Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Mật mã Tây Tạng – tập 3

Chương 24: Trở Lại Tây Tạng

Tác giả: Hà Mã

Vì vậy nếu nói sinh vật nào có thể sống một ngàn năm, rắn tuyệt đối có thể nằm trong phạm vi tuyển trạch. Theo như tao đoán, bên trong chắc là đang nhốt một con trăn cực lớn, vốn đã tuyệt tích từ lâu, vị đại thần cực kỳ tôn quý, cũng chính là vị thần người Maya sùng bái nhất… thần Kukulkan! Một con trăn khổng lồ có lông vũ…

Cánh cửa cấm kỵ

Trong cỗ quách đá là một quan tài nhỏ, đã bật mất nắp, chứa một bộ xương khô nằm xô lệch lộn xộn, tựa như bị ném vào máy xay xát, mỗi thứ văng một chỗ. Xương mu bàn tay, xương cằm đều bị hư hại vì ngoại lực phá hoại. Xem ra ngọc bích đeo tay và minh châu trong miệng đều đã bị lấy đi, đồ gốm sứ đựng trong quách đá vỡ nát, các thứ bên trong cỗ áo quan cũng mất sạch. Lạt ma Á La chán chường ngồi bên cạnh cỗ quan tài nhỏ, đau lòng gần như muốn khóc: “Hết rồi, chẳng còn gì nữa cả! Lũ trộm mộ đáng chết, bọn chúng đã trộm hết các thứ rồi! Không, chúng có hiểu biết như vậy về huyết trì, không thể là bọn trộm mộ thông thường được, nhất định là bọn chúng, ngoài bọn chúng ra…”

Giáo sư Phương Tânlại đang hưng phấn không sao tả xiết. Máy quay trong tay ông giơ lên không ngừng nghỉ, như sợ bỏ sót mất chỉ một chút thông tin. Ông hiểu rõ, phàm là lăng mộ lớn, chủ nhân đều có để lại văn bia ghi chép các sự tích huy hoàng của mình lúc còn sống ở một nơi nào đấy. Những văn tự này không chỉ có tác dụng cực kỳ quan trọng đối với việc giải đáp nhiều câu hỏi về nền văn minh Maya, mà cao hơn thế nữa, bản thân nó đã là một pho lịch sử giúp hậu thế biết được chủ nhân của thành trì này, nguồn gốc của kim tự tháp này, cùng rất nhiều việc mà người ta không thể nào nghĩ tới. Trên vách đá có rất nhiều chỗ bong tróc, cả phiến đá khắc văn tự cũng đã rơi xuống đất vỡ tan tành. Giáo sư Phương Tân tỉ mỉ ghi hình từng mảnh vỡ một, dự định sau khi trở về sẽ dùng chương trình máy tính phục hồi nguyên trạng.

Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn nắm tay nhau đi quanh, như đang tham quan một viện bảo tàng vậy. Những bức họa tinh xảo như thật, các văn tự cổ xưa bí hiểm, cỗ quách khổng lồ, lẫn nền đá dưới chân, bước mỗi bước ở đây dường như đều là đi trên lịch sử, dưới mỗi dấu chân đều là một di tích từ ngàn xưa. Trên sàn nội sảnh là hai người khổng lồ vẽ theo tư thế đứng thẳng, góc nhìn nghiêng, một nam một nữ, phần đầu bị kéo ra vừa dài vừa dẹt. Người đàn ông gắn trang sức bằng lông chim nhô cao, áo ngắn có đinh mũ ở cầu vai và phiến giáp, trước ngực đeo một sợi dây chuyền xâu bằng ngọc phỉ thúy, ngoài ra còn đeo khuyên tai, vòng tay bằng ngọc, mình quấn da báo, tay cầm pháp trượng. Người đàn bà cũng trang điểm rực rỡ, thần sắc cung kính mà chan chứa tình cảm, dường như đang mỉm cười ngắm nhìn người đàn ông. Người nghệ sĩ đã dùng đường nét lưu loát trôi chảy mà điêu luyện của mình khắc họa nên nét mặt và tâm trạng khác nhau của hai nhân vật: người đàn ông ung dung, trầm tĩnh, uy nghiêm, người đàn bà cẩn trọng, hèn mọn, cung kính, trong ánh mắt cùng toát lên tình yêu sâu sắc. Xem ra đây hẳn là quốc vương tôn quý và ái phi của ông ta. Đường Mẫn nói: “Đúng là một đôi hạnh phúc khiến người ta phải ngưỡng mộ nhỉ.”

Trác Mộc Cường Ba không nỡ phá hoại tưởng tượng lãng mạn của Đường Mẫn, bởi vì trong nội sảnh này chỉ có quan quách của một mình quốc vương, chứ không có của vị ái phi. Không hiểu biết lắm về văn tự và hình vẽ, gã quay sang nhìn cỗ quách đá khổng lồ. Nắp quách bị đập vỡ đôi, hai mặt trên dưới đều có khắc hình. Mặt trên bị đè lên, chỉ có thể nhìn thấy một ít vân hoa bên rìa, trông rất giống với hoa văn rồng của Trung Quốc cổ đại. Mặt dưới chạm khắc những hình ảnh khác của quốc vương, đang ngồi trên một cái mặt nạ khổng lồ, người ngả ra sau, mặt hướng lên trời cầu nguyện, hoặc quỳ gối khom lưng, hai tay một sấp một ngửa, dáng vẻ tựa như đang chìm đắm trong một cảnh giới siêu nhiên nào đấy. Nhìn đến bốn mặt cỗ quách đá, bên ngoài chạm khắc vô số hình tượng, có cây, có chim, có hoa văn, có thú, lại thêm thần minh ẩn hiện, tổng thể vô cùng phức tạp, thể hiện nghệ thuật cao siêu của những nhà điêu khắc Maya cổ đại; bên trong là hình phù điêu chín vị thần, có lẽ là chín vị dạ thần, để vị quốc vương nằm trong có thể thống soái chín vị thần của địa ngục này, nên để cho chín vị vây xung quanh quan tài bên trong.

Cỗ quan tài nhỏ lạt ma Á La đang dựa vào bên ngoài cũng trang trí những hình hết sức tinh xảo, nhưng bên trong tuyệt nhiên không có gì, có lẽ vốn được lót bằng loại vải trơn láng. Trác Mộc Cường Ba thấy lạt ma Á La ngây ngây ngồi cạnh chiếc quan tài, mắt ngước lên trần nhà như đã xuất thần, buộc miệng hỏi: “Sao vậy ạ? Đại sư?”

Lạt ma Á La trầm giọng đáp: “Không có gì, ừm… chắc là mệt quá, để tôi nghỉ ngơi một chút là đỡ ngay.”

Đường Mẫn khẽ nói: “Nhìn bên kia kìa, những bức bích họa ấy…”

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu về phía bức tường dày đặc bích họa. Bức tranh Đường Mẫn chỉ vẽ vô số nô lệ bảo vệ một tảng đá khổng lồ hình vuông, bên cạnh có một thầy tế ăn mặc lòe loẹt đang hành lễ với mấy nô lệ đứng trước mặt. Tảng đá vuông trông rất giống huyết trì. Trác Mộc Cường Ba đã hiểu ra, đây là nghi thức đóng lăng mộ của người Maya. Nhưng giữa bức tranh dường như có những đường vân li ti chia nó thành vô số ô vuông nhỏ, dưới mỗi ô đều có ký hiệu là những chấm đen, ô ba chấm, cũng có ô một chấm, hai chấm. Trác Mộc Cường Ba không hiểu ý nghĩa của các ký hiệu, phỏng đoán có lẽ là dấu hiệu chỉ dẫn dùng để ghép bức tranh tường lớn này. Đúng lúc đó, giáo sư Phương Tân nói với Trác Mộc Cường Ba: “Cường Ba à, cậu cẩn thận nhấc cái nắp này lên, tôi muốn ghi lại các hình khắc, không thể bỏ sót thứ nào được.”

Trác Mộc Cường Ba gồng hết sức lực, bắp thịt gồ lên, chống nửa phiến đá lên cho giáo sư Phương Tân ghi hình. Hình khắc trên nắp quách đá hết sức quái dị, chỉ một nửa thì tạm thời chưa nhìn ra là cái gì, nên phải nhập đủ cả vào ổ dữ liệu máy tính. Giáo sư Phương Tân hầu như đã nhập xong toàn bộ các hình vẽ tranh khắc trong gian nội sảnh này vào máy tính, liền thử ghép chúng lại với nhau. Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn chụm đầu xem. Dần dần, hình dáng cỗ quách đá đã được phục dựng, một nửa có hình con rắn mọc lông vũ quấn quanh, dáng vẻ sống động như thật, nửa còn lại khắc hình vị thần linh Đầu trâu Mặt ngựa. Giáo sư Phương Tân nói: “Không ngờ địa vị lại ngang với cả thần Kukulkan nữa này!”

Vừa lúc đó, lạt ma Á La đang chìm trong ảo não đã dần tỉnh táo trở lại. Ông đứng lên, lẩm bẩm: “Không đúng, sao gian nội sảnh này lại nhỏ như vậy, ở đây không đúng rồi.”

Giáo sư Phương Tân ngẩng đầu: “Ừm, phải đấy, bên kia còn một cánh cửa lớn, tôi cũng không hiểu trong lăng mộ này còn thứ gì nữa, xem ra còn quan trọng hơn cả chính nó nữa.”

Lạt ma Á La vừa vào đây đã xông thẳng tới chỗ quan tài, giáo sư Phương Tân bận rộn ghi hình cả gian đại sảnh, Đường Mẫn từ đầu đến cuối mê mẩn ngắm các tuyệt tác bích họa, còn Trác Mộc Cường Ba thì không hiểu biết lắm về những thứ này, không ai để ý tới cánh cửa bên trong lăng mộ. Nghe giáo sư Phương Tân nhắc, cả bốn người không ai bảo ai bất giác cùng bước tới đo. Chính giữa bức tượng đá gồ lên một cánh cửa tam giác, nhô khỏi tường đến hơn một mét, trông có vẻ rất dày và nặng. Hai bên cửa vẽ chi chít ký hiệu, giữa cửa chạm nổi hình người dắt con quái thú. Về ý nghĩa của những hình ảnh đó, không ngờ cả giáo sư Phương Tân lẫn lạt ma Á La đều không nói gì được. Nhưng lạt ma Á La đã phát hiện ra tấm cửa đá có hai lỗ nhỏ và năm măng đá nhô ra.

Lạt ma Á La nói: “Xem ra phải có chìa khóa mới mở được cánh cửa này rồi, tổng cộng có bảy chìa thì phải.” Trong khoảng khắc, ông liền trở nên hưng phấn: “Bọn trộm mộ không mở được cánh cửa cuối cùng này, vì không đủ chìa khóa, chỉ có năm chiếc, vẫn còn thiếu hai.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn các măng đá hình cánh chim, hỏi: “Đây là chìa khóa hay sao?” Gã cảm thấy năm măng đá này trông hết sức quen mắt.

Lạt ma Á La đáp: “Không sai, đây là chìa khóa mài bằng đá, nhìn dáng của cái lỗ này, chắc là tựa như quả trứng vậy.” Ông thầm nhủ: “Cả chìa khóa cũng giống nhau như vậy, nhất định không thể sai được, tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu nhất định đang ở trong kia.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi…hình như tôi có một chiếc chìa khóa,” rồi vội lấy viên thánh thạch của người Kukuer trong ba lô ra.

“A!” Tâm trạng lạt ma Á La như thể vù một cái từ dưới địa ngục bay thẳng lên thiên đường. Quả là có Đức Phật vạn năng chỉ đường dẫn hướng, chuyện như vậy không thể ngờ cũng xảy ra được. Hai tay ông run run nâng viên thánh thạch lên, nhìn những đường rãnh trên đó, kích động nói: “Đúng rồi, đúng rồi, đây đúng là chìa khóa mở cánh cửa này, đối ứng dấu hiệu trên cánh chim với hình vẽ trên lỗ tròn, chắc là… đây là chìa khóa cuối cùng, cắm vào cái lỗ thứ bảy.” Lạt ma Á La giơ viên thánh thạch lên ngang với lỗ tròn, chỉ nghe “cách” một tiếng, chìa khóa chui khớp vào lỗ. Nhà sư già chầm chậm ấn chìa khóa, nói: “Phải thuận theo đường rãnh mà tra chìa, bằng không sẽ không thể cắm lút vào được, cánh cửa này cũng không thể mở ra.” Sau mấy tiếng “cách cách” liên tiếp, chìa mới hoàn toàn cắm vào lỗ khóa, viên thánh thạch lúc này nhìn chẳng khác gì những chiếc chìa khóa khác, chỉ còn lại một phần nhỏ hình cánh chim bên ngoài. Lạt ma Á La giờ mới bắt đầu vặn chìa khóa, tất cả đều nín thở chăm chú quan sát, chờ đợi nghe cánh cửa đá phát ra những âm thanh khiến người ta khích động.

Chìa khóa vừa xoay, cánh cửa hình tam giác cũng bắt đầu nhích động, không ngờ lại nhô ra ngoài thêm mấy chục centimet nữa. Lạt ma Á La gật đầu nói: “Giờ chỉ còn chiếc chìa khóa cuối cùng nữa thôi.” Nói xong ông đưa mắt nhìn ba người, như thể hy vọng lại có ai đó đột nhiên lên tiếng “tôi có chìa khóa,” nhưng lần này thì không ai trả lời nữa. Bốn người đều lấy làm thất vọng. Đường Mẫn thắc mắc: “Đại sư, bên trong có gì vậy?”

Lạt ma Á La lắc đầu: “Không biết, nhưng cánh cửa này chưa từng được mở ra lần nào, mà bên trong là một không gian rất lớn nữa, không phải vậy sao?”

Đường Mẫn lại hỏi: “Sao ngài biết là cửa này chưa bao giờ mở ra?”

Lạt ma Á La chỉ vào hàng chìa khóa giải thích: “Những chiếc chìa khóa này đều khắc rãnh hoa văn móc ngược, chúng được thiết kế để chỉ có thể sử dụng một lần, một khi đã cắm vào lỗ khóa thì không thể nào rút ra được nữa, vì vậy mới có năm chiếc chìa khóa bị bỏ lại đây, hiểu chưa hả? Có điều cũng phải hỏi lại, Cường Ba thiếu gia, cậu lấy đâu ra chiếc chìa khóa ấy thế?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chuyện này à, nói ra thì dài lắm!” Lúc này, cánh cửa khung xương khổng lồ lại phát ra tiếng động, giáo sư Phương Tân kêu lên: “Cánh cửa kia sắp mở ra rồi, chúng ta mau nấp đi.” Lạt ma Á La dường như chạm vào thứ gì đó trên cánh cửa đá hình tam giác, sau đó mới theo chân ba người nấp vào chỗ tối.

Cánh cửa đá lớn cuối cùng cũng mở ra một khe nhỏ, Soares vội vàng lách người len vào. Vừa vào bên trong, trông thấy nắp đá dựng nghiêng dựa vào quan tài, y lập tức hiểu ra, đã có người vào đây rồi. Song Soares vẫn cứ lẳng lặng đi thẳng tới chỗ cánh cửa đá hình tam giác, đồng thời hết sức cẩn thận quan sát xung quanh, thầm tự nhủ: “Sao lại thế được, chúng vào bằng đường nào chứ nhỉ? Giờ lại nấp đi đâu rồi?”

Đi tới trước cánh cửa đá, cảnh tượng trước mắt gần như làm y quên mọi nguy hiểm xung quanh… trên cửa rõ ràng có cắm sáu chiếc chìa khóa, cũng có nghĩa là, y sẽ trở thành người đầu tiên mở được cánh cửa đá này! Soares không sao kiềm chế nổi mà bật cười thành tiếng: “Ha ha, ha ha ha! Ha ha ha ha…”

Soarese lấy chiếc chìa khóa cuối cùng ra, trước khi cắm vào lỗ khóa, trong đầu y chợt vang lên lời cảnh cáo của người đó: “Những totem và ký hiệu tượng hình này nói cho chúng ta biết, bên trong là nơi trú ngụ của vị thần linh cao quý nhất, ngay cả quốc vương cũng chỉ có thể là kẻ hầu hạ ngủ cùng với Người. Để vị thần vĩ đại này có thể sống thoải mái trong địa cung, bọn họ (tức người Maya) đã chuẩn bị cho thần một lượng thức ăn phong phú, họ gọi đấy là thần Dakanua, tao nghĩ chắc chính là lũ chuột khổng lồ châu Mỹ kia. Chúng mày thử nghĩ xem, sinh vật dùng chuột khổng lồ châu Mỹ làm thức ăn, thể hình phải lớn đến nhường nào chứ?”

Lúc ấy y đã hỏi: “Đã hơn một ngàn năm rồi, chẳng lẽ sinh vật kia vẫn còn sống hay sao?”

Đôi mắt u uất kia quét lướt qua người y, làm y hoảng hốt bất an, chỉ biết cúi gằm mặt xuống lau mồ hôi. Một thoáng sau mới nghe người kia nói: “Ở tổ quốc của tao có một câu ngạn ngữ nói rằng, linh xà ngàn tuổi rùa vạn tuổi. Vì vậy, nếu nói sinh vật nào có thể sống một ngàn năm, rắn tuyệt đối có thể nằm trong phạm vi tuyển trạch. Theo như tao đoán, bên trong chắc là đang nhốt một con trăn cực lớn, vốn đã tuyệt tích từ lâu, vị đại thần cực kỳ tôn quý, cũng chính là vị thần người Maya sùng bái nhất… thần Kukulkan! Một con trăn khổng lồ có lông vũ! Cũng chính vì vậy, lần này chúng ta không thu thập đủ chìa khóa nói không chừng còn là một chuyện may mắn nữa, camera thả từ trên hố hiến tế ở tầng trên đã cho chúng ta thấy bên trong này không có gì hết, thứ duy nhất tồn tại được, chỉ có thể là loại sinh vật đáng sợ ấy thôi. Cánh cửa cấm này, chúng ta đừng mở ra nữa thì hơn.”

Soares chà xát mồ hôi trong lòng bàn tay vào chiếc quần bó, hạ quyết tâm cắm chiếc chìa khóa cuối cùng vào mở cánh cửa cấm kỵ, y thầm nhủ: “Có lẽ đối với những người khác trong đội, cánh cửa cấm kỵ này chỉ đem lại nguy hiểm mà không hề có ích lợi gì, nhưng với ta, loài sinh vật chưa biết tên ấy sẽ thay đổi cuộc đời của ta. Chuyến này ta băng rừng vượt suối tới đây, mục đích cuối cùng chính là để mở cánh cửa này ra. Bất kể lũ chuột hay quân du kích, không kẻ nào có thể ngăn ta được!” Nghĩ đến đây, chiếc chìa khóa đã chuyển động, Soares cảm thấy toàn thân mình ướt đẫm mồ hôi. Bốn người đang nấp trong bóng tối quan sát y cũng vã mồ hôi, ai nấy đều chăm chú mở mắt trừng trừng nhìn cánh cửa hình tam giác. Rốt cuộc sau cánh cửa đó là gì vậy?

Kỳ quái, Soares xoay chìa khóa rồi, nhưng cửa đá không dịch chuyển như lúc lạt ma Á La xoay chìa khóa, mà cũng không có động tĩnh gì, Soares tiếp tục vặn, nhưng chiếc chìa khóa bằng đá không hề nhúc nhích. Nét mặt y lúc này hệt như một bà mẹ vừa lạc mất con, cuống cuồng kiểm tra khắp cánh cửa đá, nhưng hoàn toàn không thể phát hiện ra được điều gì. Y nôn nóng đi đi lại lại trong gian nội sảnh, đột nhiên phát hiện ra lối vào nhỏ kia, liền cả giận gằn giọng nói: “Khốn kiếp, phá hoại huyết trì làm hỏng chuyện tốt của tao!” Nói đoạn, thân hình y đã biến mất trong cửa hang ấy.

Lạt ma Á La nhảy xồ ra, hết sức nhanh nhẹn gạt một cơ quan chỗ góc tường. Cửa hang lập tức đóng chặt lại, ngăn cách Soares và bốn người ở hai phía. Sau đó, lạt ma Á La lại bắt đầu điều chỉnh bên cạnh cánh cửa hình tam giác. Không hiểu ông đã đụng phải chỗ nào, cánh cửa đột nhiên bắt đầu nhích động. Lạt ma Á La thở phào một tiếng: “Được rồi, giờ người kia đã tạm thời cũng không thể trở lại đây. Dựa theo những gì chúng ta đã trải qua, hắn muốn chạy từ chỗ đại sảnh tới cánh cửa lớn, ít nhất cũng phải tốn nửa tiếng đồng hồ.”

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt: “Đại sư, ngài, sao ngài biết ở đây có cơ quan vậy?”

Lạt ma Á La mắt sáng long lanh, không nói gì mà chỉ nhìn xoáy vào cánh cửa đá khổng lồ. Sự chú ý của Trác Mộc Cường Ba cũng nhanh chóng bị cánh cửa hình tam giác đang từ từ mở thu hút.

Soares nấp sau một bức tượng đá, vừa rồi y chỉ giả bộ chui vào đường hầm chứ thực ra đã nhanh nhẹn nấp vào một bên, thầm nhủ: “Giờ thì sáng tối đảo chiều rồi, chuột nhắt vẫn là chuột nhắt, trò như vậy làm sao mà lừa được tao chứ.”

Tưởng chừng như vừa mở ra một lỗ thông gió, tất cả đèn lửa đều lay động bạt về phía cánh cửa đá hình tam giác. Cánh cửa từ từ dịch mở, trái tim bốn người và cả Soares đang ở trong bóng tối quan sát cùng nhảy vọt lên tới tận miệng. Lớp bụi dưới chân cửa bị thổi bay, cả cánh cửa mở tung. Bốn người đứng trước cửa cũng hoàn toàn đờ đẫn, hết sức kinh ngạc nhìn thứ ở bên trong. Dù có là một con khủng long thời tiền sử trong cửa nhao ra, e cũng không thể khiến họ kinh ngạc đến mức ấy.

Bên trong cánh cửa có một người!

Hơn nữa còn là một người châu Á da vàng mắt đen luống cuống nhìn bốn người đang đứng trước cửa, ngây ra một lúc lâu, mới lắp bắp nói: “Ai em, ai em chai ma ri.”

Bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba như nhìn thấy quái vật thời tiền sử, một lúc sau mới hiểu ra, người kia đang nói tiếng Anh, ý là: “Tôi là người Trung Quốc!” liền ngay sau đó là cảm giác chóng mặt choáng váng, đến cả Soares cũng có ý định đập đầu vào tường cho xong. Một cánh cửa ngàn năm nay chưa từng được mở, bên trong không ngờ lại là một người Trung Quốc. Đây chính là thứ bao nhiêu năm nay y tìm kiếm khổ sở đấy hay sao? Soares thật chỉ muốn tìm một miếng đậu phụ đập đầu vào mà tự tử.

Nhưng gian trong cánh cửa nhỏ hơn nội sảnh rất nhiều, ngoài người tự xưng là “chai ma ri” kia thì không có gì nữa. Chừng năm trăm mét không gian hình bán nguyệt có vô số lỗ tròn đường kính trên chục mét đục thông ra, bên trong tối đen như mực, nhưng nhìn có vẻ không phải để chứa đồ đạc, mà ngược lại trông rất giống với hầm chuột chui trong gian đại sảnh “bầu trời sao”.

Trác Mộc Cường Ba cẩn thận quan sát “chai ma ri”, thấy anh ta cao chừng mét bảy, khoảng trên dưới bốn mươi tuổi, đầu cắt theo kiểu Đặng Tiểu Bình, tướng mạo Trung Quốc điển hình không sai vào đâu được, mặt chữ điền, mắt vuông mày rậm, mũi tẹt môi dày, để ria con kiến, nhìn bề ngoài có vẻ trung hậu thật thà, trên người đeo chéo một cái ba lô vải buồm, quần áo rách bươm rách bướp, chân dính đầy bùn, trông cũng khá giống một ông nông dân. Một lúc lâu sau, gã mới lên tiếng trả lời: “Chúng tôi, cũng là người Trung Quốc!”

Người kia vừa nghe thấy thế, không nói nổi một câu đã khuỵu xuống đổ vật vào lòng Trác Mộc Cường Ba như Đường Mẫn vậy, nước mắt đầm đìa nghẹn ngào kêu lên: “Ôi, ôi cha ơi, tôi tưởng mình không bao giờ ra đây được nữa chứ, hức hức…”

Người kia rõ ràng gần như kiệt sức, cần thức ăn và nước. Đã hết thức ăn, Đường Mẫn đành cho anh ta uống một ít nước đường gluco. Bốn người tốn mất một lúc lâu mới biết được, người này tên là Vương Hựu.

Thang treo di động

Roman, serif; 13.5pt; mso-ansi-language: DE” lang=DE>”Đợi chút đã, anh nói cái gì cơ? Nhóm phượt hả? Tôi có nghe nói đến các anh rồi! Hả, trời ơi, anh là thành viên nhóm phượt, có biết người nào tên là Sean không?” Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra anh chàng tóc bạch kim.

Vương Hựu gật đầu: “Sean, quý ông người Anh lịch sự nhã nhặn ấy hả? Ừm, anh ta đúng là có phong độ của quý ông. Tôi cứ nghĩ là anh ta không phù hợp tham gia nhóm phượt này cơ đấy, không ngờ kinh nghiệm của anh chàng ấy cũng phong phú lắm. Các anh cũng gặp họ rồi à? Giờ họ thế nào rồi?”

Lạt ma Á La nói: “Được rồi, bây giờ không phải lúc kể chuyện xưa, làm thế nào mà cậu lại rơi xuống đó được? Bên trong đúng là không có gì hết cả à?”

Vương Hựu vắt óc suy nghĩ rồi đáp: “Lúc ấy, chúng tôi xuống đến tầng thứ ba, tôi đang ở cạnh một miệng hang, đột nhiên thấy choáng váng, giống như cửa hang có gió, bên trong dường như có một sức hút lạ kỳ, chẳng hiểu sao mà tôi lại rơi xuống dưới đó, sau rồi thì không còn biết gì nữa cả. Đợi chút đã, tôi nhớ Ricky có kéo tôi lại, hình như là hai chúng tôi cùng rơi xuống đây, nhưng lúc tỉnh lại tôi đã tìm khắp nơi mà không thấy anh ta đâu. Còn cả Sasaki và Khải Đặc nữa, cũng không biết bọn họ thế nào rồi.”

“Bình”, một con chuột khổng lồ đang húc mạnh vào cửa đá. Vương Hựu kinh ngạc nhìn ra bên ngoài: “Hả, trời đất ơi, đây là cái gì vậy? Động vật gì mà lớn thế?”

Giáo sư Phương Tân nói nhanh: “Có vẻ như bọn chúng đã chú ý tới chúng ta rồi, cần phải nhanh chóng tìm đường lên trên. Tốc độ của chúng rất nhanh, nếu cả ai bên đều bị chặn đường thì chúng ta đúng là không còn hy vọng sống sót nữa đâu.”

Lạt ma Á La dường như vẫn không cam lòng, ông kiểm tra từng miệng hố trong gian đại sảnh sau cánh cửa hình tam giác, rồi thất vọng nói: “Bên trong cánh cửa cuối cùng này lại chẳng có thứ gì hết, sao lại như vậy được nhỉ?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Nhìn cấu tạo bên trong này, trông giống một nơi để hiến tế, dường như người Maya nuôi dưỡng thứ gì đó trong này, và có thể thả đồ ăn từ trên kia xuống. Nhưng nếu bảo là có động vật, bên trong phải có rất nhiều xương cốt hoặc thứ khác nữa mới đúng, nhưng ở đây lại không có gì. Nếu cả lũ trăn Nam Mỹ, chuột khổng lồ cũng đều do họ nuôi thả cả, vậy thì sao phải nuôi nhiều động vật lớn ở tầng này như thế, rốt cuộc là có dụng ý gì vậy nhỉ?”

Đường Mẫn nhìn cửa hầm nhỏ lúc họ đi vào: “Nhưng người vừa nãy cũng đi đường này ra, nếu chúng ta đi ra gặp phải hắn ta thì làm thế nào?”

Lạt ma Á La lắc đầu: “Chắc không đâu, hắn phát hiện ra cửa hầm đã bị bịt lại, sẽ biết ngay chúng ta vẫn còn chưa đi, nhất định sẽ liều mạng mà chạy trở lại đây, đi thôi, để tôi dẫn mọi người tìm đường lên phía trên. Vách tường của các gian đại sảnh ấy rất cổ quái, mọi người không nhận ra à?”

Năm người lại bò ra qua đường hầm nhỏ. Soares bước ra khỏi bóng tối, nhìn những đường hầm tối tăm sau cánh cửa hình tam giác, lẩm bẩm: “Không thể nào, cho dù đã chết rồi thì cũng phải còn lại xương cốt chứ, nhất định ta phải tìm bằng được thần Kukulkan của người Maya.” Nói đoạn y liền bước vào một trong những đường hầm tối om ấy.

Năm người vừa chui ra khỏi đầu bên kia, bỗng nghe thấy tiếng thở hổn hển. Có người đang lớn tiếng quát tháo. Thấy họ hình như không hiểu, người kia liền nhanh chóng chuyển sang tiếng Anh: “Đứng yên, không tao bắn.”

Trác Mộc Cường Ba không khỏi luống cuống, rốt cuộc là tầng này có bao nhiêu tên du kích vậy. Bọn họ xoay người qua, liền trông thấy Gonzales đang cầm súng máy thở phì phò, thân hình trông như trái bóng thịt lắc lư dưới ánh lửa.

“Là mày, mày là thằng người Trung Quốc ấy, Thác Mộc Tượng!” Trác Mộc Cường Ba chưa từng gặp Gonzales lần nào, bị hắn gọi tên thì lấy làm kinh ngạc, liền hỏi: “Sao lại biết tên tôi?”

Gonzales cười gằn, chỉ chỉ nòng súng, nói: “Nói ít thôi, mở ba lô ra!” Hắn đã thấy Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn đeo hai cái ba lô to tướng, chắc mẩm bên trong đựng rất nhiều đồ cổ. Trác Mộc Cường Ba thoáng động tâm, chuẩn bị lợi dụng lúc mở ba lô sẽ khống chế tên du kích này. Ai ngờ ý định vừa nảy ra trong đầu, Gonzales như lập tức nhìn thấu, giương súng lên bắn chỉ thiên một loạt đạn, làm Đường Mẫn và Vương Hựu cùng kêu rú lên, ba người còn lại cũng rụt đầu theo phản xạ tự nhiên. Gonzales nói: “Mày, mày, cả mày nữa, ném ba lô xuống đất, tất cả lùi lại hết cho ta, đừng có mà giở trò trước mặt thằng này.” Cả chiếc ba lô leo núi dẹp lép trên lưng Vương Hựu hắn cũng không chịu bỏ qua.

Trác Mộc Cường Ba không ngờ tên béo này lại ranh mãnh như vậy, song trước họng súng của hắn, ba người đành miễn cưỡng bỏ ba lô xuống đất, sau đó lùi lại phía sau mười mấy bước, đứng dựa lưng vào huyết trì. Gonzales vừa nhìn chằm chằm vào bọn họ, vừa cẩn thận mở ba lô Trác Mộc Cường Ba đeo ra, lục lọi một lúc, thấy bên trong toàn là thiết bị giám trắc không khí, máy giám trắc thủy văn, dây an toàn, đèn chiếu sáng, thì nổi giận bừng bừng nói: “Toàn những thứ vứt đi!”

Y lại hung hăng mở cái ba lô Đường Mẫn đeo ra, kết quả lại càng thất vọng hơn, liền lớn tiếng hỏi: “Tao thấy mấy đứa chúng mày bò ra khỏi miệng hầm đó cơ mà, chúng mày, chúng mày bò bên trong ấy ra, tại sao lại không có thứ gì? Tại sao chúng mày không lấy thứ gì hết?”

Nhìn vẻ mặt Gonzales năm người đều có thể nhận ra tâm trạng lúc này của hắn. Vương Hựu chế giễu: “Bên trong mà có thứ gì chẳng lẽ chúng tôi lại không lấy. Mộ thất trong ấy sớm đã bị người ta vơ vét sạch sẽ rồi, bây giờ ngoài một cỗ quan tài ra, chẳng còn gì sất.”

Trác Mộc Cường Ba định ngăn Vương Hựu, không để anh ta chọc giận tên du kích có vũ khí trong tay này, chẳng ngờ Vương Hựu lên tiếng bất ngờ lại còn nói nhanh nữa. Quả nhiên, sắc mặt Gonzales vụt biến đổi, thoạt đầu lẩm bẩm: “Bên trong không có gì hết? Bị trộm sạch rồi? Hắn lừa tao! Hắn lại dám lừa tao chứ!” Sau đó hắn đanh mặt, cuối cùng giẫm giẫm lên ba lô leo núi của Vương Hựu mấy cái. Cái ba lô xẹp lép ấy không phải mở ra, chỉ cần đụng vào là biết ngay bên trong chẳng có cái gì rồi. Gonzales bỗng dưng phát cuồng, rút dao săn ra đâm loạn xạ vào cái ba lô của Vương Hựu, hét: “Tao phải giết chúng mày! Tao phải giết chúng mày!” đồng thời giương súng lên bắn loạn xạ.

