó không thể hy vọng có con được nữa… Đó là những gì tôi thấy.

Giáo sư Goran quay lại nhìn cô.

– Chính họ mới là nạn nhân. Gã đã nghiên cứu họ, đã lựa chọn họ. Một đứa con gái độc nhất. Gã muốn tước mất khỏi họ mọi hy vọng khép lại nỗi đau và quên đi sự mất mát. Họ sẽ phải nhớ điều gã đã làm với mình cho đến hết đời. Gã làm cho sự thống khổ của họ tăng lên bội phần khi lấy đi tương lai của họ. Gã đã tước đoạt cơ hội lưu truyền hồi ức của bản thân họ cho tương lai, cơ hội trường tồn sau cái chết của chính họ… Gã sống bằng điều đó. Chính nó là sự tưởng thưởng cho sự tàn ác của gã, là nguồn khoái lạc của gã.

Mila nhìn đi chỗ khác. Ông giáo sư tội phạm học nói đúng: có một sự cân đối trong tai họa giáng xuống đầu những con người này.

– Một kế hoạch. – Goran khẳng định, chỉnh lại những suy nghĩ của cô.

Mila lại nghĩ đến cô bé số sáu. Chưa ai khóc cho em. Đáng lẽ em phải được nhận những giọt nước mắt, giống như những nạn nhân khác. Sự đau đớn có vai trò của nó. Nó giúp hàn gắn mối liên kết giữa những gì còn sống và đã chết. Nó là một thứ ngôn ngữ thế chỗ cho từ ngữ và làm thay đổi cục diện vấn đề. Chính đó là điều mà các bậc cha mẹ ở bên kia lớp kính đang làm. Cẩn thận xây dựng lại trong nỗi đau một chút gì của cuộc đời đã mất. Đồng thời hòa trộn những ký ức mong manh của họ bằng cách kết các sợi chỉ trắng của quá khứ với đám chỉ tơ mảnh mai của hiện tại.

Mila thu hết can đảm bước qua ngưỡng cửa. Ngay lập tức mọi cái nhìn của các ông bố bà mẹ đổ dồn vào cô và cả căn phòng im phăng phắc.

Cô tiến lại gần mẹ của Debby Gordon. Bà ngồi cạnh chồng, người đang đặt một bàn tay lên vai bà. Tiếng bước chân của cô vang lên nhức nhối trong khi cô đi ngang qua những người còn lại.

– Ông bà Gordon, tôi cần trò chuyện với hai ông bà một lát…

Mila đưa tay chỉ đường, sau đó cô để cho hai người đi trước. Họ tiến đến một căn phòng nhỏ khác, trong có đặt máy pha cà phê và máy bán bánh kẹo. Những vật dụng còn lại trong phòng là một cái ghế xa lông cũ mòn kê sát tường, chiếc bàn cùng với mấy cái ghế nhựa màu xanh da trời và một sọt rác đầy ly giấy.

Cô mời cặp vợ chồng ngồi xuống ghế xa lông trong khi mình đi lấy một chiếc ghế nhựa. Cô ngồi xuống, bắt chéo chân, và cảm thấy vết thương ở đùi nhói lên. Nhưng nó không còn đau nhiều như trước. Nó đang bắt đầu lành dần.

Mila lại thu hết can đảm để tự giới thiệu. Cô nói về cuộc điều tra nhưng không thêm bất cứ chi tiết nào ngoài những gì hai người kia đã biết. Ý định của cô là giúp cho cặp vợ chồng thấy thoải mái, trước khi đặt các câu hỏi với họ.

Hai vợ chồng ông bà Gordon nhìn cô đăm đăm, như thể cô có khả năng chấm dứt cơn ác mộng này của họ. Hai người nom khá lịch thiệp. Cả hai đều là luật sư và được trả thù lao theo giờ. Mila hình dung họ ở trong một ngôi nhà lý tưởng, chung quanh là những người bạn có chọn lọc và có một cuộc sống vàng son. Cũng hợp lý khi họ có thể cho cô con gái độc nhất vào một ngôi trường tư thục danh giá. Cô biết điều đó: hai vợ chồng là những chuyên gia trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Họ là những người biết cách ứng phó trong những tình huống ngặt nghèo nhất, đã quen với việc nghiền nát đối phương và không bao giờ chùn bước trong các cuộc đấu trí. Thế nhưng hiện tại họ có vẻ hoàn toàn chưa hề chuẩn bị cho một bi kịch như thế này.

