Ở dải đất sâu trong trung tâm, nguy hiểm nhất đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, chính là đoạn sông dài gần trăm cây số từ Bạch Mã Cẩu Hùng đi xuống. Khe núi sâu thẳm u tối, nước chảy cuồn cuộn, đến giờ vẫn chưa ai có thể đi qua được. Chính vì sự khó khăn và nguy hiểm ấy, nên nơi này gọi là “vùng đất bí mật cuối cùng của nhân loại”. Theo sự chỉ dẫn của tấm bản đồ kia, bọn Trác Mộc Cường Ba đang chuẩn bị đến chính nơi đó thử vận may.
Bí mật lịch sử Cổ Cách
Lại thêm ba tuần nữa trôi qua, Ba Tang sau khi điều trị hồi phục và xuất viện ở Colombia đã liên lạc với Lữ Cánh Nam, chẳng mấy hôm đã thông qua bộ Ngoại giao trở về Trung Quốc. Mọi người vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Mặc dù chuyên băng rừng nguyên sinh này có thể xem như là một thất bại lớn, song dù sao các thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt cũng không ai hy sinh vì nhiệm vụ cả. Trải qua sự việc nơi rừng hoang núi thẳm lần này, quan hệ giữa Ba Tang và các thành viên khác trong nhóm của Trác Mộc Cường Ba cũng bắt đầu trở nên hòa hợp hơn. Chỉ có Trác Mộc Cường Ba là có vẻ khó xử rõ rệt. Những lời của Lữ Cánh Nam, giống như mũi dao sắc đâm thẳng vào lồng ngực gã, “Chúng tôi nghi ngờ, trong các anh có một kẻ mật báo tin tức ra ngoài.” Sau khi nghe được điều này, trong lòng Trác Mộc Cường Ba đã ngấm ngầm xếp hạng mức độ tin cậy cho tất cả các thành viên trong nhóm. Bản thân gã cho rằng mình sẽ xếp Đường Mẫn đứng đầu tiên, nhưng khi xếp như thế rồi gã mới nhận ra, dù thế nào, vị trí đầu tiên vẫn nhất định thuộc về thầy giáo của gã, giáo sư Phương Tân. Mẫn Mẫn chỉ có thể xếp thứ hai. Nhạc Dương và Trương Lập đều là người trong quân đội, bản thân gã cũng hết sức tín nhiệm hai người này. Chỉ có mình anh chàng Ba Tang này là đáng nghi nhất. Một khi đã nghi ngờ người nào đó, Trác Mộc Cường Ba sẽ không thể nào rặn ra được một nụ cười giả vờ thiện chí với kẻ ấy được nữa. Khi bắt tay với Ba Tang, ánh mắt gã lộ rõ vẻ hoài nghi. Gã miễn cưỡng gượng cười nói: “Tôi biết là anh không dễ dàng hy sinh như vậy được mà.”
Ba Tang cũng nói: “Không ngờ rốt cuộc các cậu cũng đi trước tôi một bước.”
Theo lời kể của Ba Tang, anh ta bị cơn lũ cuốn về phía Bắc, vì đụng phải cây lớn bị thương nên mất hết tri giác, phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng trong bệnh viện hơn một tháng trời. Bệnh án và một loạt bản báo cáo về anh ta cũng được Bộ Ngoại giao chuyển hết đến tay Lữ Cánh Nam. Những Trác Mộc Cường Ba lại phát hiện ra một điều, chính là da Ba Tang đã đen sạm đi, trên người dường như còn mang theo vị mằn mặn ẩm ướt của gió biển, nhanh nhác mùi của một loại nước hoa cao cấp nào đó. Nói là nghỉ ngơi trong bệnh viện hơn 1 tháng, chi bằng bảo đi du lịch đâu đó hơn một tháng thì giống hơn. Nếu suy đoán của gã mà chính xác, vậy thì kinh phí đi du lịch của Ba Tang lấy từ đâu ra?
Nhìn hai người Trương Lập, Nhạc Dương tíu tít kể cho Ba Tang những chuyện xảy ra sau khi họ lạc nhau, Trác Mộc Cường Ba không muốn tiến đến quá gần, chỉ lặng lẽ đứng dưới một tán cây. Giáo sư Phương Tân nhận ra vẻ lo âu của gã, bèn hỏi: “Cậu nghi ngờ Ba Tang?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi không biết, nếu trong chúng ta thật sự có một người đáng nghi ngờ, thì cũng chỉ có thể là anh ta mà thôi. Song tôi cũng rất mâu thuẫn, tôi có nên vô duyên vô cớ đem lòng nghi ngờ người khác không nhỉ?”
Giáo sư Phương Tân mỉm cười khuyên giải: “Đường dài mới hay sức ngựa, ngày lâu mới thấy lòng người, hà tất phải dồn tâm trí nghi ngờ ai làm gì? Nếu thực làm chuyện trái với lương tâm, sớm muộn gì anh ta cũng phải lộ ra thôi. Hơn nữa, tại sao chỉ có chúng ta mới bị nghi ngờ, bọn họ, chẳng lẽ không có điểm nào đáng nghi hay sao?” Trác Mộc Cường Ba hiểu được, “bọn họ” mà giáo sư Phương Tân nhắc đến chính là chỉ ba người đến sau, bao gồm Lữ Cánh Nam, Ngải Lực Khắc và lạt ma Á La. Không thể hoàn toàn tin tưởng bất cứ người nào khác hay sao? Gã lắc đầu, chỉ vì thái độ đối với người khác của ai đấy mà làm cả một nhóm người thành ra nghi ngờ lẫn nhau thế này, rốt cuộc là đúng hay sai đây?
Trác Mộc Cường Ba cố gạt những ý nghĩ khiến người ta phải đau đầu ấy ra khỏi tâm trí, chuyển sang chủ đề khác: “Phải rồi, thầy giáo, có phát hiện gì mới về giai đoạn lịch sử ấy của vương triều Cổ Cách chưa?”
Theo những tư liệu điều tra được, lịch sử Cổ Cách đại khái cũng đã hiện lên khá rõ ràng. Giáo sư Phương Tân từng buông lời cảm thán thế này: “Cổ Cách đúng là một vương triếu sinh ra vì Phật giáo, rồi cũng vì Phật giáo mà diệt vong.”
Cổ Cách vương là hậu duệ trực hệ của vị Tạng vương đã ra lệnh diệt Phật giáo Lãng Đạt Mã. Tạng vương Lãng Đạt Mã diệt Phật chỉ mới hai năm, đã bị La Long Bối Cát Đa Kiệt của Phật giáo giết chết. Sau sự kiện ấy, triều đình Thổ Phồn bắt đầu phân hóa. Duy Tùng là con côi do thứ phi của Lãng Đạt Mã sinh ra, được gia tộc Vĩ thị ủng hộ tôn làm Tán thổ. Còn chính phi cũng không cam chịu để mất quyền lớn trong tay. Tương truyền bà ta đã lén lút mua về một đứa trẻ sơ sinh, rồi cũng lập đứa con mua về này làm Tán thổ, gọi là Vân Đơn. Kể từ đó trở đi, vương triều Thổ Phồn xuất hiện hai vị Tán thổ cùng một lúc, chia thành hai phái đều tự nhận Tán thổ của mình lập nên mới là Tán thổ thực sự, tranh đấu không ngừng nghỉ. Chiến tranh vì thế bùng nổ và không ngừng lan rộng, nên giai đoạn này người đời sau gọi là Loạn ngũ như.
Chiến tranh kéo dài trong nhiều năm liền khiến trăm họ lầm than, khổ sở không sao tả xiết, cuối cùng đã vùng lên dưới sự lãnh đạo của các quý tộc và một số quân sĩ. Cả hai vị tán thổ, một người bỏ trốn, một người bị giết. Phụ thân của Cổ Cách vương đời thứ nhất, chính là cháu nội của vị Tán thổ Duy Tùng kia, gọi là Cát Đức Ni Mã Cổn, chạy đến vùng A Lý, thông hôn với tù trưởng địa phương, sinh được ba người con là Bối Cát Nhật Ba Cổn, Trát Tây Cổn và Đức Tổ Cổn, lần lượt chiếm cứ Mang Vực (Ladakh 1 ngày nay), Bố Nhượng (khu vực huyện Phổ Lan) và Tang Cát Nhĩ (phía Nam Ladakh. Ba người con này được xưng là “Thượng Bộ tam Cổn”, “Thượng Bộ” ý chỉ vùng A Lý, vì là thổ vương của một vùng nhỏ, nên gọi là Cổn, Cổn có nghĩa là Đấng cứu thế.
Trong các pho Tạng sử chính thức mà họ tra cứu, gần như đều nói Cổ Cách vương đầu tiên là Trát Tây Cổn, nhưng trong tư liệu của Lữ Cánh Nam cung cấp lại có phần dã sử và ghi chép trong dân gian trực tiếp gọi Cát Đức Ni Mã Cổn là Cổ Cách vương đời thứ nhất, vì ông ta đã kế thừa gia nghiệp của vị tù trưởng kia, Cổ Cách cũng nằm trong lãnh địa trị vì ấy. Chỉ có điều nếu như vậy, vị quốc vương nghênh tiếp sứ giả kia phải tính từ Cát Đức Ni Mã Cổn hay tính từ Đức Tổ Cổn, trước mắt bọn họ vẫn chưa thể đưa ra được một kết luận, khoảng thời gian chênh lệch đó ước cũng phải khoảng chừng ba bốn chục năm 2.