Năm người vội hoảng hốt chạy dạt ra. Trác Mộc Cường Ba chộp được vật gì đó, theo bản năng, ném luôn về phía Gonzales. Té ra là đầu lâu của một tên du kích bị Soares bỏ đi không dùng đến. Cái đầu này do chính tay Gonzales đã cắt. Gonzales nhất thời đầu óc hoảng loạn, đánh rơi cả súng, đang định nhặt lên, nhưng lạt ma Á La đã không cho hắn cơ hội đó, đá bay một khúc xương tới, kế đó phi thân lao vút vào, đá văng thân thể béo ung ủng củng Gonzales. Gonzales lăn lốc mấy vòng, vội lẩn sang một bên ẩn náu. Diện tích đại sảnh này rất lớn, muốn nhanh chóng tìm ra hắn cũng thật không dễ dàng chút nào. Trác Mộc Cường Ba nhấc ba lô lên vai nói: “Chúng ta đi thôi, rời khỏi đây trước đã, chúng ta không có thứ hắn muốn đâu.” Kế đó gã lại lớn tiếng nói, “Này, chúng tôi không có thứ anh muốn, đừng gây phiền phức nữa, chúng tôi chỉ muốn rời khỏi chỗ này cho nhanh thôi!”

Ở phía sau, giáo sư Phương Tân đang lên lớp cho Vương Hựu một bài: “Đáng lẽ anh không nên nói vậy với hắn, lần sau gặp phải chuyện gì, anh đừng lên tiếng nữa, để chúng tôi giải quyết, OK?” Vương Hựu khàn khàn giọng nói: “Tôi biết rồi”.

Lạt ma Á La nói: “Đi thôi, tôi cũng vừa mới nghĩ ra, để tôi dẫn mọi người đi xem các trụ ở vách tường kia có gì lạ.”

Đợi cho năm người đi hẳn, Gonzales mới từ bóng tối bước ra, bất chấp tất cả, hai chân hắn chụm lại, dồn hết sức chui vào đường hầm nhỏ mà lạt ma Á La mở ra.

Năm người do lạt ma Á La dẫn đầu đi tới góc tường. Ở đây toàn là những trụ đá hơi cong cong hướng lên trên mô phỏng xương sườn của con người. Ông vuốt tay lên một trụ đá nói: “Ở đây có khía lõm vào này, có phát hiện ra không, hai bên cột đá đều có khía lõm vào đấy.”

Trác Mộc Cường Ba sờ sờ vào những đường khía: “Như vậy nghĩa là sao?”

Giáo sư Phương Tân chợt kêu lên: “Tôi hiểu rồi, có biết giường gỗ trước đóng thế nào không? Hai mảnh gỗ, ở giữa đục khía, sau đó hai đầu thanh gỗ gá vót thành hình chêm, nhét vào. Nếu chúng ta kiếm được vài thứ đồ vật dài chừng một mét, gác vào trong các rãnh, như vậy, như vậy thì thành một cái thang treo rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng kiếm đâu ra những đồ vật dài một mét ấy bây giờ? Hơn nữa, các trụ đá này đều có thể gá vào được, rốt cuộc ở đâu mới là lối ra đây?”

Lạt ma Á La lắc đầu: “Không, không phải vậy. Trong những rãnh này có chốt gá sẵn, ấn xuống nó lại bật lên, đây là một loại công nghệ khảm đá nổi, giống như ấn một quả bóng da xuống nước ấy, dù đè sâu thế nào nó cũng tự nổi lên. Kỹ thuật này dùng để tạo một loại lẫy di động đơn hướng, để tôi nghĩ xem nên giải thích thế nào với mọi người cho dễ hiểu nào. Đúng rồi, hồi trước trên các đồng hồ cơ, có một kết cấu rãnh chốt, không biết mọi người có biết không.”

Ngoài Đường Mẫn, ba người còn lại đều tỏ ý đã hiểu. Lạt ma Á La nói: “Loại rãnh đá này, hoạt động cùng một nguyên lý với rãnh của đồng hồ cơ, giống như còng tay vậy, có thể ấn vào, nhưng lại không thể rút ngược ra, như vậy, sẽ đảm bảo được phương hướng vận hành đồng nhất cho thang treo gắn trên đó. Nói cách khác, thang treo phía trên của tầng này sẽ tự di động, chứ không đứng yên một chỗ.”

“Tự di động?” Trác Mộc Cường Ba không thể nào hiểu nổi.

Lạt ma Á La đáp: “Những rãnh đá này dường như là đường ray, còn thang treo thì giống như xe lửa, mãi mãi chuyển theo một hướng cậu hiểu chưa?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Còn động lực ở đâu? Có động lực gì đẩy nó tiến lên không?”

“Có chứ.” Lạt ma Á La nói: “Nước xối từ trên tầng đỉnh xuống, chênh lệch chiều cao thẳng đứng lên tới mấy trăm mét, có thể cung cấp đủ động năng, hơn nữa còn vĩnh viễn không bao giờ cạn kiệt.”

Trác Mộc Cường Ba kêu: “Không thể tin nổi, đây đúng là trí tuệ của người cổ đại hay sao?”

Giáo sư Phương Tân chợt lên tiếng: “Nói nhiều như vậy, giờ chúng ta biết tìm chỗ thang treo hiện ra ở đâu bây giờ?”

Lạt ma Á La đáp: “Chú ý ở góc tường, muốn xuất hiện được thang treo, góc tường nhất định phải có khe hở, hơn nữa khe đó còn phải đủ rộng nữa. Thông thường loại thang treo này sẽ đồng bộ với thời gian, tôi nghĩ, chúng ta cứ đi về phía Nam, chắc là sẽ phát hiện thôi.”

Mới đi được chưa bao xa, họ đã phát hiện ra thang treo ở đại sảnh cách huyết trì ba gian về phía Nam. Thang treo toàn là những khúc xương gác vào giữa các trụ đá, quả nhiên đúng như lạt ma Á La nói, đang chầm chậm dịch chuyển lên trên với tốc độ mà mắt thường không dễ gì nhận ra được. Lúc năm người họ tới nơi, phần đáy thang treo đã lộ ra một khoảng trống. Trác Mộc Cường Ba vừa nhìn ra đã lập tức hiểu, lạt ma Á La nói lâu như vậy, thì ra nguyên lý hoạt động của thang treo này giống như băng chuyền, chỉ có điều là từ phương ngang chuyển thành phương thẳng đứng mà thôi.

Lạt ma Á La nằm lấy thang treo, nghiêng đầu nói: “Khi nó người giữ lại, sức nặng của cơ thể sẽ làm cả hệ thống ngừng vận động, sau khi treo lên rồi, thang treo sẽ lại tiếp tục chầm chậm chuyển động. Đây, chính là trí tuệ của người xưa.” Nói đoạn, ông dẫn đầu trèo lên. Giáo sư Phương Tân sợ lạt ma Á La rơi xuống, vội vàng lên theo sau. Đường Mẫn ở giữa. Vương Hựu theo sau. Trác Mộc Cường Ba là người cuối cùng leo lên thang treo.

Lúc lên được chừng hai ba chục mét, trong cái ba lô bị thủng của Vương Hựu rơi ra một vật tròn tròn. Trác Mộc Cường Ba nhanh tay nhanh mắt, một tay bám thang, một tay bắt lấy, đưa mắt nhìn thử, thì ra là một cái gương đồng nhỏ, trông còn rất mới. Gã gọi Vương Hựu: “Này, đồ của anh rơi ra này.” Vương Hựu ngoảnh đầu xuống, đón chiếc gương đồng trong tay Trác Mộc Cường Ba, nhét bừa vào túi áo, khàn khàn giọng nói: “Cám ơn.” Trác Mộc Cường Ba thoáng liếc thấy mặt sau tấm gương đồng hình như có khắc tiếng Tạng, bèn hỏi: “Lấy ở đâu ra thế?”

Vương Hựu đáp: “Ồ, mua trong một chợ đồ thủ công ở Bogata, lúc ấy đã đến giờ xuất phát rồi nên bỏ luôn trong ba lô.” Trác Mộc Cường Ba không hỏi gì thêm nữa. Gã cũng biết, gương đồng như vậy bây giờ đào được rất nhiều. Không chỉ ở Trung Quốc, mà các quốc gia lân cận Trung Quốc cũng có. Giá thị trường không cao lắm. Hơn nữa chiếc gương đồng này còn khá mới, có thể là do người đời sau làm giả cũng nên.

Năm người lên đến tầng thứ tư của địa cung. Từ đây trở đi hành trình bất ngờ trở nên thuận lợi, cuốn sổ ghi chép của Pieri dần đầy đủ hơn, số lượng bẫy rập và diện tích địa cung không ngừng thu nhỏ lại. Từ tầng ba trở đi thì Vương Hựu lại càng quen đường thuộc lối, đi trước dẫn đầu. Theo như anh ta nói, tâng một tầng hai hoàn toàn không có cạm bẫy gì hết, có thể dễ dàng đi thẳng lên trên. Dọc đường giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La hỏi han Vương Hựu rất nhiều. Anh chàng họ Vương phát âm không suôn sẻ lắm, nhưng để xóa bỏ mối hiềm nghi của những người này, đành nhất nhất trả lời, kể đại khái từ đầu chí cuối về chuyến du hành trong rừng nguyên sinh này một lượt.

Anh ta vốn là tổng giám đốc một công ty phát triển địa ốc, xưa nay rất thích thàm hiểm. Mới đầu mọi người thường vào một trang web chuyên về du lịch phượt, chỉ gửi thư mời qua mạng. Hành trình lần này là do một người Trung Quốc tên là Khải Đặc đề xướng, mục đích là băng qua khu rừng nguyên sinh nguyên vẹn cuối cùng ở Nam Mỹ. Các việc báo danh trên mạng, ký hợp đồng và lập di chúc, tất cả đều được thực hiện theo quy củ thông thường của các đoàn thám hiểm tự túc kinh phí. Sau đó cả đoàn ước định thời gian, từ khắp nơi trên thế giới tụ tập về Bogota. Anh ta và Khải Đặc là hai người Trung Quốc, Ricky là Hoa kiều Singapore, Sasaki là người Nhật Bản. Bốn bọn họ cùng ngồi một con thuyền nhỏ, lúc gặp phải đám du kích, không hiểu đã làm chuyện gì mà chọc giận bọn chúng, kết quả là phải bỏ chạy thục mạng, thuyền của họ đã lạc mất cả đoàn. Sau đó lại trải qua vô số những chuyện hung hiểm giống như bọn Trác Mộc Cường Ba đã gặp phải, cuối cùng thì tới được di tích này. Bọn họ vào trong từ lối thần miếu trên đỉnh kim tự tháp, hai tầng trên không có cạm bẫy gì, nhưng đến tầng thứ ba thì đột nhiên đụng phải chốt bẫy, luống cuống chân tay không biết phải làm sao, đang định ra khỏi kim tự tháp thì anh ta vì tò mò mà rơi vào cái hố ở tầng ba, sau đó bất tỉnh nhân sự. Lúc tỉnh lại, anh ta liền phát hiện ra mình đang ở trong một hang động tối om như mực, đã tìm kiếm khắp nơi mà không làm sao tìm được lối ra, cuối cùng phát hiện ra khe đá có ánh sáng, cũng đã dùng hết cách mà không mở được cửa đá. Ban đầu Vương Hựu còn có chút hi vọng những người đi cùng sẽ tìm thấy mình, kết quả chờ suốt một ngày một đêm, nước và thức ăn đều đã hết sạch, cổ họng gào thét đến khản đi, mà trước sau cũng không ai trả lời. Anh ta đã ngỡ mình sẽ bị chết trong cái hang tối ấy, đang mơ mơ hồ hồ thiếp đi thì bị tiếng động rầm rầm làm cho giật bắn mình tỉnh lại, cuối cùng trông thấy bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba.

Như Vương Hựu kể, anh ta đến sớm hơn mấy người bọn giáo sư Phương Tân một ngày. Nhân đó, giáo sư Phương Tân và Trác Mộc Cường Ba cũng kể lại những chuyện đã gặp phải. Lúc ở dưới kim tự tháp, mỗi giây mỗi phút họ đều phải hoảng loạn chạy trốn, quả thật chưa lúc nào có cơ hội để kể lại hành trình của mình. Trong cơn lũ, giáo sư Phương Tân và Đường Mẫn bị lạc mất lạt ma Á La và Ngải Lực Khắc, sau đó, giáo sư Phương Tân phải để lại ký hiệu ở gần thạch trận. Kết quả là vừa để lại ký hiệu xong, cả hai liền bị thổ dân ăn thịt người phát hiện, phải chạy thục mạng trong rừng một trận, mãi tới khi đám thổ dân bị một tổ du kích thu hút sự chú ý mới thoát khỏi truy đuổi, lại đi trong rừng mất hai ngày, chẳng hiểu đầu cua tai nheo thế nào mà tới được Bạch thành. Bọn họ cũng bị kỳ tích này thu hút cả tâm trí. Sau đó hai người vào một gian nhà trong thành nghỉ một đêm, hôm sau tỉnh lại, thì gặp bọn Trác Mộc Cường Ba và quân du kích chạy tới.

Trong lúc nói chuyện, bọn họ không ngờ đã lần lượt tìm thấy thi thể của Khải Đặc và Sasaki trong đám thây cốt tàn khuyết của quân du kích. Cả hai bị dã thú cắn cho nát bấy người, đầu mặt tay chân đều không còn nguyên vẹn. Vương Hựu cố nén đau thương thu nhặt di vật của họ vào ba lô, định sau này sẽ trao lại cho người thân. Năm người lại tiếp tục đi lên, trong lòng cảm thấy hết sức nặng nề, bởi dù có ra khỏi được kim tự tháp này, trong rừng rậm mênh mông như thế, họ không biết sẽ còn phải làm gì đây. Trác Mộc Cường Ba không nhịn nổi ngoác miệng chửi Lữ Cánh Nam, bảo đáng lẽ nên để cô tự thưởng thức và cảm nhận chuyến đi nguy hiểm này mới phải. Giáo sư Phương Tân cũng mở miệng, cơ hồ muốn nói điều gì đó, nhưng cuối cùng ghìm lại được.

Soares chán nản cực độ, cảm giác toàn thân không còn chút sức lực nào, tựa như đột ngột bị hạ đường huyết vậy. Y đã vào tất cả các miệng hang, thảy đều không có gì, vật sống, xương cốt, hoặc những mảnh xác không lành lặn bị động vật ăn còn thừa lại, vật bài tiết, trong hang không có gì hết. y nhiếc mắng bản thân mình quá ngu dốt, biết rõ là không thể hoàn toàn tin vào những gì người đó nói, nhưng tại sao y lại không thể kiềm chế được mà cứ tín nhiệm hắn cơ chứ? Vất vả cực nhọc kiếm được chìa khóa, suýt chút nữa còn chết dưới mũi giáo của bọn thổ dân ăn thịt người, vậy mà kết quả chẳng có chút ý nghĩa gì, công toi một bận. Y ôm trong lòng ngọn lửa phẫn nộ bừng bừng đi ra nội sảnh, liền trông thấy thân thể mập ú của Gonzales đang bò toài ra trên nắp quan tài đá, trông chẳng khác gì một con sâu rau núc ních đang ra sức trèo lên một chiếc lá cây, nhưng chiếc lá ấy lại không chịu được trọng lượng của nó, cứ rung rinh chực rụng, nhìn thật vô cùng hài hước.

Gonzales ngoảnh đầu lại, trông thấy Soares, liền nghiến răng kèn kẹt hỏi: “Bên trong chẳng có thứ gì cả! Ông đã biết trước rồi đúng không? Tại sao lại gạt tôi! Tại sao lại gạt tôi!”

Soares hoàn toàn có thể chối, nhưng lúc này tâm trạng y đang cực kỳ tồi tệ, lời ra đến cửa miệng rồi lại đột nhiên biến đổi: “Đúng vậy, tao lừa mày đấy, vậy thì sao! Tự mày ngu xuẩn thôi, còn trách ai được nữ! Cái đồ đầu lợn!”

“Được lắm!” Gonzales lăn từ trên tấm đá xuống, nhìn cánh cửa hình khung xương mới chỉ hé ra một khe nhỏ và đường hầm không lớn lắm kia, cầm súng lên gằn giọng nói: “Ở đây, mày không thể gọi lũ động vật ấy đến đúng không, tao muốn… phân thây mày ra!” Hăn chuẩn bị bắn tàn phế tứ chi Soares trước, sau đó từ từ giày vò y, hòng phát tiết phần nào mối hận bị ép phải làm tên đồ tể.

Sống sót trở về

Roman, serif; 13.5pt; mso-ansi-language: DE” lang=DE>Chẳng ngờ tiếng súng vừa nổ vang, Soares đã lăn xuống đất, không hiểu rút đâu ra một sợi roi dài, từ khoảng cách mười hai mét vung tay quật một phát, đầu roi lập tức quấn lấy khẩu súng trong tay Gonzales, giật mạnh một cú, hất văng ra xa đằng xa, kế đó là hết roi này đến roi khác quật xuống cơ thể phì nộn của Gonzales không chút thương tiếc, đánh cho tên béo phải gào thét thảm thiết. Cuối cùng, Soares quấn sợi roi vào cổ Gonzales, kéo hắn lại gần, rồi đập mạnh cho hôn mê bất tỉnh, ném vào bên trong cánh cửa tam giác, lạnh lùng nói: “Mày không nên chọc giận tao vào những lúc thế này mới phải, cho dù không có động vật, thằng béo chết tiệt mày cũng không đáng để tao coi vào mắt đâu. Cho mày thành một phần của địa cung ** Puch này vậy!”

Soares gạt chốt trên cửa đá, đẩy cánh cửa hình tam giác trở lại chỗ cũ. Cơ quan trên cánh cửa này đã không thể tái sử dụng được nữa, cửa đóng lại, thì sẽ không bao giờ mở ra được. Nhìn cánh cửa đang chầm chậm khép chặt, Soares nở một nụ cười lạnh lùng tàn khốc. “Tầng ba hình như có chỗ bị người ta phá hoại rồi, vẫn còn kẻ nào khác muốn vào đây hay sao, mình phải lên đó xem mới được.” Soares cúi đầu ủ rũ thầm tính toán, song lại chẳng có chút nhiệt tình hăng hái nào. Đúng lúc này bỗng nghe “bộp” một tiếng, có thứ gì đó mềm mềm rơi xuống đất. Soares ngước nhìn về phía cánh cửa hình tam giác, thứ đó chính là rơi từ trên đỉnh nhọn của tam giác xuống. Nếu không có người mở cửa, vật đó sẽ không dịch chuyển ra, nếu không có người đóng cửa đá lại, vật đó cũng sẽ không rơi xuống, không hiểu thứ gì mà được giấu khéo léo đến nhường ấy. Soares nhặt nó lên, phủi bụi đất bám trên bề mặt, thì ra một mảnh da thú đã được xử lý bằng phương pháp đặc biệt, trông có vẻ rất chắc chắn. Soares cẩn thận quan sát tấm da thú thật kỹ lưỡng, “Đây… đây… nơi được vẽ trên tấm bản đồ này… hình như là Trung Quốc mà!”

Lại đi thêm một lúc lâu nữa, dưới sự chỉ dẫn trong cuốn sổ ghi chép của ông Pieri, năm người nấp trong một không gian kín ở tầng hai, tránh được đoàn quân dơi về ổ, sau đó lại tiếp tục lên trên, cuối cùng, cũng trông thấy cánh cửa lớn thông ra phía ánh sáng. Không hiểu tại sao, mọi người đều không hề vui mừng hớn hở. Giáo sư Phương Tân hỏi Vương Hựu: “Sau khi ra ngoài anh tính thế nào, đi với chúng tôi hay là…” “Đương nhiên là đi cùng mọi người rồi.” Vương Hựu không nghĩ ngợi gì đã trả lời luôn, anh ta hiểu rất rõ, ở một nơi thế này, đơn thương độc mã cũng gần như đồng nghĩa với cái chết.

Giáo sư Phương Tân nói: “Nhưng tôi phải nói cho anh biết một điều, cả chúng tôi cũng không hề tự tin có thể ra khỏi khu rừng này, mà khả năng lớn nhất chính là, mọi người chết chung một chỗ.” Điều giáo sư Phương Tân vừa nói, cũng chính là điều mỗi người đang nghĩ trong đầu. Mọi người đều bị hoàn cảnh bức bách trong rừng mà chạy tới nơi đây, không có thức ăn cũng chẳng có phương hướng, không ai biết cánh rừng này là ở đâu, muốn ra khỏi chốn này không dễ, trừ phi xuất hiện kỳ tích. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cả năm người đều không thể nào mừng vui cho nổi.

Vương Hựu nói: “Tôi biết chứ, nhóm phượt bọn tôi, mỗi lần tổ chức đoàn thám hiểm, trước khi xuất phát đều phải ký tên trong bản tuyên bố trách nhiệm và viết di chúc, tâm lý chúng tôi đều đã được chuẩn bị. Dù sao, nơi nguy hiểm nhất khó khăn nhất chúng ta cũng đã vượt qua, sẽ không có thứ gì có thể cản bước chân cầu sinh của chúng ta nữa đâu.” Một câu nói này có tác dụng cổ vũ rất lớn. Giáo sư Phương Tân hít sâu một hơi, nói: “Nếu anh đã nghĩ như vậy, chúng ta đi thôi.” Nói đoạn, ông ưỡn ngực bước về phía cánh cửa sáng người kia.

Ánh dương lại một lần nữa tưới tắm cho mặt đất, không khí vẫn thanh tân khôn tả, năm con người mệt mỏi rã rời, quần áo rách rưới đứng lên đỉnh kim tự tháp, tay nắm chặt tay, vai kề sát vai, kiêu ngạo nhìn vầng dương mới lên. Bạch thành, đang ở dưới gót chân họ. Mặt đất mênh mang, cũng đang ở dưới chân họ. Cuối cùng, họ cũng ra khỏi tòa cung điện ngầm dưới lòng đất ấy, đi ra từ tầng sâu nhất của chốn m ty, bước ra từ vô số khảo nghiệm của sự sống và cái chết. Sau đây, bất kể là đối diện với khảo nghiệm gì, trải qua nguy nan hiểm trở thế nào, bọn họ cũng thản nhiên tiếp nhận. Địa ngục đã từng cho họ biết một điều: sinh mạng, vĩnh viễn không bao giờ cúi đầu.

Khi họ đứng trên đỉnh kim tự tháp, kỳ tích thật sự đã xuất hiện. Cả năm người đều nhìn thấy rất rõ, trên quảng trường lớn đối diện với kim tự tháp có ba chiếc trực thăng xếp hàng ngay ngắn, lặng lẽ khoan thai chờ đợi, tựa hồ như đang long trọng hoan nghênh họ trở về. “Trực thăng…” Giáo sư Phương Tân đột nhiên cảm thấy không thể khống chế nổi mình, chỉ thốt lên hai chữ ấy, nước mắt đã lã chã rơi trên gương mặt từng trải bao bể dâu dâu bể. Đường Mẫn thấy sống mũi cay cay, nước mắt liền như những hạt châu đứt dây rơi xuống thánh thót.

Trong mắt lạt ma Á La cũng long lanh ánh lệ. Vương Hựu khóc òa lên, Trác Mộc Cường Ba nghẹn ngào thổn thức. Khoảng khắc ấy, bọn họ mặc cho nước mắt thỏa sức rơi xuống, thật lòng chỉ muốn trở lại thời thơ trẻ mà khóc òa lên. Không phải họ không dũng cảm, cũng càng không phải họ không đủ kiên cường, mà chỉ là tâm trạng kích động lúc ấy không thể nào biểu đạt nổi, ngoại trừ nước mắt ra, quả thật không còn thứ gì có thể xoa dịu được tâm tình của năm người họ trong thời khắc ấy.

Một góc tầng thứ ba của địa cung, ở đây đã bị người ta đào bới khoét một cái lỗ lớn, nên nói là vết tích của một vụ nổ nhân tạo để lại thì đúng hơn. Merkin mặt mũi sầm sì, cứ đi đi lại lại bên trên miệng hố, sau lưng y là một đường ống dẫn dầu cỡ lớn đã lắp ráp xong và mấy chiếc xe điện, một số công nhân kỹ sư của bên thi công đang bận rộn chạy qua chạy lại. Khi Max hăng hái chạy tới báo cáo với ông chủ rằng đã sắp xếp ổn thỏa, không ngờ lại ăn ngay một trận chửi rát mày rát mặt: “Mày là thằng ngu xuẩn, tốn bao nhiêu tiền, phí bao nhiêu thời gian như vậy, vậy mà chẳng tìm hiểu được chút gì. Chỉ cần mày nghe ngóng được một chút tin tức thì tao đã biết ngay chỗ này chính là nơi chúng tao đã đến đây một lần rồi. Chỗ này còn cái đếch gì mà xem nữa chứ? Mày xem chỗ kia, đấy, còn chỗ kia nữa, chẳng lẽ tao chưa kể với mày bao giờ chắc! Tao thường kể với mày về nơi này, chẳng lẽ mày không có chút ấn tượng nào hả? Ôi trời, đầu mày làm bằng cái gì thế? Lãng phí thời gian sức lực của tao! Ngu xuẩn!”

Max run rẩy lẩy bẩy, không dám cãi lại câu nào. Thật không ngờ nơi này lại chính là tòa kim tự tháp Maya hung hiểm mà ông chủ thường hay nhắc tới, khó khăn lắm mới có được giấy phép thông hành, thế mà lại chẳng được tích sự gì.

“Bala, Bala!” Kỹ thuật viên bên trong hét ầm ĩ. Họ phát hiện ra có người trong kim tự tháp. Mấy gã bảo vệ vũ trang nhảy vào trước tiên, bên trong cũng có giọng nói lạnh lùng cất lên, đối phương cũng dùng tiếng Tây Ban Nha hỏi: “Bên ngoài là ai vậy? Tổ chức Cách Mạng Thánh chiến à?”

Merkin bảo với teen chỉ huy: “Không cần lo lắng, người của mình.” Đoạn liền cao giọng nói: “Soares!”

Một người có bộ mặt khiến người ta không dám nhìn thẳng bước ra từ kim tự tháp, đích thị là Soares!” Merkin ôm thật chặt rồi hỏi: “Không phải anh theo dõi bọn chúng à? Sao lại ở đây?”

Soares đáp: “Chúng cũng vừa mới ở đây đi ra thôi.”

Merkin ngạc nhiên: “Ủa, vậy sao? Chúng còn hành động được không?”

“Yên tâm, tôi để lại đồ cho chúng rồi.” Soares đưa mắt nhìn xung quanh, nói: “Rời khỏi đây trước đã, tôi có thứ này hay lắm.”

Tên chỉ huy vội cất tiếng: “Này, ông không thể rời khỏi đây được, phải để chúng tôi kiểm tra đã.” Soares xòe rộng hai tay nói: “Cứ tự nhiên.”

Gonzales mơ màng bò dậy trong bóng tối mịt mùng, đưa tay sờ sờ lên cái đầu vẫn còn đau như búa bổ của mình: “Đây là chỗ nào vậy? Khốn kiếp! Lại còn bỏ tao vào đây nữa! Có ai không! Có ai không!” Hắn bắt đầu ngoác họng ra kêu gào.

Xung quanh không có một làn gió nhẹ, cũng không có chút ánh sáng nào, tiếng kêu của Gonzales vọng lại ong ong trong khoảng không đen tối. Hắn hoang mang bước đi mấy bước, chợt đá phải thứ gì đó, thò tay lần thử, thì ra là một chiếc đèn pin không hiểu ai đánh rơi trong này. Hắn bật đèn lên, vẫn còn một chút ánh sáng vàng vọt, dưới ánh đèn, Gonzales bắt đầu nhìn rõ được hoàn cảnh xung quanh mình, hắn lập tức hiểu ra mình đang ở đâu. Gonzales bổ tới chỗ cánh cửa hình tam giác đóng im ỉm, lớn tiếng chửi mắng: “Khốn kiếp, khốn kiếp, thả tao ra! Khốn kiếp, khốn kiếp!”

Một cơn gió sặc mùi tanh thối thổi tới, Gonzales cảm thấy không ổn lắm, vội quay đầu lại, chỉ thấy trong hang động tối tăm khổng lồ ấy bỗng xuất hiện hai đốm sáng, chúng dịch chuyển, càng lúc càng lớn dần, ánh lên sắc vàng nhạt, tựa như có người đang dùng cây sào tre rất cao treo hai ngọn đèn lồng đang đi tới vậy. Gonzales trợn trừng mắt nhìn đốm sáng đang nhanh chóng tiến lại gần mình, cơ hồ không dám tin đây là sự thật, hoang mang không biết phải làm sao. Cuối cùng, khi nhìn thấy chân tướng của hai ngọn đèn lồng kia, tên béo đã dùng hết sức lực toàn thân phát ra có tiếng kêu có âm độ cao nhất từ thuở hắn lọt lòng tới giờ, kế đó, hắn bất chấp tất cả mà ấn nút kích hoạt đống thuốc nổ quấn quanh người! Ánh lửa lóe lên trong bóng đêm tăm tối, khí áp nén lại cực độ, rồi cuồng loạn bùng ra xung quanh, luồng sức mạnh đánh bật cánh cửa hình tam giác, đánh bật cả cánh cửa dạng khung xương khổng lồ, kế đó dễ dàng biến cả tầng địa ngục thứ năm này thành bình địa, biến mọi vật chạm phải nó nát vụn thành bột! Dầu mỏ ở tầng dưới cùng cũng bị kích dẫn tạo ra phản ứng dây chuyền, những tiếng nổ lớn vang lên liên tiếp, tựa hồ như muốn lộn phộc tất cả cả mọi thứ lên!

Năm người nước mắt lưng tròng chạy tới trước trực thăng. Cả ba chiếc đều không hề hư hại chút nào. Thêm một điều khiến họ mừng rỡ hơn nữa là trên máy bay vẫn còn đủ cả nước lẫn đồ ăn. Trác Mộc Cường Ba kiểm tra bình xăng máy bay, nói: Đều có bình xăng đôi, bay cả ngày cũng không vấn đề gì.”

Họ mang hết vật phẩm tập trung lên một chiếc trực thăng, đổ đầy bình xăng. Sau đó Trác Mộc Cường Ba chầm chậm kéo cần điều khiển, một loạt tiếng “tạch tạch tạch” vang lên mang tới cho cả năm người niền hy vọng vô cùng vô tận. Chiếc trực thăng đảo một vòng trên tòa kim tự tháp. Từ trên cao giáo sư Phương Tân lấy máy quay ghi lại toàn bộ quang cảnh Bạch thành. Vừa lúc ấy một tiếng nổ khủng khiếp vang lên dưới lòng đất, kim tự tháp dần chìm xuống, đất vụn và bụi cát mù mịt tung bay, bao phủ cả tòa thành trong một sắc xám mông lung mờ mịt. Giáo sư Phương Tân tiếc nuối than: “Chúng cho nổ kim tự tháp rồi, ai lại làm vậy nhỉ, đây rõ ràng là phạm tội mà.”

Không bao lâu sau, ở vùng rìa Bạch thành, một cột lửa khổng lồ bốc lên, lưỡi lửa mang theo dầu bốc cao mấy chục mét, chỉ thoắt cái cả tòa thành khổng lồ đã bốc lửa phừng phừng. Năm người nhìn tro tàn khỏi tỏa bên dưới, cảm giác tựa hồ như vừa trải qua một giấc Nam Kha.

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Bạch thành, nơi mang đến cả sự kích động lẫn nỗi kinh hồn lần cuối cùng, rồi nói: “Tôi nghĩ, tôi sẽ không bao giờ trở lại đây nữa, giữ nó lại trong hồi ức thì vẫn tốt hơn. Đi được chưa, thầy giáo?” Trực thăng bắt đầu lên cao, rời xa Bạch thành, thẳng tiến về phía mặt trời.

Soares để đám người kia kiểm tra xong, liền cùng Merkin ngồi lên xe điện rời đi. Không được bao xa, đột nhiên chiếc xe điện rung lên, tựa như bị thứ gì đó quẳng lên cao rồi lại rơi bịch xuống đất. Merkin hỏi: “Động đất hả?”

Soares vội hét: “Chó chết, thằng béo kia đã cho nổ mìn. Mau rời khỏi đây, chỗ này sắp sập hết rồi!” Y nhảy xuống khỏi xe điện, lao vút như bay ra đầu kia của đường hầm.