Khi Mila trình bày xong sự việc, cô chuyển sang vấn đề mình quan tâm:

– Thưa ông bà Gordon, ông bà có tình cờ biết liệu Debby có một tình bạn đặc biệt thân thiết với một cô bạn gái nào ở ngoài trường không ạ?

Hai vợ chồng nhìn nhau như thể tìm kiếm một lý do khả dĩ cho câu hỏi trên trước khi đưa ra câu trả lời. Nhưng họ không tìm ra được lý do.

– Không, đấy là theo như chúng tôi biết.

Nhưng Mila không chịu hài lòng với câu trả lời cụt lùn đó.

– Ông bà chắc chắn là Debby chưa bao giờ kể qua điện thoại về một cô bé nào đó không phải bạn học chứ?

Trong khi bà mẹ cố gắng lục tìm trong trí nhớ, thì Mila quan sát thân hình của bà: cái bụng rất phẳng, đôi chân săn chắc. Cô hiểu ngay quyết định dừng lại ở một đứa con đã được cân nhắc rất kỹ. Người đàn bà này sẽ không để mình bị phát tướng vì lần mang thai thứ hai. Nhưng dù sao thì bây giờ cũng đã quá trễ: tuổi tác gần năm mươi không cho phép bà có con nữa. Goran đã có lý: Albert không lựa chọn họ một cách ngẫu nhiên…

– Không… nhưng dạo gần đây, trên điện thoại con bé có vẻ thanh thản hơn trước nhiều. – Bà Gordon đáp.

– Tôi đoán cô bé đã từng đòi bà đưa về nhà…

Cô đã chạm đến một điểm nhạy cảm, nhưng cô không thể làm khác được, nếu muốn khám phá sự thật. Với giọng điệu lạc đi vì hối lỗi, bố của Debby thừa nhận:

– Phải, con bé cảm thấy lạc lõng. Nó nhớ chúng tôi, cả Sting nữa… Con chó của nó ấy mà. – Ông giải thích khi Mila ngẩn ra nhìn họ. – Debby muốn quay về nhà và trường học cũ. Thật ra thì, con bé chưa bao giờ nói ra điều đó. Có lẽ nó sợ làm phật lòng chúng tôi, nhưng… Chuyện đó là quá rõ, căn cứ theo giọng điệu của nó.

Mila biết điều gì sắp sửa diễn ra: hai người sẽ mãi mãi tự dằn vặt mình vì đã không thực hiện tâm nguyện muốn được về nhà của cô con gái. Nhưng ông bà Gordon đã đặt tham vọng của họ trước con gái mình, như thể tham vọng là thứ có thể di truyền được. Suy xét cho kỹ thì cách cư xử của họ không có gì sai. Họ chỉ muốn điều tốt nhất cho cô con gái độc nhất của mình. Nói cho cùng, họ chỉ hành động như bao ông bố bà mẹ khác. Nếu như mọi chuyện khác đi, thì có lẽ một ngày Debby sẽ thấy biết ơn họ. Nhưng cái ngày ấy, đáng tiếc thay, sẽ không bao giờ đến.

– Thưa ông bà, tôi rất tiếc khi phải thúc ép, tôi hiểu điều này đau đớn như thế nào, nhưng buộc lòng tôi phải yêu cầu ông bà nhớ lại những lần trò chuyện với Debby. Đám bạn bè ngoài trường của cô bé có thể rất quan trọng cho việc phá án. Tôi xin ông bà nhớ lại thật kỹ, và nếu như phát hiện được điều gì…

Hai ông bà Gordon cùng gật đầu, hứa sẽ cố gắng nhớ lại. Lúc đó Mila trông thấy một bóng người qua lớp kính cửa. Đó là Sarah Rosa. Cô ta đang cố gắng gây sự chú ý với cô. Mila xin lỗi hai vị khách và ra khỏi phòng. Khi hai người đứng đối diện nhau trong hành lang, Sarah Rosa chỉ nói vẻn vẹn mấy chữ:

– Cô chuẩn bị đi, ta phải lên đường. Đã tìm thấy thi thể của một bé gái.