Giáo sư Phương Tân nói: “Trước mắt chúng tôi tạm thời nghiêng về giả thiết cho rằng vị Quốc vương nghênh đón sứ giả kia là Cổ Cách vương đời thứ hai Tùng Ngang, bởi vị Quốc vương này có thể nói là đã tận tâm tận lực đối với sự nghiệp hoằng dương Tạng truyền Phật giáo. Tương truyền trong khoảng thời gian từ năm 975 đến 981 sau Công nguyên, ông ta đã phái hai mươi mốt thanh niên bao gồm cả Đại dịch sư Thiết Tang Bố sang Thiên Trúc học Phật (cũng có tài liệu nói là hai mươi bảy người). Hành trình của họ gian khổ khó khăn không bút nào tả xiết, cuối cùng chỉ có hai người sống sót trở về, nghe nói chính là Đại dịch sư và Tiểu dịch sư sau này. Hơn nữa, không lâu sau khi phái đi các thanh niên cầu Phật, vị Quốc vương này thoái vị nhường ngôi, quy y Phật pháp, về sau xây chùa Thác Lâm, đến những năm cuối đời còn gom góp tiền của đích thân đi mời A Để Hiệp đại sư, nhưng dọc đường đã bị quân đội nước khác bắt cóc, cuối cùng thì chết giữa đường. Thằng nhóc Nhạc Dương kia suy đoán, vị Cổ Cách vương này nhiệt tâm với Phật giáo như vậy, quá nửa là do nhìn thấy thần tích mà vị sứ giả kia mang tới, song có điều là, trước khi nhìn thấy Cổ Cách kim thư, tất cả cũng chỉ là suy đoán mà thôi.” Nói tới đây, giáo sư Phương Tân không nén nổi mà gượng cười lắc lắc đầu, “Lịch sử của Cổ Cách, quả thực là… cậu có biết không, chỉ riêng chuyện cuối cùng vị Cổ Cách vương ấy Tây du cầu Phật bị bắt cóc, chúng tôi đã tra ra bảy phiên bản khác nhau, địa điểm, thời gian, quân đội nước ngoài, quá trình sự kiện xảy ra, số tiền chuộc đều khác nhau, thực sự là không thể nào phán đoán xem phiên bản nào mới là sự thực đã xảy ra trong lịch sử cả.”
Nhìn vẻ mặt chua chát của giáo sư Phương Tân, Trác Mộc Cường Ba hiểu rõ, đây là một vấn đề rất lớn khác mà bọn họ gặp phải khi tra cứu lịch sử của vương triều Cổ Cách. Vương triều này tuy rằng kéo dài đến cả mấy trăm năm, song lại nằm ở miền biên viễn xa xôi. Ngoại trừ các văn bản lịch sử của bản thân nó ra, toàn bộ các tư liệu khác đều chỉ là những thông tin vụn vặt. Đến cả bộ sử thuộc về giai đoạn đầu như Tây Tạng vương thống ký cũng chỉ ghi chép có chín đời Cổ Cách vương, từ sau đó trở đi là không rõ, bọn họ cũng chưa thể đưa ra kết luận cuối cùng về thời gian trong lịch sử. Mà vương triều Cổ Cách này lại còn bị chiến tranh hủy diệt. Bản thân sự biến mất của nó có thể nói đến nay vẫn còn là một câu đó. Mãi đến thế kỷ mười chín, trước khi các nhà thám hiểm nước ngoài bắt đầu tiến vào vùng đất hoang vu không người sinh sống này, mọi người gần như đã hoàn toàn quên lãng rằng từng có một vương triều như vậy trong lịch sử.
Giáo sư Phương Tân thở dài nói: “Lịch sử Cổ Cách và nền văn minh Maya không ngờ lại giống nhau đến kinh người. Cả hai vương triều này đều đột nhiên gặp phải đại họa khi đang trong thời kỳ phát triển rực rỡ huy hoàng nhất. Chính vì biến cố bất ngờ mà tất cả đều được bảo tồn, đều được lưu giữ lại. Mấy thế kỷ sau đó, nhân loại dường như không biết đến sự tồn tại của chúng, kiến trúc và đường phố của chúng không bị hoạt động của con người phá hoại, văn tự và tôn giáo không bị sửa sang, phong cách nghệ thuật và bích họa không bị bóp méo, thậm chí hiện trường lúc gặp phải tai họa hủy diệt của chúng cũng được bảo tồn nữa kia.”
Trong đầu Trác Mộc Cường Ba lúc này, tự nhiên lại nghe thấy tiếng Babatou ngâm nga bài sử ca: “Một khi để máu tanh xâm phạm đến bậc thang của thánh miếu, vô số tai họa sẽ như cơn mưa đá đáng sợ liên hồi kéo đến giáng xuống tất cả mọi nơi, tòa thành sẽ biến thành nơi hoang phế chết chóc, một hoang mạc không người.”
Trong biệt thự của Merkin, giữa chiếc bàn vứt bừa bãi ngồn ngộn giấy bút, hai đầu bàn chồng chất sách vở thành hai bức tường. Merkin vùi đầu vào giữa hai bức tường ấy, gần như bò toài ra trên tấm bản đồ, giơ kính lúp lên soi từng đường chỉ mảnh trên đó. Đôi mắt của y nhìn tựa hồ như thuộc về một loài dã thú đói khát nào đó chứ không phải của con người nữa. Soares thì ngồi ôm một cuốn từ điển khổng lồ, dài tới ba mươi centimet, dài rộng sáu mươi centimet, chúi mũi lật lật giở giở.
Những nét đen mảnh trên bản đồ cuối cùng dẫn đến ba nơi khác nhau, dường như ý của người vẽ tấm bản đồ này là muốn người ta đến ba nơi ấy kiếm ba thứ gì đó. Đầu tiên là một viên bảo thạch sáng lấp lánh, phần chú thích bằng tiếng Tạng dịch ra nghĩa là: “Màu đỏ, mở ra món lễ vật tán dương sự sống”; món thứ hai là một cuốn sách dày cộp, bên cạnh có chú thích: “Lý lẽ huyền ảo đều ở trong đây”; còn một món nữa đã bị xóa nhòa đi mất, có lẽ để chứng tỏ không cần thiết, nhưng lờ mờ có thể nhận ra những nét chữ mơ hồ dịch nghĩ là: “Bảo khí, cuối cùng”. Ngoài ra, trên bản đồ còn có vô số mũi tên, trỏ đi trỏ lại giữa ba nơi này, dựa vào những vết xóa có thể nhận ra, người vẽ vốn hy vọng ai có được bản đồ sẽ đến nơi ở giữa trước tiên, nhưng sau tính toán thế nào lại xóa mờ thứ ở giữa và đầu mũi tên đi, ý nói không cần phải đến nơi ấy nữa. Mới đầu bọn y còn nghi ngờ không hiểu có ai đã đụng tay đụng chân vào tấm bản đồ này hay chưa, nhưng sau khi kiểm tra bằng các phương tiện khoa học kỹ thuật, phát hiện ra vết xóa và các dấu hằn được tạo ra cùng một thời gian với những đường nét khác, hơn nữa thủ pháp và phong cách là của cùng một người, vì vậy chỉ có thể phán đoán là chính người vẽ bản đồ đã thay đổi ý kiến mà thôi.
Bọn y nhận ra được đường chỉ thứ hai dẫn đến một nơi gọi là “đóa hoa”. Địa danh ở khu vực phía trên dịch nghĩa là “sáu ngọn núi”, bên dưới “sáu ngọn núi” là “đại đài địa” và một địa danh được dịch thành “tổ tiên”, bên phải là “bảo tọa mặt trời”, kế đó là hai nơi có tên phát âm thành “liangbu”, “tabu”, ba nơi này ở sát cạnh nhau.
“Tìm thấy rồi, là ở đây, vùng đất hoa sen nở rộ, chính là Mặc Thoát chứ còn đâu nữa, hại tôi tốn bao nhiêu thời gian tìm kiếm…” Merkin hưng phấn kêu lên.
Soares bỏ chiếc kính xuống, ngả người dựa vào sofa, hé miệng thở hắt ra “phì” một tiếng. Mấy tháng vừa rồi, bọn y gần như đã hoàn thành được cả một đại công trình. Các địa danh được chú thích trên bản đồ toàn bộ đều là địa danh cổ từ hơn ngàn năm trước, có rất nhiều tên từ thời Thổ Phồn vương triều hoặc thậm chí là trước đó, thể chữ chuỗi hạt này lại khác hẳn với Tạng văn ngày nay, bọn y phải dò từng con sông, từng ngọn núi một. Hơn thế, Merkin không tin tưởng vào người khác, tất cả công việc tìm kiếm tư liệu đều phải do bọn y tự thực hiện. Tuy nhiên cũng rất may là, tấm bản đồ này dường như được chuẩn bị cho người không thể tìm được đường, người vẽ ra nó đã chú thích rất tường tận từng địa danh, tên núi, tên sông, chỉ còn mỗi ba nơi cuối cùng kia là đều vẽ ra một ký hiệu Ung Trọng trông như vòng xoáy, dịch ra tiếng hiện đại thì không phải Bạc Ba La, mà là… cái rốn!
Sau khi khôi phục thể lực chừng một tháng, Lữ Cánh Nam đem những điều tâm đắc mọi người viết ra để tổng kết một cách tường tận, đồng thời bắt đầu tiến hành huấn luyện có tính định hướng. Lại một tháng nữa trôi qua, Lữ Cánh Nam đứng trên bục giảng, tay cầm một vật bằng gỗ gần giống như cục rubik, nói với các học viên: “Kể từ hôm nay, mọi người sẽ học môn cuối cùng, và cũng là môn nguy hiểm nhất – cơ quan học!”
Các học viên đều lộ ra vẻ hoan hỉ mừng rỡ. Trác Mộc Cường Ba rõ là có nhu cầu bức thiết muốn biết các tri thức liên quan tới cơ quan học, nhưng người hưng phấn nhất thì phải là Trương Lập. Anh chàng này từ lâu đã ngưỡng mộ môn học này, đồng thời cũng đã tìm hiểu sơ bộ về máy móc trang bị và cách chế tạo một số cạm bẫy đơn giản rồi.
“Thử cho tôi biết xem, mọi người hiểu thế nào về “cơ quan”?” Lữ Cánh Nam bình thản nói.
“Cạm bẫy”, “vũ khí giết người”, “vũ khí có thể tự động giết người”, bên dưới lập tức vang lên nhiều đáp án khác nhau.