Trực thăng bay về phía Bắc, dọc đường có đi qua khu tập trung của quân du kích, song không gặp phải cản trở gì. Sau cùng họ dừng lại ở một nơi gọi là Boye, rốt cuộc cũng đã trở về thành thị văn minh, đồng thời liên lạc được với Lữ Cánh Nam, nhờ đại sứ quán giúp đỡ tới Saint Mary. Vương Hựu tạm biệt bọn Trác Mộc Cường Ba, lên đường về nước luôn.

Trên một con đèo cách Bạch thành không xa lắm, Merkin và Soares lặng lẽ nhìn tòa thành hùng vĩ nay đã biến thành biển lửa. Max khúm núm đứng sau lưng hai người. Nếu vừa rồi chỉ đi chậm mười phút, bọn họ cũng sẽ giống như đám công nhân thi công kia, chôn thây nơi biển lửa. Cả ba đều biết rõ, lửa sẽ còn tiếp tục cháy nữa, chính phủ sẽ không hỏi tới đây, quân du kích cũng mặc kệ không lo, nếu như có người quan tâm đến, e là chỉ có đám thổ dân ăn thịt người như đang gặp phải ngày tận thế kia là cùng. Nghe Soares kể lại toàn bộ những việc đã trải qua, Merkin vỡ lẽ thốt: “Thì ra là Gonzales.”

Soares hỏi: “Sao vậy, anh biết hắn à?”

Merkin gật đầu: “Ừm, hồi trước có qua lại. Có điều không sao cả, hắn cũng không còn được việc gì nữa rồi.”

Soares lại nói: “Hà, Bạch thành đã không còn tồn tại nữa rồi, có còn nhớ tình cảnh của chúng ta khi tới đây lần đầu tiên không?”

Merkin gật đầu: “Cả đời này cũng khó mà quên được, mặc dù đã tổn thất bọn thằng Nam Tước, nhưng lúc ấy đội chúng ta còn hoàn thiện lắm, đâu có giống bây giờ.”

Soares sực nhớ ra gì đó: “Phải rồi, tôi hỏi anh, chuyện này… tôi đang nói tới chuyện Bạc Ba La thần miếu, ngoài tôi ra, anh không nói với ai khác chứ, đặc biệt là… người đó.”

Merkin giật mình thốt: “Anh muốn nói… Chồn.” Soares vội xua tay ngăn y lại, tên của người đó cũng không thể nhắc đến được. Merkin lắc đầu: “Làm sao thế được! Tôi đã tìm đến anh, cũng có nghĩa là chắc chắn không muốn để người đó biết, bằng không, tôi đã không tìm đến anh rồi.”

Soares nói: “Anh biết vậy thì tốt, anh cũng biết rồi đấy, người đó xưa nay đều đòi chiếm phần lớn, nếu hắn biết được chuyện này, tôi và anh cả khúc xương cũng không có mà gặm đâu.

Merkin băn khoăn: “Sao đột nhiên anh lại nhớ ra chuyện này vậy?”

Soares trầm ngâm đáp: “Bởi vì có một số chuyện rất lạ, tên Trác Mộc Cường Ba lại có chìa khóa mở cánh cửa cầm kỵ, điểm này làm tôi lấy làm nghi hoặc.” Y không có ý định nói với Merkin chuyện bọn Trác Mộc Cường Ba suýt chút nữa thì bị nước dìm chết, nhưng cơ quan bỗng nhiên bị mở ra, mà người mở chắc chắn không phải là y.

Merkin nói: “Có lẽ là trùng hợp thôi, mặc dù thánh thạch của người Kukuer đã bị chúng ta lấy đi và sử dụng trên cửa đá rồi, nhưng cũng có khả năng bọn họ cướp được của một bộ lạc khác về. Anh biết đấy, mấy cục đá đó cục nào chẳng giống cục nào, bọn ấy làm sao phân biệt được chứ. Phải rồi, nói đến Trác Mộc Cường Ba, đến giờ cách nhìn của anh đối với bọn chúng thế nào rồi?”

Soares bực bội gắt: “Nói ra anh chớ giận, tôi chẳng có một chút lòng tin nào với đám ấy cả. Với thực lực như thế, có thể trèo lên đỉnh Tuyết sơn đã là cực hạn của chúng rồi, mong chúng tìm thấy Bạc Ba La thần miếu ư, hừ, trừ khi mặt trời mọc đằng Tây đi.”

Merkin nói: “Cũng làm gì đến nỗi tệ thế, chung quy chúng cũng băng được qua rừng Than Thở đến Bạch thành mà.”

“Hừ, dựa vào chúng hả!” Soares cười gằn nói: “Có cao thủ khác nữa. Lúc bọn chúng vừa đặt chân vào rừng Than Thở, đã gặp một tên tóc bạch kim, thằng cha này khá là lợi hại, hắn dẫn cả bọn tránh né những nơi nguy hiểm nhất, vòng qua hang ổ của những loài dã thú hung hiểm nhất mà mấy tên kia thì không hiểu đầu cua tai nheo gì, gần như là chúng đã tiến thẳng đến Bạch thành bằng con đường an toàn nhất đó. Đây cũng là nguyên nhân tại sao tôi hỏi anh có người nào khác biết chuyện này hay không. Trong địa cung, tôi còn gặp phải một kẻ đáng sợ hơn nữa, mặc dù không biết là ai, nhưng hiểu biết của kẻ ấy về huyết trì thậm chí còn sâu sắc hơn cả người đó nữa.”

“Ừm.” Sắc mặt Merkin trở nên nghiêm trọng nói: “Đó nhất định là người của Mật tông Tây Tạng.”

Soares hỏi: “Mật tông Tây Tạng?”

Merkin gật đầu giải thích: “Khi tôi nghe người đó nhắc đến huyết trì lần đầu tiên, đã bắt đầu chú ý đến thứ này rồi, tôi nghĩ rằng, nên bắt đầu tra xét từ quốc gia của y. Cuối cùng tôi cũng điều tra được, cái huyết trì nguyên vẹn đầu tiên được phát hiện, thì ra là khai quật ở huyện Mặc Thoát, Tây Tạng vào năm 1915. Thứ này, là pháp khí dùng để tế lễ của một tôn giáo đã bị tiêu diệt.”

“Ồ, vậy anh xem cái này…” Soares lấy trong túi của Merkin ra một cuộn da, ban nãy y lợi dụng lúc ôm nhau mà nhét luôn vào. Merkin cũng biết, nhưng từ bấy đến giờ chưa kịp mở ra xem.

Cuộn da mở ra, phần mép chắc là biển, sau đó đại khái có một hình cong như ức gà, một đường màu đỏ nhạt chạy dọc theo xương ức gà về phía Tây, rồi chia ra làm ba, lần lượt ký hiệu bằng hình ảnh thác nước, tượng Phật và bộ xương, có rất nhiều địa danh đánh dấu nhỏ li ti, thoạt nhìn giống Tạng văn nhưng nhìn kỹ lại thì hơi khác. Có điều, điểm khiến Merkin chú ý nhất, là ký hiệu kỳ quái ở góc bản đồ, phần trên giống như đầu trâu, phần dưới lại nối liền với một hình chữ Vạn ngược ()

Merkin kinh ngạc thốt lên: “Hả! Đây là… là bản đồ của Mật tông?”

“Anh nói cái gì? Sao biết đây là bản đồ của Mật tông?” Soares đã xem tấm bản đồ này không chỉ một lần, nhưng trừ cảm giác giống Trung Quốc ra, y cũng không dám khẳng định đây chính là bản đồ Trung Quốc. Vậy mà Merkin vừa thoáng nhìn đã ra ngay là bản đồ của Mật tông Tây Tạng. Max cũng vội rướn đầu lên ngó một cái, có điều như vậy là chen vào giữa Merkin với Soares rồi, nhân lúc ông chủ còn chưa trừng mắt lên, hắn tự giác lùi về phía sau.

Merkin chỉ tay vào bản đồ nói: “Ký hiệu này không phải văn tự Phật giáo, mà gọi là ký hiệu “ung trọng”, ký hiệu cổ xưa nhất của Tây Tạng, hiện nay mọi người đều cho rằng nó tượng trưng cho mặt trời. Còn ký hiệu trông giống chữ “¥” trên đồng tiền này chắc là ký hiệu giản hóa biểu thị chó sói, cũng có thuyết bảo đây là ký hiệu giản hóa chỉ một loại chó chiến đấu đặc biệt chỉ Tây Tạng mới có. Hai ký hiệu này từ thời kỳ Đồ đá cũ đã xuất hiện ở Tây Tạng rồi, có rất nhiều dấu vết về chúng trên các bức nham họa của người cổ đại. Khi hai ký hiệu này xuất hiện cùng một lúc, liền trở thành ký hiệu đặc hữu của phải Mật tông đã biến mất kia. Nghe nói đây là một loại ký hiệu tượng trưng tinh thần mà các giáo đồ Mật tông xăm lên mình.” Thấy ánh mắt Soares lại toát lên vẻ hoài nghi, Merkin vội giải thích: “Tôi cũng vừa mới điều tra được chuyện này trong chuyến đi Tây Tạng lần trước thôi.” Nói tới đây, y chợt nhớ lại tình huống khi lần đầu tiên tiếp xúc với ký hiệu này…

“Ông chủ, tìm thấy rồi, những trục quyển ấy được vận chuyển đến Lhasa ở Trung Quốc.”

“Ừm, trở về tổ quốc hả? Tốt lắm, chuẩn bị nhanh lên, chúng ta sẽ đến Lhasa.”

“Vâng, ông chủ.”

“Vào Bố Đạt La cung rồi hả? Mày điều tra rõ chưa đấy?” Merkin đứng trên phố Barkhor 1, ngây ra nhìn những sạp hàng sặc sỡ màu mè bày ven đường trong suốt một phút liền.

“Ông chủ, mặc xác cung với chẳng điện đi, không phải đang mở cửa đón khách hay sao? Chúng ta phái mấy thằng giả làm du khách vào trộm ra là được mà?” Max hiến kế.

“Đồ ngu.” Merkin trước mắt nhìn bức tường biên mã 2 đỏ rực của Đại Chiêu tự ở phía xa xa nói: “Mày định trộm đồ ở nơi thế này hay sao? Hừ, chỉ sợ vào đấy chưa kịp làm gì thì đã chết mẹ rồi.”

“Vậy, thứ đó vào Bố Đạt La cung thì chúng ta hết cách rồi sao?” Max lẩm bẩm.

Merkin thở dài nói: “Hà… ủa? Ánh mắt y đột nhiên bị một mảnh kim loại hình dáng kỳ lạ thu hút. Thứ đó dường như là một món trang sức, nửa trên giống như đầu trâu, nửa dưới lại là một chữ thập. Merkin có cảm giác rất thân thuộc, liền nhặt mảnh kim loại lên khỏi đống hàng hóa bừa bãi trên sạp, hỏi: “Đây là cái gì vậy? Phần trên này không phải đầu lâu đúng không, là… ký hiệu con bọ cạp hả?”

“Không, không, không…” Anh chàng người Tạng bán đồ nghe hiểu xong, vội vàng nói: “Đây không phải bọ cạp, đây là sói… há cái miệng to…” Sợ Merkin không hiểu, anh chàng còn ngửa mặt lên trời bắt chước kiểu sói tru, rồi lại nói: “Há cái miệng to…” Hai tay anh ta giơ lên thành hình tượng sói há miệng, rồi lại bảo Merkin thò ngón tay vào trong cái miệng sói kia, bên trong quả nhiên có một hàng gai nhỏ, có điều đã mòn gần hết rồi; “Răng sói, răng soi…” anh chàng bán hàng người Tạng cứ lặp đi lặp lại.

“Sói!” Merkin dường như bị thứ gì đó làm cho xúc động, không hỏi bao nhiêu tiền, mà lại hỏi: “Thứ này ở đâu ra vậy?”

Anh chàng người Tạng bán đồ nghe Merkin hỏi vậy, cho là y muốn mua, vội vàng giới thiệu: “Cái vòng tay này là đồ tốt đó nha, cũng cổ ra phết đấy, ông xem này, thủ công…”

Merkin chụp lấy cổ áo tròn của anh ta, gằn giọng hỏi: “Tao không nói thủ công thủ kiếc gì cả, tao hỏi mày cái này ở đâu ra?”

Hành động này lập tức làm đám người Tạng quanh đó nổi giận, đã có mấy người Tạng bán hàng gần đó đứng lên quát hỏi. Anh chàng kia vội dùng tiếng Tạng giải thích với mấy người buôn bán vài câu, mới làm cơn giạn của họ lắng xuống. Xong xuôi, anh ta làm bộ thần bí nói với Merkin: “Thứ này, nghe đâu là La Trát lấy được trên người một gã thần kinh không bình thường người Khang Ba, đương nhiên tôi cũng không được rõ lắm, nhưng mà đây chắc chắn là đồ tốt, ông xem…”

Nhìn Merkin trầm ngâm suy tư điều gì đó, Soares “hừ” khẽ một tiếng, đột nhiên rút tấm bản đồ da trong tay Merkin lại, quay đầu bỏ đi, nói vọng lại: “Xem ra, chúng ta vẫn chưa thể tin tưởng lẫn nhau được rồi, rốt cuộc anh còn bao nhiêu chuyện chưa nói với tôi nữa?”

Merkin vội thanh minh: “Chuyện này thực sự là do tôi không nghĩ tới. Ngoài những điều tôi biết, cũng đều đã nói cho anh cả rồi. Phái Mật tông ấy tiêu vong từ rất sớm. Theo tôi biết thì từ trước khi Thổ Phồn bị diệt vong nó đã biến mất rồi. Thông tin tôi điều tra được chẳng qua chỉ là những thứ vụn vặt liên quan tới tông phái ấy mà thôi. Chuyện này, chúng ta cần phải hợp tác điều tra… Này! Anh đi đâu đấy?”

Soares đáp: “Tôi đi nhận diện khuôn mặt! Nhất định phải tra ra lai lịch tên tóc bạch kim. Thằng đó thật sự rất đáng nghi!”

Merkin hỏi: “Anh dựa vào gì mà khẳng định vậy?”

Soares lắc đầu: “Tới lúc ấy anh sẽ tự biết. Này, chúng ta đã hợp tác nhiều năm nay rồi, tôi nhắc anh một lần nữa, đừng hy vọng quá nhiều vào đám người ấy, bọn chúng không thể thành công được đâu, tự chúng ta làm đi.”

Merkin nhìn theo bóng lưng Soares, lẩm bẩm nói: “Anh không hiểu được đâu.” Y đưa tay nắm cổ áo mình, bên trong, dường như có thứ gì đó. Max nhắc nhỏ: “Ông chủ, Soares đã đi rồi, chúng ta cũng lên đường thôi.”

Merkin gật gật đầu, đột nhiên điện thoại di động đổ chuông, y mở máy, mới nghe một câu đã lớn tiếng quát: “Nói cái gì hả!” Sau khi gác máy, y còn ngây ra một lúc lâu. Max thấy ông chủ của hắn cứ nhìn chằm chằm theo hướng Soares biến mất, thầm đoán thâm tư của Merkin: “Ông chủ, thằng cha Soares ấy thật cứng đầu cứng cổ, tôi thấy, cho hắn nếm mùi…”

Hắn còn chưa dứt lời, Merkin đã tát cho một bạt tai nổ đom đóm mắt: “Mày là cái thằng ngu xuẩn! Loại người như mày, thành công chẳng thấy đâu, mà thất bại thì liên tiếp!” Nói xong liền quay đầu bỏ đi thẳng, bên tai vang lên tiếng người nói trong điện thoại lúc nãy: “Ông Merkin, thật vô cùng xin lỗi khi phải thông báo với ông, người Trung Quốc mắc bệnh thần kinh ấy, đã qua đời lúc năm giờ ba muwoi phút sáng nay, nhờ ông thông báo với người nhà của anh ta đến xử lý mai táng.” Merkin thầm nhủ: “Nếu mình học được tiếng Tạng cổ sớm hơn một chút, biết đâu có thể biết được điều gì đó từ miệng tên điên ấy, bây giờ… có điều bỏ đi vậy, dù sao trong tay ta cũng còn một tên điên khác, hừ!”

Không dưng bị Merkin cho một bạt tai, Max ôm mặt quỳ dưới đất, cho tới khi bóng dáng Merkin khuất hẳn, trong mắt hắn mới lóe lên một tia hằn học, nhủ thầm trong bụng: “Nếu Soares và Merkin quyết chiến với nhau, không hiểu kết quả sẽ thế nào?” Suy nghĩ miên man, hắn không khỏi bật cười.

Tổng kết

Tình hình còn tốt hơn cả mong đợi. Không ngờ Trương Lập và Nhạc Dương đã đến Saint Mary trước cả bọn Trác Mộc Cường Ba. Ngải Lực Khắc còn sớm hơn nữa. Chỉ có Ba Tang chưa thấy đâu. Tình cảnh của Trương Lập và Nhạc Dương tương đối tệ hại. Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba gặp lại hai anh chàng này trong bệnh viện của tổ chức Chữ Thập Đỏ. Sinh ly tử biệt, ba người ôm chặt lấy nhau cảm thán không thôi. Trương Lập và Nhạc Dương đều xúc động đến rơi nước mắt. Trong rừng sâu, hai người đã nếm đủ mọi điều khổ sở, may mà có Sean giúp đỡ, nhưng Nhạc Dương cũng vẫn bị một loài muỗi không biết tên trong rừng Mãng Xà đốt phải, sau đó cứ sốt cao mãi không dứt. Trương Lập phai không ngừng nói vào tai anh chàng: Babatou, cô Babatou, cô Babatou đang đợi cậu kìa, phải cố lên!” Cứ nói như vậy cả ngàn lần, cuối cùng mới kéo được Nhạc Dương ở chỗ thần Chết trở về. Rồi ba người vì phải chạy liên tục cuối cùng cơ thể đều không chịu nổi, cộng với việc thiếu dinh dưỡng nhiều ngày, kiệt sức ngã lăn ra. Nghe các bác sĩ nói, trong ngày đầu tiên nhập viện, Trương Lập cứ gào mãi cái tên “Babatou”, làm họ đoán là cô Babatou gì đó nợ tiền của anh chàng.

Còn rốt cuộc làm thế nào họ ra khỏi rừng rậm được thì cả Trương Lập và Nhạc Dương đều ấp úng không chịu nói, nghe đâu vì muốn bịt miệng ai đấy lại. Còn thể lực của Sean thì phục hồi rất nhanh, chỉ ở bệnh viện theo dõi một ngày là đi luôn, trước khi đi không ngờ cũng không chào hỏi ai tiếng nào, làm Trương Lập và Nhạc Dương đều lấy làm áy náy không yên.

Lưu lạc hơn nửa tháng trong rừng nguyên sinh Nam Mỹ, mình mẩy đầy thương tích, cuối cùng đọi ngũ được huấn luyện đặc biệt này cũng trở về với tổ quốc. Lại được hít thở làn gió thanh tân mát mẻ, cảm giác tựa hồ được trở về cõi tiên, theo yêu cầu gần như là hà khắc của Lữ Cánh Nam, tất cả thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt đều phải tiến hành tổng kết kinh nghiệm về thất bại lần này. Lữ Cánh Nam đứng trên bục giảng, trông thật giống một cô giáo dạy tiểu học hung ác, khoa trương vung cánh tay lên nói: “Trước khi xuất phát, có ai đó từng nói với tôi… anh ta nói, anh ta cho rằng huấn luyện như vậy đã đủ rồi, giờ anh ta đã mạnh lắm rồi, cảm giác như chưa bao giờ mạnh đến thế, có thể chiến thắng bất cứ khảo ngiệm khó khăn nào, có thể đi tới bất cứ vùng đất chết chóc nguy hiểm nào. Tôi đã đáp ứng người đó, chỉ cần anh ta hoàn thành nội dung huấn luyện trong thời gian quy định, chúng ta sẽ lập đội lên đường, tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Kết quả… kết quả thế nào chứ!” Ánh mắt cô trở nên sắc bén ghê gớm. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh mặt sang một bên, cố ý không nhìn nét mặt đối phương.

Lữ Cánh Nam lại không chịu bỏ qua cho gã, hỏi thẳng vào mặt gã: “Cường Ba thiếu gia, anh nói trước đi, cảm tưởng của anh về lần huấn luyện này thế nào?”

“Tôi thì có cảm tưởng gì chứ!” Trác Mộc Cường Ba nhảy dựng lên, hét lớn, “Suýt chút nữa thì chúng tôi chết sạch trong rừng, câu trả lời như vậy cô đã hài lòng chưa! Không sai! Chúng tôi không thể vượt qua lần huấn luyện này! Vậy thì sao chứ! Bị quân du kích truy đuổi, bọn động vật bình thường một con cũng khó gặp, thường xuyên tập trung thành cả quân đoàn lớn cho chúng tôi tham quan! Sấm sét, nước lũ! Còn ngôi mộ kia thì càng không cần nói nữa, nói xong rồi chỉ sợ cô không dám tin thôi! Cô nói đi, cô nói đi! Thế có thể coi là huấn luyện được không? Cho dù đi đánh trận, cũng không đến nỗi phải đối mặt với hoàn cảnh hung hiểm như vậy đâu!” Nói hết một tràng, gã đứng chống nạnh mà thở hồng hộc.

Lữ Cánh Nam cũng không tranh cãi với gã, chỉ mỉm cười nói: “Ôi cha, không hoàn thành nhiệm vụ mà còn lý lẽ hùng hồn nhỉ, hiệu quả huấn luyện đâu tôi vẫn chưa thấy, nhưng tính khí thì ghê gớm thấy rõ đó.”

Lữ Cánh Nam không tranh luận với gã, Trác Mộc Cường Ba cũng không tiện nổi cáu nữa, bực tức đáp trả một câu: “Tình huống lúc đó cô không hiểu, đổi lại là cô thì cũng không thể hoàn thành được!” Không ngờ, câu này vừa thốt lên, Trương Lập, Nhạc Dương và cả nhóm người tổ giáo sư Phương Tân, tất cả mặt mày biến sắc, bộ dạng đều như muốn nói: “Hỏng bét, Cường Ba thiếu gia sắp gặp họa rồi.”

Quả nhiên, gương mặt mới rồi còn rạng rỡ như tắm trong làn gió xuân, thoắt cái đã như phủ một lớp băng lạnh lẽo, Lữ Cánh Nam lạnh lùng hỏi: “Vậy sao? Sao anh biết tôi không đi chứ!”

Trác Mộc Cường Ba đờ người, vẫn còn cứng đầu cứng cổ không chịu thua, nhìn những người xung quanh, thấy ai nấy đều cúi gằm mặt xuống, xem ra Lữ Cánh Nam không hề nói dối. Lữ Cánh Nam nói: “Bởi vì tôi cảm thấy băng qua cánh rừng đó có lẽ vẫn còn hơi khó đối với mấy người, nên đã quyết định tự mình đi thử trước một lần. Tôi mang theo một con dao săn cá mập, tốn mất bảy ngày, đã hoàn thành quãng đường ấy. Vốn tưởng rằng với năng lực hiện tại của các người, chắc là có thể hoàn thành được nhiệm vụ, thật không ngờ… Biểu hiện của mọi người làm tôi quá thất vọng! Sao hả, anh không tin? Tôi xuất phát muộn hơn các người hai ngày, đến ngày thứ ba đã đuổi kịp tổ của giáo sư Phương Tân, không tin thì cứ hỏi.”

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh lại phía giáo sư Phương Tân, chỉ trợn tròn đôi mắt lên, ngây ngây hỏi: “Không mang theo thứ gì?”

Giáo sư Phương Tân cúi gằm mặt xuống: “Không mang theo thứ gì, cả đồ ăn, lều bạt, cả nước cũng không có.”

Lữ Cánh Nam lại nói: “Khi các người không thể đến đích đúng thời hạn, không kịp chờ chi viện tới, tôi đành phải một mình quay trở lại tìm kiếm các người. Tìm mất hai ngày trong rừng Mãng Xà mới thấy hai tên chỉ còn thoi hơi thở! Để tìm kiếm rồi cứu chúng ra, tôi đã giết hơn trăm con trăn Nam Mỹ, chỉ sợ đã giết sạch cả giống loài nhà chúng mất rồi!”

Trác Mộc Cường Ba cả kinh, chẳng trách hai tên phản đồ ấy cứ lắp ba lắp bắp không chịu nói rõ chuyện gì, “để bịt miệng ai đó”, thì ra chính là để bịt miệng gã lại. Gã hoảng hốt bất an quay đầu lại, dùng đôi mắt kinh khủng ấy nói với Nhạc Dương: “Con mụ này không phải là người!” Nhạc Dương rụt rè làm ra vẻ không biết phải làm gì hơn… “Đã bảo là giáo quan ma quỷ rồi, vậy mà anh vẫn không tin!”

“Bình,” Lữ Cánh Nam vỗ mạnh xuống bàn, chén trà nhảy tung lên, Trác Mộc Cường Ba cũng giật mình đánh thót, suýt chút nữa thì đá đổ cả ghế. Lại nghe Lữ Cánh Nam nghiêm giọng nói: “Theo tôi được biết, lần hành động này có một nhóm, khi học tập nghiên cứu, chỉ chăm chăm vào phạm vi nhỏ hẹp, nhãn quang thấp kém, hơn nữa khi xuất phát còn nôn nóng mạo hiểm, không hề có tinh thần hợp tác đồng đội, cũng thiếu cả kế hoạch khảo sát một cách khoa học, bao nhiêu công lao huấn luyện hơn nửa năm nay đều uổng phí hết cả rồi còn gì!” Kế đó lại vỗ bàn đánh “rầm” cái nữa, Trác Mộc Cường Ba lại giật thót mình, khó khăn ngoảnh đầu lại nhìn lạt ma Á La, ánh mắt thảm thương vô cùng: “Đại sư, ngài bán đứng tôi!” Nét mặt lạt ma Á La thờ ơ hờ hững, liếc nhìn Lữ Cánh Nam một cái, không nói không rằng biểu thị: “Tôi cũng chẳng còn cách nào khác cả.”

Chỉ nghe Lữ Cánh Nam tiếp tục: “Cũng may tôi không phải là tổng chỉ huy hành động lần này, bằng không, tôi tuyệt đối không cho phép trong nhóm của mình một đám người vô dụng như thế! Nguyên nhân thất bại của hành động, cùng những điểm các người tự cảm thấy mình còn chưa đủ, tất cả viết hết ra bản kiểm điểm cho tôi, ai cũng phải viết, tôi cảnh cáo trước, không được chép bài của nhau, không được trao đổi, nếu không… phạt chép một vạn lần! Đặc biệt là… các anh!” Lữ Cánh Nam chỉ thẳng vào mặt Trác Mộc Cường Ba, cũng may là còn thêm vào một chữ “các”.

Mồ hôi Trác Mộc Cường Ba vã ra như tắm.Từ sau khi tốt nghiệp tiểu học, gã đã không còn bị ai chỉ vào mặt mắng chửi như vậy nữa. Trong phút chốc, cả gian phòng trở nên tĩnh lặng, chỉ nghe tiếng bút soạt soạt, già có trẻ có, mọi người đều ngồi thẳng đờ, bút ngoáy không ngừng, cảnh tượng hệt như trong một kỳ thi đại học vậy.

Mười phút sau, Lữ Cánh Nam uống hết chén trà, đứng lên lạnh lùng nói: “Tôi ở phòng làm việc, viết xong thì mang tới đó. Nhớ cho kỹ, trong nhóm các người có một người phụ trách giám sát toàn bộ quá trình viết kiểm điểm này, nếu muốn thì thầm bán tán thì cứ tự tiện, đến lúc ấy chớ có trách tôi không nể mặt.” Lúc ra đến cửa, cô nàng lại buông thêm một câu: “Còn nữa, chưa viết xong thì không được ra ngoài, bằng không…”

Sau khi Lữ Cánh Nam đi khỏi, căn phòng rất giống với lớp học này lại càng trở nên yên tĩnh, người trong phòng thỉnh thoảng lại trao đổi bằng ánh mắt, nhưng không ai dám lên tiếng nói chuyện, mặc dù đều biết có lẽ giáo quan nói vậy chỉ để dọa nạt họ mà thôi, nhưng ai có thể đảm bảo được điều ấy chứ?

Trác Mộc Cường Ba dần trở nên bình tĩnh, trong lòng lấy làm uất ức: “Thật vô lý, một cô con gái bé tẹo như vậy, sao có thể cầm một con dao mà băng qua khu rừng ấy được chứ, vậy chẳng phải là còn lợi hai hơn cả lạt ma Á La hay sao? Bà chằn này rốt cuộc lai lịch thế nào nhỉ!” Gã viết bậy mấy chữ lên giấy, rồi lại nghĩ: “Có điều nói đi cũng phải nói lại, lần hành động này đúng là đã làm lộ ra rất nhiều điểm thiếu sót. Không tìm hiểu kỹ lưỡng đầy đủ về văn hóa và phong thổ nhân tình khu vực xung quanh Nam Mỹ, cái này coi như sơ ý đi, còn về động vật tiền sử, chuyện này hoàn toàn nằm ngoài sự tưởng tượng của mình, nếu gặp phải một loài động vật mà mình không có chút hiểu biết nào về nó, vậy thì biết làm sao bây giờ? Tạm thời không nói động vật tiền sử, chỉ riêng đám động vật đã tìm hiểu rồi, như trăn Nam Mỹ ấy, rõ là mình đã nghiên cứu thói quen tập tính và đặc điểm sinh lý của chúng, vậy thì sao chứ, khi gặp phải trăn Nam Mỹ ấy, đừng nói là nghĩ cách khống chế nó, đến cả dũng khí để bỏ chạy cũng chẳng còn nữa rồi. Ôi, dữ liệu tra được trên máy tính và tình hình thực tế đúng là hai chuyện hoàn toàn khác nhau! Lại còn cả các mật mã, ý nghĩa tượng hình kia nữa, về mặt này có thể nói là mình hoàn toàn không hiểu gì, cả cơ quan bẫy rập trong địa cung nữa, đấy lại càng là lĩnh vực trống, cả thời tiết tự nhiên… Chà, tại sao không hề giống như mới đầu mình nghĩ, sao còn nhiều chuyện mình chưa nắm bắt được thế nhỉ?”

Trác Mộc Cường Ba một lúc phát hiện ra mình có quá nhiều khuyết điểm, ngược lại thành ra không thể hạ bút. Đợt huấn luyện này có rất nhiều điểm mà gã vắt óc nghĩ mãi cũng không sao hiểu nổi, chẳng hạn như việc bị quân du kích truy sát, chính xác! Vô duyên vô cớ bị truy sát, điểm này con mụ chằn tinh Lữ Cánh Nam kia phải giải thích thế nào đây! Còn cả lạt ma Á La nữa, đối phó cạm bẫy là nội dung của giai đoạn cuối cùng, thực tế họ chưa từng được dạy qua, tại sao lạt ma Á La lại biết nhiều như thế! Người Kukuer và người Tạng có những tập tục giống nhau đến lạ thường, chiến ngao không sủa, suy luận của Nhạc Dương… Đột nhiên, Trác Mộc Cường Ba đem tất cả liên hệ lại với nhau, mặc dù gã cũng cảm thấy không thể nào tin nổi, nhưng ngoài cách giải thích ấy ra, dường như rất khó đưa ra phương pháp lý giải nào khác nữa. Nơi đó, và Tây Tạng, và cả Bạc Ba La thần miếu nữa, lẽ nào thực sự có quan hệ gì với nhau? Thật đúng như những gì Nhạc Dương nói? Chuyện này thật quá khó tin, rốt cuộc là liên hệ với nhau thế nào đây? Đúng, nhất định họ còn giấu mình chuyện gì đó! Điểm này là chắc chắn rồi! Trác Mộc Cường Ba càng nghĩ càng thấy tức, Trương Lập ngồi đằng xa nhướng mắt lên nhìn, chỉ chỉ vào bản kiểm điểm của mình, rồi lại trợn mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, ý bảo tôi đã viết được ngần này rồi, sao anh vẫn để giấy trắng thế Cường Ba thiếu gia. Trác Mộc Cường Ba phẫn nộ đứng phắt lên, thầm nhủ: “Sao mình phải viết kiểm điểm chứ. Hừ, cô ta không giải thích rõ ràng, mình sẽ cãi vụ này đến cùng.”

Trác Mộc Cường Ba ôm một bụng bất bình, đẩy bật cánh cửa phòng làm việc của Lữ Cánh Nam ra.

Lữ Cánh Nam thấy hai tay Trác Mộc Cường Ba trống không, nét mặt bừng bừng nộ khí, bèn hỏi: “Có chuyện gì? Có chuyện thì vào rồi nói, đóng cửa lại.”