Đặc vụ Stern luôn đóng thùng trong bộ comlê, thường là các màu nâu, be, xanh sẫm, đi kèm với sơmi kẻ sọc nhuyễn. Mila suy ra rằng vợ anh ta rất câu nệ việc chồng mình phải ăn mặc chỉnh tề khi ra đường. Ngoại hình của Stern được chăm chút kỹ lưỡng. Mái tóc luôn chải lật ra sau và vuốt một chút keo. Sáng nào anh cũng cạo râu, làn da của anh ngoài khoản nhẵn nhụi còn có vẻ rất mềm mại và thơm tho. Stern thuộc típ người tỉ mẩn. Những người không bao giờ thay đổi thói quen, và việc gọn gàng sạch sẽ quan trọng hơn nhiều so với hợp thời trang.

Thêm vào đó anh có vẻ rất giỏi trong việc thu thập thông tin.

Trong suốt quãng đường đi đến nơi phát hiện thi thể nạn nhân, Stern bắt đầu bằng việc ngậm một viên kẹo bạc hà, rồi sau đó trình bày nhanh chóng các sự việc mà họ đã nắm được cho đến thời điểm hiện tại.

– Kẻ bị bắt giữ tên là Alexander Bermann, bốn mươi tuổi, nhân viên kinh doanh thiết bị ngành dệt, nhân thân tốt. Đã có vợ và một cuộc sống ổn định. Hắn rất được mọi người vị nể. Công việc của hắn có vẻ khấm khá: hắn không giàu, nhưng cũng ổn.

– Nói chung là lý lịch sạch sẽ. – Rosa đế thêm. – Không có gì đáng ngờ.

Khi họ đến đồn cảnh sát giao thông, viên cảnh sát phát hiện ra xác chết đang ngồi thừ trong một cái ghế xa lông cũ của văn phòng. Anh ta bị sốc.

Cảnh sát địa phương đã nhường lại phận sự cho đơn vị điều tra hình sự. Họ nhanh chóng vào cuộc với sự hỗ trợ của giáo sư Goran và trong sự quan sát của Mila. Vai trò của cô chỉ là kiểm tra xem có hay không sự hiện diện của những thứ hữu ích cho nhiệm vụ của mình, chứ không can thiệp một cách chủ động. Roche ở lại trong văn phòng, chờ các nhân viên báo cáo tình hình.

Mila nhận ra Sarah Rosa đang giữ khoảng cách với cô. Điều này chỉ càng làm cho cô hài lòng, mặc dù cô biết chắc Rosa luôn dò xét và sẵn sàng bắt lỗi cô.

Một trung úy trẻ tuổi lãnh nhiệm vụ đưa họ đến địa điểm chính xác. Cố tỏ ra tự tin, anh chàng quả quyết rằng mọi thứ không hề bị xê dịch. Nhưng mọi thành viên trong nhóm điều tra đều hiểu đây có lẽ là lần đầu tiên đội của anh ta gặp phải một cảnh tượng như thế. Trong sự nghiệp của cảnh sát tỉnh lẻ, họ ít có dịp nào được tham dự vào một vụ án có tính chất man rợ đến vậy.

Trên đường đi, viên trung úy trình bày sự việc một cách rất hàm súc. Chắc hẳn anh chàng đã chuẩn bị bài diễn thuyết từ trước để tránh bị ngắc ngứ. Quả thực, anh ta nói không khác gì đang đọc một biên bản báo cáo.

– Chúng tôi đã kiểm tra. Nghi phạm Alexander Bermann đã đến khách sạn ở một thị trấn nhỏ cách đây rất xa vào sáng hôm qua.

– Cách đây sáu trăm cây số. – Stern bổ sung.

– Có vẻ như hắn đã lái xe cả đêm. Chiếc xe gần như cạn sạch xăng. – Viên trung úy nói.

– Hắn có gặp ai ở khách sạn không? – Boris hỏi.