Lữ Cánh Nam lại nói: “Thứ gọi là cơ quan, hoàn toàn không chỉ có nghĩa hẹp là cạm bẫy giết người, vũ khí tự động tấn công như mọi người vẫn tưởng, mà chỉ là tất cả các thứ có kết cấu bằng lẫy chốt, lớn thì như mộng, như chốt, rường xà cột kèo trong các công trình kiến trúc, nhỏ thì là một ổ khóa sắt, còng sắt, tất cả đều có quan hệ với cơ quan học cả. Trong số mọi người ở đây, ngoài lạt ma Á La và chú Mao Lạp ra, những người còn lại e rằng đều rất lạ lẫm với môn học này. Nếu muốn tinh thông cơ quan học, chỉ sợ nghiên cứu cả đời cũng khó hoàn thành được hết các hạng mục, vì vậy, thứ chúng ta cần học, chỉ là tư duy phát hiện mấu chốt của cơ quan, đồng thời phán đoán được cấu tạo của nó mà thôi, cũng chính là tránh cạm bẫy giết người, phát hiện cửa ngầm bí mật mà người ta vẫn thường nói tới. Chỉ riêng khoản này, cũng đủ cho mọi người học hết hơn nửa năm rồi đấy.” Đến đây, cô giơ tay lên nói: “Đây chính là một cơ quan, mỗi người một chiếc, tự lên lấy xuống đi.”
Mỗi người bước lên nhặt một khối lập phương bằng gỗ, rồi lại trở về chỗ ngồi của mình. Trác Mộc Cường Ba cầm khối gỗ trên tay, phát hiện ra hình lập phương này do những khối gỗ nhỏ bề ngang, chiều dày đều một centimet, chiều dài mười centimet ghép lại mà thành, đan xen chằng chịt, bên ngoài trơn nhẵn tựa như là một khối chỉnh thể, rất khó tách rời. Xoay xoay vặn vặn một lúc lâu mà cũng không phát hiện ra lẫy chốt gì bên trong, gã nhủ thầm trong bụng: “Cái này thì là cơ quan gì chứ? Có phải định bịp người ta không đây?”
Lữ Cánh Nam nói: “Thứ mọi người đang cầm trong tay lúc này, chính là cơ quan nguyên thủy nhất, và cũng đơn giản nhất, gọi là khóa gỗ, ở cửa hàng đồ chơi cho người lớn hay đồ chơi trí tuệ đều có bán, hai nhân dân tệ một cái.”
Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: “Quả nhiên là gạt người.”
Lữ Cánh Nam lại mỉm cười nói tiếp: “Mọi người đừng coi thường thứ này không có gì đặc biệt, thực ra bên trong nó là kết tinh trí tuệ của cổ nhân đó. Nhìn bề ngoài thì các khối gỗ nhỏ đều giống hệt nhau cả, kỳ thực chỉ có mặt ngoài mọi người mới nhìn thấy giống nhau thôi, còn bên trong thì hết sức chằng chịt phức tạp, có hình móc, có hình vòng, có khối gồ lên ở giữa, có khối hõm vào. Tổng cộng có sáu mươi tư khối gỗ nhỏ, có thể tách rời hẳn ra, bây giờ mọi người bắt đầu chia tách chúng ra đi, xem thử khả năng thiên phú về cơ quan học của từng người đến đâu.”
Tất cả học viên đều bắt đầu tách khóa gỗ. Trác Mộc Cường Ba lần mò một lúc, ngoảnh đầu nhìn về phía giáo sư Phương Tân, thấy ông đang ấn một khối gỗ nhỏ ở giữa khối lập phương ra một đoạn, lập tức được gợi ý, vội dùng sức ấn vào giữa hình lập phương, nhưng đã ấn cả sáu mặt rồi cũng không thấy khối lập phương ấy lơi lỏng ra một chút nào. Mười phút trôi qua, Trác Mộc Cường Ba mặt đẫm mồ hôi, Nhạc Dương và Trương Lập thì chúi đầu vào một chỗ rì rầm bàn tán, Ba Tang ngấm ngầm nhíu chặt đôi mày, đến cả Đường Mẫn cũng rầu rĩ không làm được gì, chỉ có hai ông già là vẫn ung dung thoải mái, lạt ma Á La thậm chí còn rút hẳn một khối gỗ nhỏ ra ngoài, kế đó thì như Bào Đinh mổ trâu 3, càng làm càng nhanh.
Lữ Cánh Nam nhìn mọi người mà thầm thấy tức cười, bèn lên tiếng nhắc nhở: “Không cần phải trao đổi kinh nghiệm đâu, mỗi cái khóa gỗ đó đều có kết cấu bên trong khác nhau. Mấu chốt của việc mở khóa gỗ, chính là thuận theo kết cấu bên trong của nó, từng bước từng bước một tách ra. Điểm khó ở đây là mọi người không nhìn thấy kết cấu bên trong của khóa như thế nào, chỉ có thể tự lần mò thôi.”
Nghe Lữ Cánh Nam nhắc nhở, Trương Lập dường như đã tìm ra được bí quyết gì đó, anh kéo khối gỗ này ra một chút, rồi lại ấn khối kia xuống một chút, nhấc khối bên trái lên, kéo khối bên phải xuống, lúc không di động được nữa, thì đẩy ngược trở về theo quỹ đạo ban đầu, thử nghiệm một phương cách di động khác. Còn Trác Mộc Cường Ba cuối cùng cũng tìm ra được một khối gỗ có thể di động, hóa ra là ở góc phía trên bên phải của một mặt hình lập phương, nhưng sau khi ấn nó ra, thì các khối gỗ khác lại không động cựa gì được nữa, gã đành phải thử đi thử lại từng khối một. Riêng lạt ma Á La thì đã tháo hết cái khóa gỗ của mình ra, sáu mươi tư khối gỗ nhỏ khác nhau xếp ngay ngắn trên mặt bàn.
Kế đó, Trương Lập, giáo sư Phương Tân, Ba Tang, Đường Mẫn, Nhạc Dương cũng đều tháo được khóa gỗ, chỉ còn mỗi Trác Mộc Cường Ba, trên trán gân xanh nổi chằng chịt, hai mắt đỏ ngầu, cơ bắp gồ lên, nghiến răng nghiến lợi ấn ấn xoay xoay. Chỉ nghe “cạch” một tiếng khe khẽ, miếng gỗ tưởng chừng như sắp rút ra được tới nơi, đến cuối cùng lại kẹt ở bên trong khối lập phương. Trác Mộc Cường Ba kéo hai ba lượt vẫn không ra, liền dùng sức, làm gãy luôn.
Tất cả mọi người đều đổ dồn ánh mắt về phía gã. Nhạc Dương và Trương Lập lập tức phát ra một tiếng kêu đầy tiếc nuối. Trác Mộc Cường Ba đập cái khóa gỗ xuống bàn, thở hồng hộc. Đường Mẫn vội lên tiếng: “Anh nôn nóng quá.” “Phải đấy, Cường Ba thiếu gia, cái thứ này muốn nhanh cũng không nhanh được đâu.” Nhạc Dương cũng lên tiếng chia sẻ kinh nghiệm.
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Lữ Cánh Nam: “Năng khiếu của tôi không đủ, cho tôi thử lại lần nữa.”
Lữ Cánh Nam mỉm cười giơ một ngón tay lên nói: “Đừng nóng, sớm đã chuẩn bị rồi.” Nói đoạn, không ngờ lại lấy ra một khối lập phương bằng thép ròng, nhìn bề ngoài giống hệt như khóa gỗ…
Ba giờ sáng, Nhạc Dương trằn trọc mãi vẫn chưa ngủ được, đành bò dậy dụi dụi mắt nói: “Cường Ba thiếu gia, sáng mai anh làm tiếp có được không, tôi nghe cái tiếng động ấy cứ thấy như có chuột vậy đó.”
Trác Mộc Cường Ba tập trung toàn bộ tinh thần vặn vẹo khối lập phương bằng sắt trên tay, lơ đễnh nói: “Chuột thì sợ gì chứ, nhắm mắt vào nghĩ mình là mèo tự nhiên sẽ ngủ được thôi.” Trương Lập ở bên cạnh mở mắt ra nói: “Cường Ba thiếu gia, hay là, để chúng tôi làm giúp anh nhé.”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Thế làm sao được, các cậu mặc kệ tôi đi, nhất định tôi phải tháo được nó ra.”
Lăn qua lăn lại mãi đến hơn bốn giờ sáng, hai người Nhạc Dương và Trương Lập mới thiêm thiếp ngủ. Ngày hôm sau, khi hai người bò dậy, đã thấy Trác Mộc Cường Ba ngồi ngắm vầng dương mới lên. Dưới ánh nắng rực rỡ, gương mặt cương nghị đường nét rõ ràng ấy toát lên vẻ tự tin vô tận. Trên mặt bàn, xếp gọn ghẽ chỉnh tề tám tám sáu mươi tư khối thép.
Lữ Cánh Nam nhìn thành quả Trác Mộc Cường Ba giao lên, nhận thức đối với gã lại tăng thêm mấy phần nữa. Gã là một người đàn ông biết sợ hãi. Nghe lạt ma Á La kể, trong rừng Mãng Xà và ở dưới địa cung, Trác Mộc Cường Ba đã để lộ ra nỗi sợ hãi đằng sau ngoại hình cao lớn mạnh mẽ ấy. Nhưng gã sợ hãi, mà không hề có ý thoái lui. Gã có sự dẻo dai giống như của cao su vậy, bất kể bị đả kích nặng nề ra sao, thế nào cũng dần hồi phục lại nguyên hình trạng. Chỉ cần không đạt tới yêu cầu của chính bản thân mình đặt ra, gã sẽ mãi mãi không bao giờ bỏ cuộc. Tính cách này đúng là hết sức kỳ quái, nếu là người bình thường, sợ hãi ắt sẽ trốn tránh, khi tin chắc mình không phải là đối thủ của người khác, ắt sẽ lảng tránh; nhưng Trác Mộc Cường Ba vừa hay lại trái ngược hoàn toàn, gã sợ hãi ắt sẽ bước thẳng tới mà nghênh đón, biết rõ mình không đánh lại người ta cũng vẫn muốn xông tới, thoạt nhìn bề ngoài thì có vẻ hơi ngốc nghếch, tính cách gì mà như vậy chứ! Lữ Cánh Nam nhớ lại từ khi quen biết Trác Mộc Cường Ba đến giờ, nhất cử nhất động của gã đều gây cho cô một cảm giác không thể đoán biết. “Hừ, đại trí giả ngu, đây cũng là đại trí giả ngu hay sao?” Nhớ lại lời lạt ma Á La đã nói, cô không khỏi khe khẽ mỉm cười.