Trác Mộc Cường Ba đóng sầm cửa lại, bước tới trước mặt Lữ Cánh Nam nói: “Giáo quan, vừa nãy cô nói chuyện rất lớn tiếng, hỏi những câu tôi không trả lời được, nhưng bây giờ, tôi cũng có mấy câu muốn hỏi cô đây!”

Lữ Cánh Nam khảng khái gật đầu: “Anh cứ nói.”

Trác Mộc Cường Ba chống tay xuống bàn làm việc: “Lần huấn luyện băng rừng nguyên sinh này, không đơn giản chỉ là huấn luyện thôi có đúng không? Cô còn chuyện gì đó vẫn giấu chúng tôi chưa nói ra, có đúng không?”

Lữ Cánh Nam chẳng tỏ thái độ gì, chỉ nói: “Tại sao lại nói vậy?”

Trác Mộc Cường Ba đáp ngay: “Chẳng lẽ giáo quan không còn nhớ gì nữa? Nhưng tôi thì chưa quên đâu, lúc đích đến của hành động lần này vừa mới quyết định xong, cô đã nói với chúng tôi thế nào chứ, sợ rằng đối thủ cạnh tranh của chúng tôi đã đi trước một bước? Bọn chúng đi trước một bước làm cái gì chứ? Tôi nhớ lúc ấy giáo quan cũng không cho chúng tôi câu trả lời thì phải. Kết quả, nhóm chúng tôi vừa bắt đầu thì đã bị quân du kích truy đuổi, cản trở, sau đó mới biết có người tung tin đồn bảo chúng tôi biết lối vào Thành phố Vàng, rõ ràng là để cầm chân chúng tôi lại, hoặc là không để chúng tôi băng qua khu rừng ấy. Ở đó có gì chứ? Cô không hề nhắc đến một chút nào!” Trác Mộc Cường Ba giơ ngón tay lên trước mặt, lắc lắc đầu, “Tôi nghĩ mãi mà không hiểu rốt cuộc đây là chuyện gì, cho tới khi tôi gặp lạt ma Á La!”

“Lạt ma Á La!” Trong mắt LC ánh lên thần tình hoảng hốt. Trác Mộc Cường Ba biết ngay là mình đã đoán đúng, liền tiếp tục tấn công: “Hừ, không sai, là lạt ma Á La. Khi tôi gặp ông ấy, ông ấy không hề hoang mang hoảng loạn chỉ muốn tìm lối ra như bọn chúng tôi, cũng không nôn nóng ra khỏi khu rừng ấy, tôi rõ ràng là ông ấy đang… đang tìm một… thứ… gì đó…” Trác Mộc Cường Ba cố ý kéo dài mấy chữ cuối cùng ra hòng tăng áp lực cho Lữ Cánh Nam, “Bạch thành… đúng không! Địa cung ** Puch! Đúng không! Các người đã sớm biết đến nơi ấy rồi, đúng không!” Thực ra, Trác Mộc Cường Ba cũng chỉ vừa mới lóe lên ý nghĩ này trong đầu, đột nhiên nghĩ tới, những gã lại cố ý càng lúc càng lớn tiếng hơn, tựa hồ như đã biết hết mọi chuyện từ trước rồi vậy. Gã gần như gí sát đầu mình vào đầu Lữ Cánh Nam hỏi tiếp: “Bên trong rốt cuộc là có thứ gì? Mặc dù cuối cùng lạt ma Á La không tìm được gì hết, nhưng tại sao ông ấy lại quen thuộc các cơ quan cạm bẫy, cách bố cục trong kim tự tháp như vậy? Ông ấy đã nghiên cứu về nơi đó, đây không phải là chuyện ngày một ngày hai nữa rồi, tôi nói không sai chứ? Không ngại đường xa ngàn dặm bảo chúng tôi đến chỗ ấy, rốt cuộc là muốn bọn tôi làm gì? Mục đích của các người, có phải là lợi dụng danh nghĩa huấn luyện đặc biệt, thực ra là để chúng tôi làm mồi câu, thu hút sự chú ý của quân du kích hay không? Có phải chính các người đã phao tin đồn hay không?”

Lữ Cánh Nam hoảng hốt nói: “Không! Không phải như vậy. Không phải như vậy.” Khí thế của cô nàng đã không còn cứng rắn như lúc nãy nữa.

Trác Mộc Cường Ba tiếp tục tăng thêm áp lực cho đối phương, vừa tiến lại gần vừa nói: “Giờ thì coi như tôi hiểu rồi, chúng tôi chỉ là con cờ trong tay các người, là công cụ của các người, huấn luyện đặc biệt cái gì chứ, tất cả đều là giả dối hết! Các người chẳng qua lấy danh nghĩa khảo sát khoa học, ra nước ngoài trộm mộ thôi!” Từ lâu gã đi nghi ngờ lạt ma Á La là thành viên của một tổ chức trộm mộ, giờ thì cả Lữ Cánh Nam cũng rơi vào diện nghi vấn của gã nốt.

Tội danh này quá lớn, cả Lữ Cánh Nam cũng nổi giận, đập bàn đứng dậy quát: “Anh nói bậy cái gì đấy! Anh chẳng biết cái quái gì hết!”

Trác Mộc Cường Ba thì ngược lại, thái độ rất đỗi ung dung, gã thong thả ngồi xuống, vẫy tay nói: “Được rồi, cô biết, vậy cô nói đi, nói cho tôi biết những chuyện này là thế nào.”

Lữ Cánh Nam có chút hoảng loạn, cô cũng không ngờ lại bị Trác Mộc Cường Ba ép tới nước này. Cô nhanh chóng điều chỉnh lại tâm thái của mình, trấn tĩnh trở lại, ngồi xuống đối diện với Trác Mộc Cường Ba, dáng vẻ trầm tư một lúc lâu mới nói: “Tôi đã bảo rồi, nếu các anh có thể vượt qua khảo hạch giữa kỳ này, tôi sẽ giao số tư liệu được các chuyên gia nghiên cứu tìm ra cho các anh xem, có điều, các anh đâu có hoàn thành lần khảo hạch lần này, không đúng sao?”

“Cô…” Vốn ngỡ rằng Lữ Cánh Nam ít nhiều lộ ra chút gì đó, không ngờ cô nàng này lại đột nhiên đổi giọng, chặn ngược trở lại, Trác Mộc Cường Ba ấn tay xuống mặt bàn, trợn mắt lên, tựa như muốn lập tức đứng phắt dậy bỏ đi, có điều rốt cuộc gã cũng không đứng lên, cứ ngồi yên như vậy đọ mắt với Lữ Cánh Nam, con ngươi cơ hồ như muốn tóe lửa. Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: “Con mụ gái già này, muốn lấy tôi ra làm trò đùa chắc? Rốt cuộc tôi đã đắc tội gì với cô chứ?”

Lữ Cánh Nam nhìn Trác Mộc Cường Ba, trong lòng cũng đang lấy làm phiền muộn: “Tại sao, tại sao không thể đối đãi với gã đàn ông đáng ghét này như những binh sĩ thông thường chứ! Cường Ba thiếu gia, vì anh nên tôi mới làm vậy, anh chẳng biết gì hết cả…” Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba bình tĩnh lại, dựa vào ghế, chậm rãi nói: “Cô nói như vậy, ý là chuyến đi châu Mỹ này của chúng tôi có liên quan đến các tư liệu mà chuyên gia nghiên cứu tìm ra phải không?”

Lữ Cánh Nam trừng mắt lên lườm gã, vẫn giữ im lặng. Trác Mộc Cường Ba cho rằng cô đã mặc nhiên thừa nhận, trong lòng lại càng thêm nhiều nghi vấn mới. Gã ngồi thẳng người lên, ngạc nhiên hỏi: “Nói vậy thì, cánh rừng mà chúng tôi đã băng qua đó, thực sự có quan hệ với Tây Tạng hay sao? Những hoạt động tế bái tương tự trong các bộ lạc nguyên thủy của đám thổ dân ăn thịt người nữa, đó không phải là ngẫu nhiên? Cô nói đi? Tại sao lại không nói gì?”

Lữ Cánh Nam vùng vằng đáp: “Anh đừng quên, anh đang nói chuyện với sĩ quan chỉ huy đấy, như thế này, thật không xứng đáng làm một binh sĩ đạt chuẩn.”

Trác Mộc Cường Ba liền giễu lại: “Tôi có bao giờ bảo mình là binh sĩ đâu? Tôi đang lấy tư cách nhà đầu tư, nói chuyện với chủ thầu, tôi chỉ muốn biết những gì tôi cần phải biết thôi. Cứ tiếp tục thế này, chỉ sợ tôi chết rồi vẫn không hiểu mình chết thế nào, tại sao lại chết, đã vậy thì cần gì phải hợp tác nữa! Tôi quyết định rồi, tôi muốn chấm dứt hợp tác tại đây!” Phát tiết xong cả khối bất mãn trong lòng, Trác Mộc Cường Ba bình tĩnh đứng lên, gã đã chịu đựng đủ rồi, gã quyết định sẽ dựa vào sức mình đi tìm kiếm Tử Kỳ Lân của gã.

“Đợi đã!” Lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba trông thấy Lữ Cánh Nam cắn môi, đồng thời không dám nhìn thẳng vào ánh mắt của mình, “Trước khi nhận được lệnh của cấp trên, tôi không thể tiết lộ cho anh các nội dung liên quan tới chuyện này, có điều, tôi nghĩ cấp trên sẽ nhanh chóng có câu trả lời thôi. Cá nhân tôi hy vọng anh, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, chớ nên dễ dàng chấm dứt sự hợp tác này như vậy.” Nói đến đoạn cuối, giọng cô nhỏ dần nhỏ dần.

“Đây đã tính là thỏa hiệp chưa?” Trác Mộc Cường Ba mừng thầm trong bụng, thực ra gã vẫn rất quan tâm tới số tư liệu được các chuyên gia của nhà nước thu thập kia. “Vậy thì, tôi nghĩ, ngày mai, ngày mai cô hãy cho tôi một câu trả lời đi.” Trác Mộc Cường Ba nghiêm túc nói, rồi quay người đi ra.

Thỏa hiệp

Đêm dài đằng đẵng, tiết xuân se se lạnh, Trác Mộc Cường Ba không ngủ được đứng khoanh tay trước ngực, ngắm nhìn cảnh đêm phía xa xa. Thoắt cái, gã đã tới đây được gần một năm rồi, núi đá cỏ cây ở đây đều đã vô cùng thân thuộc, huống chi là những đồng đội sớm chiều ở cùng nhau kia.

“Cường Ba thiếu gia, nghe nói, anh đá bà chằn kia rồi hả?” Không hiểu từ lúc nào, Nhạc Dương đã xuất hiện sau lưng Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba ấn đầu anh chàng xuống, đẩy về phía sau: “Thằng khỉ này, khá năm, còn dám đùa cả giáo quan của cậu nữa.”

Nhạc Dương lại nhổm đầu lên, lần này thì làm ra vẻ nghiêm túc một chút nói: “Cường Ba thiếu gia, tôi nghĩ, anh vẫn không nỡ rời khỏi đội của chúng ta đâu, chỉ muốn dằn mặt thượng cấp một phen thôi đúng không?”

Trác Mộc Cường Ba ngước nhìn ra xa, cười cười: “Cậu đến thăm dò tôi à?”

Nhạc Dương cười ha hả: “Nhìn tôi cũng đâu có giống phản đồ chứ? Tôi nói thật đấy, Cường Ba thiếu gia, không phải anh thật sự muốn rời khỏi đây hành động một mình đấy chứ? Tư liệu anh đang có trong tay không phải rất có hạn hay sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng công tác bảo mật của họi hơi bị tốt quá thì phải! Xưa nay tôi làm việc đều tự đặt ra cho mình kế hoạch và chương trình riêng, như vậy tôi mới biết rõ được mình muốn làm gì, và mình đang làm gì. Còn như lúc này… hừ!” Trác Mộc Cường Ba lắc đầu thở dài, nói tiếp: “Có lẽ, tôi thật sự không phải một người lính tốt. Tôi đã quen tự mình nắm bắt vận mệnh của mình, chứ không phải nghe theo sự sắp xếp của vận mệnh, làm chuyện gì cũng nhất định phải có mục tiêu, bằng không vĩnh viễn không thể thành công được. Như bây giờ, cả mục tiêu cũng không có, chỉ bảo chúng ta làm theo yêu cầu, tôi thực không làm được.”

Nhạc Dương nhìn ra xa thở dài một tiếng, chừng giây lát sau mới nói: “Lần này, lãnh đạo cấp trên sẽ thỏa hiệp thôi.”

“Sao cậu biết được?”

“Rất đơn giản, vì nhóm chúng ta từ khi được huấn luyện đến giờ, vẫn chưa từng tham gia thực địa tác chiến lần nào. Tôi nghĩ, một đội ngũ được huấn luyện đặc biệt để ra chiến trường, những tưởng sắp đạt tiêu chuẩn tới nơi, giải tán trong lúc này thật không có lợi đó.” Nhạc Dương cười cười nói.

Trác Mộc Cường Ba nghiêng mặt chăm chú nhìn Nhạc Dương, anh chàng này nói cũng khá có lý. Bất giác gã cũng thở dài: “Hy vọng được như cậu nói.”

Nhạc Dương lập tức nói: “Tôi đã bảo Cường Ba thiếu gia cũng không muốn bỏ cuộc như vậy mà, tư liệu tổ chuyên gia thu thập được vẫn có sức hấp dẫn rất lớn đúng không?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Cậu ấy à, đùng là cái gì cũng không giấu nổi cậu. Phải rồi, tôi lấy làm kỳ quái, tại sao cậu được chọn vào nhóm này? Chỉ là cấp trên sắp xếp thôi hả?”

Nhạc Dương nhún vai đáp: “Bởi vì trong đám lính trinh sát, tôi là người giỏi nhất.”

Trác Mộc Cường Ba bật cười. Nhạc Dương kêu toáng lên: “Đây là ý gì vậy? Chẳng lẽ Cường Ba thiếu gia anh không nhìn ra sự ưu tú của tôi hay sao?”

“Cậu bốc phét vừa vừa thôi…”

“Anh không thể lấy bà chằn đó ra so được, cô ta là giáo quan cơ mà. Được rồi được rồi, tôi sửa lại, trong đám lính trinh sát trẻ, tôi là người giỏi nhất.”

“Ha!”…

Bên kia, trong phòng làm việc của Lữ Cánh Nam, cô đang nôn nóng đi đi lại lại: “Ngài xem, như vậy được không? Á La đại nhân?”

Lạt ma Á La nói: “Cấp trên có phản ứng gì không?”

Lữ Cánh Nam nói: “Về điểm này thì xin Á La đại nhân yên tâm. Mệnh lệnh của cấp trên là, trước khi sĩ quan chỉ huy cao nhất tới đây, tất cả đều do con toàn quyền phụ trách. Năng lực của Nhạc Dương con biết rất rõ, chỉ cần gọt giũa thêm chút nữa là sẽ trở thành một viên ngọc sáng; Trương Lập tuy không phải người ưu tú nhất trong các học sinh của con, song cũng có thể coi là một trong những người đứng đầu, quan trọng nhất là ở bộ đội địa phương họ cũng không phải xuất chúng lắm, biểu hiện tương đối bình thường. Bọn họ cũng không hề biết nguyên nhân mình được lựa chọn, vì vậy đội ngũ lần này tuyệt đối không làm người ngoài hiềm nghi chút nào. Tất cả đều theo yêu cầu của Hội đồng Trưởng lão, tuyệt đối âm thầm hành động.”

Lạt ma Á La nói: “Nhạc Dương khá nguy hiểm đấy. Theo như Cường Ba thiếu gia nói, Nhạc Dương đã suy luận ra hầu hết các nghi vấn trong chuyến đi châu Mỹ này của họ đấy, liệu cậu ta có nghi ngờ nguyên nhân thực sự của việc tham gia nhóm này hay không?”

Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Chắc là không, lúc mới gặp mặt, con đã cố ý làm ra vẻ không quen biết bọn họ, hơn nữa, Nhạc Dương không có thói quen nghi ngờ giáo quan của mình đâu. Cường Ba thiếu gia thì chẳng biết chuyện gì, những người anh ấy tìm tới, giáo sư Phương Tân, cô Đường Mẫn, thậm chí cả anh chàng Ba Tang trong tù kia, cũng đều chẳng biết chút gì. Có lẽ chính vì nguyên nhân này, Cường Ba thiếu gia mới nôn nóng tìm hiểu thêm về Bạc Ba La thần miếu.”

“Ừm, tính cách Cường Ba thiếu gia rất độc lập, cứ tiếp tục giấu giếm thế này cậu ấy sẽ bỏ đi thật đấy, đã đến lúc cho họ biết về các tư liệu lịch sử kia rồi. Đối với Cường Ba thiếu gia, chúng ta cũng nên thay đổi thái đô, cố gắng khiến cậu ấy nghĩ rằng, là cậu ấy tự nỗ lực tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu chứ không phải vì chúng ta mới tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Trong những người này, kẻ duy nhất đáng nghi ngờ chính là anh chàng Ba Tang vừa mới ra tù kia. Có điều, nghe mấy người bọn Cường Ba thiếu gia kể về biểu hiện của Ba Tang trong chuyến đi châu Mỹ vừa rồi, nói không chừng anh ta thật sự có thể cung cấp một số đầu mối đặt biệt cho việc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, có điều Ba Tang lại bị nước lũ cuốn đi mất rồi, không biết có còn sống trở về được hay không nữa. Nếu Ba Tang sống trở về, chúng ta không thể không tăng thêm mối hoài nghi với anh ta, đồng thời, cũng phải lợi dụng anh ta triệt để hơn.”

“Vâng, Á La đại nhân.”

“Còn nữa, Ngải Lực Khắc kia hình như là một nhân vật có thừa, có phải cấp trên phái tới giám sát chúng ta hay không?”

“Không, chỉ là trợ thủ. Anh ấy sẽ đi ngay thôi, nhà nước nói còn có một nhiệm vụ khác cho anh ấy, có điều như vậy, ngược lại còn khiến con lo lắng hơn. Có lẽ, cái nhóm chưa làm nên chuyện gì này sắp phải giải tán đến nơi, vậy mà lúc này Cường Ba thiếu gia lại còn đưa ra những yêu cầu đó nữa.” Lữ Cánh Nam nói với vẻ khó xử.

“Ừm,” lạt ma Á La gật gật đầu: “Giờ còn một việc nữa phải lo lắng, chính là kẻ địch của chúng ta, suốt cả hành trình này, ta đều không cảm nhận được sự tồn tại của bọn chúng, có lẽ đúng là đã qua mặt được đối phương. Nhưng những chuyện bọn Cường Ba thiếu gia gặp phải lại khiến người ta phải nghi ngờ. Cả một khu vực lớn như vậy, chỉ có chừng bảy tám bộ lạc nguyên thủy, đi qua đó, tỷ lệ gặp đám người nguyên thủy ấy không quá một phần ngàn, vậy mà bọn Cường Ba thiếu gia lại gặp phải những hai lần; còn chuyện cả bọn buôn ma túy lẫn quân du kích địa phương đều truy đuổi bọn họ là thế nào? Ta luôn có cảm giác, sự việc này không hề đơn giản như bề ngoài, đằng sau dường như có âm mưu gì đó, nhưng chúng ta lại chẳng nhìn ra chút sơ hở nào, thật là khiến người ta phải lo lắng.”

“Á La đại nhân, liệu chúng ta có quá đa nghi hay không?”

“Không, con không hiểu đâu, kẻ địch của chúng ta hết sức giảo hoạt và nguy hiểm. Từ khi Thánh giáo chúng ta tiếp xúc với bọn chúng, trên phương diện điều tra các đầu mối về Bạc Ba La thần miếu, hai bên đã bị chúng chiếm mất tiên cơ, lần này nói thế nào cũng không để xảy ra bất cứ điều gì sơ sót.”

Lữ Cánh Nam hỏi: “Á La đại nhân, theo ngài thì Merkin có phải một trong số những kẻ ấy hay không?”

Lạt ma Á La lắc đầu: “Không biết, ta cũng không cảm thấy sự tồn tại của hắn. Có lẽ hắn không đi Bạch thành, lần này rời khỏi Trung Quốc trước chỉ là trùng hợp.”

Lữ Cánh Nam nói: “Không biết cái nhìn của đại nhân về hành trình lần này như thế nào?”

Lạt ma Á La thở dài: “Nguồn tin chuẩn xác, chỉ có điều chúng ta đã tới chậm một bước, để kẻ khác nhanh chân hơn. Chắc là món đồ trong địa cung ** Puch đã bị trộm đi từ bảy năm trước rồi.”

Lữ Cánh Nam nhíu mày lên nói: “Nếu đúng là sự thật, vậy thì trong tay chúng ít nhất cũng có bản đồ và tòa thành ánh sáng tỏa chiếu rồi. Vậy thì tại sao bọn chúng vẫn cứ chần chừ chưa hành động?”

Lạt ma Á La lắc đầu: “Không biết nữa, có lẽ chúng vẫn chưa phá giải được thông tin ẩn chứa trong tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu cũng nên, dù thế nào thì chúng cũng không có khả năng diễn dịch được thông tin trên bản đồ đâu.” Lạt ma Á La để lộ vẻ mặt nặng nề, lẩm bẩm nói, “Nếu những gì người ở trong rừng Mãng Xà nói là sự thật, vậy thì bọn họ là một nhóm mười ba người. Trước khi đến địa cung ** Puch đã chết mất bốn người, thêm anh ta vào nữa thì là năm, có lẽ còn lại tám người, trong địa cung không thể nào không có người mất mạng, vậy thì rốt cuộc đám người ấy còn bao nhiêu người nữa? Nếu Merkin là một trong số đó, vậy những kẻ khác giờ đang ở đâu?” Cuối cùng, ông thở dài một tiếng: “Đám người này quả là đáng sợ, trên đường tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, bọn chúng đã dẫn trước chúng ta. Đây đúng là một chuyện hết sức gay go, chúng ta không còn thời gian nữa rồi!”

Lữ Cánh Nam đặt tay trái lên vai phải, cúi thấp người xuống: “Đại nhân, xin ngài yên tâm, chúng ta sẽ cố gắng hết sức vượt lên trước bọn chúng, ánh sáng của thần miếu mãi mãi soi đường cho chúng ta. Với sự chỉ dẫn của thần Trí tuệ, chúng ta nhất định sẽ có được ánh sáng.”

Lạt ma Á La nói: “Phải rồi, nghe nói cuối cùng con đã cứu ba người ra khỏi rừng sâu, trong đó có một người tóc bạch kim phải không?”

Lữ Cánh Nam gật đầu: “Vâng, Sean, làm một người Anh.”

Lạt ma Á La nói: “Con thấy người này thế nào?”

Lữ Cánh Nam nghĩ ngợi giây lát rồi đáp: “Khi nhìn thấy anh ta, con có cảm giác người này giống một kẻ lang bạt phóng khoáng tự do, ấn tượng mà anh ta mang tới cho con là, một quý ông người Anh rỗi việc buồn đời, không biết trời cao đất dày tham gia đoàn du lịch tự túc tới rừng nguyên sinh mạo hiểm.”

Lạt ma Á La nói: “Không, con nhầm rồi. Khi nghe Cường Ba thiếu gia kể về con người này, ấn tượng của ta là, kinh nghiệm sống trong rừng nguyên sinh của anh ta cao hơn bọn Cường Ba thiếu gia thật không biết bao nhiêu lần. Người này rất đáng nghi, phải nhận diện khuôn mặt, nhất định phải tra ra lai lịch của anh ta.”

Lữ Cánh Nam băn khoăn: “Làm vậy liệu có hơi quá…”

Lạt ma Á La xua tay nói: “không thể sơ ý, không thể để tình huống nào nằm ngoài dự liệu của chúng ta xảy ra.” Lữ Cánh Nam vội vâng dạ đáp lời. Lạt ma Á La lại ngước mắt nhìn lên bầu trời xanh thẳm, chậm rãi nói tiếp: “không thể sơ suất được nữa, hai mươi năm trước, vì một phút sơ sẩy, đã khiến một cô bé vô tội rơi vào địa ngục. Sai lầm tương tự như vậy, tuyệt đối không thể tái diễn lần nữa.”

Cuối cùng, lạt ma Á La nói: “Vậy thì cứ quyết định vậy đi, ngày mai ta và con sẽ cùng nói cho Cường Ba thiếu gia những tư liệu mà cậu ấy hứng thú. Con phải báo cáo ổn thỏa chuyến đi châu Mỹ này lên thượng cấp, ta cũng mang toàn bộ nội dung của hành động lần này báo cáo với hội đồng Trưởng lão, họa may các vị trưởng lão có thể nhìn ra âm mưu của kẻ địch trong lần hành động này. Hà…”

Sáng sớm hôm sau, Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân tới phòng làm việc của Lữ Cánh Nam. Gã vốn định kéo cả Nhạc Dương, Trương Lập cùng đi cho người đông thế mạnh, như vậy mới gây áp lực được với Lữ Cánh Nam. Trác Mộc Cường Ba nói hai người bọn họ cũng có quyền được biết mình đang chấp hành nhiệm vụ gì, nhưng hai tên nhát gan ấy vừa nghe nhắc tới chuyện kiếm giáo quan đàm phán đã rụt lại, nói thế nào cũng không chịu đi. Còn về Mẫn Mẫn, Trác Mộc Cường Ba vốn không có ý định để cô dính dáng đến chuyện này. Gã cũng tìm tới lạt ma Á La, không ngờ nhà sư già nói mình là người của phía tôn giáo, cũng biết chuyện rồi. Trác Mộc Cường Ba tròn mắt lên nhìn ông một lúc lâu, không thể nào vị sư già này đã biết hết mọi chuyện, gã còn tưởng đâu chỉ có Lữ Cánh Nam với Ngải Lực Khắc là hiểu rõ chuyện này thôi.

Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La đã ở trong văn phòng đợi họ từ trước, chỉ có Ngải Lực Khắc là không thấy đâu.

“Cấp trên đã có câu trả lời chưa?” Trác Mộc Cường Ba vừa bước vào đã mở miệng hỏi ngay.

“Ngồi đi.” Lữ Cánh Nam đưa tay ra hiệu mời ngồi. Bên tay phải của cô đặt hai chồng tư liệu dày cộp. Trác Mộc Cường Ba thấy có hy vọng, thầm nhủ xem ra lần này Nhạc Dương đã đoán trúng rồi.

Đợi hai người ngồi xuống xong xuôi, Lữ Cánh Nam đan chéo mười đầu ngón tay vào nhau, chậm rãi thong thả nói: “Còn nhớ trước khi xuất phát, tôi đã nhắc với anh về Cổ Cách kim thư mới từ hải ngoại mang về hay không?”

“Đương nhiên.”

Lữ Cánh Nam nói: “Tin rằng hai người đều có hiểu biết rất sâu về vương triều Cổ Cách phải không?”

Giáo sư Phương Tân lấy làm lạ nói: “Không hiểu rõ lắm.”

Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên nói: “Tại sao tôi phải hiểu rất rõ chứ? Tôi chỉ biết vương triều ấy ở phía Tây, hình như thuộc khu vực A Lý thì phải?”

“Vậy còn vương triều Tượng Hùng? Nó được kiến lập trước vương triều Cổ Cách, có thể nói là tiền thân của vương triều Cổ Cách.”

“Có nghe nói, nhưng cũng không hiểu biết gì hết.”

Lữ Cánh Nam ngầm liếc mắt nhìn lạt ma Á La, lạt ma Á La cũng lẳng lặng ra ám hiệu ngầm, biểu thị Trác Mộc Cường Ba đích thực không biết gì về chuyện này. Lữ Cánh Nam lại nói tiếp: “Không biết cũng không sao, hai người xem qua các tư liệu này sẽ hiểu thôi. Tôi sẽ nói vắn tắt tầm quan trọng của nó. Sau khi Tán thổ Lăng Đạt Mã chết, chiến tranh diễn ra liên tiếp. Năm 877 sau Công nguyên, vương triều Thổ Phồn diệt vong, đồng thời bị chia cắt thành mấy vương quốc nhỏ. Giai đoạn này đã hoàn toàn bị quên lãng trong lịch sử. Từ sau trở đi, tư liệu có thể tra cứu trong lịch sử chỉ có A Để Hiệp 3 đại sư vào đất Tạng năm 1042 sau Công nguyên, có điều đây cũng không hoàn toàn là tư liệu lịch sử. Trong những vương quốc nhỏ ấy, chỉ có một vương quốc duy nhất có được hòa bình và nhanh chóng hồi phục, rồi tồn tại kéo dài đến mấy trăm năm sau, chính là vương quốc của vương triều Cổ Cách. Bọn họ là con cháu của Lăng Đạt Mã thuộc nhánh của Duy Tùng. Nếu như tình từ Duy Tùng, lịch sử của vương triều này bắt đầu từ năm 842 trước Công nguyên cho tới tận thế kỷ mười bảy, vừa hay bao gồm cả giai đoạn “tịch diệt” kia. Vì vậy, các văn kiện lịch sử của vương triều Cổ Cách có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nghiên cứu giai đoạn lịch sử thất lạc sau khi Lãng Đạt Mã diệt Phật giáo. Trước mắt, các chuyên gia đã có nhận định sơ bộ, số Cổ Cách kim thư này, chính là các văn kiện lịch sử của Cổ Cách đã bị mất tích, nếu được chứng thực, giá trị của chúng sẽ cực kỳ trân quý. Hơn nữa, theo nguồn tin đáng tin cậy của chúng ta, số Cổ Cách kim thư này chính là một trong những đầu mối quan trọng mà năm xưa Stanley phát hiện được ở Tây Tạng. Tóm lại, Cổ Cách kim thư chính là sử liệu đáng tin cậy nhất về giai đoạn Phật diệt, đầu mối mà nó cung cấp cũng là đáng tin cậy nhất. Những vấn đề liên quan đến phương diện lịch sử tôi không rườm rà nhắc lại nữa, ở đây chỉ nhấn mạnh vào một số vấn đề trong Cổ Cách kim thư có liên quan tới châu Mỹ thôi. Thực ra, chuyến đi châu Mỹ lần này của mọi người, cũng liên quan tới số Cổ Cách kim thư vừa mới được mang trở về tổ quốc kia.”

Trác Mộc Cường Ba càng nghe càng thấy mơ hồ khó hiểu: “Chuyến đi châu Mỹ? Liên quan gì đến Cổ Cách kim thư chứ?”

Lữ Cánh Nam nói: “Anh nghe tôi nói hết đã. Theo những tư liệu chúng tôi nắm được, sau giai đoạn diệt Phật, để bảo vệ kinh điển của Phật gia thời đó, những vị cao tăng lánh đời ẩn thế có thể nói đã mang đi số kinh điển hoàn chỉnh nhất và các công nghệ phẩm xa hoa nhất của vương triều Thổ Phồn thời kỳ thịnh vượng. Bọn họ trải qua vô số hiểm nguy, cuối cùng đã tìm được một nơi an toàn. Có lẽ bọn họ cũng biết, không thể để những báu vật nghệ thuật ấy vĩnh viễn chôn vùi ở một nơi không ai hay biết được, rồi sẽ có một ngày, cần phải để cho chúng xuất hiện trở lại dưới ánh mặt trời; hoặc cũng có thể là các vị cao tăng ấy có tranh chấp nội bộ, nảy sinh nghi ngờ đối với quyền sở hữu các vật phẩm trong thần miếu. Tóm lại, mấy chục năm sau khi thần miếu được xây dựng xong, những người đó đã phái sứ giả đi, tổng cộng mang theo ba món đồ, chính là tín vật để chỉ dẫn người đời sau tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Theo những thông tin mà chúng ta nắm được hiện nay, một trong ba thứ đó, chắc là một tấm bản đồ, ghi chép cách vượt qua bóng đêm và nguy hiểm, tìm đến được nơi họ xây dựng thần miếu. Về thứ này, chúng tôi đã từng tổ chức điều tra toàn diện, lát nữa sẽ nói tường tận với anh sau. Một thứ nữa, gọi là tòa thành ánh sáng tỏa chiếu, cụ thể là thứ gì, thì đến giờ chúng tôi cũng chưa làm rõ, thế nhưng, chúng tôi đã tìm thấy trong Cổ Cách kim thư một số vết tích lịch sử liên quan đến món vật này.”

Đây mới là lần thứ hai Trác Mộc Cường Ba tiếp xúc với chuyện liên quan tới Bạc Ba La thần miếu, hoàn toàn không ngờ ngôi miếu này lại có nhiều chuyện đến thế

——————————–

1 Một điểm du lịch nổi tiếng của thành phố Lhasa.

2 Tường biên mã là kiến trúc rất phổ biến trong các chùa miếu Tây Tạng; tên gọi này là do màu đỏ đặc trưng của nó được nhuộm bằng một loại cây bụi, tiếng Tạng gọi là cây biên mã.

3 Atisas (942-1054), nhà Phật học Ấn Độ cổ đại, ông là người có công rất lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo Tây Tạng hồi thế kỷ X sau công nguyên.