– Hắn đã ăn tối cùng với khách hàng. Sau đó thì rút về phòng… theo như lời khẳng định của những người có mặt trong bữa tối. Nhưng chúng tôi còn đang kiểm chứng các sự việc mà họ kể.

Rosa ghi lại điều đó trong quyển sổ tay, với một dòng ghi chú mà Mila liếc nhìn thấy qua vai cô ta. “Thu thập thông tin về thời gian biểu của khách trọ trong khách sạn”.

Goran xen vào:

– Bermann chưa khai gì cả, đúng không?

– Nghi phạm Alexander Bermann từ chối phát ngôn khi không có mặt luật sư.

Họ đã đến bãi đỗ xe. Goran nhận thấy chiếc xe của Bermann đã được quây lại bằng vải bạt trắng để che đi cảnh tượng chết chóc. Nhưng nó chỉ là một biện pháp đề phòng giả tạo. Đứng trước những tội ác kinh hoàng, biểu hiện khó chịu chỉ là lớp mặt nạ bên ngoài của con người. Đó là điều mà giáo sư Gavila đã nhanh chóng hiểu ra. Cái chết có một sức hấp dẫn lạ lùng đối với những người sống, đặc biệt là những cái chết thảm. Gần như tất cả chúng ta đều cảm thấy hiếu kì trước các xác chết. Cái chết có tính quyến rũ rất cao.

Trước khi tiếp cận hiện trường, toán điều tra đeo túi ni lông bảo vệ giày, đội mũ trùm để che kín tóc, và tất nhiên không thể thiếu những đôi găng tay tiệt trùng. Sau đó họ được cung cấp một hũ nhỏ đựng bột long não. Mỗi người lấy một ít bôi lên hai lỗ mũi để át mùi.

Đó là một quy trình rất quen thuộc, gần như không cần giải thích bằng lời. Nó cũng là một cách để tìm lại sự tập trung. Khi nhận lấy hũ long não từ tay Boris, Mila có cảm giác mình đã là một phần của nghi thức lạ lùng này.

Viên trung úy cảnh sát giao thông được mời đi trước. Đột nhiên toàn bộ sự tự tin của anh chàng biến đâu mất. Anh ta ngần ngừ một lúc lâu rồi mới đi trước dẫn đường.

Trước khi bước qua ngưỡng của thế giới mới mẻ này, giáo sư Goran nhìn sang Mila. Cô gật đầu, và ông có vẻ bình tĩnh hơn.

Bước khởi đầu luôn khó khăn nhất. Mila sẽ không dễ dàng quên được bước chân đầu tiên của mình.

Nó giống như đi vào một chiều không gian khác vậy. Khu vực vài mét vuông, nơi ánh sáng mặt trời bị trộn lẫn với thứ ánh sáng nhân tạo lạnh lùng của các ngọn đèn halogen, gần như tạo nên một vũ trụ khác, theo những nguyên lý và định luật hoàn toàn khác với thế giới của chúng ta. Thêm vào ba chiều không gian: chiều cao, chiều rộng và chiều sâu, là một chiều thứ tư: chiều trống. Mọi nhà tội phạm học đều biết các câu trả lời thường nằm ở những “khoảng trống” của một hiện trường. Khi lấp đầy nó bằng sự hiện diện của nạn nhân hoặc thủ phạm, người ta sẽ tái hiện lại tội ác, lý giải được sự bạo lực, và làm sáng tỏ điều chưa biết. Người ta nới rộng thời gian bằng cách kéo nó ngược về quá khứ, với một sức căng luôn luôn tồn tại rất ngắn và không bao giờ có lại được. Chính vì thế mà ấn tượng đầu tiên về hiện trường luôn là điều quan trọng nhất.

Với Mila, nó thuộc về khứu giác.

Dù đã bôi long não, mùi của hiện trường vẫn xộc mạnh vào mũi cô. Thứ mùi của cái chết vừa gây buồn nôn lại vừa dịu ngọt. Rất mâu thuẫn. Đầu tiên, nó ập vào ta như một cú đấm vào bụng, sau đó ta phát hiện ra một thứ gì đó, ẩn rất sâu trong thứ mùi ấy, mà ta chỉ có thể cảm thấy thích thú.