Mấy tháng tiếp sau đó, các thành viên trong nhóm đều trải qua một đợt huấn luyện đặc biệt về các kiến thức liên quan đến cơ quan học, bắt đầu học từ loại cạm bẫy nhi đồng đơn giản nhất, tức là đào hố dưới đất, lót tờ báo rồi vùi cát lên trên, kế đó là tới trận xe gỗ ngựa gỗ của Gia Cát Lượng, Cứu Lưu Bàn Long Thần của Quỷ Cốc Tử, càng học lại càng thấy môn cơ quan học này đúng là cao thâm khó dò.
Bí mật huyết trì
Trải qua khảo nghiệm trong rừng sâu Nam Mỹ, các thành viên trong nhóm đều nhận ra điểm yếu của mình, ai cũng gần như điên cuồng tham gia huấn luyện, ban ngày vượt qua khảo nghiệm của đủ loại các cơ quan cạm bẫy, tối về lại thường đọc sách đến tận đêm khuya. Mỗi người đều rèn luyện bản thân bằng ý chí của một mật tu giả, gắng sức đột phá cực hạn năng lực cơ thể.
Trong thời gian này, Lữ Cánh Nam đồng thời để các đội viên tiến hành phát triển cá nhân, thực hiện vận động cực hạn, hay nghiên cứu các tác phẩm học thuật nổi tiếng như Thuyết tiến hóa…, ngoài ra còn dạy họ sử dụng mấy loại công cụ mới. Ví dụ như lắp thêm dây quăng vào đồng hồ nguyên tử đeo trên tay mỗi người, quấn vào mặt bên trong áp với cổ tay, kích thướt chừng bằng một hộp diêm, bên trong có hai mươi lăm mét dây hợp kim, phát xạ dựa trên nguyên lý của pháo điện từ, một đầu trước có đầu mũi khoan nhỏ bằng kim cương, có thể đâm sâu mười phân vào bề mặt kim loại, sau đó tự động dãn nở bắt chặt vào mục tiêu, thứ này thuộc loại dụng cụ cứu sinh, trong rừng sâu mà dùng loại này thì tiện hơn dây leo rất nhiều. Ngoài ra còn có loại giày dính chặt được vào mặt tường trơn nhẵn, ứng dụng nguyên lý bàn chân con thằn lằn: đế giày có rất nhiều lông cứng theo nguyên lý ống siphon, khiến lực ma sát có thể chịu được trọng lượng của cơ thể người, ngoài ra còn lắp thêm lò xo giảm xóc hình cung, khiến một cú nhảy có thể cao ngang tầm người bình thường, còn xung lực lúc rơi xuống hoàn toàn có thể vận dụng để thực hiện các vận động cực hạn, cộng thêm với áo cánh dơi thiết kế dựa theo cánh thịt của sóc bay, vậy là có thể tránh được trường hợp độ cao mười tầng nhà gây khó cho anh hùng rồi. Hoặc là bình sắt siêu cường hóa mặc dù thể thể tích chưa đầy lọ mực, nhưng thời gian cung cấp dưỡng khí từ ba tiếng đồng hồ ban đầu đã kéo dài lên một trăm linh tám tiếng đồng hồ.
Khoảng thời gian này, Trác Mộc Cường Ba cũng không còn thúc giục đòi xuất phát nữa. “Anh dựa vào cái gì mà đi tìm Bạc Ba La thần miếu, vận may hả?” “Điều anh cần làm lúc này, chính là xem nhiều, học nhiều, nghĩ nhiều…” “Chúng ta đứng trên vai người khổng lồ để thu thập thông tin.” “Nếu ngày đó đến thật, chúng ta có thể tự mình đi mà…” Những lời Lữ Cánh Nam và giáo sư Phương Tân nói hết lần này đến lần khác vang vọng bên tai, không ngừng nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba. Những lúc nghỉ ngơi, gã thường ở bên Đường Mẫn, nhưng gã cũng thường xuyên cảm nhận được, có một bóng hình yểu điệu đang đứng ở mãi đằng xa chăm chú nhìn mình. Trương Lập, Nhạc Dương và Ba Tang đã trở nên thân thiện hơn rất nhiều, thường xuyên nghe thấy hai người Trương, Nhạc cất tiếng cười sảng khoái, cả Ba Tang thỉnh thoảng cũng nở ra một nụ cười lạnh lùng. Còn giáo sư Phương Tân thì mải mê nghiên cứu băng video ông quay được dưới địa cung Ah Puch. Theo giáo sư, nếu đã cho rằng địa cung Ah Puch và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu có liên quan với nhau, vậy thì các bức bích họa, tượng điêu khắc trong địa cung Ah Puch, tất cả đều có thể gợi ra những thông tin có liên quan tới Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu kia. Phía nhóm nghiên cứu cũng cung cấp cho giáo sư rất nhiều đầu mối. Cùng nghiên cứu thông qua mạng Internet, tác phong cẩn trọng và thái độ làm việc không biết mệt mỏi đó của giáo sư khiến cả lạt ma Á La và Lữ Cánh Nam đều hết sức nể phục. Có điều, câu đố lịch sử mà hai nền văn minh Cổ Cách và Maya để lại có thể nói là một cái hang không đáy, giáo sư Phương Tân bước chân vào đó, càng đi càng thấy sâu, khiến hai trợ thủ của ông là Trương Lập và Nhạc Dương cứ kêu trời kêu đất, phàn nàn rằng làm việc này còn khổ hơn cả huấn luyện nữa. Mỗi lần như vậy, giáo sư Phương Tân lại lấy Đường Mẫn ra làm tấm gương giáo dục hai chàng thanh niên này phải có lòng nhẫn nại, có lòng tin, có trái tim yêu thương…
Núi Đường Cổ Lạp, bên bờ sông Đà, một chiếc xe tải lớn nhìn bề ngoài như sắp muốn long ra xong xọc đến nơi tròng trành đi giữa dải núi non trập trùng.
Tây Mễ ngồi bên ghế lái phụ thưởng ngoạn phong cảnh trước mắt. Hắn thích vùng đất này, thích núi non ở đây, thích mây trời ở đây. Không thể không thừa nhận, nơi này đích thực là một vùng đất có thể khiến người ta vui ngắm cảnh mà quên cả đường về. Một điều càng hay hơn nữa là, khi nhìn những đám mây trắng muốt bay qua bầu trời, cảm giác tội lỗi trong lòng hắn sẽ bị đè nén xuống. Năm ấy Tây Mễ chọn Khả Khả Tây Lý, có lẽ cũng chính là một dải tuyết trắng mênh mang ở đây mênh mang ở đấy hấp dẫn cũng nên.
Gã đang lái xe kia tên là Dakis, cao một mét bảy lăm, hơi gầy, dưới cặp lông mày thẳng như hai chữ “nhất” là đôi mắt giống hình thang. Có người nói, kẻ có đôi mắt này thì rất hung hăng, cảm giác như đang miệt thị người khác vậy, mà tên Dakis này đích thực là cũng rất hung hăng. Hắn gia nhập Hồ Lang chưa được hai năm, vậy mà đã không kẻ nào dám đụng đến hắn nữa. “Lôi Ba khỏe, Dakis ác”, câu này từ lâu đã lan truyền trong nội bộ Hồ Lang. Số đội viên đội tuần tra núi Khả Khả Tây Lý bị tên Dakis này giết trong hai năm còn nhiều hơn tổng số đội viên bị toàn bộ Hồ Lang giết trong mười năm về trước. Hồ Tử nói, da của Dakis lột là bán được giá tốt nhất, nếu không phải hắn có một chút tác dụng này, thì từ khi Hồ Lang bị quân đội bao vây sào huyệt, Tây Mễ đã thịt hắn luôn rồi. Bởi chính vì tên này hung tàn thành tính mới khiến quân đội phải bao vây tiễu trừ toàn bộ tổ chức của bọn hắn.
Niềm đam mê lột da của Dakis là một loại bệnh thái. Mỗi khi lóc thịt linh dương Tây Tạng, hai mắt y sáng rực lên, miệng ngâm nga một điệu nhạc nào đó, dáng điệu vô cùng thỏa mãn. Tây Mễ hiểu rõ, từ hồi còn trong đội đặc nhiệm Nhện Xanh hắn đã được dạy rằng, loại người này có vấn đề về tâm lý, ở phương Tây còn có thuật ngữ y học chuyên dụng, gọi là “hội chứng thích phân tách”, bọn họ thích phân tách tất cả các thứ mình nhìn thấy ra, không tách ra một cách triệt để thì trong lòng không thể nào thỏa mãn được. Loại người này mỗi khi giết người, bao giờ cũng chặt xác nạn nhân ra làm bảy tám chín mảnh. Mấy tên giết người hàng loạt nổi tiếng nhất ở phương Tây gần như đều mắc phải chứng bệnh này.
Dakis bảo mình là người Tạng ở Thanh Hải, Tây Mễ thấy không giống lắm. Không giống người Tạng, gương mặt hắn không có vẻ chân chất mộc mạc của dân Tạng, cũng không giống người Mông Cổ. Có điều cũng không ai truy vấn hắn, sau khi hắn giết đội viên đội tuần tra núi cũng như giết linh dương Tây Tạng, thì không còn ai dám nghi ngờ hắn là nội gián nằm vùng nữa.
Tây Mễ thu ánh mắt lại, quay sang nhìn bàn tay Dakis. Tay hắn rất vững, trên con đường núi tròng trành rung lắc, bàn tay nắm vô lăng không hề động đậy, cẳng tay phải hồi trước có lẽ có một hình xăm, có điều giờ chỗ đó là một vết sẹo thịt dài, song không giống đốt bằng tia laze. Thấy Tây Mễ chú ý nhìn mình, Dakis giơ tay lên quẹt quẹt mũi, nói: “Không đẹp được như hình xăm của đại ca đâu, hồi trước xăm con thằn lằn, về sau sợ bị truy nã, sợ bị người ta nhận ra, liền lấy dao cắt luôn chỗ thịt ấy đi.” Tây Mễ không nói gì, tiếp tục ngắm nhìn trời xanh mây trắng và dòng sông Đà Đà như dải ngọc kia.