Vì vậy nếu nói sinh vật nào có thể sống một ngàn năm, rắn tuyệt đối có thể nằm trong phạm vi tuyển trạch. Theo như tao đoán, bên trong chắc là đang nhốt một con trăn cực lớn, vốn đã tuyệt tích từ lâu, vị đại thần cực kỳ tôn quý, cũng chính là vị thần người Maya sùng bái nhất… thần Kukulkan! Một con trăn khổng lồ có lông vũ…

Cánh cửa cấm kỵ

Trong cỗ quách đá là một quan tài nhỏ, đã bật mất nắp, chứa một bộ xương khô nằm xô lệch lộn xộn, tựa như bị ném vào máy xay xát, mỗi thứ văng một chỗ. Xương mu bàn tay, xương cằm đều bị hư hại vì ngoại lực phá hoại. Xem ra ngọc bích đeo tay và minh châu trong miệng đều đã bị lấy đi, đồ gốm sứ đựng trong quách đá vỡ nát, các thứ bên trong cỗ áo quan cũng mất sạch. Lạt ma Á La chán chường ngồi bên cạnh cỗ quan tài nhỏ, đau lòng gần như muốn khóc: “Hết rồi, chẳng còn gì nữa cả! Lũ trộm mộ đáng chết, bọn chúng đã trộm hết các thứ rồi! Không, chúng có hiểu biết như vậy về huyết trì, không thể là bọn trộm mộ thông thường được, nhất định là bọn chúng, ngoài bọn chúng ra…”

Giáo sư Phương Tânlại đang hưng phấn không sao tả xiết. Máy quay trong tay ông giơ lên không ngừng nghỉ, như sợ bỏ sót mất chỉ một chút thông tin. Ông hiểu rõ, phàm là lăng mộ lớn, chủ nhân đều có để lại văn bia ghi chép các sự tích huy hoàng của mình lúc còn sống ở một nơi nào đấy. Những văn tự này không chỉ có tác dụng cực kỳ quan trọng đối với việc giải đáp nhiều câu hỏi về nền văn minh Maya, mà cao hơn thế nữa, bản thân nó đã là một pho lịch sử giúp hậu thế biết được chủ nhân của thành trì này, nguồn gốc của kim tự tháp này, cùng rất nhiều việc mà người ta không thể nào nghĩ tới. Trên vách đá có rất nhiều chỗ bong tróc, cả phiến đá khắc văn tự cũng đã rơi xuống đất vỡ tan tành. Giáo sư Phương Tân tỉ mỉ ghi hình từng mảnh vỡ một, dự định sau khi trở về sẽ dùng chương trình máy tính phục hồi nguyên trạng.

Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn nắm tay nhau đi quanh, như đang tham quan một viện bảo tàng vậy. Những bức họa tinh xảo như thật, các văn tự cổ xưa bí hiểm, cỗ quách khổng lồ, lẫn nền đá dưới chân, bước mỗi bước ở đây dường như đều là đi trên lịch sử, dưới mỗi dấu chân đều là một di tích từ ngàn xưa. Trên sàn nội sảnh là hai người khổng lồ vẽ theo tư thế đứng thẳng, góc nhìn nghiêng, một nam một nữ, phần đầu bị kéo ra vừa dài vừa dẹt. Người đàn ông gắn trang sức bằng lông chim nhô cao, áo ngắn có đinh mũ ở cầu vai và phiến giáp, trước ngực đeo một sợi dây chuyền xâu bằng ngọc phỉ thúy, ngoài ra còn đeo khuyên tai, vòng tay bằng ngọc, mình quấn da báo, tay cầm pháp trượng. Người đàn bà cũng trang điểm rực rỡ, thần sắc cung kính mà chan chứa tình cảm, dường như đang mỉm cười ngắm nhìn người đàn ông. Người nghệ sĩ đã dùng đường nét lưu loát trôi chảy mà điêu luyện của mình khắc họa nên nét mặt và tâm trạng khác nhau của hai nhân vật: người đàn ông ung dung, trầm tĩnh, uy nghiêm, người đàn bà cẩn trọng, hèn mọn, cung kính, trong ánh mắt cùng toát lên tình yêu sâu sắc. Xem ra đây hẳn là quốc vương tôn quý và ái phi của ông ta. Đường Mẫn nói: “Đúng là một đôi hạnh phúc khiến người ta phải ngưỡng mộ nhỉ.”

Trác Mộc Cường Ba không nỡ phá hoại tưởng tượng lãng mạn của Đường Mẫn, bởi vì trong nội sảnh này chỉ có quan quách của một mình quốc vương, chứ không có của vị ái phi. Không hiểu biết lắm về văn tự và hình vẽ, gã quay sang nhìn cỗ quách đá khổng lồ. Nắp quách bị đập vỡ đôi, hai mặt trên dưới đều có khắc hình. Mặt trên bị đè lên, chỉ có thể nhìn thấy một ít vân hoa bên rìa, trông rất giống với hoa văn rồng của Trung Quốc cổ đại. Mặt dưới chạm khắc những hình ảnh khác của quốc vương, đang ngồi trên một cái mặt nạ khổng lồ, người ngả ra sau, mặt hướng lên trời cầu nguyện, hoặc quỳ gối khom lưng, hai tay một sấp một ngửa, dáng vẻ tựa như đang chìm đắm trong một cảnh giới siêu nhiên nào đấy. Nhìn đến bốn mặt cỗ quách đá, bên ngoài chạm khắc vô số hình tượng, có cây, có chim, có hoa văn, có thú, lại thêm thần minh ẩn hiện, tổng thể vô cùng phức tạp, thể hiện nghệ thuật cao siêu của những nhà điêu khắc Maya cổ đại; bên trong là hình phù điêu chín vị thần, có lẽ là chín vị dạ thần, để vị quốc vương nằm trong có thể thống soái chín vị thần của địa ngục này, nên để cho chín vị vây xung quanh quan tài bên trong.

Cỗ quan tài nhỏ lạt ma Á La đang dựa vào bên ngoài cũng trang trí những hình hết sức tinh xảo, nhưng bên trong tuyệt nhiên không có gì, có lẽ vốn được lót bằng loại vải trơn láng. Trác Mộc Cường Ba thấy lạt ma Á La ngây ngây ngồi cạnh chiếc quan tài, mắt ngước lên trần nhà như đã xuất thần, buộc miệng hỏi: “Sao vậy ạ? Đại sư?”

Lạt ma Á La trầm giọng đáp: “Không có gì, ừm… chắc là mệt quá, để tôi nghỉ ngơi một chút là đỡ ngay.”

Đường Mẫn khẽ nói: “Nhìn bên kia kìa, những bức bích họa ấy…”

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu về phía bức tường dày đặc bích họa. Bức tranh Đường Mẫn chỉ vẽ vô số nô lệ bảo vệ một tảng đá khổng lồ hình vuông, bên cạnh có một thầy tế ăn mặc lòe loẹt đang hành lễ với mấy nô lệ đứng trước mặt. Tảng đá vuông trông rất giống huyết trì. Trác Mộc Cường Ba đã hiểu ra, đây là nghi thức đóng lăng mộ của người Maya. Nhưng giữa bức tranh dường như có những đường vân li ti chia nó thành vô số ô vuông nhỏ, dưới mỗi ô đều có ký hiệu là những chấm đen, ô ba chấm, cũng có ô một chấm, hai chấm. Trác Mộc Cường Ba không hiểu ý nghĩa của các ký hiệu, phỏng đoán có lẽ là dấu hiệu chỉ dẫn dùng để ghép bức tranh tường lớn này. Đúng lúc đó, giáo sư Phương Tân nói với Trác Mộc Cường Ba: “Cường Ba à, cậu cẩn thận nhấc cái nắp này lên, tôi muốn ghi lại các hình khắc, không thể bỏ sót thứ nào được.”

Trác Mộc Cường Ba gồng hết sức lực, bắp thịt gồ lên, chống nửa phiến đá lên cho giáo sư Phương Tân ghi hình. Hình khắc trên nắp quách đá hết sức quái dị, chỉ một nửa thì tạm thời chưa nhìn ra là cái gì, nên phải nhập đủ cả vào ổ dữ liệu máy tính. Giáo sư Phương Tân hầu như đã nhập xong toàn bộ các hình vẽ tranh khắc trong gian nội sảnh này vào máy tính, liền thử ghép chúng lại với nhau. Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn chụm đầu xem. Dần dần, hình dáng cỗ quách đá đã được phục dựng, một nửa có hình con rắn mọc lông vũ quấn quanh, dáng vẻ sống động như thật, nửa còn lại khắc hình vị thần linh Đầu trâu Mặt ngựa. Giáo sư Phương Tân nói: “Không ngờ địa vị lại ngang với cả thần Kukulkan nữa này!”

Vừa lúc đó, lạt ma Á La đang chìm trong ảo não đã dần tỉnh táo trở lại. Ông đứng lên, lẩm bẩm: “Không đúng, sao gian nội sảnh này lại nhỏ như vậy, ở đây không đúng rồi.”

Giáo sư Phương Tân ngẩng đầu: “Ừm, phải đấy, bên kia còn một cánh cửa lớn, tôi cũng không hiểu trong lăng mộ này còn thứ gì nữa, xem ra còn quan trọng hơn cả chính nó nữa.”

Lạt ma Á La vừa vào đây đã xông thẳng tới chỗ quan tài, giáo sư Phương Tân bận rộn ghi hình cả gian đại sảnh, Đường Mẫn từ đầu đến cuối mê mẩn ngắm các tuyệt tác bích họa, còn Trác Mộc Cường Ba thì không hiểu biết lắm về những thứ này, không ai để ý tới cánh cửa bên trong lăng mộ. Nghe giáo sư Phương Tân nhắc, cả bốn người không ai bảo ai bất giác cùng bước tới đo. Chính giữa bức tượng đá gồ lên một cánh cửa tam giác, nhô khỏi tường đến hơn một mét, trông có vẻ rất dày và nặng. Hai bên cửa vẽ chi chít ký hiệu, giữa cửa chạm nổi hình người dắt con quái thú. Về ý nghĩa của những hình ảnh đó, không ngờ cả giáo sư Phương Tân lẫn lạt ma Á La đều không nói gì được. Nhưng lạt ma Á La đã phát hiện ra tấm cửa đá có hai lỗ nhỏ và năm măng đá nhô ra.

Lạt ma Á La nói: “Xem ra phải có chìa khóa mới mở được cánh cửa này rồi, tổng cộng có bảy chìa thì phải.” Trong khoảng khắc, ông liền trở nên hưng phấn: “Bọn trộm mộ không mở được cánh cửa cuối cùng này, vì không đủ chìa khóa, chỉ có năm chiếc, vẫn còn thiếu hai.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn các măng đá hình cánh chim, hỏi: “Đây là chìa khóa hay sao?” Gã cảm thấy năm măng đá này trông hết sức quen mắt.

Lạt ma Á La đáp: “Không sai, đây là chìa khóa mài bằng đá, nhìn dáng của cái lỗ này, chắc là tựa như quả trứng vậy.” Ông thầm nhủ: “Cả chìa khóa cũng giống nhau như vậy, nhất định không thể sai được, tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu nhất định đang ở trong kia.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi…hình như tôi có một chiếc chìa khóa,” rồi vội lấy viên thánh thạch của người Kukuer trong ba lô ra.

“A!” Tâm trạng lạt ma Á La như thể vù một cái từ dưới địa ngục bay thẳng lên thiên đường. Quả là có Đức Phật vạn năng chỉ đường dẫn hướng, chuyện như vậy không thể ngờ cũng xảy ra được. Hai tay ông run run nâng viên thánh thạch lên, nhìn những đường rãnh trên đó, kích động nói: “Đúng rồi, đúng rồi, đây đúng là chìa khóa mở cánh cửa này, đối ứng dấu hiệu trên cánh chim với hình vẽ trên lỗ tròn, chắc là… đây là chìa khóa cuối cùng, cắm vào cái lỗ thứ bảy.” Lạt ma Á La giơ viên thánh thạch lên ngang với lỗ tròn, chỉ nghe “cách” một tiếng, chìa khóa chui khớp vào lỗ. Nhà sư già chầm chậm ấn chìa khóa, nói: “Phải thuận theo đường rãnh mà tra chìa, bằng không sẽ không thể cắm lút vào được, cánh cửa này cũng không thể mở ra.” Sau mấy tiếng “cách cách” liên tiếp, chìa mới hoàn toàn cắm vào lỗ khóa, viên thánh thạch lúc này nhìn chẳng khác gì những chiếc chìa khóa khác, chỉ còn lại một phần nhỏ hình cánh chim bên ngoài. Lạt ma Á La giờ mới bắt đầu vặn chìa khóa, tất cả đều nín thở chăm chú quan sát, chờ đợi nghe cánh cửa đá phát ra những âm thanh khiến người ta khích động.

Chìa khóa vừa xoay, cánh cửa hình tam giác cũng bắt đầu nhích động, không ngờ lại nhô ra ngoài thêm mấy chục centimet nữa. Lạt ma Á La gật đầu nói: “Giờ chỉ còn chiếc chìa khóa cuối cùng nữa thôi.” Nói xong ông đưa mắt nhìn ba người, như thể hy vọng lại có ai đó đột nhiên lên tiếng “tôi có chìa khóa,” nhưng lần này thì không ai trả lời nữa. Bốn người đều lấy làm thất vọng. Đường Mẫn thắc mắc: “Đại sư, bên trong có gì vậy?”

Lạt ma Á La lắc đầu: “Không biết, nhưng cánh cửa này chưa từng được mở ra lần nào, mà bên trong là một không gian rất lớn nữa, không phải vậy sao?”

Đường Mẫn lại hỏi: “Sao ngài biết là cửa này chưa bao giờ mở ra?”

Lạt ma Á La chỉ vào hàng chìa khóa giải thích: “Những chiếc chìa khóa này đều khắc rãnh hoa văn móc ngược, chúng được thiết kế để chỉ có thể sử dụng một lần, một khi đã cắm vào lỗ khóa thì không thể nào rút ra được nữa, vì vậy mới có năm chiếc chìa khóa bị bỏ lại đây, hiểu chưa hả? Có điều cũng phải hỏi lại, Cường Ba thiếu gia, cậu lấy đâu ra chiếc chìa khóa ấy thế?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chuyện này à, nói ra thì dài lắm!” Lúc này, cánh cửa khung xương khổng lồ lại phát ra tiếng động, giáo sư Phương Tân kêu lên: “Cánh cửa kia sắp mở ra rồi, chúng ta mau nấp đi.” Lạt ma Á La dường như chạm vào thứ gì đó trên cánh cửa đá hình tam giác, sau đó mới theo chân ba người nấp vào chỗ tối.

Cánh cửa đá lớn cuối cùng cũng mở ra một khe nhỏ, Soares vội vàng lách người len vào. Vừa vào bên trong, trông thấy nắp đá dựng nghiêng dựa vào quan tài, y lập tức hiểu ra, đã có người vào đây rồi. Song Soares vẫn cứ lẳng lặng đi thẳng tới chỗ cánh cửa đá hình tam giác, đồng thời hết sức cẩn thận quan sát xung quanh, thầm tự nhủ: “Sao lại thế được, chúng vào bằng đường nào chứ nhỉ? Giờ lại nấp đi đâu rồi?”

Đi tới trước cánh cửa đá, cảnh tượng trước mắt gần như làm y quên mọi nguy hiểm xung quanh… trên cửa rõ ràng có cắm sáu chiếc chìa khóa, cũng có nghĩa là, y sẽ trở thành người đầu tiên mở được cánh cửa đá này! Soares không sao kiềm chế nổi mà bật cười thành tiếng: “Ha ha, ha ha ha! Ha ha ha ha…”

Soarese lấy chiếc chìa khóa cuối cùng ra, trước khi cắm vào lỗ khóa, trong đầu y chợt vang lên lời cảnh cáo của người đó: “Những totem và ký hiệu tượng hình này nói cho chúng ta biết, bên trong là nơi trú ngụ của vị thần linh cao quý nhất, ngay cả quốc vương cũng chỉ có thể là kẻ hầu hạ ngủ cùng với Người. Để vị thần vĩ đại này có thể sống thoải mái trong địa cung, bọn họ (tức người Maya) đã chuẩn bị cho thần một lượng thức ăn phong phú, họ gọi đấy là thần Dakanua, tao nghĩ chắc chính là lũ chuột khổng lồ châu Mỹ kia. Chúng mày thử nghĩ xem, sinh vật dùng chuột khổng lồ châu Mỹ làm thức ăn, thể hình phải lớn đến nhường nào chứ?”

Lúc ấy y đã hỏi: “Đã hơn một ngàn năm rồi, chẳng lẽ sinh vật kia vẫn còn sống hay sao?”

Đôi mắt u uất kia quét lướt qua người y, làm y hoảng hốt bất an, chỉ biết cúi gằm mặt xuống lau mồ hôi. Một thoáng sau mới nghe người kia nói: “Ở tổ quốc của tao có một câu ngạn ngữ nói rằng, linh xà ngàn tuổi rùa vạn tuổi. Vì vậy, nếu nói sinh vật nào có thể sống một ngàn năm, rắn tuyệt đối có thể nằm trong phạm vi tuyển trạch. Theo như tao đoán, bên trong chắc là đang nhốt một con trăn cực lớn, vốn đã tuyệt tích từ lâu, vị đại thần cực kỳ tôn quý, cũng chính là vị thần người Maya sùng bái nhất… thần Kukulkan! Một con trăn khổng lồ có lông vũ! Cũng chính vì vậy, lần này chúng ta không thu thập đủ chìa khóa nói không chừng còn là một chuyện may mắn nữa, camera thả từ trên hố hiến tế ở tầng trên đã cho chúng ta thấy bên trong này không có gì hết, thứ duy nhất tồn tại được, chỉ có thể là loại sinh vật đáng sợ ấy thôi. Cánh cửa cấm này, chúng ta đừng mở ra nữa thì hơn.”

Soares chà xát mồ hôi trong lòng bàn tay vào chiếc quần bó, hạ quyết tâm cắm chiếc chìa khóa cuối cùng vào mở cánh cửa cấm kỵ, y thầm nhủ: “Có lẽ đối với những người khác trong đội, cánh cửa cấm kỵ này chỉ đem lại nguy hiểm mà không hề có ích lợi gì, nhưng với ta, loài sinh vật chưa biết tên ấy sẽ thay đổi cuộc đời của ta. Chuyến này ta băng rừng vượt suối tới đây, mục đích cuối cùng chính là để mở cánh cửa này ra. Bất kể lũ chuột hay quân du kích, không kẻ nào có thể ngăn ta được!” Nghĩ đến đây, chiếc chìa khóa đã chuyển động, Soares cảm thấy toàn thân mình ướt đẫm mồ hôi. Bốn người đang nấp trong bóng tối quan sát y cũng vã mồ hôi, ai nấy đều chăm chú mở mắt trừng trừng nhìn cánh cửa hình tam giác. Rốt cuộc sau cánh cửa đó là gì vậy?

Kỳ quái, Soares xoay chìa khóa rồi, nhưng cửa đá không dịch chuyển như lúc lạt ma Á La xoay chìa khóa, mà cũng không có động tĩnh gì, Soares tiếp tục vặn, nhưng chiếc chìa khóa bằng đá không hề nhúc nhích. Nét mặt y lúc này hệt như một bà mẹ vừa lạc mất con, cuống cuồng kiểm tra khắp cánh cửa đá, nhưng hoàn toàn không thể phát hiện ra được điều gì. Y nôn nóng đi đi lại lại trong gian nội sảnh, đột nhiên phát hiện ra lối vào nhỏ kia, liền cả giận gằn giọng nói: “Khốn kiếp, phá hoại huyết trì làm hỏng chuyện tốt của tao!” Nói đoạn, thân hình y đã biến mất trong cửa hang ấy.

Lạt ma Á La nhảy xồ ra, hết sức nhanh nhẹn gạt một cơ quan chỗ góc tường. Cửa hang lập tức đóng chặt lại, ngăn cách Soares và bốn người ở hai phía. Sau đó, lạt ma Á La lại bắt đầu điều chỉnh bên cạnh cánh cửa hình tam giác. Không hiểu ông đã đụng phải chỗ nào, cánh cửa đột nhiên bắt đầu nhích động. Lạt ma Á La thở phào một tiếng: “Được rồi, giờ người kia đã tạm thời cũng không thể trở lại đây. Dựa theo những gì chúng ta đã trải qua, hắn muốn chạy từ chỗ đại sảnh tới cánh cửa lớn, ít nhất cũng phải tốn nửa tiếng đồng hồ.”

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt: “Đại sư, ngài, sao ngài biết ở đây có cơ quan vậy?”

Lạt ma Á La mắt sáng long lanh, không nói gì mà chỉ nhìn xoáy vào cánh cửa đá khổng lồ. Sự chú ý của Trác Mộc Cường Ba cũng nhanh chóng bị cánh cửa hình tam giác đang từ từ mở thu hút.

Soares nấp sau một bức tượng đá, vừa rồi y chỉ giả bộ chui vào đường hầm chứ thực ra đã nhanh nhẹn nấp vào một bên, thầm nhủ: “Giờ thì sáng tối đảo chiều rồi, chuột nhắt vẫn là chuột nhắt, trò như vậy làm sao mà lừa được tao chứ.”

Tưởng chừng như vừa mở ra một lỗ thông gió, tất cả đèn lửa đều lay động bạt về phía cánh cửa đá hình tam giác. Cánh cửa từ từ dịch mở, trái tim bốn người và cả Soares đang ở trong bóng tối quan sát cùng nhảy vọt lên tới tận miệng. Lớp bụi dưới chân cửa bị thổi bay, cả cánh cửa mở tung. Bốn người đứng trước cửa cũng hoàn toàn đờ đẫn, hết sức kinh ngạc nhìn thứ ở bên trong. Dù có là một con khủng long thời tiền sử trong cửa nhao ra, e cũng không thể khiến họ kinh ngạc đến mức ấy.

Bên trong cánh cửa có một người!

Hơn nữa còn là một người châu Á da vàng mắt đen luống cuống nhìn bốn người đang đứng trước cửa, ngây ra một lúc lâu, mới lắp bắp nói: “Ai em, ai em chai ma ri.”

Bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba như nhìn thấy quái vật thời tiền sử, một lúc sau mới hiểu ra, người kia đang nói tiếng Anh, ý là: “Tôi là người Trung Quốc!” liền ngay sau đó là cảm giác chóng mặt choáng váng, đến cả Soares cũng có ý định đập đầu vào tường cho xong. Một cánh cửa ngàn năm nay chưa từng được mở, bên trong không ngờ lại là một người Trung Quốc. Đây chính là thứ bao nhiêu năm nay y tìm kiếm khổ sở đấy hay sao? Soares thật chỉ muốn tìm một miếng đậu phụ đập đầu vào mà tự tử.

Nhưng gian trong cánh cửa nhỏ hơn nội sảnh rất nhiều, ngoài người tự xưng là “chai ma ri” kia thì không có gì nữa. Chừng năm trăm mét không gian hình bán nguyệt có vô số lỗ tròn đường kính trên chục mét đục thông ra, bên trong tối đen như mực, nhưng nhìn có vẻ không phải để chứa đồ đạc, mà ngược lại trông rất giống với hầm chuột chui trong gian đại sảnh “bầu trời sao”.

Trác Mộc Cường Ba cẩn thận quan sát “chai ma ri”, thấy anh ta cao chừng mét bảy, khoảng trên dưới bốn mươi tuổi, đầu cắt theo kiểu Đặng Tiểu Bình, tướng mạo Trung Quốc điển hình không sai vào đâu được, mặt chữ điền, mắt vuông mày rậm, mũi tẹt môi dày, để ria con kiến, nhìn bề ngoài có vẻ trung hậu thật thà, trên người đeo chéo một cái ba lô vải buồm, quần áo rách bươm rách bướp, chân dính đầy bùn, trông cũng khá giống một ông nông dân. Một lúc lâu sau, gã mới lên tiếng trả lời: “Chúng tôi, cũng là người Trung Quốc!”

Người kia vừa nghe thấy thế, không nói nổi một câu đã khuỵu xuống đổ vật vào lòng Trác Mộc Cường Ba như Đường Mẫn vậy, nước mắt đầm đìa nghẹn ngào kêu lên: “Ôi, ôi cha ơi, tôi tưởng mình không bao giờ ra đây được nữa chứ, hức hức…”

Người kia rõ ràng gần như kiệt sức, cần thức ăn và nước. Đã hết thức ăn, Đường Mẫn đành cho anh ta uống một ít nước đường gluco. Bốn người tốn mất một lúc lâu mới biết được, người này tên là Vương Hựu.

Thang treo di động

Roman, serif; 13.5pt; mso-ansi-language: DE” lang=DE>”Đợi chút đã, anh nói cái gì cơ? Nhóm phượt hả? Tôi có nghe nói đến các anh rồi! Hả, trời ơi, anh là thành viên nhóm phượt, có biết người nào tên là Sean không?” Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra anh chàng tóc bạch kim.

Vương Hựu gật đầu: “Sean, quý ông người Anh lịch sự nhã nhặn ấy hả? Ừm, anh ta đúng là có phong độ của quý ông. Tôi cứ nghĩ là anh ta không phù hợp tham gia nhóm phượt này cơ đấy, không ngờ kinh nghiệm của anh chàng ấy cũng phong phú lắm. Các anh cũng gặp họ rồi à? Giờ họ thế nào rồi?”

Lạt ma Á La nói: “Được rồi, bây giờ không phải lúc kể chuyện xưa, làm thế nào mà cậu lại rơi xuống đó được? Bên trong đúng là không có gì hết cả à?”

Vương Hựu vắt óc suy nghĩ rồi đáp: “Lúc ấy, chúng tôi xuống đến tầng thứ ba, tôi đang ở cạnh một miệng hang, đột nhiên thấy choáng váng, giống như cửa hang có gió, bên trong dường như có một sức hút lạ kỳ, chẳng hiểu sao mà tôi lại rơi xuống dưới đó, sau rồi thì không còn biết gì nữa cả. Đợi chút đã, tôi nhớ Ricky có kéo tôi lại, hình như là hai chúng tôi cùng rơi xuống đây, nhưng lúc tỉnh lại tôi đã tìm khắp nơi mà không thấy anh ta đâu. Còn cả Sasaki và Khải Đặc nữa, cũng không biết bọn họ thế nào rồi.”

“Bình”, một con chuột khổng lồ đang húc mạnh vào cửa đá. Vương Hựu kinh ngạc nhìn ra bên ngoài: “Hả, trời đất ơi, đây là cái gì vậy? Động vật gì mà lớn thế?”

Giáo sư Phương Tân nói nhanh: “Có vẻ như bọn chúng đã chú ý tới chúng ta rồi, cần phải nhanh chóng tìm đường lên trên. Tốc độ của chúng rất nhanh, nếu cả ai bên đều bị chặn đường thì chúng ta đúng là không còn hy vọng sống sót nữa đâu.”

Lạt ma Á La dường như vẫn không cam lòng, ông kiểm tra từng miệng hố trong gian đại sảnh sau cánh cửa hình tam giác, rồi thất vọng nói: “Bên trong cánh cửa cuối cùng này lại chẳng có thứ gì hết, sao lại như vậy được nhỉ?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Nhìn cấu tạo bên trong này, trông giống một nơi để hiến tế, dường như người Maya nuôi dưỡng thứ gì đó trong này, và có thể thả đồ ăn từ trên kia xuống. Nhưng nếu bảo là có động vật, bên trong phải có rất nhiều xương cốt hoặc thứ khác nữa mới đúng, nhưng ở đây lại không có gì. Nếu cả lũ trăn Nam Mỹ, chuột khổng lồ cũng đều do họ nuôi thả cả, vậy thì sao phải nuôi nhiều động vật lớn ở tầng này như thế, rốt cuộc là có dụng ý gì vậy nhỉ?”

Đường Mẫn nhìn cửa hầm nhỏ lúc họ đi vào: “Nhưng người vừa nãy cũng đi đường này ra, nếu chúng ta đi ra gặp phải hắn ta thì làm thế nào?”

Lạt ma Á La lắc đầu: “Chắc không đâu, hắn phát hiện ra cửa hầm đã bị bịt lại, sẽ biết ngay chúng ta vẫn còn chưa đi, nhất định sẽ liều mạng mà chạy trở lại đây, đi thôi, để tôi dẫn mọi người tìm đường lên phía trên. Vách tường của các gian đại sảnh ấy rất cổ quái, mọi người không nhận ra à?”

Năm người lại bò ra qua đường hầm nhỏ. Soares bước ra khỏi bóng tối, nhìn những đường hầm tối tăm sau cánh cửa hình tam giác, lẩm bẩm: “Không thể nào, cho dù đã chết rồi thì cũng phải còn lại xương cốt chứ, nhất định ta phải tìm bằng được thần Kukulkan của người Maya.” Nói đoạn y liền bước vào một trong những đường hầm tối om ấy.

Năm người vừa chui ra khỏi đầu bên kia, bỗng nghe thấy tiếng thở hổn hển. Có người đang lớn tiếng quát tháo. Thấy họ hình như không hiểu, người kia liền nhanh chóng chuyển sang tiếng Anh: “Đứng yên, không tao bắn.”

Trác Mộc Cường Ba không khỏi luống cuống, rốt cuộc là tầng này có bao nhiêu tên du kích vậy. Bọn họ xoay người qua, liền trông thấy Gonzales đang cầm súng máy thở phì phò, thân hình trông như trái bóng thịt lắc lư dưới ánh lửa.

“Là mày, mày là thằng người Trung Quốc ấy, Thác Mộc Tượng!” Trác Mộc Cường Ba chưa từng gặp Gonzales lần nào, bị hắn gọi tên thì lấy làm kinh ngạc, liền hỏi: “Sao lại biết tên tôi?”

Gonzales cười gằn, chỉ chỉ nòng súng, nói: “Nói ít thôi, mở ba lô ra!” Hắn đã thấy Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn đeo hai cái ba lô to tướng, chắc mẩm bên trong đựng rất nhiều đồ cổ. Trác Mộc Cường Ba thoáng động tâm, chuẩn bị lợi dụng lúc mở ba lô sẽ khống chế tên du kích này. Ai ngờ ý định vừa nảy ra trong đầu, Gonzales như lập tức nhìn thấu, giương súng lên bắn chỉ thiên một loạt đạn, làm Đường Mẫn và Vương Hựu cùng kêu rú lên, ba người còn lại cũng rụt đầu theo phản xạ tự nhiên. Gonzales nói: “Mày, mày, cả mày nữa, ném ba lô xuống đất, tất cả lùi lại hết cho ta, đừng có mà giở trò trước mặt thằng này.” Cả chiếc ba lô leo núi dẹp lép trên lưng Vương Hựu hắn cũng không chịu bỏ qua.

Trác Mộc Cường Ba không ngờ tên béo này lại ranh mãnh như vậy, song trước họng súng của hắn, ba người đành miễn cưỡng bỏ ba lô xuống đất, sau đó lùi lại phía sau mười mấy bước, đứng dựa lưng vào huyết trì. Gonzales vừa nhìn chằm chằm vào bọn họ, vừa cẩn thận mở ba lô Trác Mộc Cường Ba đeo ra, lục lọi một lúc, thấy bên trong toàn là thiết bị giám trắc không khí, máy giám trắc thủy văn, dây an toàn, đèn chiếu sáng, thì nổi giận bừng bừng nói: “Toàn những thứ vứt đi!”

Y lại hung hăng mở cái ba lô Đường Mẫn đeo ra, kết quả lại càng thất vọng hơn, liền lớn tiếng hỏi: “Tao thấy mấy đứa chúng mày bò ra khỏi miệng hầm đó cơ mà, chúng mày, chúng mày bò bên trong ấy ra, tại sao lại không có thứ gì? Tại sao chúng mày không lấy thứ gì hết?”

Nhìn vẻ mặt Gonzales năm người đều có thể nhận ra tâm trạng lúc này của hắn. Vương Hựu chế giễu: “Bên trong mà có thứ gì chẳng lẽ chúng tôi lại không lấy. Mộ thất trong ấy sớm đã bị người ta vơ vét sạch sẽ rồi, bây giờ ngoài một cỗ quan tài ra, chẳng còn gì sất.”

Trác Mộc Cường Ba định ngăn Vương Hựu, không để anh ta chọc giận tên du kích có vũ khí trong tay này, chẳng ngờ Vương Hựu lên tiếng bất ngờ lại còn nói nhanh nữa. Quả nhiên, sắc mặt Gonzales vụt biến đổi, thoạt đầu lẩm bẩm: “Bên trong không có gì hết? Bị trộm sạch rồi? Hắn lừa tao! Hắn lại dám lừa tao chứ!” Sau đó hắn đanh mặt, cuối cùng giẫm giẫm lên ba lô leo núi của Vương Hựu mấy cái. Cái ba lô xẹp lép ấy không phải mở ra, chỉ cần đụng vào là biết ngay bên trong chẳng có cái gì rồi. Gonzales bỗng dưng phát cuồng, rút dao săn ra đâm loạn xạ vào cái ba lô của Vương Hựu, hét: “Tao phải giết chúng mày! Tao phải giết chúng mày!” đồng thời giương súng lên bắn loạn xạ.