Các thành viên trong nhóm điều tra nhanh chóng tiến vào vị trí chung quanh chiếc xe hơi của Bermann. Mỗi người chiếm lấy một điểm quan sát, tạo thành bốn cực. Như thể mắt họ cùng chia sẻ các thông số của một lưới tọa độ bao phủ từng centimét hiện trường, không bỏ lọt bất cứ thứ gì.

Mila đi theo giáo sư ra phía đuôi xe.

Cốp xe đang mở, ở y nguyên trong tình trạng mà viên cảnh sát phát hiện ra xác chết đã để lại. Giáo sư Goran cúi người quan sát bên trong cốp. Mila cũng làm theo.

Cô không nhìn thấy cái xác, bởi vì trong cốp chỉ có một cái túi ni lông đen to, bên trong đựng một thứ có hình thù giống thân người.

Xác của một bé gái chăng?

Chiếc túi dính sát vào thi thể, lồi lõm theo những đường nét trên khuôn mặt. Cái miệng há to trong một tiếng thét câm lặng. Tuồng như không khí đã bị hút vào cái hốc đen ngòm ấy.

Hệt một tấm vải liệm.

Anneke, Debby, Sabine, Melissa, Caroline… hay là số sáu?

Có thể thấy hốc mắt và khuôn mặt ngửa ra phía sau. Thi thể không mềm oặt mà ngược lại, nó ở trong một tư thế căng cứng như bị sét đánh. Điều đập vào mắt từ bức tượng bằng xương bằng thịt này là sự thiếu vắng của một cánh tay. Tay trái.

– Nào, chúng ta bắt đầu phân tích. – Goran nói.

Phương pháp của giáo sư tội phạm học là đặt câu hỏi. Kể cả những câu đơn giản và tưởng như vô nghĩa nhất. Cả nhóm sẽ cùng nhau tìm lời giải đáp cho các câu hỏi đó. Vụ này cũng thế, mọi ý kiến đều được chấp thuận.

– Trước tiên, định hướng. – Ông mở lời. – Hãy cho tôi biết, tại sao chúng ta ở đây?

– Tôi bắt đầu nhé. – Boris xung phong. Anh đang đứng ở cạnh ghế người lái. – Chúng ta ở đây do một vụ điều khiển xe mà không có bằng lái.

– Các anh chị nghĩ sao về điều này? Liệu giải thích như vậy đã đủ chưa, theo các anh chị? – Giáo sư Goran hỏi trong lúc đưa mắt nhìn những người còn lại.

– Các chốt kiểm soát. – Sarah Rosa đáp. – Từ khi các bé gái mất tích, đã có khoảng một chục chốt kiểm soát được dựng lên, rải rác nhiều nơi. Điều có thể xảy đến… đã đến. Chúng ta đã gặp may.

Goran lắc đầu. Ông không tin vào may rủi.

– Việc gì hắn phải mạo hiểm di chuyển cùng với tang chứng như thế này?

– Có thể hắn chỉ đơn thuần muốn vứt bỏ nó. – Stern phỏng đoán. – Hoặc cũng có thể hắn sợ bị chúng ta phát hiện, nên cố gắng tống khứ các dấu vết ra càng xa khỏi hắn càng tốt.

– Tôi cũng thế. Tôi nghĩ đây là một mưu toan đánh lạc hướng. – Boris hùa vào. – Nhưng không thành công.

Mila nhận ra bọn họ đã khẳng định Alexander Bermann là Albert. Chỉ duy có giáo sư Goran vẫn tỏ ra hơi nghi ngại.

– Chúng ta vẫn còn phải hiểu cho được kế hoạch của hắn. Hiện tại ta chỉ có một thi thể nằm trong cốp xe. Nhưng câu hỏi ban đầu là khác kia, và ta vẫn chưa trả lời được: tại sao chúng ta ở đây? Điều gì đã đưa chúng ta đến đứng quanh chiếc xe này, trước cái xác này? Ngay từ đầu, chúng ta đã cho rằng thủ phạm rất khôn ngoan. Có thể còn hơn cả chúng ta nữa ấy chứ. Nói cho cùng thì hắn đã chơi chúng ta nhiều lần khi bắt cóc thành công các bé gái mặc cho tình trạng được báo động trên diện rộng… Vậy thì, liệu có thể tưởng tượng ra rằng hắn lại để cho mình bị bại lộ chỉ vì một cái bằng lái xe ngớ ngẩn hay không?