Sau xe ngồi chật người, Max cũng ở trong đám này. Khi ông chủ không có mặt, hắn cũng không dám làm ra vẻ khâm sai đại thần trước mặt cái đám liều mạng này. Hắn cẩn thận khuyên nhủ để Tây Mễ lên ngồi ghế lái phụ, còn mình thì ở phía sau với Thiết Quân, dù sao thì hắn cũng quen Thiết Quân một thời gian rồi. Ngồi trong thùng xe lắc lư, Max nhớ lại nhiệm vụ ông chủ đã giao cho hắn nửa tháng trước, “Max, mày mang tấm bản đồ này đến Trung Quốc trước, chuyện này phải làm cho tốt.”
“Ông chủ, sao không fax về cho xong, không thì scan lên máy tính cũng được, cần gì…”
“Đồ ngu, mày biết cái gì chứ? Mày tưởng Cục tình báo Trung ương Mỹ ăn phân mà sống hả, tấm bản đồ này chỉ cần dùng phương tiện điện tử truyền đi, nói không chừng đã lập tức bị bọn ấy biết ngay rồi.”
“Nhưng mà, nếu trên đường…”
“Thế nên mới phải để mày đích thân mang đi, mày phải đảm bảo với ta không được để xảy ra sơ xuất…”
“Tôi…”
“Yên tâm, tấm bản đồ này là do đích thân tao vẽ, tao đã giở chút thủ đoạn lên đó rồi, cho dù có lọt vào tay cảnh sát Trung Quốc, bọn chúng chưa chắc đã hiểu được đâu. Có điều để đề phòng vạn nhất, mày vẫn phải đảm bảo tuyệt đối không để nó rơi vào tay bọn chúng. Con mẹ nó, nếu cả tấm bản đồ mà cũng không mang đi nổi thì mày còn được việc gì nữa chứ!”
“Vâng.”
“Còn nữa, đám người kia huấn luyện cũng kha khá rồi phải không, đã đến lúc cho chúng ra ngoài hoạt động một chút rồi. Sau khi mang tấm bản đồ này tới Trung Quốc, mày hãy nghỉ cách đưa chúng đến khu vực Lâm Chi, nhớ kỹ, ngàn vạn lần không được thu hút sự chú ý của cảnh sát Trung Quốc…”
“Ha ha ha…” Một tràng cười lớn làm Max giật mình sực tỉnh. Đám người này đã bị giữ chân trong khe núi hoang vu không bóng người suốt hơn nửa năm ròng, từ lâu đã sắp phát điên lên rồi. Mặc dù Max cũng sắp xếp một số trò vui, nhưng dù sao thì thế giới bên ngoài cũng đặc sắc hơn nhiều. So với đám lính đánh thuê của Merkin, bọn Hồ Lang còn đỡ hơn một chút, nói thế nào thì bọn chúng cũng đã quen phải lẩn trốn rồi. Nghe ông chủ kể, vào lúc không phải mùa săn, hay thời điểm bị truy đuổi gắt gao, bọn Hồ Lang này không có chỗ nào để đi, vậy là liền trốn trong hang động trên núi trong suốt nửa năm liền khiến đội điều tra lần nào cũng trở về tay trắng. Vì vậy Max đặc biệt cẩn thận với tên Tây Mễ đứng đầu băng săn trộm này. Có thể khiến một đám liều mạng nằm yên trong hang núi lâu như vậy, sự nhẫn nại đó, uy thế đó, chính xác là chỉ có bộ đội đặc chủng siêu cấp mới làm nổi mà thôi.
Đến giờ rốt cuộc cũng có thể ra khỏi khe núi đó, đám liều mạng này chen chúc trong thùng xe chật chội, râm ran kể cho nhau những truyện cười dâm tục nghe mãi cũng không biết chán, làm ra đủ thứ động tác tục tĩu, cố hết sức phát tiết tâm trạng được ra khỏi núi rừng trở về với nhân loại. Người cười lớn nhất là Ivan, còn cái tên giọng eo éo the thé, cứ nhảy qua nhảy lại trong thùng xe kia là nói nhiều nhất. Đầu hắn trông nhọn nhọn như quả trám, mặt gầy mà đen, mắt rất nhỏ, cằm nhọn hoắt, bất kể là nhìn từ góc nào, cái miệng hắn trông cũng to một cách quá đáng. Hơn nữa trong miệng hắn dường như lúc nào cũng đang nhai nhóp nhép thứ gì đó, mỗi khi cười liền lộ ra hàm răng đen đen vàng vàng khấp khểnh. Không hiểu tại sao, khi nhìn vào cái miệng đầy những răng của hắn, Max tưởng như đang nhìn vào cặp mắt ông chủ. Cả hai đều gây cho người khác cảm giác lạnh buốt trong tận đáy lòng.
“Bồ câu hoang, món ngon đấy, nướng hay hầm đều ngon cả!” Dọc đường, tên đó cứ huyên thuyên bất tuyệt chỉ cho đám người trong xe biết thứ nọ thứ kia nên ăn thế nào, như thể là đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng về các món ăn vậy.
“Con bò Yak hoang kia nướng lên đảm bảo là cực ngon!” “Con la hoang này mà tùng xẻo thì ngon nhất luôn!” “Vịt Thu Sa, bọn vịt Thu Sa dưới sông kia mà hấp cách thủy thì ngon tuyệt! Còn cả cá nhảy sông nữa chứ, nhất định là mấy người chưa ăn bao giờ rồi!” “Nhạn đầu đốm, nấu canh ngon lắm!” “Sao không thấy con rắn nào nhỉ, không thì có thể làm bát canh rắn được rồi!” Tóm lại là các loài động vật hoang dã dọc đường đều bị hắn sắp xếp thành đủ các món ăn, cả chim sẻ và chuột núi cũng không bỏ qua. Max nhủ thầm trong bụng, giả như Soares mà ở đây, không chừng đã giết luôn cái thằng lắm mồm này đi rồi. Ông chủ từng nói với hắn, người điều khiển thú vật là một nghề nghiệp hết sức kỳ quái. Bọn họ có thể ở chung một chỗ, hòa mình vào giữa đàn thú, song ngược lại, cũng không hề nương tay chút nào khi dùng các loại động vật thảm sát con người.
Thấy tên kia vẫn đang hưng phấn tưởng tượng các loài động vật cả đám gặp trên đường thành các món cao lương mỹ vị, Max không nhịn được hỏi Thiết Quân: “Thằng kia là ai đấy? Chính là cái thằng vẫn nói từ nãy đến giờ ấy.”
Thiết Quân cười cười đáp: “Hắn tên là Lâm Nhân, quê Quảng Đông, là thành viên cấp cao của Hồ Lang, đừng nhìn bề ngoài hắn gầy đét ra như thế, lúc ra tay thì không hàm hồ chút nào đâu. Nghe nói trước khi gia nhập Hồ Lang hắn đã đi khắp toàn quốc săn trộm động vật hoang dã rồi. Hắn từng tự nhận rằng, ở Trung Quốc, chỉ cần là động vật người ta biết đến, tất thảy đều vào miệng gã cả rồi, chẳng hạn cái gì mà gấu trúc, vượn đen tơ vàng, hổ Đông Bắc, cá tầm Trung Hoa…”
Lâm Nhân nghe bọn hắn nói chuyện, liền nhảy vù tới, dương dương đắc ý nói: “Thế có đáng gì, toàn món bình thường cả, tôi còn ăn kiến ở Vân Nam, ăn rết ở Nghi Xương, đổ rượu, ăn sống, ăn xong còn cảm thấy nó bò qua bò lại trong dạ dày nữa cơ. Ở Quý Châu thì ăn ốc sên, đặc sản vùng ấy là một loài ốc sên không có vỏ, toàn thân đen bóng, đại khái to bằng đầu ngón tay này, thịt nó thì…”
Nghe những loại món ăn ly kỳ cổ quái tuôn ra từ cái miệng toàn răng vàng răng đen ấy, Max chợt cảm thấy buồn nôn.
Mấy tháng sau, Trác Mộc Cường Ba đến tìm gặp Lạt ma Á La.
Mặc dù đã nắm bắt được các đặc trưng cơ bản của cơ quan học, nhưng Trác Mộc Cường Ba trước sau vẫn không thể quên được huyết trì mà họ trông thấy trong địa cung Ah Puch. Gã còn nhớ lạt ma Á La đã từng nói, đó mới là cơ quan chân chính. Đến bây giờ, đã học được rất nhiều kiến thức lý thuyết, đồng thời cũng có không ít kinh nghiệm thực tiễn, gã vẫn không thể hiểu thấu huyết trì rốt cuộc là thứ gì. Nhưng cảnh tượng đầy máu tanh và tàn nhẫn đó quả thật khiến người ta kinh hồn bạt vía. Vì vậy, hôm nay gã định tìm ông hỏi cho rõ ngọn ngành.
Trên bãi huấn luyện, Trương Lập và Nhạc Dương đang bố trí một cạm bẫy liên hoàn vừa mới học được. Ba Tang đứng bên cạnh góp ý. Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La ngồi trên hai cái đôn đá nhìn họ từ đằng xa. Gã nói: “Đại sư, ngài còn nhớ huyết trì ở tầng năm trong địa cung Ah Puch không?”
Lạt ma Á La nhìn Trương Lập đang lắp giá đỡ, “ờ” một tiếng, đoạn hỏi: “Cậu muốn hỏi gì vậy?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi muốn biết biết huyết trì rốt cuộc là thứ gì?”
Lạt ma Á La giờ mới quay đầu nhìn gã, ngạc nhiên thốt lên: “Tại sao đột nhiên lại muốn hỏi vấn đề này?”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Chúng tôi đã học cơ quan học từ rất lâu rồi, nhưng đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa có khái niệm gì về huyết trì cả. Tôi còn nhớ đại sư đã từng nói, chỉ huyết trì mới có thể coi là cơ quan chân chính, vậy nguyên lý của nó là thế nào? Rốt cuộc là nó dùng để làm gì?”
Lạt ma Á La nói: “Với những gì cậu nắm được lúc này, cậu cảm thấy tác dụng chủ yếu của các loại cơ quan hàm nghĩa hẹp mà chúng ta học tập là gì?”
Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát rồi nói: “Hình như vẫn là để giết người, à không, chủ yếu là để vây khốn hoặc làm tổn thương vật săn chạm phải chốt lẫy thì đúng hơn.”