Năm người vội hoảng hốt chạy dạt ra. Trác Mộc Cường Ba chộp được vật gì đó, theo bản năng, ném luôn về phía Gonzales. Té ra là đầu lâu của một tên du kích bị Soares bỏ đi không dùng đến. Cái đầu này do chính tay Gonzales đã cắt. Gonzales nhất thời đầu óc hoảng loạn, đánh rơi cả súng, đang định nhặt lên, nhưng lạt ma Á La đã không cho hắn cơ hội đó, đá bay một khúc xương tới, kế đó phi thân lao vút vào, đá văng thân thể béo ung ủng củng Gonzales. Gonzales lăn lốc mấy vòng, vội lẩn sang một bên ẩn náu. Diện tích đại sảnh này rất lớn, muốn nhanh chóng tìm ra hắn cũng thật không dễ dàng chút nào. Trác Mộc Cường Ba nhấc ba lô lên vai nói: “Chúng ta đi thôi, rời khỏi đây trước đã, chúng ta không có thứ hắn muốn đâu.” Kế đó gã lại lớn tiếng nói, “Này, chúng tôi không có thứ anh muốn, đừng gây phiền phức nữa, chúng tôi chỉ muốn rời khỏi chỗ này cho nhanh thôi!”

Ở phía sau, giáo sư Phương Tân đang lên lớp cho Vương Hựu một bài: “Đáng lẽ anh không nên nói vậy với hắn, lần sau gặp phải chuyện gì, anh đừng lên tiếng nữa, để chúng tôi giải quyết, OK?” Vương Hựu khàn khàn giọng nói: “Tôi biết rồi”.

Lạt ma Á La nói: “Đi thôi, tôi cũng vừa mới nghĩ ra, để tôi dẫn mọi người đi xem các trụ ở vách tường kia có gì lạ.”

Đợi cho năm người đi hẳn, Gonzales mới từ bóng tối bước ra, bất chấp tất cả, hai chân hắn chụm lại, dồn hết sức chui vào đường hầm nhỏ mà lạt ma Á La mở ra.

Năm người do lạt ma Á La dẫn đầu đi tới góc tường. Ở đây toàn là những trụ đá hơi cong cong hướng lên trên mô phỏng xương sườn của con người. Ông vuốt tay lên một trụ đá nói: “Ở đây có khía lõm vào này, có phát hiện ra không, hai bên cột đá đều có khía lõm vào đấy.”

Trác Mộc Cường Ba sờ sờ vào những đường khía: “Như vậy nghĩa là sao?”

Giáo sư Phương Tân chợt kêu lên: “Tôi hiểu rồi, có biết giường gỗ trước đóng thế nào không? Hai mảnh gỗ, ở giữa đục khía, sau đó hai đầu thanh gỗ gá vót thành hình chêm, nhét vào. Nếu chúng ta kiếm được vài thứ đồ vật dài chừng một mét, gác vào trong các rãnh, như vậy, như vậy thì thành một cái thang treo rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng kiếm đâu ra những đồ vật dài một mét ấy bây giờ? Hơn nữa, các trụ đá này đều có thể gá vào được, rốt cuộc ở đâu mới là lối ra đây?”

Lạt ma Á La lắc đầu: “Không, không phải vậy. Trong những rãnh này có chốt gá sẵn, ấn xuống nó lại bật lên, đây là một loại công nghệ khảm đá nổi, giống như ấn một quả bóng da xuống nước ấy, dù đè sâu thế nào nó cũng tự nổi lên. Kỹ thuật này dùng để tạo một loại lẫy di động đơn hướng, để tôi nghĩ xem nên giải thích thế nào với mọi người cho dễ hiểu nào. Đúng rồi, hồi trước trên các đồng hồ cơ, có một kết cấu rãnh chốt, không biết mọi người có biết không.”

Ngoài Đường Mẫn, ba người còn lại đều tỏ ý đã hiểu. Lạt ma Á La nói: “Loại rãnh đá này, hoạt động cùng một nguyên lý với rãnh của đồng hồ cơ, giống như còng tay vậy, có thể ấn vào, nhưng lại không thể rút ngược ra, như vậy, sẽ đảm bảo được phương hướng vận hành đồng nhất cho thang treo gắn trên đó. Nói cách khác, thang treo phía trên của tầng này sẽ tự di động, chứ không đứng yên một chỗ.”

“Tự di động?” Trác Mộc Cường Ba không thể nào hiểu nổi.

Lạt ma Á La đáp: “Những rãnh đá này dường như là đường ray, còn thang treo thì giống như xe lửa, mãi mãi chuyển theo một hướng cậu hiểu chưa?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Còn động lực ở đâu? Có động lực gì đẩy nó tiến lên không?”

“Có chứ.” Lạt ma Á La nói: “Nước xối từ trên tầng đỉnh xuống, chênh lệch chiều cao thẳng đứng lên tới mấy trăm mét, có thể cung cấp đủ động năng, hơn nữa còn vĩnh viễn không bao giờ cạn kiệt.”

Trác Mộc Cường Ba kêu: “Không thể tin nổi, đây đúng là trí tuệ của người cổ đại hay sao?”

Giáo sư Phương Tân chợt lên tiếng: “Nói nhiều như vậy, giờ chúng ta biết tìm chỗ thang treo hiện ra ở đâu bây giờ?”

Lạt ma Á La đáp: “Chú ý ở góc tường, muốn xuất hiện được thang treo, góc tường nhất định phải có khe hở, hơn nữa khe đó còn phải đủ rộng nữa. Thông thường loại thang treo này sẽ đồng bộ với thời gian, tôi nghĩ, chúng ta cứ đi về phía Nam, chắc là sẽ phát hiện thôi.”

Mới đi được chưa bao xa, họ đã phát hiện ra thang treo ở đại sảnh cách huyết trì ba gian về phía Nam. Thang treo toàn là những khúc xương gác vào giữa các trụ đá, quả nhiên đúng như lạt ma Á La nói, đang chầm chậm dịch chuyển lên trên với tốc độ mà mắt thường không dễ gì nhận ra được. Lúc năm người họ tới nơi, phần đáy thang treo đã lộ ra một khoảng trống. Trác Mộc Cường Ba vừa nhìn ra đã lập tức hiểu, lạt ma Á La nói lâu như vậy, thì ra nguyên lý hoạt động của thang treo này giống như băng chuyền, chỉ có điều là từ phương ngang chuyển thành phương thẳng đứng mà thôi.

Lạt ma Á La nằm lấy thang treo, nghiêng đầu nói: “Khi nó người giữ lại, sức nặng của cơ thể sẽ làm cả hệ thống ngừng vận động, sau khi treo lên rồi, thang treo sẽ lại tiếp tục chầm chậm chuyển động. Đây, chính là trí tuệ của người xưa.” Nói đoạn, ông dẫn đầu trèo lên. Giáo sư Phương Tân sợ lạt ma Á La rơi xuống, vội vàng lên theo sau. Đường Mẫn ở giữa. Vương Hựu theo sau. Trác Mộc Cường Ba là người cuối cùng leo lên thang treo.

Lúc lên được chừng hai ba chục mét, trong cái ba lô bị thủng của Vương Hựu rơi ra một vật tròn tròn. Trác Mộc Cường Ba nhanh tay nhanh mắt, một tay bám thang, một tay bắt lấy, đưa mắt nhìn thử, thì ra là một cái gương đồng nhỏ, trông còn rất mới. Gã gọi Vương Hựu: “Này, đồ của anh rơi ra này.” Vương Hựu ngoảnh đầu xuống, đón chiếc gương đồng trong tay Trác Mộc Cường Ba, nhét bừa vào túi áo, khàn khàn giọng nói: “Cám ơn.” Trác Mộc Cường Ba thoáng liếc thấy mặt sau tấm gương đồng hình như có khắc tiếng Tạng, bèn hỏi: “Lấy ở đâu ra thế?”

Vương Hựu đáp: “Ồ, mua trong một chợ đồ thủ công ở Bogata, lúc ấy đã đến giờ xuất phát rồi nên bỏ luôn trong ba lô.” Trác Mộc Cường Ba không hỏi gì thêm nữa. Gã cũng biết, gương đồng như vậy bây giờ đào được rất nhiều. Không chỉ ở Trung Quốc, mà các quốc gia lân cận Trung Quốc cũng có. Giá thị trường không cao lắm. Hơn nữa chiếc gương đồng này còn khá mới, có thể là do người đời sau làm giả cũng nên.

Năm người lên đến tầng thứ tư của địa cung. Từ đây trở đi hành trình bất ngờ trở nên thuận lợi, cuốn sổ ghi chép của Pieri dần đầy đủ hơn, số lượng bẫy rập và diện tích địa cung không ngừng thu nhỏ lại. Từ tầng ba trở đi thì Vương Hựu lại càng quen đường thuộc lối, đi trước dẫn đầu. Theo như anh ta nói, tâng một tầng hai hoàn toàn không có cạm bẫy gì hết, có thể dễ dàng đi thẳng lên trên. Dọc đường giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La hỏi han Vương Hựu rất nhiều. Anh chàng họ Vương phát âm không suôn sẻ lắm, nhưng để xóa bỏ mối hiềm nghi của những người này, đành nhất nhất trả lời, kể đại khái từ đầu chí cuối về chuyến du hành trong rừng nguyên sinh này một lượt.

Anh ta vốn là tổng giám đốc một công ty phát triển địa ốc, xưa nay rất thích thàm hiểm. Mới đầu mọi người thường vào một trang web chuyên về du lịch phượt, chỉ gửi thư mời qua mạng. Hành trình lần này là do một người Trung Quốc tên là Khải Đặc đề xướng, mục đích là băng qua khu rừng nguyên sinh nguyên vẹn cuối cùng ở Nam Mỹ. Các việc báo danh trên mạng, ký hợp đồng và lập di chúc, tất cả đều được thực hiện theo quy củ thông thường của các đoàn thám hiểm tự túc kinh phí. Sau đó cả đoàn ước định thời gian, từ khắp nơi trên thế giới tụ tập về Bogota. Anh ta và Khải Đặc là hai người Trung Quốc, Ricky là Hoa kiều Singapore, Sasaki là người Nhật Bản. Bốn bọn họ cùng ngồi một con thuyền nhỏ, lúc gặp phải đám du kích, không hiểu đã làm chuyện gì mà chọc giận bọn chúng, kết quả là phải bỏ chạy thục mạng, thuyền của họ đã lạc mất cả đoàn. Sau đó lại trải qua vô số những chuyện hung hiểm giống như bọn Trác Mộc Cường Ba đã gặp phải, cuối cùng thì tới được di tích này. Bọn họ vào trong từ lối thần miếu trên đỉnh kim tự tháp, hai tầng trên không có cạm bẫy gì, nhưng đến tầng thứ ba thì đột nhiên đụng phải chốt bẫy, luống cuống chân tay không biết phải làm sao, đang định ra khỏi kim tự tháp thì anh ta vì tò mò mà rơi vào cái hố ở tầng ba, sau đó bất tỉnh nhân sự. Lúc tỉnh lại, anh ta liền phát hiện ra mình đang ở trong một hang động tối om như mực, đã tìm kiếm khắp nơi mà không làm sao tìm được lối ra, cuối cùng phát hiện ra khe đá có ánh sáng, cũng đã dùng hết cách mà không mở được cửa đá. Ban đầu Vương Hựu còn có chút hi vọng những người đi cùng sẽ tìm thấy mình, kết quả chờ suốt một ngày một đêm, nước và thức ăn đều đã hết sạch, cổ họng gào thét đến khản đi, mà trước sau cũng không ai trả lời. Anh ta đã ngỡ mình sẽ bị chết trong cái hang tối ấy, đang mơ mơ hồ hồ thiếp đi thì bị tiếng động rầm rầm làm cho giật bắn mình tỉnh lại, cuối cùng trông thấy bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba.

Như Vương Hựu kể, anh ta đến sớm hơn mấy người bọn giáo sư Phương Tân một ngày. Nhân đó, giáo sư Phương Tân và Trác Mộc Cường Ba cũng kể lại những chuyện đã gặp phải. Lúc ở dưới kim tự tháp, mỗi giây mỗi phút họ đều phải hoảng loạn chạy trốn, quả thật chưa lúc nào có cơ hội để kể lại hành trình của mình. Trong cơn lũ, giáo sư Phương Tân và Đường Mẫn bị lạc mất lạt ma Á La và Ngải Lực Khắc, sau đó, giáo sư Phương Tân phải để lại ký hiệu ở gần thạch trận. Kết quả là vừa để lại ký hiệu xong, cả hai liền bị thổ dân ăn thịt người phát hiện, phải chạy thục mạng trong rừng một trận, mãi tới khi đám thổ dân bị một tổ du kích thu hút sự chú ý mới thoát khỏi truy đuổi, lại đi trong rừng mất hai ngày, chẳng hiểu đầu cua tai nheo thế nào mà tới được Bạch thành. Bọn họ cũng bị kỳ tích này thu hút cả tâm trí. Sau đó hai người vào một gian nhà trong thành nghỉ một đêm, hôm sau tỉnh lại, thì gặp bọn Trác Mộc Cường Ba và quân du kích chạy tới.

Trong lúc nói chuyện, bọn họ không ngờ đã lần lượt tìm thấy thi thể của Khải Đặc và Sasaki trong đám thây cốt tàn khuyết của quân du kích. Cả hai bị dã thú cắn cho nát bấy người, đầu mặt tay chân đều không còn nguyên vẹn. Vương Hựu cố nén đau thương thu nhặt di vật của họ vào ba lô, định sau này sẽ trao lại cho người thân. Năm người lại tiếp tục đi lên, trong lòng cảm thấy hết sức nặng nề, bởi dù có ra khỏi được kim tự tháp này, trong rừng rậm mênh mông như thế, họ không biết sẽ còn phải làm gì đây. Trác Mộc Cường Ba không nhịn nổi ngoác miệng chửi Lữ Cánh Nam, bảo đáng lẽ nên để cô tự thưởng thức và cảm nhận chuyến đi nguy hiểm này mới phải. Giáo sư Phương Tân cũng mở miệng, cơ hồ muốn nói điều gì đó, nhưng cuối cùng ghìm lại được.

Soares chán nản cực độ, cảm giác toàn thân không còn chút sức lực nào, tựa như đột ngột bị hạ đường huyết vậy. Y đã vào tất cả các miệng hang, thảy đều không có gì, vật sống, xương cốt, hoặc những mảnh xác không lành lặn bị động vật ăn còn thừa lại, vật bài tiết, trong hang không có gì hết. y nhiếc mắng bản thân mình quá ngu dốt, biết rõ là không thể hoàn toàn tin vào những gì người đó nói, nhưng tại sao y lại không thể kiềm chế được mà cứ tín nhiệm hắn cơ chứ? Vất vả cực nhọc kiếm được chìa khóa, suýt chút nữa còn chết dưới mũi giáo của bọn thổ dân ăn thịt người, vậy mà kết quả chẳng có chút ý nghĩa gì, công toi một bận. Y ôm trong lòng ngọn lửa phẫn nộ bừng bừng đi ra nội sảnh, liền trông thấy thân thể mập ú của Gonzales đang bò toài ra trên nắp quan tài đá, trông chẳng khác gì một con sâu rau núc ních đang ra sức trèo lên một chiếc lá cây, nhưng chiếc lá ấy lại không chịu được trọng lượng của nó, cứ rung rinh chực rụng, nhìn thật vô cùng hài hước.

Gonzales ngoảnh đầu lại, trông thấy Soares, liền nghiến răng kèn kẹt hỏi: “Bên trong chẳng có thứ gì cả! Ông đã biết trước rồi đúng không? Tại sao lại gạt tôi! Tại sao lại gạt tôi!”

Soares hoàn toàn có thể chối, nhưng lúc này tâm trạng y đang cực kỳ tồi tệ, lời ra đến cửa miệng rồi lại đột nhiên biến đổi: “Đúng vậy, tao lừa mày đấy, vậy thì sao! Tự mày ngu xuẩn thôi, còn trách ai được nữ! Cái đồ đầu lợn!”

“Được lắm!” Gonzales lăn từ trên tấm đá xuống, nhìn cánh cửa hình khung xương mới chỉ hé ra một khe nhỏ và đường hầm không lớn lắm kia, cầm súng lên gằn giọng nói: “Ở đây, mày không thể gọi lũ động vật ấy đến đúng không, tao muốn… phân thây mày ra!” Hăn chuẩn bị bắn tàn phế tứ chi Soares trước, sau đó từ từ giày vò y, hòng phát tiết phần nào mối hận bị ép phải làm tên đồ tể.

Sống sót trở về

Roman, serif; 13.5pt; mso-ansi-language: DE” lang=DE>Chẳng ngờ tiếng súng vừa nổ vang, Soares đã lăn xuống đất, không hiểu rút đâu ra một sợi roi dài, từ khoảng cách mười hai mét vung tay quật một phát, đầu roi lập tức quấn lấy khẩu súng trong tay Gonzales, giật mạnh một cú, hất văng ra xa đằng xa, kế đó là hết roi này đến roi khác quật xuống cơ thể phì nộn của Gonzales không chút thương tiếc, đánh cho tên béo phải gào thét thảm thiết. Cuối cùng, Soares quấn sợi roi vào cổ Gonzales, kéo hắn lại gần, rồi đập mạnh cho hôn mê bất tỉnh, ném vào bên trong cánh cửa tam giác, lạnh lùng nói: “Mày không nên chọc giận tao vào những lúc thế này mới phải, cho dù không có động vật, thằng béo chết tiệt mày cũng không đáng để tao coi vào mắt đâu. Cho mày thành một phần của địa cung ** Puch này vậy!”

Soares gạt chốt trên cửa đá, đẩy cánh cửa hình tam giác trở lại chỗ cũ. Cơ quan trên cánh cửa này đã không thể tái sử dụng được nữa, cửa đóng lại, thì sẽ không bao giờ mở ra được. Nhìn cánh cửa đang chầm chậm khép chặt, Soares nở một nụ cười lạnh lùng tàn khốc. “Tầng ba hình như có chỗ bị người ta phá hoại rồi, vẫn còn kẻ nào khác muốn vào đây hay sao, mình phải lên đó xem mới được.” Soares cúi đầu ủ rũ thầm tính toán, song lại chẳng có chút nhiệt tình hăng hái nào. Đúng lúc này bỗng nghe “bộp” một tiếng, có thứ gì đó mềm mềm rơi xuống đất. Soares ngước nhìn về phía cánh cửa hình tam giác, thứ đó chính là rơi từ trên đỉnh nhọn của tam giác xuống. Nếu không có người mở cửa, vật đó sẽ không dịch chuyển ra, nếu không có người đóng cửa đá lại, vật đó cũng sẽ không rơi xuống, không hiểu thứ gì mà được giấu khéo léo đến nhường ấy. Soares nhặt nó lên, phủi bụi đất bám trên bề mặt, thì ra một mảnh da thú đã được xử lý bằng phương pháp đặc biệt, trông có vẻ rất chắc chắn. Soares cẩn thận quan sát tấm da thú thật kỹ lưỡng, “Đây… đây… nơi được vẽ trên tấm bản đồ này… hình như là Trung Quốc mà!”

Lại đi thêm một lúc lâu nữa, dưới sự chỉ dẫn trong cuốn sổ ghi chép của ông Pieri, năm người nấp trong một không gian kín ở tầng hai, tránh được đoàn quân dơi về ổ, sau đó lại tiếp tục lên trên, cuối cùng, cũng trông thấy cánh cửa lớn thông ra phía ánh sáng. Không hiểu tại sao, mọi người đều không hề vui mừng hớn hở. Giáo sư Phương Tân hỏi Vương Hựu: “Sau khi ra ngoài anh tính thế nào, đi với chúng tôi hay là…” “Đương nhiên là đi cùng mọi người rồi.” Vương Hựu không nghĩ ngợi gì đã trả lời luôn, anh ta hiểu rất rõ, ở một nơi thế này, đơn thương độc mã cũng gần như đồng nghĩa với cái chết.

Giáo sư Phương Tân nói: “Nhưng tôi phải nói cho anh biết một điều, cả chúng tôi cũng không hề tự tin có thể ra khỏi khu rừng này, mà khả năng lớn nhất chính là, mọi người chết chung một chỗ.” Điều giáo sư Phương Tân vừa nói, cũng chính là điều mỗi người đang nghĩ trong đầu. Mọi người đều bị hoàn cảnh bức bách trong rừng mà chạy tới nơi đây, không có thức ăn cũng chẳng có phương hướng, không ai biết cánh rừng này là ở đâu, muốn ra khỏi chốn này không dễ, trừ phi xuất hiện kỳ tích. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cả năm người đều không thể nào mừng vui cho nổi.

Vương Hựu nói: “Tôi biết chứ, nhóm phượt bọn tôi, mỗi lần tổ chức đoàn thám hiểm, trước khi xuất phát đều phải ký tên trong bản tuyên bố trách nhiệm và viết di chúc, tâm lý chúng tôi đều đã được chuẩn bị. Dù sao, nơi nguy hiểm nhất khó khăn nhất chúng ta cũng đã vượt qua, sẽ không có thứ gì có thể cản bước chân cầu sinh của chúng ta nữa đâu.” Một câu nói này có tác dụng cổ vũ rất lớn. Giáo sư Phương Tân hít sâu một hơi, nói: “Nếu anh đã nghĩ như vậy, chúng ta đi thôi.” Nói đoạn, ông ưỡn ngực bước về phía cánh cửa sáng người kia.

Ánh dương lại một lần nữa tưới tắm cho mặt đất, không khí vẫn thanh tân khôn tả, năm con người mệt mỏi rã rời, quần áo rách rưới đứng lên đỉnh kim tự tháp, tay nắm chặt tay, vai kề sát vai, kiêu ngạo nhìn vầng dương mới lên. Bạch thành, đang ở dưới gót chân họ. Mặt đất mênh mang, cũng đang ở dưới chân họ. Cuối cùng, họ cũng ra khỏi tòa cung điện ngầm dưới lòng đất ấy, đi ra từ tầng sâu nhất của chốn m ty, bước ra từ vô số khảo nghiệm của sự sống và cái chết. Sau đây, bất kể là đối diện với khảo nghiệm gì, trải qua nguy nan hiểm trở thế nào, bọn họ cũng thản nhiên tiếp nhận. Địa ngục đã từng cho họ biết một điều: sinh mạng, vĩnh viễn không bao giờ cúi đầu.

Khi họ đứng trên đỉnh kim tự tháp, kỳ tích thật sự đã xuất hiện. Cả năm người đều nhìn thấy rất rõ, trên quảng trường lớn đối diện với kim tự tháp có ba chiếc trực thăng xếp hàng ngay ngắn, lặng lẽ khoan thai chờ đợi, tựa hồ như đang long trọng hoan nghênh họ trở về. “Trực thăng…” Giáo sư Phương Tân đột nhiên cảm thấy không thể khống chế nổi mình, chỉ thốt lên hai chữ ấy, nước mắt đã lã chã rơi trên gương mặt từng trải bao bể dâu dâu bể. Đường Mẫn thấy sống mũi cay cay, nước mắt liền như những hạt châu đứt dây rơi xuống thánh thót.

Trong mắt lạt ma Á La cũng long lanh ánh lệ. Vương Hựu khóc òa lên, Trác Mộc Cường Ba nghẹn ngào thổn thức. Khoảng khắc ấy, bọn họ mặc cho nước mắt thỏa sức rơi xuống, thật lòng chỉ muốn trở lại thời thơ trẻ mà khóc òa lên. Không phải họ không dũng cảm, cũng càng không phải họ không đủ kiên cường, mà chỉ là tâm trạng kích động lúc ấy không thể nào biểu đạt nổi, ngoại trừ nước mắt ra, quả thật không còn thứ gì có thể xoa dịu được tâm tình của năm người họ trong thời khắc ấy.

Một góc tầng thứ ba của địa cung, ở đây đã bị người ta đào bới khoét một cái lỗ lớn, nên nói là vết tích của một vụ nổ nhân tạo để lại thì đúng hơn. Merkin mặt mũi sầm sì, cứ đi đi lại lại bên trên miệng hố, sau lưng y là một đường ống dẫn dầu cỡ lớn đã lắp ráp xong và mấy chiếc xe điện, một số công nhân kỹ sư của bên thi công đang bận rộn chạy qua chạy lại. Khi Max hăng hái chạy tới báo cáo với ông chủ rằng đã sắp xếp ổn thỏa, không ngờ lại ăn ngay một trận chửi rát mày rát mặt: “Mày là thằng ngu xuẩn, tốn bao nhiêu tiền, phí bao nhiêu thời gian như vậy, vậy mà chẳng tìm hiểu được chút gì. Chỉ cần mày nghe ngóng được một chút tin tức thì tao đã biết ngay chỗ này chính là nơi chúng tao đã đến đây một lần rồi. Chỗ này còn cái đếch gì mà xem nữa chứ? Mày xem chỗ kia, đấy, còn chỗ kia nữa, chẳng lẽ tao chưa kể với mày bao giờ chắc! Tao thường kể với mày về nơi này, chẳng lẽ mày không có chút ấn tượng nào hả? Ôi trời, đầu mày làm bằng cái gì thế? Lãng phí thời gian sức lực của tao! Ngu xuẩn!”

Max run rẩy lẩy bẩy, không dám cãi lại câu nào. Thật không ngờ nơi này lại chính là tòa kim tự tháp Maya hung hiểm mà ông chủ thường hay nhắc tới, khó khăn lắm mới có được giấy phép thông hành, thế mà lại chẳng được tích sự gì.

“Bala, Bala!” Kỹ thuật viên bên trong hét ầm ĩ. Họ phát hiện ra có người trong kim tự tháp. Mấy gã bảo vệ vũ trang nhảy vào trước tiên, bên trong cũng có giọng nói lạnh lùng cất lên, đối phương cũng dùng tiếng Tây Ban Nha hỏi: “Bên ngoài là ai vậy? Tổ chức Cách Mạng Thánh chiến à?”

Merkin bảo với teen chỉ huy: “Không cần lo lắng, người của mình.” Đoạn liền cao giọng nói: “Soares!”

Một người có bộ mặt khiến người ta không dám nhìn thẳng bước ra từ kim tự tháp, đích thị là Soares!” Merkin ôm thật chặt rồi hỏi: “Không phải anh theo dõi bọn chúng à? Sao lại ở đây?”

Soares đáp: “Chúng cũng vừa mới ở đây đi ra thôi.”

Merkin ngạc nhiên: “Ủa, vậy sao? Chúng còn hành động được không?”

“Yên tâm, tôi để lại đồ cho chúng rồi.” Soares đưa mắt nhìn xung quanh, nói: “Rời khỏi đây trước đã, tôi có thứ này hay lắm.”

Tên chỉ huy vội cất tiếng: “Này, ông không thể rời khỏi đây được, phải để chúng tôi kiểm tra đã.” Soares xòe rộng hai tay nói: “Cứ tự nhiên.”

Gonzales mơ màng bò dậy trong bóng tối mịt mùng, đưa tay sờ sờ lên cái đầu vẫn còn đau như búa bổ của mình: “Đây là chỗ nào vậy? Khốn kiếp! Lại còn bỏ tao vào đây nữa! Có ai không! Có ai không!” Hắn bắt đầu ngoác họng ra kêu gào.

Xung quanh không có một làn gió nhẹ, cũng không có chút ánh sáng nào, tiếng kêu của Gonzales vọng lại ong ong trong khoảng không đen tối. Hắn hoang mang bước đi mấy bước, chợt đá phải thứ gì đó, thò tay lần thử, thì ra là một chiếc đèn pin không hiểu ai đánh rơi trong này. Hắn bật đèn lên, vẫn còn một chút ánh sáng vàng vọt, dưới ánh đèn, Gonzales bắt đầu nhìn rõ được hoàn cảnh xung quanh mình, hắn lập tức hiểu ra mình đang ở đâu. Gonzales bổ tới chỗ cánh cửa hình tam giác đóng im ỉm, lớn tiếng chửi mắng: “Khốn kiếp, khốn kiếp, thả tao ra! Khốn kiếp, khốn kiếp!”

Một cơn gió sặc mùi tanh thối thổi tới, Gonzales cảm thấy không ổn lắm, vội quay đầu lại, chỉ thấy trong hang động tối tăm khổng lồ ấy bỗng xuất hiện hai đốm sáng, chúng dịch chuyển, càng lúc càng lớn dần, ánh lên sắc vàng nhạt, tựa như có người đang dùng cây sào tre rất cao treo hai ngọn đèn lồng đang đi tới vậy. Gonzales trợn trừng mắt nhìn đốm sáng đang nhanh chóng tiến lại gần mình, cơ hồ không dám tin đây là sự thật, hoang mang không biết phải làm sao. Cuối cùng, khi nhìn thấy chân tướng của hai ngọn đèn lồng kia, tên béo đã dùng hết sức lực toàn thân phát ra có tiếng kêu có âm độ cao nhất từ thuở hắn lọt lòng tới giờ, kế đó, hắn bất chấp tất cả mà ấn nút kích hoạt đống thuốc nổ quấn quanh người! Ánh lửa lóe lên trong bóng đêm tăm tối, khí áp nén lại cực độ, rồi cuồng loạn bùng ra xung quanh, luồng sức mạnh đánh bật cánh cửa hình tam giác, đánh bật cả cánh cửa dạng khung xương khổng lồ, kế đó dễ dàng biến cả tầng địa ngục thứ năm này thành bình địa, biến mọi vật chạm phải nó nát vụn thành bột! Dầu mỏ ở tầng dưới cùng cũng bị kích dẫn tạo ra phản ứng dây chuyền, những tiếng nổ lớn vang lên liên tiếp, tựa hồ như muốn lộn phộc tất cả cả mọi thứ lên!

Năm người nước mắt lưng tròng chạy tới trước trực thăng. Cả ba chiếc đều không hề hư hại chút nào. Thêm một điều khiến họ mừng rỡ hơn nữa là trên máy bay vẫn còn đủ cả nước lẫn đồ ăn. Trác Mộc Cường Ba kiểm tra bình xăng máy bay, nói: Đều có bình xăng đôi, bay cả ngày cũng không vấn đề gì.”

Họ mang hết vật phẩm tập trung lên một chiếc trực thăng, đổ đầy bình xăng. Sau đó Trác Mộc Cường Ba chầm chậm kéo cần điều khiển, một loạt tiếng “tạch tạch tạch” vang lên mang tới cho cả năm người niền hy vọng vô cùng vô tận. Chiếc trực thăng đảo một vòng trên tòa kim tự tháp. Từ trên cao giáo sư Phương Tân lấy máy quay ghi lại toàn bộ quang cảnh Bạch thành. Vừa lúc ấy một tiếng nổ khủng khiếp vang lên dưới lòng đất, kim tự tháp dần chìm xuống, đất vụn và bụi cát mù mịt tung bay, bao phủ cả tòa thành trong một sắc xám mông lung mờ mịt. Giáo sư Phương Tân tiếc nuối than: “Chúng cho nổ kim tự tháp rồi, ai lại làm vậy nhỉ, đây rõ ràng là phạm tội mà.”

Không bao lâu sau, ở vùng rìa Bạch thành, một cột lửa khổng lồ bốc lên, lưỡi lửa mang theo dầu bốc cao mấy chục mét, chỉ thoắt cái cả tòa thành khổng lồ đã bốc lửa phừng phừng. Năm người nhìn tro tàn khỏi tỏa bên dưới, cảm giác tựa hồ như vừa trải qua một giấc Nam Kha.

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Bạch thành, nơi mang đến cả sự kích động lẫn nỗi kinh hồn lần cuối cùng, rồi nói: “Tôi nghĩ, tôi sẽ không bao giờ trở lại đây nữa, giữ nó lại trong hồi ức thì vẫn tốt hơn. Đi được chưa, thầy giáo?” Trực thăng bắt đầu lên cao, rời xa Bạch thành, thẳng tiến về phía mặt trời.

Soares để đám người kia kiểm tra xong, liền cùng Merkin ngồi lên xe điện rời đi. Không được bao xa, đột nhiên chiếc xe điện rung lên, tựa như bị thứ gì đó quẳng lên cao rồi lại rơi bịch xuống đất. Merkin hỏi: “Động đất hả?”

Soares vội hét: “Chó chết, thằng béo kia đã cho nổ mìn. Mau rời khỏi đây, chỗ này sắp sập hết rồi!” Y nhảy xuống khỏi xe điện, lao vút như bay ra đầu kia của đường hầm.