Mọi người cùng nghiền ngẫm khả năng đó trong yên lặng.

Sau đó nhà tội phạm học quay sang phía viên trung úy cảnh sát giao thông, người từ nãy giờ đứng hơi tách biệt, miệng câm như hến, còn da mặt thì tái xanh như màu chiếc áo sơmi anh ta mặc bên trong quân phục.

– Trung úy này, anh đã bảo Bermann yêu cầu một luật sư, phải không nhỉ?

– Đúng vậy ạ.

– Có lẽ một luật sư được chỉ định là đủ, vì chúng tôi muốn thẩm vấn nghi phạm, để cho anh ta cơ hội phản bác những kết quả phân tích của chúng tôi sau khi đã xong việc tại đây.

– Ông có muốn tôi lo việc này ngay không ạ?

Viên trung úy đang hy vọng sẽ được giáo sư Goran phái đi chỗ khác. Ông giáo sư sắp sửa chiều lòng anh ta.

– Có thể Bermann đã chuẩn bị trước các lời khai. Tốt hơn nên làm hắn bất ngờ và tìm cách khiến hắn tự mâu thuẫn với bản thân, trước khi hắn học bài quá kỹ càng.

– Tôi xin mạn phép phỏng chừng rằng trong thời gian này, có lẽ hắn cũng đang tự vấn lương tâm rất kỹ lưỡng đấy ạ.

Nghe thấy những lời này của viên trung úy, các thành viên của nhóm điều tra nhìn nhau bán tín bán nghi.

– Ý anh là… các anh đang để hắn một mình? – Goran hỏi.

Viên trung úy ngơ ngác:

– Chúng tôi để hắn lại một mình, như lệ thường. Sao thế ạ? Có g…

Anh ta không kịp nói dứt câu. Boris là người đầu tiên hành động. Chỉ bằng một cú sải chân, anh đã phóng ra khỏi khu vực cô lập, Stern và Sarah Rosa bám theo bén gót. Họ vừa lao đi vừa gỡ túi bảo vệ giày để không bị trượt chân trong lúc chạy.

Mila cũng như viên trung úy cảnh sát giao thông có vẻ không hiểu chuyện gì đang diễn ra. Goran đuổi theo những người kia, quăng lại vẻn vẹn một câu:

– Đây là một kẻ nguy hiểm, lẽ ra các anh phải giám sát hắn cẩn mật!

Lúc đó, Mila và viên trung úy mới hiểu ra nguy cơ mà ông giáo sư muốn nói.

Giây lát sau, tất cả mọi người đã tề tựu trước cánh cửa buồng giam của nghi phạm. Tay cảnh sát canh gác bên ngoài phòng lập tức mở lỗ nhòm khi Boris chìa thẻ ra. Qua lỗ nhòm trên cửa, chẳng thấy Alexander Bermann đâu cả.

Hắn đã chọn một góc khuất tầm nhìn. Goran thầm nghĩ.

Khi viên cảnh sát gác cửa mở chiếc khóa to đùng, viên trung úy vẫn còn cố thử trấn an cả nhóm, hay đúng hơn là bản thân anh ta, bằng cách sống chết bảo đảm rằng quy trình đã được tuân thủ nghiêm ngặt. Họ đã lấy đi đồng hồ, thắt lưng, càvạt, kể cả giây dày của Bermann. Hắn chẳng còn thứ gì có thể dùng để tự làm hại bản thân.

Nhưng cánh cửa mở ra đã phủ nhận những điều anh ta nói.

Alexander Berman nằm trong một góc khuất tầm nhìn của buồng giam.

Lưng dựa vào tường, tay buông thõng trên đầu gối, hai chân xoạc ra, miệng đầy máu. Chung quanh hắn là một cái vũng màu đen.

Để tự sát, hắn đã sử dụng một biện pháp khác thường.

Alexander đã dùng răng xé rách thịt ở cổ tay và để cho máu chảy đến chết.

Bình luận