Lạt ma Á La lắc đầu nói: “Không hẳn thế, các loại cơ quan mang nghĩa hẹp hiện nay, chúng ta đã học được có hai tác dụng chủ yếu. Thứ nhất, chính là điều cậu vừa nói, người chạm phải cơ quan sẽ gặp phải phiền phức, còn thứ hai, chính là để bảo vệ một số đồ vật không bị kẻ khác lấy đi hoặc hủy hoại, tác dụng như một ổ khóa vậy. Huyết trì, chính là loại cơ quan có tác dụng này. Tôi có thể cho cậu biết một điều, hệ thống khóa của huyết trì tuyệt đối không kém hệ thống nhận dạng vân tay hiện đại bây giờ đâu, thậm chí còn đạt đến mức độ tinh vi như hệ thống nhận dạng gien nữa cơ.”
“Hả,” Trác Mộc Cường Ba khẽ kêu lên một tiếng, “ghê gớm vậy cơ à!”
Lạt ma Á La gật đầu: “Cậu còn nhớ cánh cửa đó mở ra thế nào đấy chứ? Những tảng đá vốn là màu trắng cuối cùng toàn bộ thành màu đỏ, sau đó cửa liền mở ra, có đúng không?” Trác Mộc Cường Ba khẽ gật đầu.
Lạt ma Á La lại nói tiếp: “Thực ra bên ngoài cánh cửa đá đó còn một tầng vật chất khác nữa, thứ đó là cái gì thì tạm thời tôi không thể cho cậu biết được, cậu cứ coi nó như một loại sợi có thể co dãn cũng được. Lực co dãn của loại sợi này rất lớn, giống như bắp thịt của con người vậy. Khi chúng co lại hết cỡ, một sợi to như sợi mì có thể nhấc được tảng đá nặng mấy chục kologram, cánh cửa khổng lồ đó, chính là được mở ra bằng cách ấy.”
Trác Mộc Cường Ba chỉ gật đầu không nói. Cánh cửa khổng lồ hình khung xương ấy kiên cố dị thường, chỉ sợ xe tải cũng chưa chắc có thể một lần húc đổ luôn, vậy mà lại bị thứ sợi đó sơi sơi kéo ra như vậy, lực co dãn ấy quả là kinh người.
Lạt ma Á La nói tiếp: “Thế nhưng, muốn làm thứ sợi co giãn ấy, chất lỏng bình thường không có tác dụng, cần phải dùng…”
Trác Mộc Cường Ba thốt lên: “Máu? Chẳng trách nó được gọi là huyết trì.”
Lạt ma Á La sửa lại: “Máu người. Nhưng không phải toàn bộ. Cậu có biết trong máu người có bao nhiêu loại vật chất không?”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Hồng cầu, còn có, còn có… có gì nữa nhỉ?”
Lạt ma Á La mỉm cười: “Nhiều lắm, tôi nói như thế này nhé, số lượng các vật chất trong máu người nhiều không kể xiết, chỉ riêng các loại y học hiện đại thường dùng đã có tới mấy chục rồi, hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, mấy chục loại protein làm đông máu, protein chống đông máu cũng có mấy chục loại, ngoài ra còn các nguyên tố vi lượng, kháng nguyên thể, mấy thứ này thì còn nhiều hơn nữa. Còn huyết trì, chính là dùng các cơ quan khác nhau trong cơ thể người, tiến hành lọc máu, cuối cùng sẽ có được một loại dịch thể màu đỏ, bởi vì chưa phân tích cụ thể bao giờ, nên tôi chỉ đoán có lẽ trong đó chứa hồng cầu và một số loại protein chống đông máu, mà chỉ có loại dịch thể màu đỏ này mới có thể khiến thứ sợi kia co rút hết cỡ mà thôi.”
Trác Mộc Cường Ba nghe mà đần thối mặt, vội hỏi: “Đại sư sao lại hiểu rõ về huyết trì vậy?”
Lạt ma Á La điềm đạm mỉm cười: “Cậu có biết cái huyết trì nguyên vẹn đầu tiên được khai quật ở đâu không? Huyện Mặc Thoát ở Tây Tạng đấy. Vì vậy, tôi có thể khẳng định địa cung Ah Puch và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu kia có quan hệ tất yếu. Dựa theo kết quả khảo chứng trước mắt, huyết trì rất có thể là dụng cụ tế lễ của một số giáo phái cổ xưa đã tiêu vong rất lâu ở Tây Tạng.”
Lạt ma Á La nhổm người dứng dậy, nhìn ra phía bãi huấn luyện nói: “Hiểu biết của tôi về huyết trì cũng chỉ giới hạn ở bề ngoài thế thôi, toàn bộ chỉ có vậy. Có điều đã nói tới đây, đã học môn cơ quan học này một thời gian dài như vậy, cậu cho rằng chỗ lợi hại của cơ quan nằm ở đâu, Cường Ba thiếu gia?”
Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn ra bãi huấn luyện phía xa, mấy người bọn Trương Lập đã bố trí xong cạm bẫy, chỉ thấy giữa bãi cỏ là một lùm cây bụi, hoàn toàn không hề có dấu tích của sự nguy hiểm chút nào.
Nhạc Dương mở cửa lồng, thả con thỏ hoang làm thí nghiệm ra. Con thỏ vừa ra khỏi lồng, liền nhanh chóng chạy vào chỗ kín ẩn nấp, không ngờ bên dưới bóng cây nhân tạo kia chính là chốt lẫy của cơ quan, cả bụi cây đổ sập xuống. Con thỏ cũng cực kỳ nhanh nhẹn, lập tức đảo sang bên trái, lưới thép phía trước liền “tưng” một tiếng bung vọt lên, thỏ hoang tức khắc dừng chân, lăn tròn một vòng dưới đất, đảo ngược đường lao sang bên phải. Phía bãi cỏ bỗng đâu bật lên một miếng ván gỗ chặn ngay trước mặt con thỏ, con vật không kịp dừng bước, húc thẳng vào đấy. Cú va chạm làm con thỏ hoang váng đầu váng mặt, lảo đảo mấy lượt, thấy ván gỗ đổ ụp xuống, vội chạy đi, nào ngờ cọc gỗ dưới đất lại liên tiếp nhô lên, chặn đứng đường lui của nó. Con thỏ hoang cũng khá nhanh nhẹn, lách bên trái né bên phải, vừa mới thoát được vòng vây của cọc gỗ thì đã thấy phía trước một cái hang, liền không nghĩ ngợi gì đã chui tọt vào trong ấy.
Cửa sắt đóng sập lại, con thỏ lại trở về lồng của nó, Nhạc Dương, Trương Lập và cả Ba Tang cười cười bàn luận, xem ra cơ quan tổ hợp này đã thiết kế thành công rồi.
Trác Mộc Cường Ba hồi tưởng lại cả quá trình ấy, đột nhiên thốt lên: “A, tôi hiểu rồi, chỗ đáng sợ nhất của cơ quan, chính là ở tính bí mật của nó!”
Lạt ma Á La hài lòng gật gật đầu: “Đúng vậy, Cường Ba thiếu gia, cậu đã nắm được yếu quyết của cơ quan học rồi đó. Chỗ đáng sợ của cơ quan, chính là cậu không nhìn thấy nó. Khi cậu phát hiện ra đó là một cơ quan, thì nguy hiểm cũng theo đó mà giảm xuống đáng kể rồi. Quá trình phá giải cơ quan, thực chất chính là quá trình đấu trí đấu lực với người thiết kế nên cơ quan ấy. Hai bên đều không nhìn thấy đối thủ, nhưng lại phải suy nghĩ xem đối phương có thể nghĩ tới những vấn đề gì, hay có vấn đề gì y không nghĩ tới. Giống như lúc ở tầng sáu địa cung Ah Puch, chúng ta lặn xuống nước như vậy thực ra là rất mạo hiểm, nhưng lúc ấy thì chúng ta hết cách rồi, đó là đường ra duy nhất của mọi người, nên đành liều đánh cược một phen. Được rồi, hôm nay nói tới đây thôi, mấy người trong nhóm gọi cậu kìa.” Trương Lập đang đứng phía xa vẫy vẫy tay gọi Trác Mộc Cường Ba tới.
Bước ngoặt mới
Trác Mộc Cường Ba đứng ngẩn người ra một lúc, nghiền ngẫm lại những lời lạt ma Á La vừa nói, “Chỗ đáng sợ của cơ quan, chính là cậu không nhìn thấy nó,” đồng thời lời cảnh báo của Babatou cũng vọng lại bên tai gã, “Kẻ thù đáng sợ thực sự, là những thứ ta không nhìn thấy,” điểm chung của hai thứ này, chính là phát hiện. Những lời này không hiểu sao gã cảm thấy rất quen thuộc, tựa hồ như trong một thời gian, ngày nào cũng có người nhắc nhở gã vậy.
Trương Lập chạy tới, cười cười nói: “Cường Ba thiếu gia, có thấy cơ quan tổ hợp của chúng tôi không? Coi là thành công được chưa nhỉ?”
“Ừm.” Trác Mộc Cường Ba khẽ đáp một tiếng, trong lòng bỗng nhiên dâng lên cảm giác sợ hãi vô cùng mạnh mẽ. Rất nhiều sự việc xảy ra trong quá khứ, rất nhiều điều đến nay gã không thể nào lý giải nổi, từng sự kiện một hiện lên trong tâm trí, nỗi sợ ấy còn đáng sợ hơn cả khi gã đối diện với người đàn ông có đôi mắt như của loài rắn độc và tên thổi rắn ở Putumayo kia, bởi bản thân gã xưa nay chưa từng có cảm giác như vậy bao giờ cả. Rốt cuộc là chuyện gì đây? Tại sao có thể khiến gã trào dâng một nỗi phát xuất từ sâu thẳm nội tâm? Đầu óc Trác Mộc Cường Ba tức khắc chìm vào u mê hỗn độn, muốn bình tâm tĩnh trí lại thì chỉ càng thêm rối loạn.
Lúc này, Lữ Cánh Nam bước qua bên cạnh hai người, Trương Lập vội đứng thẳng người, cung kính nói: “Giáo quan.” Mọi lần thì Lữ Cánh Nam bao giờ cũng đáp lại, nhưng lần này dường như cô không hề nghe thấy, thậm chí cả nét mặt bần thần hỗn loạn của Trác Mộc Cường Ba cô cũng không chú ý đến, mà rảo bước đi thẳng qua.