Trực thăng bay về phía Bắc, dọc đường có đi qua khu tập trung của quân du kích, song không gặp phải cản trở gì. Sau cùng họ dừng lại ở một nơi gọi là Boye, rốt cuộc cũng đã trở về thành thị văn minh, đồng thời liên lạc được với Lữ Cánh Nam, nhờ đại sứ quán giúp đỡ tới Saint Mary. Vương Hựu tạm biệt bọn Trác Mộc Cường Ba, lên đường về nước luôn.

Trên một con đèo cách Bạch thành không xa lắm, Merkin và Soares lặng lẽ nhìn tòa thành hùng vĩ nay đã biến thành biển lửa. Max khúm núm đứng sau lưng hai người. Nếu vừa rồi chỉ đi chậm mười phút, bọn họ cũng sẽ giống như đám công nhân thi công kia, chôn thây nơi biển lửa. Cả ba đều biết rõ, lửa sẽ còn tiếp tục cháy nữa, chính phủ sẽ không hỏi tới đây, quân du kích cũng mặc kệ không lo, nếu như có người quan tâm đến, e là chỉ có đám thổ dân ăn thịt người như đang gặp phải ngày tận thế kia là cùng. Nghe Soares kể lại toàn bộ những việc đã trải qua, Merkin vỡ lẽ thốt: “Thì ra là Gonzales.”

Soares hỏi: “Sao vậy, anh biết hắn à?”

Merkin gật đầu: “Ừm, hồi trước có qua lại. Có điều không sao cả, hắn cũng không còn được việc gì nữa rồi.”

Soares lại nói: “Hà, Bạch thành đã không còn tồn tại nữa rồi, có còn nhớ tình cảnh của chúng ta khi tới đây lần đầu tiên không?”

Merkin gật đầu: “Cả đời này cũng khó mà quên được, mặc dù đã tổn thất bọn thằng Nam Tước, nhưng lúc ấy đội chúng ta còn hoàn thiện lắm, đâu có giống bây giờ.”

Soares sực nhớ ra gì đó: “Phải rồi, tôi hỏi anh, chuyện này… tôi đang nói tới chuyện Bạc Ba La thần miếu, ngoài tôi ra, anh không nói với ai khác chứ, đặc biệt là… người đó.”

Merkin giật mình thốt: “Anh muốn nói… Chồn.” Soares vội xua tay ngăn y lại, tên của người đó cũng không thể nhắc đến được. Merkin lắc đầu: “Làm sao thế được! Tôi đã tìm đến anh, cũng có nghĩa là chắc chắn không muốn để người đó biết, bằng không, tôi đã không tìm đến anh rồi.”

Soares nói: “Anh biết vậy thì tốt, anh cũng biết rồi đấy, người đó xưa nay đều đòi chiếm phần lớn, nếu hắn biết được chuyện này, tôi và anh cả khúc xương cũng không có mà gặm đâu.

Merkin băn khoăn: “Sao đột nhiên anh lại nhớ ra chuyện này vậy?”

Soares trầm ngâm đáp: “Bởi vì có một số chuyện rất lạ, tên Trác Mộc Cường Ba lại có chìa khóa mở cánh cửa cầm kỵ, điểm này làm tôi lấy làm nghi hoặc.” Y không có ý định nói với Merkin chuyện bọn Trác Mộc Cường Ba suýt chút nữa thì bị nước dìm chết, nhưng cơ quan bỗng nhiên bị mở ra, mà người mở chắc chắn không phải là y.

Merkin nói: “Có lẽ là trùng hợp thôi, mặc dù thánh thạch của người Kukuer đã bị chúng ta lấy đi và sử dụng trên cửa đá rồi, nhưng cũng có khả năng bọn họ cướp được của một bộ lạc khác về. Anh biết đấy, mấy cục đá đó cục nào chẳng giống cục nào, bọn ấy làm sao phân biệt được chứ. Phải rồi, nói đến Trác Mộc Cường Ba, đến giờ cách nhìn của anh đối với bọn chúng thế nào rồi?”

Soares bực bội gắt: “Nói ra anh chớ giận, tôi chẳng có một chút lòng tin nào với đám ấy cả. Với thực lực như thế, có thể trèo lên đỉnh Tuyết sơn đã là cực hạn của chúng rồi, mong chúng tìm thấy Bạc Ba La thần miếu ư, hừ, trừ khi mặt trời mọc đằng Tây đi.”

Merkin nói: “Cũng làm gì đến nỗi tệ thế, chung quy chúng cũng băng được qua rừng Than Thở đến Bạch thành mà.”

“Hừ, dựa vào chúng hả!” Soares cười gằn nói: “Có cao thủ khác nữa. Lúc bọn chúng vừa đặt chân vào rừng Than Thở, đã gặp một tên tóc bạch kim, thằng cha này khá là lợi hại, hắn dẫn cả bọn tránh né những nơi nguy hiểm nhất, vòng qua hang ổ của những loài dã thú hung hiểm nhất mà mấy tên kia thì không hiểu đầu cua tai nheo gì, gần như là chúng đã tiến thẳng đến Bạch thành bằng con đường an toàn nhất đó. Đây cũng là nguyên nhân tại sao tôi hỏi anh có người nào khác biết chuyện này hay không. Trong địa cung, tôi còn gặp phải một kẻ đáng sợ hơn nữa, mặc dù không biết là ai, nhưng hiểu biết của kẻ ấy về huyết trì thậm chí còn sâu sắc hơn cả người đó nữa.”

“Ừm.” Sắc mặt Merkin trở nên nghiêm trọng nói: “Đó nhất định là người của Mật tông Tây Tạng.”

Soares hỏi: “Mật tông Tây Tạng?”

Merkin gật đầu giải thích: “Khi tôi nghe người đó nhắc đến huyết trì lần đầu tiên, đã bắt đầu chú ý đến thứ này rồi, tôi nghĩ rằng, nên bắt đầu tra xét từ quốc gia của y. Cuối cùng tôi cũng điều tra được, cái huyết trì nguyên vẹn đầu tiên được phát hiện, thì ra là khai quật ở huyện Mặc Thoát, Tây Tạng vào năm 1915. Thứ này, là pháp khí dùng để tế lễ của một tôn giáo đã bị tiêu diệt.”

“Ồ, vậy anh xem cái này…” Soares lấy trong túi của Merkin ra một cuộn da, ban nãy y lợi dụng lúc ôm nhau mà nhét luôn vào. Merkin cũng biết, nhưng từ bấy đến giờ chưa kịp mở ra xem.

Cuộn da mở ra, phần mép chắc là biển, sau đó đại khái có một hình cong như ức gà, một đường màu đỏ nhạt chạy dọc theo xương ức gà về phía Tây, rồi chia ra làm ba, lần lượt ký hiệu bằng hình ảnh thác nước, tượng Phật và bộ xương, có rất nhiều địa danh đánh dấu nhỏ li ti, thoạt nhìn giống Tạng văn nhưng nhìn kỹ lại thì hơi khác. Có điều, điểm khiến Merkin chú ý nhất, là ký hiệu kỳ quái ở góc bản đồ, phần trên giống như đầu trâu, phần dưới lại nối liền với một hình chữ Vạn ngược ()

Merkin kinh ngạc thốt lên: “Hả! Đây là… là bản đồ của Mật tông?”

“Anh nói cái gì? Sao biết đây là bản đồ của Mật tông?” Soares đã xem tấm bản đồ này không chỉ một lần, nhưng trừ cảm giác giống Trung Quốc ra, y cũng không dám khẳng định đây chính là bản đồ Trung Quốc. Vậy mà Merkin vừa thoáng nhìn đã ra ngay là bản đồ của Mật tông Tây Tạng. Max cũng vội rướn đầu lên ngó một cái, có điều như vậy là chen vào giữa Merkin với Soares rồi, nhân lúc ông chủ còn chưa trừng mắt lên, hắn tự giác lùi về phía sau.

Merkin chỉ tay vào bản đồ nói: “Ký hiệu này không phải văn tự Phật giáo, mà gọi là ký hiệu “ung trọng”, ký hiệu cổ xưa nhất của Tây Tạng, hiện nay mọi người đều cho rằng nó tượng trưng cho mặt trời. Còn ký hiệu trông giống chữ “¥” trên đồng tiền này chắc là ký hiệu giản hóa biểu thị chó sói, cũng có thuyết bảo đây là ký hiệu giản hóa chỉ một loại chó chiến đấu đặc biệt chỉ Tây Tạng mới có. Hai ký hiệu này từ thời kỳ Đồ đá cũ đã xuất hiện ở Tây Tạng rồi, có rất nhiều dấu vết về chúng trên các bức nham họa của người cổ đại. Khi hai ký hiệu này xuất hiện cùng một lúc, liền trở thành ký hiệu đặc hữu của phải Mật tông đã biến mất kia. Nghe nói đây là một loại ký hiệu tượng trưng tinh thần mà các giáo đồ Mật tông xăm lên mình.” Thấy ánh mắt Soares lại toát lên vẻ hoài nghi, Merkin vội giải thích: “Tôi cũng vừa mới điều tra được chuyện này trong chuyến đi Tây Tạng lần trước thôi.” Nói tới đây, y chợt nhớ lại tình huống khi lần đầu tiên tiếp xúc với ký hiệu này…

“Ông chủ, tìm thấy rồi, những trục quyển ấy được vận chuyển đến Lhasa ở Trung Quốc.”

“Ừm, trở về tổ quốc hả? Tốt lắm, chuẩn bị nhanh lên, chúng ta sẽ đến Lhasa.”

“Vâng, ông chủ.”

“Vào Bố Đạt La cung rồi hả? Mày điều tra rõ chưa đấy?” Merkin đứng trên phố Barkhor 1, ngây ra nhìn những sạp hàng sặc sỡ màu mè bày ven đường trong suốt một phút liền.

“Ông chủ, mặc xác cung với chẳng điện đi, không phải đang mở cửa đón khách hay sao? Chúng ta phái mấy thằng giả làm du khách vào trộm ra là được mà?” Max hiến kế.

“Đồ ngu.” Merkin trước mắt nhìn bức tường biên mã 2 đỏ rực của Đại Chiêu tự ở phía xa xa nói: “Mày định trộm đồ ở nơi thế này hay sao? Hừ, chỉ sợ vào đấy chưa kịp làm gì thì đã chết mẹ rồi.”

“Vậy, thứ đó vào Bố Đạt La cung thì chúng ta hết cách rồi sao?” Max lẩm bẩm.

Merkin thở dài nói: “Hà… ủa? Ánh mắt y đột nhiên bị một mảnh kim loại hình dáng kỳ lạ thu hút. Thứ đó dường như là một món trang sức, nửa trên giống như đầu trâu, nửa dưới lại là một chữ thập. Merkin có cảm giác rất thân thuộc, liền nhặt mảnh kim loại lên khỏi đống hàng hóa bừa bãi trên sạp, hỏi: “Đây là cái gì vậy? Phần trên này không phải đầu lâu đúng không, là… ký hiệu con bọ cạp hả?”

“Không, không, không…” Anh chàng người Tạng bán đồ nghe hiểu xong, vội vàng nói: “Đây không phải bọ cạp, đây là sói… há cái miệng to…” Sợ Merkin không hiểu, anh chàng còn ngửa mặt lên trời bắt chước kiểu sói tru, rồi lại nói: “Há cái miệng to…” Hai tay anh ta giơ lên thành hình tượng sói há miệng, rồi lại bảo Merkin thò ngón tay vào trong cái miệng sói kia, bên trong quả nhiên có một hàng gai nhỏ, có điều đã mòn gần hết rồi; “Răng sói, răng soi…” anh chàng bán hàng người Tạng cứ lặp đi lặp lại.

“Sói!” Merkin dường như bị thứ gì đó làm cho xúc động, không hỏi bao nhiêu tiền, mà lại hỏi: “Thứ này ở đâu ra vậy?”

Anh chàng người Tạng bán đồ nghe Merkin hỏi vậy, cho là y muốn mua, vội vàng giới thiệu: “Cái vòng tay này là đồ tốt đó nha, cũng cổ ra phết đấy, ông xem này, thủ công…”

Merkin chụp lấy cổ áo tròn của anh ta, gằn giọng hỏi: “Tao không nói thủ công thủ kiếc gì cả, tao hỏi mày cái này ở đâu ra?”

Hành động này lập tức làm đám người Tạng quanh đó nổi giận, đã có mấy người Tạng bán hàng gần đó đứng lên quát hỏi. Anh chàng kia vội dùng tiếng Tạng giải thích với mấy người buôn bán vài câu, mới làm cơn giạn của họ lắng xuống. Xong xuôi, anh ta làm bộ thần bí nói với Merkin: “Thứ này, nghe đâu là La Trát lấy được trên người một gã thần kinh không bình thường người Khang Ba, đương nhiên tôi cũng không được rõ lắm, nhưng mà đây chắc chắn là đồ tốt, ông xem…”

Nhìn Merkin trầm ngâm suy tư điều gì đó, Soares “hừ” khẽ một tiếng, đột nhiên rút tấm bản đồ da trong tay Merkin lại, quay đầu bỏ đi, nói vọng lại: “Xem ra, chúng ta vẫn chưa thể tin tưởng lẫn nhau được rồi, rốt cuộc anh còn bao nhiêu chuyện chưa nói với tôi nữa?”

Merkin vội thanh minh: “Chuyện này thực sự là do tôi không nghĩ tới. Ngoài những điều tôi biết, cũng đều đã nói cho anh cả rồi. Phái Mật tông ấy tiêu vong từ rất sớm. Theo tôi biết thì từ trước khi Thổ Phồn bị diệt vong nó đã biến mất rồi. Thông tin tôi điều tra được chẳng qua chỉ là những thứ vụn vặt liên quan tới tông phái ấy mà thôi. Chuyện này, chúng ta cần phải hợp tác điều tra… Này! Anh đi đâu đấy?”

Soares đáp: “Tôi đi nhận diện khuôn mặt! Nhất định phải tra ra lai lịch tên tóc bạch kim. Thằng đó thật sự rất đáng nghi!”

Merkin hỏi: “Anh dựa vào gì mà khẳng định vậy?”

Soares lắc đầu: “Tới lúc ấy anh sẽ tự biết. Này, chúng ta đã hợp tác nhiều năm nay rồi, tôi nhắc anh một lần nữa, đừng hy vọng quá nhiều vào đám người ấy, bọn chúng không thể thành công được đâu, tự chúng ta làm đi.”

Merkin nhìn theo bóng lưng Soares, lẩm bẩm nói: “Anh không hiểu được đâu.” Y đưa tay nắm cổ áo mình, bên trong, dường như có thứ gì đó. Max nhắc nhỏ: “Ông chủ, Soares đã đi rồi, chúng ta cũng lên đường thôi.”

Merkin gật gật đầu, đột nhiên điện thoại di động đổ chuông, y mở máy, mới nghe một câu đã lớn tiếng quát: “Nói cái gì hả!” Sau khi gác máy, y còn ngây ra một lúc lâu. Max thấy ông chủ của hắn cứ nhìn chằm chằm theo hướng Soares biến mất, thầm đoán thâm tư của Merkin: “Ông chủ, thằng cha Soares ấy thật cứng đầu cứng cổ, tôi thấy, cho hắn nếm mùi…”

Hắn còn chưa dứt lời, Merkin đã tát cho một bạt tai nổ đom đóm mắt: “Mày là cái thằng ngu xuẩn! Loại người như mày, thành công chẳng thấy đâu, mà thất bại thì liên tiếp!” Nói xong liền quay đầu bỏ đi thẳng, bên tai vang lên tiếng người nói trong điện thoại lúc nãy: “Ông Merkin, thật vô cùng xin lỗi khi phải thông báo với ông, người Trung Quốc mắc bệnh thần kinh ấy, đã qua đời lúc năm giờ ba muwoi phút sáng nay, nhờ ông thông báo với người nhà của anh ta đến xử lý mai táng.” Merkin thầm nhủ: “Nếu mình học được tiếng Tạng cổ sớm hơn một chút, biết đâu có thể biết được điều gì đó từ miệng tên điên ấy, bây giờ… có điều bỏ đi vậy, dù sao trong tay ta cũng còn một tên điên khác, hừ!”

Không dưng bị Merkin cho một bạt tai, Max ôm mặt quỳ dưới đất, cho tới khi bóng dáng Merkin khuất hẳn, trong mắt hắn mới lóe lên một tia hằn học, nhủ thầm trong bụng: “Nếu Soares và Merkin quyết chiến với nhau, không hiểu kết quả sẽ thế nào?” Suy nghĩ miên man, hắn không khỏi bật cười.

Tổng kết

Tình hình còn tốt hơn cả mong đợi. Không ngờ Trương Lập và Nhạc Dương đã đến Saint Mary trước cả bọn Trác Mộc Cường Ba. Ngải Lực Khắc còn sớm hơn nữa. Chỉ có Ba Tang chưa thấy đâu. Tình cảnh của Trương Lập và Nhạc Dương tương đối tệ hại. Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba gặp lại hai anh chàng này trong bệnh viện của tổ chức Chữ Thập Đỏ. Sinh ly tử biệt, ba người ôm chặt lấy nhau cảm thán không thôi. Trương Lập và Nhạc Dương đều xúc động đến rơi nước mắt. Trong rừng sâu, hai người đã nếm đủ mọi điều khổ sở, may mà có Sean giúp đỡ, nhưng Nhạc Dương cũng vẫn bị một loài muỗi không biết tên trong rừng Mãng Xà đốt phải, sau đó cứ sốt cao mãi không dứt. Trương Lập phai không ngừng nói vào tai anh chàng: Babatou, cô Babatou, cô Babatou đang đợi cậu kìa, phải cố lên!” Cứ nói như vậy cả ngàn lần, cuối cùng mới kéo được Nhạc Dương ở chỗ thần Chết trở về. Rồi ba người vì phải chạy liên tục cuối cùng cơ thể đều không chịu nổi, cộng với việc thiếu dinh dưỡng nhiều ngày, kiệt sức ngã lăn ra. Nghe các bác sĩ nói, trong ngày đầu tiên nhập viện, Trương Lập cứ gào mãi cái tên “Babatou”, làm họ đoán là cô Babatou gì đó nợ tiền của anh chàng.

Còn rốt cuộc làm thế nào họ ra khỏi rừng rậm được thì cả Trương Lập và Nhạc Dương đều ấp úng không chịu nói, nghe đâu vì muốn bịt miệng ai đấy lại. Còn thể lực của Sean thì phục hồi rất nhanh, chỉ ở bệnh viện theo dõi một ngày là đi luôn, trước khi đi không ngờ cũng không chào hỏi ai tiếng nào, làm Trương Lập và Nhạc Dương đều lấy làm áy náy không yên.

Lưu lạc hơn nửa tháng trong rừng nguyên sinh Nam Mỹ, mình mẩy đầy thương tích, cuối cùng đọi ngũ được huấn luyện đặc biệt này cũng trở về với tổ quốc. Lại được hít thở làn gió thanh tân mát mẻ, cảm giác tựa hồ được trở về cõi tiên, theo yêu cầu gần như là hà khắc của Lữ Cánh Nam, tất cả thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt đều phải tiến hành tổng kết kinh nghiệm về thất bại lần này. Lữ Cánh Nam đứng trên bục giảng, trông thật giống một cô giáo dạy tiểu học hung ác, khoa trương vung cánh tay lên nói: “Trước khi xuất phát, có ai đó từng nói với tôi… anh ta nói, anh ta cho rằng huấn luyện như vậy đã đủ rồi, giờ anh ta đã mạnh lắm rồi, cảm giác như chưa bao giờ mạnh đến thế, có thể chiến thắng bất cứ khảo ngiệm khó khăn nào, có thể đi tới bất cứ vùng đất chết chóc nguy hiểm nào. Tôi đã đáp ứng người đó, chỉ cần anh ta hoàn thành nội dung huấn luyện trong thời gian quy định, chúng ta sẽ lập đội lên đường, tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Kết quả… kết quả thế nào chứ!” Ánh mắt cô trở nên sắc bén ghê gớm. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh mặt sang một bên, cố ý không nhìn nét mặt đối phương.

Lữ Cánh Nam lại không chịu bỏ qua cho gã, hỏi thẳng vào mặt gã: “Cường Ba thiếu gia, anh nói trước đi, cảm tưởng của anh về lần huấn luyện này thế nào?”

“Tôi thì có cảm tưởng gì chứ!” Trác Mộc Cường Ba nhảy dựng lên, hét lớn, “Suýt chút nữa thì chúng tôi chết sạch trong rừng, câu trả lời như vậy cô đã hài lòng chưa! Không sai! Chúng tôi không thể vượt qua lần huấn luyện này! Vậy thì sao chứ! Bị quân du kích truy đuổi, bọn động vật bình thường một con cũng khó gặp, thường xuyên tập trung thành cả quân đoàn lớn cho chúng tôi tham quan! Sấm sét, nước lũ! Còn ngôi mộ kia thì càng không cần nói nữa, nói xong rồi chỉ sợ cô không dám tin thôi! Cô nói đi, cô nói đi! Thế có thể coi là huấn luyện được không? Cho dù đi đánh trận, cũng không đến nỗi phải đối mặt với hoàn cảnh hung hiểm như vậy đâu!” Nói hết một tràng, gã đứng chống nạnh mà thở hồng hộc.

Lữ Cánh Nam cũng không tranh cãi với gã, chỉ mỉm cười nói: “Ôi cha, không hoàn thành nhiệm vụ mà còn lý lẽ hùng hồn nhỉ, hiệu quả huấn luyện đâu tôi vẫn chưa thấy, nhưng tính khí thì ghê gớm thấy rõ đó.”

Lữ Cánh Nam không tranh luận với gã, Trác Mộc Cường Ba cũng không tiện nổi cáu nữa, bực tức đáp trả một câu: “Tình huống lúc đó cô không hiểu, đổi lại là cô thì cũng không thể hoàn thành được!” Không ngờ, câu này vừa thốt lên, Trương Lập, Nhạc Dương và cả nhóm người tổ giáo sư Phương Tân, tất cả mặt mày biến sắc, bộ dạng đều như muốn nói: “Hỏng bét, Cường Ba thiếu gia sắp gặp họa rồi.”

Quả nhiên, gương mặt mới rồi còn rạng rỡ như tắm trong làn gió xuân, thoắt cái đã như phủ một lớp băng lạnh lẽo, Lữ Cánh Nam lạnh lùng hỏi: “Vậy sao? Sao anh biết tôi không đi chứ!”

Trác Mộc Cường Ba đờ người, vẫn còn cứng đầu cứng cổ không chịu thua, nhìn những người xung quanh, thấy ai nấy đều cúi gằm mặt xuống, xem ra Lữ Cánh Nam không hề nói dối. Lữ Cánh Nam nói: “Bởi vì tôi cảm thấy băng qua cánh rừng đó có lẽ vẫn còn hơi khó đối với mấy người, nên đã quyết định tự mình đi thử trước một lần. Tôi mang theo một con dao săn cá mập, tốn mất bảy ngày, đã hoàn thành quãng đường ấy. Vốn tưởng rằng với năng lực hiện tại của các người, chắc là có thể hoàn thành được nhiệm vụ, thật không ngờ… Biểu hiện của mọi người làm tôi quá thất vọng! Sao hả, anh không tin? Tôi xuất phát muộn hơn các người hai ngày, đến ngày thứ ba đã đuổi kịp tổ của giáo sư Phương Tân, không tin thì cứ hỏi.”

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh lại phía giáo sư Phương Tân, chỉ trợn tròn đôi mắt lên, ngây ngây hỏi: “Không mang theo thứ gì?”

Giáo sư Phương Tân cúi gằm mặt xuống: “Không mang theo thứ gì, cả đồ ăn, lều bạt, cả nước cũng không có.”

Lữ Cánh Nam lại nói: “Khi các người không thể đến đích đúng thời hạn, không kịp chờ chi viện tới, tôi đành phải một mình quay trở lại tìm kiếm các người. Tìm mất hai ngày trong rừng Mãng Xà mới thấy hai tên chỉ còn thoi hơi thở! Để tìm kiếm rồi cứu chúng ra, tôi đã giết hơn trăm con trăn Nam Mỹ, chỉ sợ đã giết sạch cả giống loài nhà chúng mất rồi!”

Trác Mộc Cường Ba cả kinh, chẳng trách hai tên phản đồ ấy cứ lắp ba lắp bắp không chịu nói rõ chuyện gì, “để bịt miệng ai đó”, thì ra chính là để bịt miệng gã lại. Gã hoảng hốt bất an quay đầu lại, dùng đôi mắt kinh khủng ấy nói với Nhạc Dương: “Con mụ này không phải là người!” Nhạc Dương rụt rè làm ra vẻ không biết phải làm gì hơn… “Đã bảo là giáo quan ma quỷ rồi, vậy mà anh vẫn không tin!”

“Bình,” Lữ Cánh Nam vỗ mạnh xuống bàn, chén trà nhảy tung lên, Trác Mộc Cường Ba cũng giật mình đánh thót, suýt chút nữa thì đá đổ cả ghế. Lại nghe Lữ Cánh Nam nghiêm giọng nói: “Theo tôi được biết, lần hành động này có một nhóm, khi học tập nghiên cứu, chỉ chăm chăm vào phạm vi nhỏ hẹp, nhãn quang thấp kém, hơn nữa khi xuất phát còn nôn nóng mạo hiểm, không hề có tinh thần hợp tác đồng đội, cũng thiếu cả kế hoạch khảo sát một cách khoa học, bao nhiêu công lao huấn luyện hơn nửa năm nay đều uổng phí hết cả rồi còn gì!” Kế đó lại vỗ bàn đánh “rầm” cái nữa, Trác Mộc Cường Ba lại giật thót mình, khó khăn ngoảnh đầu lại nhìn lạt ma Á La, ánh mắt thảm thương vô cùng: “Đại sư, ngài bán đứng tôi!” Nét mặt lạt ma Á La thờ ơ hờ hững, liếc nhìn Lữ Cánh Nam một cái, không nói không rằng biểu thị: “Tôi cũng chẳng còn cách nào khác cả.”

Chỉ nghe Lữ Cánh Nam tiếp tục: “Cũng may tôi không phải là tổng chỉ huy hành động lần này, bằng không, tôi tuyệt đối không cho phép trong nhóm của mình một đám người vô dụng như thế! Nguyên nhân thất bại của hành động, cùng những điểm các người tự cảm thấy mình còn chưa đủ, tất cả viết hết ra bản kiểm điểm cho tôi, ai cũng phải viết, tôi cảnh cáo trước, không được chép bài của nhau, không được trao đổi, nếu không… phạt chép một vạn lần! Đặc biệt là… các anh!” Lữ Cánh Nam chỉ thẳng vào mặt Trác Mộc Cường Ba, cũng may là còn thêm vào một chữ “các”.

Mồ hôi Trác Mộc Cường Ba vã ra như tắm.Từ sau khi tốt nghiệp tiểu học, gã đã không còn bị ai chỉ vào mặt mắng chửi như vậy nữa. Trong phút chốc, cả gian phòng trở nên tĩnh lặng, chỉ nghe tiếng bút soạt soạt, già có trẻ có, mọi người đều ngồi thẳng đờ, bút ngoáy không ngừng, cảnh tượng hệt như trong một kỳ thi đại học vậy.

Mười phút sau, Lữ Cánh Nam uống hết chén trà, đứng lên lạnh lùng nói: “Tôi ở phòng làm việc, viết xong thì mang tới đó. Nhớ cho kỹ, trong nhóm các người có một người phụ trách giám sát toàn bộ quá trình viết kiểm điểm này, nếu muốn thì thầm bán tán thì cứ tự tiện, đến lúc ấy chớ có trách tôi không nể mặt.” Lúc ra đến cửa, cô nàng lại buông thêm một câu: “Còn nữa, chưa viết xong thì không được ra ngoài, bằng không…”

Sau khi Lữ Cánh Nam đi khỏi, căn phòng rất giống với lớp học này lại càng trở nên yên tĩnh, người trong phòng thỉnh thoảng lại trao đổi bằng ánh mắt, nhưng không ai dám lên tiếng nói chuyện, mặc dù đều biết có lẽ giáo quan nói vậy chỉ để dọa nạt họ mà thôi, nhưng ai có thể đảm bảo được điều ấy chứ?

Trác Mộc Cường Ba dần trở nên bình tĩnh, trong lòng lấy làm uất ức: “Thật vô lý, một cô con gái bé tẹo như vậy, sao có thể cầm một con dao mà băng qua khu rừng ấy được chứ, vậy chẳng phải là còn lợi hai hơn cả lạt ma Á La hay sao? Bà chằn này rốt cuộc lai lịch thế nào nhỉ!” Gã viết bậy mấy chữ lên giấy, rồi lại nghĩ: “Có điều nói đi cũng phải nói lại, lần hành động này đúng là đã làm lộ ra rất nhiều điểm thiếu sót. Không tìm hiểu kỹ lưỡng đầy đủ về văn hóa và phong thổ nhân tình khu vực xung quanh Nam Mỹ, cái này coi như sơ ý đi, còn về động vật tiền sử, chuyện này hoàn toàn nằm ngoài sự tưởng tượng của mình, nếu gặp phải một loài động vật mà mình không có chút hiểu biết nào về nó, vậy thì biết làm sao bây giờ? Tạm thời không nói động vật tiền sử, chỉ riêng đám động vật đã tìm hiểu rồi, như trăn Nam Mỹ ấy, rõ là mình đã nghiên cứu thói quen tập tính và đặc điểm sinh lý của chúng, vậy thì sao chứ, khi gặp phải trăn Nam Mỹ ấy, đừng nói là nghĩ cách khống chế nó, đến cả dũng khí để bỏ chạy cũng chẳng còn nữa rồi. Ôi, dữ liệu tra được trên máy tính và tình hình thực tế đúng là hai chuyện hoàn toàn khác nhau! Lại còn cả các mật mã, ý nghĩa tượng hình kia nữa, về mặt này có thể nói là mình hoàn toàn không hiểu gì, cả cơ quan bẫy rập trong địa cung nữa, đấy lại càng là lĩnh vực trống, cả thời tiết tự nhiên… Chà, tại sao không hề giống như mới đầu mình nghĩ, sao còn nhiều chuyện mình chưa nắm bắt được thế nhỉ?”

Trác Mộc Cường Ba một lúc phát hiện ra mình có quá nhiều khuyết điểm, ngược lại thành ra không thể hạ bút. Đợt huấn luyện này có rất nhiều điểm mà gã vắt óc nghĩ mãi cũng không sao hiểu nổi, chẳng hạn như việc bị quân du kích truy sát, chính xác! Vô duyên vô cớ bị truy sát, điểm này con mụ chằn tinh Lữ Cánh Nam kia phải giải thích thế nào đây! Còn cả lạt ma Á La nữa, đối phó cạm bẫy là nội dung của giai đoạn cuối cùng, thực tế họ chưa từng được dạy qua, tại sao lạt ma Á La lại biết nhiều như thế! Người Kukuer và người Tạng có những tập tục giống nhau đến lạ thường, chiến ngao không sủa, suy luận của Nhạc Dương… Đột nhiên, Trác Mộc Cường Ba đem tất cả liên hệ lại với nhau, mặc dù gã cũng cảm thấy không thể nào tin nổi, nhưng ngoài cách giải thích ấy ra, dường như rất khó đưa ra phương pháp lý giải nào khác nữa. Nơi đó, và Tây Tạng, và cả Bạc Ba La thần miếu nữa, lẽ nào thực sự có quan hệ gì với nhau? Thật đúng như những gì Nhạc Dương nói? Chuyện này thật quá khó tin, rốt cuộc là liên hệ với nhau thế nào đây? Đúng, nhất định họ còn giấu mình chuyện gì đó! Điểm này là chắc chắn rồi! Trác Mộc Cường Ba càng nghĩ càng thấy tức, Trương Lập ngồi đằng xa nhướng mắt lên nhìn, chỉ chỉ vào bản kiểm điểm của mình, rồi lại trợn mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, ý bảo tôi đã viết được ngần này rồi, sao anh vẫn để giấy trắng thế Cường Ba thiếu gia. Trác Mộc Cường Ba phẫn nộ đứng phắt lên, thầm nhủ: “Sao mình phải viết kiểm điểm chứ. Hừ, cô ta không giải thích rõ ràng, mình sẽ cãi vụ này đến cùng.”

Trác Mộc Cường Ba ôm một bụng bất bình, đẩy bật cánh cửa phòng làm việc của Lữ Cánh Nam ra.

Lữ Cánh Nam thấy hai tay Trác Mộc Cường Ba trống không, nét mặt bừng bừng nộ khí, bèn hỏi: “Có chuyện gì? Có chuyện thì vào rồi nói, đóng cửa lại.”

Trác Mộc Cường Ba đóng sầm cửa lại, bước tới trước mặt Lữ Cánh Nam nói: “Giáo quan, vừa nãy cô nói chuyện rất lớn tiếng, hỏi những câu tôi không trả lời được, nhưng bây giờ, tôi cũng có mấy câu muốn hỏi cô đây!”