Lữ Cánh Nam nhanh chóng đuổi theo lạt ma Á La, đánh mắt ra hiệu, vị sư già hiểu ý, liền đi theo vào văn phòng của cô.
Lạt ma Á La vừa bước vào cửa, Lữ Cánh Nam đã không sao kìm nén nổi cảm giác kích động trong lòng, trực tiếp nói luôn: “Đại nhân, có hai việc hết sức quan trọng. Merkin đến Trung Quốc rồi!”
“Hả!” Lạt ma Á La cũng lập tức trở nên nghiêm túc, mặc dù không biết khoảng thời gian này Merkin đã đi đâu, làm những chuyện gì, nhưng một khi y đã xuất hiện ở Trung Quốc, chắc chắn là tên này sẽ có hành động gì đó. Lạt ma Á La điềm tĩnh hỏi tiếp: “Còn một chuyện nữa là gì?”
Lữ Cánh Nam gật đầu đáp: “Hôm kia có người báo cáo, ở biên giới Thanh Tạng có kẻ khả nghi, đoán là một băng săn trộm, thế nên công an của chúng ta đã tiến hành tấn công đột kích. Một đám người thân phận bất minh hoảng loạn bỏ chạy, không phát hiện ra động vật hoang dã nào, nhưng đã tìm thấy một tấm bản đồ. Các chuyên gia cho rằng, bản đồ này có liên quan đến Tây Tạng cổ đại, nên đã giao cho nhóm nghiên cứu, con có mang theo bản sao đây, đại nhân xem.”
Lạt ma Á La cầm tấm bản đồ lên, lẩm bẩm nói: “Hình như là một tấm bản đồ hàng hải cổ, chú thích này là… ồ… hả! Đây là…” Cánh tay vị sư già đột nhiên run lẩy bẩy, kinh ngạc thốt lên, “Không thể nào, không thể nào như vậy được! Tấm bản đồ này sao lại đột nhiên xuất hiện chứ? Chẳng lẽ đúng là ý trời hay sao?”
Lữ Cánh Nam nói: “Đại nhân, ngài cho rằng việc tấm bản đồ này đột nhiên xuất hiện liệu có liên quan gì đến chuyện Merkin bất ngờ trở về nước hay không?”
Lạt ma Á La nói: “Ý của con là?”
Lữ Cánh Nam nói: “Trong báo cáo của nhóm nghiên cứu gửi đến, trong tay bọn họ là tấm bản đồ gốc, một tấm bản đồ hàng hải được dân Tạng cổ vẽ trên da sói từ trên một ngàn năm trước. Theo phán đoán của con, Merkin không dám mạo hiểm mang tấm bản đồ này xuất hiện, mà thông qua phương thức khác, trước tiên là chuyển bản đồ đến đất nước chúng ta, sau đó y mới tới, chỉ là y không ngờ được mình đã ủy thác sai người, cho nên…”
Lạt ma Á La vỗ tay nói: “Không sai được đâu! Tấm bản đồ này nhất định đã được lấy ra từ trong địa cung Ah Puch, chính là kẻ xuất hiện cuối cùng đó, mặc dù ta chỉ trông thấy bóng lưng hắn thôi, nhưng kẻ ấy thật vô cùng đáng sợ, toàn thân toát ra một thứ mùi vị tà quái khó hiểu. Hắn là người của tổ chức kia, một trong mười ba người, hắn là người ở trong lăng tẩm ấy lâu nhất, chắc chắn là đã phát hiện ra điểm gì mà chúng ta sơ suất bỏ qua. Đáng lẽ ta phải nghĩ ra lâu rồi mới phải, kẻ ấy tuyệt đối không thể là quân du kích, chẳng trách Merkin lại không xuất hiện, thì ra đã có kẻ khác đến địa cung Ah Puch rồi, mục đích chính là mở cánh cửa lần trước bọn chúng chưa mở ra được kia.”
Lữ Cánh Nam liền hỏi: “Có lẽ nào, tấm bản đồ ấy chính là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu hay sao?”
Lạt ma Á La đáp: “Chuyện này khó nói lắm, nhưng tin tức xuất hiện bất ngờ này sẽ lấp đầy rất nhiều điểm còn trống trong điều tra của chúng ta, nói thể nào thì nói, chúng ta cũng càng lúc càng đến gần mục tiêu rồi. Bây giờ thì ta đã hoàn toàn minh bạch. Chính kẻ kia đã đưa bản đồ cho Merkin, hoặc là bọn y cùng vùi đầu nghiên cứu, hơn nửa năm nay, sau khi đã hiểu được bản đồ nói gì, bọn y mới đến Trung Quốc. Thật đúng là lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt, bọn y có năng lực mấy cũng chẳng thể nào ngờ nổi, tấm bản đồ ấy cuối cùng lại lọt vào tay chúng ta.”
Lữ Cánh Nam nói: “Dưới sự chỉ dẫn của đức Phật toàn năng, ánh sáng mãi mãi ở phía chúng ta.”
Lạt ma Á La nói: “Không thể do dự được nữa, nói với nhóm nghiên cứu, cần phải lập tức làm rõ xem rốt cuộc trên bản đồ ẩn chứa thông tin gì. Lần này chúng ta đã bị chúng bỏ lại sau lưng rồi, à, báo với các thành viên trong nhóm, cần chuẩn bị sẵn sàng để xuất phát bất cứ lúc nào.”
“Vâng!”
Cùng thời điểm đó, ở một nơi hoang vắng không bóng người, Merkin lớn tiếng chửi vào điện thoại: “Max! Mày là đồ ngu xuẩn! Tao phải lột da mày! Một chuyện bí mật như vậy, không ngờ lại để mày làm lộ ra hết cả! Tao thật không thể nào hiểu nổi tại sao mình lại cho một thằng ngu như mày đi theo lâu như thế nữa.
Trong ống nghe vang lên giọng sợ sệt của Max: “Chính… chính vì ẩn mật quá… bọn họ cũng làm rất cẩn thận, lúc đi trên đường luôn quan sát xem có ai theo dõi không. Không ngờ… không ngờ… lại khiến cảnh sát Trung Quốc chú ý đến… ông chủ…”
“Cạch,” Merkin dập mạnh ống nghe xuống. Nhìn điệu bộ y, như thể muốn đấm một phát cho nát bấy cái điện thoại ra vậy.
“Sao vậy hả?” Giọng Soares lành lạnh như băng cất lên trong một góc u ám.
Merkin hằn học nói: “Mất bản đồ rồi. Tấm bản đồ ấy đã rơi vào tay cảnh sát Trung Quốc. Cái thằng Max ấy đã theo tôi bao nhiêu năm, vậy mà một chút chuyện nhỏ vậy cũng không làm cho xong, thật đúng là ngu xuẩn hết chỗ nói. Còn cả đám lợn Trung Quốc được huấn luyện đặc biệt kia nữa chứ, đúng là một thằng ngu lớn dắt theo một lũ ngu nhỏ!”
Soares phì cười thành tiếng, thầm nhủ, “Không hiểu thằng cha Merkin này đang nói đám thuộc hạ hay nói chính hắn nữa.” Chỉ nghe y chậm rãi nói: “Không can hệ gì, chúng ta đã nghiên cứu đi nghiên cứu lại tấm bản đồ đó bao nhiêu lần rồi, không có thì cũng vẫn tìm được thôi.”
Merkin nói: “Tôi không lo chuyện này, vấn đề là, tấm bản đồ đó sẽ nhanh chóng rơi vào tay bọn người ở Tây Tạng kia ấy chứ.”
Soares bật cười: “Thế thì sao chứ? Bọn chúng cũng phải làm rõ được ý nghĩa của tấm bản đồ trước đã, chỉ sợ cũng phải mất một thời gian, mà trong khoảng thời gian đó, chúng ta đã sớm lấy được thứ mình cần, nếu đúng là có thứ ấy. Sau đó, chúng ta sẽ có thể… trực tiếp đến Bạc Ba La thần miếu rồi!”
Merkin vẫn lo lắng nói: “Vấn đề là, số lượng thông tin mà chúng nắm giữ trong tay lớn hơn của chúng ta rất nhiều. Nói ngay lần này thôi, nếu không phải tôi nhận được tin tức, biết chuyện Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu kia đã được người Tạng cổ mang đến châu Mỹ, e là đến giờ chúng ta cũng không thể nào lý giải được, tại sao trong địa cung người Maya lại xuất hiện bản đồ do người Tây Tạng vẽ ra nữa.”
Soares trầm ngâm nói: “Ừm, anh nói cũng phải, xem ra phán đoán đầu tiên của chúng ta đã sai lầm, đám người đó nghiên cứu Bạc Ba La thần miếu không chỉ mới một hai năm, mà đã nghiên cứu cả một thời gian dài rồi. Nói không chừng, chỉ trong mấy ngày ngắn ngủi chúng đã dịch được thông tin trên tấm bản đồ ấy cũng nên. Có điều như vậy đâu có sao, đằng nào cũng có mấy nơi khác nhau cơ mà, chúng ta cứ đánh cược một phen đi, xem bên nào tìm được chìa khóa cuối cùng dẫn đến Bạc Ba La thần miếu trước.” Y nhổm dậy hít một hơi dài, cái bóng màu xám trong góc tối toát lên vẻ lạnh lùng cô độc, chỉ nghe y chầm chậm nói: “Ben, thời gian nghiên cứu về Tây Tạng của anh dài hơn tôi, anh cho rằng chỗ nào là nơi có khả năng cất giấu bản đồ nhất?”
Khóe miệng Merkin nhếch lên, lộ ra một nụ cười: “Mặc Thoát!” đồng thời lấy di động ra báo cho Max, “Gọi cho bọn ngu xuẩn đã được huấn luyện kia đi, chúng ta xuất phát!”
Lần này Lữ Cánh Nam không giấu các thành viên trong nhóm nữa, tin tức mau chóng thông qua con đường truyền miệng đến tai từng người một. Hai ngày sau, khi Trác Mộc Cường Ba nghe được tin tức từ chỗ Nhạc Dương, liền lập tức báo ngay cho giáo sư Phương Tân vẫn đang vùi đầu nghiên cứu về địa cung của người Maya. Đẩy cánh cửa phòng giáo sư, Trác Mộc Cường Ba cao giọng nói: “Thầy giáo, có tin tức mới, có thể chúng ta sắp xuất phát đến nơi rồi!”