Lữ Cánh Nam khảng khái gật đầu: “Anh cứ nói.”

Trác Mộc Cường Ba chống tay xuống bàn làm việc: “Lần huấn luyện băng rừng nguyên sinh này, không đơn giản chỉ là huấn luyện thôi có đúng không? Cô còn chuyện gì đó vẫn giấu chúng tôi chưa nói ra, có đúng không?”

Lữ Cánh Nam chẳng tỏ thái độ gì, chỉ nói: “Tại sao lại nói vậy?”

Trác Mộc Cường Ba đáp ngay: “Chẳng lẽ giáo quan không còn nhớ gì nữa? Nhưng tôi thì chưa quên đâu, lúc đích đến của hành động lần này vừa mới quyết định xong, cô đã nói với chúng tôi thế nào chứ, sợ rằng đối thủ cạnh tranh của chúng tôi đã đi trước một bước? Bọn chúng đi trước một bước làm cái gì chứ? Tôi nhớ lúc ấy giáo quan cũng không cho chúng tôi câu trả lời thì phải. Kết quả, nhóm chúng tôi vừa bắt đầu thì đã bị quân du kích truy đuổi, cản trở, sau đó mới biết có người tung tin đồn bảo chúng tôi biết lối vào Thành phố Vàng, rõ ràng là để cầm chân chúng tôi lại, hoặc là không để chúng tôi băng qua khu rừng ấy. Ở đó có gì chứ? Cô không hề nhắc đến một chút nào!” Trác Mộc Cường Ba giơ ngón tay lên trước mặt, lắc lắc đầu, “Tôi nghĩ mãi mà không hiểu rốt cuộc đây là chuyện gì, cho tới khi tôi gặp lạt ma Á La!”

“Lạt ma Á La!” Trong mắt LC ánh lên thần tình hoảng hốt. Trác Mộc Cường Ba biết ngay là mình đã đoán đúng, liền tiếp tục tấn công: “Hừ, không sai, là lạt ma Á La. Khi tôi gặp ông ấy, ông ấy không hề hoang mang hoảng loạn chỉ muốn tìm lối ra như bọn chúng tôi, cũng không nôn nóng ra khỏi khu rừng ấy, tôi rõ ràng là ông ấy đang… đang tìm một… thứ… gì đó…” Trác Mộc Cường Ba cố ý kéo dài mấy chữ cuối cùng ra hòng tăng áp lực cho Lữ Cánh Nam, “Bạch thành… đúng không! Địa cung ** Puch! Đúng không! Các người đã sớm biết đến nơi ấy rồi, đúng không!” Thực ra, Trác Mộc Cường Ba cũng chỉ vừa mới lóe lên ý nghĩ này trong đầu, đột nhiên nghĩ tới, những gã lại cố ý càng lúc càng lớn tiếng hơn, tựa hồ như đã biết hết mọi chuyện từ trước rồi vậy. Gã gần như gí sát đầu mình vào đầu Lữ Cánh Nam hỏi tiếp: “Bên trong rốt cuộc là có thứ gì? Mặc dù cuối cùng lạt ma Á La không tìm được gì hết, nhưng tại sao ông ấy lại quen thuộc các cơ quan cạm bẫy, cách bố cục trong kim tự tháp như vậy? Ông ấy đã nghiên cứu về nơi đó, đây không phải là chuyện ngày một ngày hai nữa rồi, tôi nói không sai chứ? Không ngại đường xa ngàn dặm bảo chúng tôi đến chỗ ấy, rốt cuộc là muốn bọn tôi làm gì? Mục đích của các người, có phải là lợi dụng danh nghĩa huấn luyện đặc biệt, thực ra là để chúng tôi làm mồi câu, thu hút sự chú ý của quân du kích hay không? Có phải chính các người đã phao tin đồn hay không?”

Lữ Cánh Nam hoảng hốt nói: “Không! Không phải như vậy. Không phải như vậy.” Khí thế của cô nàng đã không còn cứng rắn như lúc nãy nữa.

Trác Mộc Cường Ba tiếp tục tăng thêm áp lực cho đối phương, vừa tiến lại gần vừa nói: “Giờ thì coi như tôi hiểu rồi, chúng tôi chỉ là con cờ trong tay các người, là công cụ của các người, huấn luyện đặc biệt cái gì chứ, tất cả đều là giả dối hết! Các người chẳng qua lấy danh nghĩa khảo sát khoa học, ra nước ngoài trộm mộ thôi!” Từ lâu gã đi nghi ngờ lạt ma Á La là thành viên của một tổ chức trộm mộ, giờ thì cả Lữ Cánh Nam cũng rơi vào diện nghi vấn của gã nốt.

Tội danh này quá lớn, cả Lữ Cánh Nam cũng nổi giận, đập bàn đứng dậy quát: “Anh nói bậy cái gì đấy! Anh chẳng biết cái quái gì hết!”

Trác Mộc Cường Ba thì ngược lại, thái độ rất đỗi ung dung, gã thong thả ngồi xuống, vẫy tay nói: “Được rồi, cô biết, vậy cô nói đi, nói cho tôi biết những chuyện này là thế nào.”

Lữ Cánh Nam có chút hoảng loạn, cô cũng không ngờ lại bị Trác Mộc Cường Ba ép tới nước này. Cô nhanh chóng điều chỉnh lại tâm thái của mình, trấn tĩnh trở lại, ngồi xuống đối diện với Trác Mộc Cường Ba, dáng vẻ trầm tư một lúc lâu mới nói: “Tôi đã bảo rồi, nếu các anh có thể vượt qua khảo hạch giữa kỳ này, tôi sẽ giao số tư liệu được các chuyên gia nghiên cứu tìm ra cho các anh xem, có điều, các anh đâu có hoàn thành lần khảo hạch lần này, không đúng sao?”

“Cô…” Vốn ngỡ rằng Lữ Cánh Nam ít nhiều lộ ra chút gì đó, không ngờ cô nàng này lại đột nhiên đổi giọng, chặn ngược trở lại, Trác Mộc Cường Ba ấn tay xuống mặt bàn, trợn mắt lên, tựa như muốn lập tức đứng phắt dậy bỏ đi, có điều rốt cuộc gã cũng không đứng lên, cứ ngồi yên như vậy đọ mắt với Lữ Cánh Nam, con ngươi cơ hồ như muốn tóe lửa. Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: “Con mụ gái già này, muốn lấy tôi ra làm trò đùa chắc? Rốt cuộc tôi đã đắc tội gì với cô chứ?”

Lữ Cánh Nam nhìn Trác Mộc Cường Ba, trong lòng cũng đang lấy làm phiền muộn: “Tại sao, tại sao không thể đối đãi với gã đàn ông đáng ghét này như những binh sĩ thông thường chứ! Cường Ba thiếu gia, vì anh nên tôi mới làm vậy, anh chẳng biết gì hết cả…” Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba bình tĩnh lại, dựa vào ghế, chậm rãi nói: “Cô nói như vậy, ý là chuyến đi châu Mỹ này của chúng tôi có liên quan đến các tư liệu mà chuyên gia nghiên cứu tìm ra phải không?”

Lữ Cánh Nam trừng mắt lên lườm gã, vẫn giữ im lặng. Trác Mộc Cường Ba cho rằng cô đã mặc nhiên thừa nhận, trong lòng lại càng thêm nhiều nghi vấn mới. Gã ngồi thẳng người lên, ngạc nhiên hỏi: “Nói vậy thì, cánh rừng mà chúng tôi đã băng qua đó, thực sự có quan hệ với Tây Tạng hay sao? Những hoạt động tế bái tương tự trong các bộ lạc nguyên thủy của đám thổ dân ăn thịt người nữa, đó không phải là ngẫu nhiên? Cô nói đi? Tại sao lại không nói gì?”

Lữ Cánh Nam vùng vằng đáp: “Anh đừng quên, anh đang nói chuyện với sĩ quan chỉ huy đấy, như thế này, thật không xứng đáng làm một binh sĩ đạt chuẩn.”

Trác Mộc Cường Ba liền giễu lại: “Tôi có bao giờ bảo mình là binh sĩ đâu? Tôi đang lấy tư cách nhà đầu tư, nói chuyện với chủ thầu, tôi chỉ muốn biết những gì tôi cần phải biết thôi. Cứ tiếp tục thế này, chỉ sợ tôi chết rồi vẫn không hiểu mình chết thế nào, tại sao lại chết, đã vậy thì cần gì phải hợp tác nữa! Tôi quyết định rồi, tôi muốn chấm dứt hợp tác tại đây!” Phát tiết xong cả khối bất mãn trong lòng, Trác Mộc Cường Ba bình tĩnh đứng lên, gã đã chịu đựng đủ rồi, gã quyết định sẽ dựa vào sức mình đi tìm kiếm Tử Kỳ Lân của gã.

“Đợi đã!” Lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba trông thấy Lữ Cánh Nam cắn môi, đồng thời không dám nhìn thẳng vào ánh mắt của mình, “Trước khi nhận được lệnh của cấp trên, tôi không thể tiết lộ cho anh các nội dung liên quan tới chuyện này, có điều, tôi nghĩ cấp trên sẽ nhanh chóng có câu trả lời thôi. Cá nhân tôi hy vọng anh, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, chớ nên dễ dàng chấm dứt sự hợp tác này như vậy.” Nói đến đoạn cuối, giọng cô nhỏ dần nhỏ dần.

“Đây đã tính là thỏa hiệp chưa?” Trác Mộc Cường Ba mừng thầm trong bụng, thực ra gã vẫn rất quan tâm tới số tư liệu được các chuyên gia của nhà nước thu thập kia. “Vậy thì, tôi nghĩ, ngày mai, ngày mai cô hãy cho tôi một câu trả lời đi.” Trác Mộc Cường Ba nghiêm túc nói, rồi quay người đi ra.

Thỏa hiệp

Đêm dài đằng đẵng, tiết xuân se se lạnh, Trác Mộc Cường Ba không ngủ được đứng khoanh tay trước ngực, ngắm nhìn cảnh đêm phía xa xa. Thoắt cái, gã đã tới đây được gần một năm rồi, núi đá cỏ cây ở đây đều đã vô cùng thân thuộc, huống chi là những đồng đội sớm chiều ở cùng nhau kia.

“Cường Ba thiếu gia, nghe nói, anh đá bà chằn kia rồi hả?” Không hiểu từ lúc nào, Nhạc Dương đã xuất hiện sau lưng Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba ấn đầu anh chàng xuống, đẩy về phía sau: “Thằng khỉ này, khá năm, còn dám đùa cả giáo quan của cậu nữa.”

Nhạc Dương lại nhổm đầu lên, lần này thì làm ra vẻ nghiêm túc một chút nói: “Cường Ba thiếu gia, tôi nghĩ, anh vẫn không nỡ rời khỏi đội của chúng ta đâu, chỉ muốn dằn mặt thượng cấp một phen thôi đúng không?”

Trác Mộc Cường Ba ngước nhìn ra xa, cười cười: “Cậu đến thăm dò tôi à?”

Nhạc Dương cười ha hả: “Nhìn tôi cũng đâu có giống phản đồ chứ? Tôi nói thật đấy, Cường Ba thiếu gia, không phải anh thật sự muốn rời khỏi đây hành động một mình đấy chứ? Tư liệu anh đang có trong tay không phải rất có hạn hay sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng công tác bảo mật của họi hơi bị tốt quá thì phải! Xưa nay tôi làm việc đều tự đặt ra cho mình kế hoạch và chương trình riêng, như vậy tôi mới biết rõ được mình muốn làm gì, và mình đang làm gì. Còn như lúc này… hừ!” Trác Mộc Cường Ba lắc đầu thở dài, nói tiếp: “Có lẽ, tôi thật sự không phải một người lính tốt. Tôi đã quen tự mình nắm bắt vận mệnh của mình, chứ không phải nghe theo sự sắp xếp của vận mệnh, làm chuyện gì cũng nhất định phải có mục tiêu, bằng không vĩnh viễn không thể thành công được. Như bây giờ, cả mục tiêu cũng không có, chỉ bảo chúng ta làm theo yêu cầu, tôi thực không làm được.”

Nhạc Dương nhìn ra xa thở dài một tiếng, chừng giây lát sau mới nói: “Lần này, lãnh đạo cấp trên sẽ thỏa hiệp thôi.”

“Sao cậu biết được?”

“Rất đơn giản, vì nhóm chúng ta từ khi được huấn luyện đến giờ, vẫn chưa từng tham gia thực địa tác chiến lần nào. Tôi nghĩ, một đội ngũ được huấn luyện đặc biệt để ra chiến trường, những tưởng sắp đạt tiêu chuẩn tới nơi, giải tán trong lúc này thật không có lợi đó.” Nhạc Dương cười cười nói.

Trác Mộc Cường Ba nghiêng mặt chăm chú nhìn Nhạc Dương, anh chàng này nói cũng khá có lý. Bất giác gã cũng thở dài: “Hy vọng được như cậu nói.”

Nhạc Dương lập tức nói: “Tôi đã bảo Cường Ba thiếu gia cũng không muốn bỏ cuộc như vậy mà, tư liệu tổ chuyên gia thu thập được vẫn có sức hấp dẫn rất lớn đúng không?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Cậu ấy à, đùng là cái gì cũng không giấu nổi cậu. Phải rồi, tôi lấy làm kỳ quái, tại sao cậu được chọn vào nhóm này? Chỉ là cấp trên sắp xếp thôi hả?”

Nhạc Dương nhún vai đáp: “Bởi vì trong đám lính trinh sát, tôi là người giỏi nhất.”

Trác Mộc Cường Ba bật cười. Nhạc Dương kêu toáng lên: “Đây là ý gì vậy? Chẳng lẽ Cường Ba thiếu gia anh không nhìn ra sự ưu tú của tôi hay sao?”

“Cậu bốc phét vừa vừa thôi…”

“Anh không thể lấy bà chằn đó ra so được, cô ta là giáo quan cơ mà. Được rồi được rồi, tôi sửa lại, trong đám lính trinh sát trẻ, tôi là người giỏi nhất.”

“Ha!”…

Bên kia, trong phòng làm việc của Lữ Cánh Nam, cô đang nôn nóng đi đi lại lại: “Ngài xem, như vậy được không? Á La đại nhân?”

Lạt ma Á La nói: “Cấp trên có phản ứng gì không?”

Lữ Cánh Nam nói: “Về điểm này thì xin Á La đại nhân yên tâm. Mệnh lệnh của cấp trên là, trước khi sĩ quan chỉ huy cao nhất tới đây, tất cả đều do con toàn quyền phụ trách. Năng lực của Nhạc Dương con biết rất rõ, chỉ cần gọt giũa thêm chút nữa là sẽ trở thành một viên ngọc sáng; Trương Lập tuy không phải người ưu tú nhất trong các học sinh của con, song cũng có thể coi là một trong những người đứng đầu, quan trọng nhất là ở bộ đội địa phương họ cũng không phải xuất chúng lắm, biểu hiện tương đối bình thường. Bọn họ cũng không hề biết nguyên nhân mình được lựa chọn, vì vậy đội ngũ lần này tuyệt đối không làm người ngoài hiềm nghi chút nào. Tất cả đều theo yêu cầu của Hội đồng Trưởng lão, tuyệt đối âm thầm hành động.”

Lạt ma Á La nói: “Nhạc Dương khá nguy hiểm đấy. Theo như Cường Ba thiếu gia nói, Nhạc Dương đã suy luận ra hầu hết các nghi vấn trong chuyến đi châu Mỹ này của họ đấy, liệu cậu ta có nghi ngờ nguyên nhân thực sự của việc tham gia nhóm này hay không?”

Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Chắc là không, lúc mới gặp mặt, con đã cố ý làm ra vẻ không quen biết bọn họ, hơn nữa, Nhạc Dương không có thói quen nghi ngờ giáo quan của mình đâu. Cường Ba thiếu gia thì chẳng biết chuyện gì, những người anh ấy tìm tới, giáo sư Phương Tân, cô Đường Mẫn, thậm chí cả anh chàng Ba Tang trong tù kia, cũng đều chẳng biết chút gì. Có lẽ chính vì nguyên nhân này, Cường Ba thiếu gia mới nôn nóng tìm hiểu thêm về Bạc Ba La thần miếu.”

“Ừm, tính cách Cường Ba thiếu gia rất độc lập, cứ tiếp tục giấu giếm thế này cậu ấy sẽ bỏ đi thật đấy, đã đến lúc cho họ biết về các tư liệu lịch sử kia rồi. Đối với Cường Ba thiếu gia, chúng ta cũng nên thay đổi thái đô, cố gắng khiến cậu ấy nghĩ rằng, là cậu ấy tự nỗ lực tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu chứ không phải vì chúng ta mới tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Trong những người này, kẻ duy nhất đáng nghi ngờ chính là anh chàng Ba Tang vừa mới ra tù kia. Có điều, nghe mấy người bọn Cường Ba thiếu gia kể về biểu hiện của Ba Tang trong chuyến đi châu Mỹ vừa rồi, nói không chừng anh ta thật sự có thể cung cấp một số đầu mối đặt biệt cho việc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, có điều Ba Tang lại bị nước lũ cuốn đi mất rồi, không biết có còn sống trở về được hay không nữa. Nếu Ba Tang sống trở về, chúng ta không thể không tăng thêm mối hoài nghi với anh ta, đồng thời, cũng phải lợi dụng anh ta triệt để hơn.”

“Vâng, Á La đại nhân.”

“Còn nữa, Ngải Lực Khắc kia hình như là một nhân vật có thừa, có phải cấp trên phái tới giám sát chúng ta hay không?”

“Không, chỉ là trợ thủ. Anh ấy sẽ đi ngay thôi, nhà nước nói còn có một nhiệm vụ khác cho anh ấy, có điều như vậy, ngược lại còn khiến con lo lắng hơn. Có lẽ, cái nhóm chưa làm nên chuyện gì này sắp phải giải tán đến nơi, vậy mà lúc này Cường Ba thiếu gia lại còn đưa ra những yêu cầu đó nữa.” Lữ Cánh Nam nói với vẻ khó xử.

“Ừm,” lạt ma Á La gật gật đầu: “Giờ còn một việc nữa phải lo lắng, chính là kẻ địch của chúng ta, suốt cả hành trình này, ta đều không cảm nhận được sự tồn tại của bọn chúng, có lẽ đúng là đã qua mặt được đối phương. Nhưng những chuyện bọn Cường Ba thiếu gia gặp phải lại khiến người ta phải nghi ngờ. Cả một khu vực lớn như vậy, chỉ có chừng bảy tám bộ lạc nguyên thủy, đi qua đó, tỷ lệ gặp đám người nguyên thủy ấy không quá một phần ngàn, vậy mà bọn Cường Ba thiếu gia lại gặp phải những hai lần; còn chuyện cả bọn buôn ma túy lẫn quân du kích địa phương đều truy đuổi bọn họ là thế nào? Ta luôn có cảm giác, sự việc này không hề đơn giản như bề ngoài, đằng sau dường như có âm mưu gì đó, nhưng chúng ta lại chẳng nhìn ra chút sơ hở nào, thật là khiến người ta phải lo lắng.”

“Á La đại nhân, liệu chúng ta có quá đa nghi hay không?”

“Không, con không hiểu đâu, kẻ địch của chúng ta hết sức giảo hoạt và nguy hiểm. Từ khi Thánh giáo chúng ta tiếp xúc với bọn chúng, trên phương diện điều tra các đầu mối về Bạc Ba La thần miếu, hai bên đã bị chúng chiếm mất tiên cơ, lần này nói thế nào cũng không để xảy ra bất cứ điều gì sơ sót.”

Lữ Cánh Nam hỏi: “Á La đại nhân, theo ngài thì Merkin có phải một trong số những kẻ ấy hay không?”

Lạt ma Á La lắc đầu: “Không biết, ta cũng không cảm thấy sự tồn tại của hắn. Có lẽ hắn không đi Bạch thành, lần này rời khỏi Trung Quốc trước chỉ là trùng hợp.”

Lữ Cánh Nam nói: “Không biết cái nhìn của đại nhân về hành trình lần này như thế nào?”

Lạt ma Á La thở dài: “Nguồn tin chuẩn xác, chỉ có điều chúng ta đã tới chậm một bước, để kẻ khác nhanh chân hơn. Chắc là món đồ trong địa cung ** Puch đã bị trộm đi từ bảy năm trước rồi.”

Lữ Cánh Nam nhíu mày lên nói: “Nếu đúng là sự thật, vậy thì trong tay chúng ít nhất cũng có bản đồ và tòa thành ánh sáng tỏa chiếu rồi. Vậy thì tại sao bọn chúng vẫn cứ chần chừ chưa hành động?”

Lạt ma Á La lắc đầu: “Không biết nữa, có lẽ chúng vẫn chưa phá giải được thông tin ẩn chứa trong tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu cũng nên, dù thế nào thì chúng cũng không có khả năng diễn dịch được thông tin trên bản đồ đâu.” Lạt ma Á La để lộ vẻ mặt nặng nề, lẩm bẩm nói, “Nếu những gì người ở trong rừng Mãng Xà nói là sự thật, vậy thì bọn họ là một nhóm mười ba người. Trước khi đến địa cung ** Puch đã chết mất bốn người, thêm anh ta vào nữa thì là năm, có lẽ còn lại tám người, trong địa cung không thể nào không có người mất mạng, vậy thì rốt cuộc đám người ấy còn bao nhiêu người nữa? Nếu Merkin là một trong số đó, vậy những kẻ khác giờ đang ở đâu?” Cuối cùng, ông thở dài một tiếng: “Đám người này quả là đáng sợ, trên đường tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, bọn chúng đã dẫn trước chúng ta. Đây đúng là một chuyện hết sức gay go, chúng ta không còn thời gian nữa rồi!”

Lữ Cánh Nam đặt tay trái lên vai phải, cúi thấp người xuống: “Đại nhân, xin ngài yên tâm, chúng ta sẽ cố gắng hết sức vượt lên trước bọn chúng, ánh sáng của thần miếu mãi mãi soi đường cho chúng ta. Với sự chỉ dẫn của thần Trí tuệ, chúng ta nhất định sẽ có được ánh sáng.”

Lạt ma Á La nói: “Phải rồi, nghe nói cuối cùng con đã cứu ba người ra khỏi rừng sâu, trong đó có một người tóc bạch kim phải không?”

Lữ Cánh Nam gật đầu: “Vâng, Sean, làm một người Anh.”

Lạt ma Á La nói: “Con thấy người này thế nào?”

Lữ Cánh Nam nghĩ ngợi giây lát rồi đáp: “Khi nhìn thấy anh ta, con có cảm giác người này giống một kẻ lang bạt phóng khoáng tự do, ấn tượng mà anh ta mang tới cho con là, một quý ông người Anh rỗi việc buồn đời, không biết trời cao đất dày tham gia đoàn du lịch tự túc tới rừng nguyên sinh mạo hiểm.”

Lạt ma Á La nói: “Không, con nhầm rồi. Khi nghe Cường Ba thiếu gia kể về con người này, ấn tượng của ta là, kinh nghiệm sống trong rừng nguyên sinh của anh ta cao hơn bọn Cường Ba thiếu gia thật không biết bao nhiêu lần. Người này rất đáng nghi, phải nhận diện khuôn mặt, nhất định phải tra ra lai lịch của anh ta.”

Lữ Cánh Nam băn khoăn: “Làm vậy liệu có hơi quá…”

Lạt ma Á La xua tay nói: “không thể sơ ý, không thể để tình huống nào nằm ngoài dự liệu của chúng ta xảy ra.” Lữ Cánh Nam vội vâng dạ đáp lời. Lạt ma Á La lại ngước mắt nhìn lên bầu trời xanh thẳm, chậm rãi nói tiếp: “không thể sơ suất được nữa, hai mươi năm trước, vì một phút sơ sẩy, đã khiến một cô bé vô tội rơi vào địa ngục. Sai lầm tương tự như vậy, tuyệt đối không thể tái diễn lần nữa.”

Cuối cùng, lạt ma Á La nói: “Vậy thì cứ quyết định vậy đi, ngày mai ta và con sẽ cùng nói cho Cường Ba thiếu gia những tư liệu mà cậu ấy hứng thú. Con phải báo cáo ổn thỏa chuyến đi châu Mỹ này lên thượng cấp, ta cũng mang toàn bộ nội dung của hành động lần này báo cáo với hội đồng Trưởng lão, họa may các vị trưởng lão có thể nhìn ra âm mưu của kẻ địch trong lần hành động này. Hà…”

Sáng sớm hôm sau, Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân tới phòng làm việc của Lữ Cánh Nam. Gã vốn định kéo cả Nhạc Dương, Trương Lập cùng đi cho người đông thế mạnh, như vậy mới gây áp lực được với Lữ Cánh Nam. Trác Mộc Cường Ba nói hai người bọn họ cũng có quyền được biết mình đang chấp hành nhiệm vụ gì, nhưng hai tên nhát gan ấy vừa nghe nhắc tới chuyện kiếm giáo quan đàm phán đã rụt lại, nói thế nào cũng không chịu đi. Còn về Mẫn Mẫn, Trác Mộc Cường Ba vốn không có ý định để cô dính dáng đến chuyện này. Gã cũng tìm tới lạt ma Á La, không ngờ nhà sư già nói mình là người của phía tôn giáo, cũng biết chuyện rồi. Trác Mộc Cường Ba tròn mắt lên nhìn ông một lúc lâu, không thể nào vị sư già này đã biết hết mọi chuyện, gã còn tưởng đâu chỉ có Lữ Cánh Nam với Ngải Lực Khắc là hiểu rõ chuyện này thôi.

Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La đã ở trong văn phòng đợi họ từ trước, chỉ có Ngải Lực Khắc là không thấy đâu.

“Cấp trên đã có câu trả lời chưa?” Trác Mộc Cường Ba vừa bước vào đã mở miệng hỏi ngay.

“Ngồi đi.” Lữ Cánh Nam đưa tay ra hiệu mời ngồi. Bên tay phải của cô đặt hai chồng tư liệu dày cộp. Trác Mộc Cường Ba thấy có hy vọng, thầm nhủ xem ra lần này Nhạc Dương đã đoán trúng rồi.

Đợi hai người ngồi xuống xong xuôi, Lữ Cánh Nam đan chéo mười đầu ngón tay vào nhau, chậm rãi thong thả nói: “Còn nhớ trước khi xuất phát, tôi đã nhắc với anh về Cổ Cách kim thư mới từ hải ngoại mang về hay không?”

“Đương nhiên.”

Lữ Cánh Nam nói: “Tin rằng hai người đều có hiểu biết rất sâu về vương triều Cổ Cách phải không?”

Giáo sư Phương Tân lấy làm lạ nói: “Không hiểu rõ lắm.”

Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên nói: “Tại sao tôi phải hiểu rất rõ chứ? Tôi chỉ biết vương triều ấy ở phía Tây, hình như thuộc khu vực A Lý thì phải?”

“Vậy còn vương triều Tượng Hùng? Nó được kiến lập trước vương triều Cổ Cách, có thể nói là tiền thân của vương triều Cổ Cách.”

“Có nghe nói, nhưng cũng không hiểu biết gì hết.”

Lữ Cánh Nam ngầm liếc mắt nhìn lạt ma Á La, lạt ma Á La cũng lẳng lặng ra ám hiệu ngầm, biểu thị Trác Mộc Cường Ba đích thực không biết gì về chuyện này. Lữ Cánh Nam lại nói tiếp: “Không biết cũng không sao, hai người xem qua các tư liệu này sẽ hiểu thôi. Tôi sẽ nói vắn tắt tầm quan trọng của nó. Sau khi Tán thổ Lăng Đạt Mã chết, chiến tranh diễn ra liên tiếp. Năm 877 sau Công nguyên, vương triều Thổ Phồn diệt vong, đồng thời bị chia cắt thành mấy vương quốc nhỏ. Giai đoạn này đã hoàn toàn bị quên lãng trong lịch sử. Từ sau trở đi, tư liệu có thể tra cứu trong lịch sử chỉ có A Để Hiệp 3 đại sư vào đất Tạng năm 1042 sau Công nguyên, có điều đây cũng không hoàn toàn là tư liệu lịch sử. Trong những vương quốc nhỏ ấy, chỉ có một vương quốc duy nhất có được hòa bình và nhanh chóng hồi phục, rồi tồn tại kéo dài đến mấy trăm năm sau, chính là vương quốc của vương triều Cổ Cách. Bọn họ là con cháu của Lăng Đạt Mã thuộc nhánh của Duy Tùng. Nếu như tình từ Duy Tùng, lịch sử của vương triều này bắt đầu từ năm 842 trước Công nguyên cho tới tận thế kỷ mười bảy, vừa hay bao gồm cả giai đoạn “tịch diệt” kia. Vì vậy, các văn kiện lịch sử của vương triều Cổ Cách có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nghiên cứu giai đoạn lịch sử thất lạc sau khi Lãng Đạt Mã diệt Phật giáo. Trước mắt, các chuyên gia đã có nhận định sơ bộ, số Cổ Cách kim thư này, chính là các văn kiện lịch sử của Cổ Cách đã bị mất tích, nếu được chứng thực, giá trị của chúng sẽ cực kỳ trân quý. Hơn nữa, theo nguồn tin đáng tin cậy của chúng ta, số Cổ Cách kim thư này chính là một trong những đầu mối quan trọng mà năm xưa Stanley phát hiện được ở Tây Tạng. Tóm lại, Cổ Cách kim thư chính là sử liệu đáng tin cậy nhất về giai đoạn Phật diệt, đầu mối mà nó cung cấp cũng là đáng tin cậy nhất. Những vấn đề liên quan đến phương diện lịch sử tôi không rườm rà nhắc lại nữa, ở đây chỉ nhấn mạnh vào một số vấn đề trong Cổ Cách kim thư có liên quan tới châu Mỹ thôi. Thực ra, chuyến đi châu Mỹ lần này của mọi người, cũng liên quan tới số Cổ Cách kim thư vừa mới được mang trở về tổ quốc kia.”

Trác Mộc Cường Ba càng nghe càng thấy mơ hồ khó hiểu: “Chuyến đi châu Mỹ? Liên quan gì đến Cổ Cách kim thư chứ?”

Lữ Cánh Nam nói: “Anh nghe tôi nói hết đã. Theo những tư liệu chúng tôi nắm được, sau giai đoạn diệt Phật, để bảo vệ kinh điển của Phật gia thời đó, những vị cao tăng lánh đời ẩn thế có thể nói đã mang đi số kinh điển hoàn chỉnh nhất và các công nghệ phẩm xa hoa nhất của vương triều Thổ Phồn thời kỳ thịnh vượng. Bọn họ trải qua vô số hiểm nguy, cuối cùng đã tìm được một nơi an toàn. Có lẽ bọn họ cũng biết, không thể để những báu vật nghệ thuật ấy vĩnh viễn chôn vùi ở một nơi không ai hay biết được, rồi sẽ có một ngày, cần phải để cho chúng xuất hiện trở lại dưới ánh mặt trời; hoặc cũng có thể là các vị cao tăng ấy có tranh chấp nội bộ, nảy sinh nghi ngờ đối với quyền sở hữu các vật phẩm trong thần miếu. Tóm lại, mấy chục năm sau khi thần miếu được xây dựng xong, những người đó đã phái sứ giả đi, tổng cộng mang theo ba món đồ, chính là tín vật để chỉ dẫn người đời sau tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Theo những thông tin mà chúng ta nắm được hiện nay, một trong ba thứ đó, chắc là một tấm bản đồ, ghi chép cách vượt qua bóng đêm và nguy hiểm, tìm đến được nơi họ xây dựng thần miếu. Về thứ này, chúng tôi đã từng tổ chức điều tra toàn diện, lát nữa sẽ nói tường tận với anh sau. Một thứ nữa, gọi là tòa thành ánh sáng tỏa chiếu, cụ thể là thứ gì, thì đến giờ chúng tôi cũng chưa làm rõ, thế nhưng, chúng tôi đã tìm thấy trong Cổ Cách kim thư một số vết tích lịch sử liên quan đến món vật này.”

Đây mới là lần thứ hai Trác Mộc Cường Ba tiếp xúc với chuyện liên quan tới Bạc Ba La thần miếu, hoàn toàn không ngờ ngôi miếu này lại có nhiều chuyện đến thế

——————————–

1 Một điểm du lịch nổi tiếng của thành phố Lhasa.

2 Tường biên mã là kiến trúc rất phổ biến trong các chùa miếu Tây Tạng; tên gọi này là do màu đỏ đặc trưng của nó được nhuộm bằng một loại cây bụi, tiếng Tạng gọi là cây biên mã.

3 Atisas (942-1054), nhà Phật học Ấn Độ cổ đại, ông là người có công rất lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo Tây Tạng hồi thế kỷ X sau công nguyên.

Bình luận
× sticky