Gian phòng hết sức bừa bộn, giáo sư đang ngồi trước màn hình máy tính, nhìn lướt qua đâu đâu cũng thấy các tài liệu về văn minh Maya. Ông ngoảnh đầu, chỉnh lại gọng kính trên mũi, những nếp nhăn trên trán và mái tóc điểm bạc khiến Trác Mộc Cường Ba không khỏi bồi hồi xúc động. Gã hiểu được, vì gã, người thầy này đã bỏ ra quá nhiều công sức, tình nghĩa giữa gã và giáo sư Phương Tân, một chữ “cảm kích” thôi thật không thể biểu đạt nổi.
Giáo sư Phương Tân gỡ chiếc kính xuống, hỏi: “Ừm, lần này lại có tin gì thế?”
Trác Mộc Cường Ba không giấu nổi niềm hân hoan: “Nghe nói, là có đầu mối mới rồi, hình như là một tấm bản đồ hay gì đó thì phải.”
“Ồ!” Giáo sư Phương Tân trầm tư nói, “Cường Ba à, khoảng thời gian này, tôi có trao đổi kinh nghiệm với mấy người bên nhóm nghiên cứu, đồng thời cũng cùng một số người bạn nghiên cứu thêm, chúng tôi phát hiện ra, cái nơi gọi là Bạc Ba La thần miếu này, thật không hề đơn giản như chúng ta hằng tưởng tượng đâu.”
Trác Mộc Cường Ba ngồi xuống trước bàn, nhìn gương mặt già nua đi rõ rết của ông, nói: “Thầy giáo, thầy mệt mỏi quá rồi, cứ như vậy sức khỏe không trụ nổi đâu, mà cũng làm tôi thấy áy náy trong lòng nữa.”
Giáo sư Phương Tân dụi dụi dử ở khóe mắt: “Cũng hết cách rồi, Cường Ba ạ, cậu vẫn chưa nắm được toàn bộ biến hóa của sự kiện này à?” Ông ngoảnh đầu lại nghiêm túc nói, “Ngải Lực Khắc đi rồi, ông ta không chỉ là giáo quan huấn luyện chúng ta, mà còn là thành phần cốt cán cùng cả nhóm lên đường; anh ta đi khỏi đây, chứng tỏ cấp trên đã truyền đạt xuống đây một tín hiệu rồi. Thời gian kéo dài quá lâu, sự nhẫn nại của cấp trên cũng có hạn thôi, thứ họ muốn nhìn thấy không phải là sự trưởng thành của mấy người chúng ta đây, mà là một thứ có thể khiến người ta phấn chấn thực sự, thế nhưng cho đến tận bây giờ, chúng ta vẫn cứ mãi giậm chân tại chỗ. Vì vậy, trước mắt là nguy khốn trùng trùng, phải tận dụng hết mọi thời gian, nhân lúc còn có thể lợi dụng được nguồn tư liệu quý giá này, chúng ta cần tranh thủ trao đổi nhiều hơn với đám chuyên gia kia, hòng có được những tài liệu muốn có. Những thứ ấy, ở nơi khác chúng ta không thể nào tra ra được đâu.”
Trác Mộc Cường Ba đặt tay lên vai giáo sư, gật đầu nói: “Tôi biết, tôi biết, kể từ khi bắt đầu tìm kiếm Tử Kỳ Lân, toàn bộ sự việc đều trở nên phức tạp, hơn nữa lại còn càng ngày càng phức tạp hơn. Thế nhưng, chúng ta… vẫn đề đang sống khỏe mạnh mà, chẳng phải vậy sao? Vả lại, chúng ta cũng đang ngày một tiến gần mục tiêu hơn rồi còn gì.” Trải qua một đợt huấn luyện địa ngục, khó khăn lắm mới thoát ra được, cuối cùng cũng coi như có một bước tiến mới, tâm trạng Trác Mộc Cường Ba đương nhiên là hết sức tốt.
Giáo sư Phương Tân thầm tán thưởng trong lòng: “Kiên nhẫn bền bỉ, đây mới chính là Cường Ba mà tôi biết chứ.” Ông mở máy tính ra nói: “Trước mắt, đối với việc nghiên cứu văn hóa Maya, phía nhóm nghiên cứu không có tiến triển gì lớn lắm, dù sao họ cũng là chuyên gia về Tạng học chứ không phải chuyên gia về văn minh Maya. Bạn bè tôi giúp liên hệ với một số người chuyên nghiên cứu văn hóa Maya, mỗi người đã nhận được một phần của băng video ấy, và đều gặp phải trở ngại khi xem những chữ khắc trong hầm mộ. Đầu tiên là văn tự ấy không phải là văn tự Maya truyền thống mà đã có một số biến đổi, tệ hơn nữa là, trong số ấy còn xuất hiện gần một trăm ký hiệu bọn họ chưa từng trông thấy bao giờ, vì vậy muốn giải dịch ra cũng có độ khó nhất định. Có điều, tư liệu hình ảnh tôi chụp lại ở chỗ thạch trận khổng lồ thì đã được dịch ra một phần rồi, cậu xem này.”
Trác Mộc Cường Ba nhận lấy phần tư liệu, chỉ thấy trên các ký hiệu chi chít những đoạn chú thích, phần văn bản dịch ra ở dưới là: vầng dương đỏ như máu chìm xuống trời Tây, bên trên cánh rừng sâu xanh thẳm như mực là những áng mây xám xịt, tộc trưởng đã sắp qua đời, ông hạ lệnh: “Xây cho ta một căn phòng bằng đá dưới đất sâu, nhỏ thôi nhưng phải kiên cố, mặc cho ta chiếc áo lớn tượng trưng cho vương quyền, rồi đặt ta vào đó, giống như ta vẫn sống, chẳng qua chỉ là ngủ thiếp một giấc dài mà thôi. Bên cạnh hãy đặt chiếc bát đá, bàn ăn và con dao bằng đá lửa, rồi hãy đóng hầm mộ lại theo đúng tập tục của chúng ta, tiếp tục đi con đường của các người, mong rằng các người sẽ tìm thấy Thánh thành trong năm katun tới đây. Ta sẽ mãi ở trên bầu trời quan sát các người, vĩnh viễn chúc phúc cho các người.”
Tất cả đều được làm theo mệnh lệnh của ông. Người ta đào một cái hố lớn, xây một căn nhà đá mái tròn dưới đó, bên ngoài nhà đá dựng một tấm bảng đá trên khắc hình chim quyên xanh và rất nhiều động vật khác, từ chỗ thấp nhất lên đỉnh, xây thành ba bậc bình đài, mỗi bậc đều có cầu thang xoáy xung quanh. Ở giữa gian nhà đá, những bức tường trắng và cây cột được điêu khắc tinh tế tỉ mỉ tạo thành một gian phòng đá kín, trên tường có vẽ những sự tích vĩ đại của tộc trưởng, người đã lãnh đạo bộ tộc của mình tìm kiếm quê hương mới. Chính nhờ sự anh minh và dũng cảm của ông, bộ tộc họ mới được sinh sôi phát triển. Trong gian phòng đá này, mọi người trong bộ tộc y theo mệnh lệnh cuối cùng của người, mặc cho ông chiếc áo lớn tượng trưng cho vương quyền, đặt ông nằm giữa hầm mộ, sau đó cử hành nghi thức cổ xưa rồi đóng cửa hầm mộ lại, trên hầm mộ ném cây giáo gãy, cuộn lại và xé rách lá chiến kỳ nổi danh lừng lẫy của ông, để tiếng quát mạnh mẽ của tộc trưởng mãi mãi bầu bạn bên người. Sau đó, mọi người san lấp hố, xây bên trên một ngôi đền bằng đá, có trụ đá ghi niên kỷ và những bức tường đá trắng sáng bóng. Sau khi hoàn tất mọi việc, dân tộc kiên cường bất khuất này lại tiếp tục tiến vào rừng sâu thăm thẳm dưới sự lãnh đạo của một thủ lĩnh mới…
Trác Mộc Cường Ba đọc tới đây, lẩm bẩm nói: “Giống như thánh ca của người Kukuer, nhưng lại khác với những gì chúng ta nhìn thấy.”
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Ừm, đây chỉ là nội dung trên ba cây trụ đá trắng thôi, những nội dung khác vẫn đang được gấp rút tiến hành giải mã và dịch ra, tin rằng không lâu nữa sẽ có kết quả thôi. Còn một thứ nữa, còn nhớ loài động vật trâu không ra trâu lợn không ra lợn mà cậu nhìn thấy trong cấm địa Ah Puch không?”
Trác Mộc Cường Ba nói ngay: “Đương nhiên là nhớ, hình như không phải động vật ăn thịt đúng không?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Đối với những nhà nghiên cứu Nam Mỹ, đó đã không còn là bí mật nữa rồi. Loài động vật ấy gọi là trâu lợn, từ những năm ba mươi của thế kỷ trước đã có người phát hiện ra, cũng là một loại động vật mà các nhà khoa học cho rằng đã tuyệt chủng từ bảy đến mười ngàn năm trước, cùng thời với voi ma mút, thổ dân bản địa thường săn bắn làm thức ăn. Về sau đội khảo sát vào rừng tìm kiếm, nhưng không có kết quả gì, cho đến nay vẫn còn một số nhà động vật học đang tìm kiếm nó đấy.”
Lúc này, Trương Lập mừng vui khấp khởi chạy vào, cuống quýt nói: “Giáo sư, Cường Ba thiếu gia, mau ra đây, giáo quan sắp tuyên bố rồi, tin tức tốt đấy!”
Mọi người tập trung cả về gian phòng học lớn. Lữ Cánh Nam nói với học viên bằng giọng hòa nhã nhất có thể: “Có lẽ trong các bạn cũng có người biết rồi. Mấy hôm trước, đối thủ của chúng ta, Ben đã đến Trung Quốc, đồng thời, công an Trung Quốc chúng ta cũng tìm được một tấm bản đồ chú thích bằng tiếng Tạng cổ, nói chính xác hơn, đó là một tấm bản đồ hàng hải, sau khi được các chuyên gia trong nhóm nghiên cứu ngày đêm không ngừng tìm hiểu, cuối cùng chúng ta đã phát hiện ra được vấn đề quan trọng nhất.”
Lữ Cánh Nam dừng lời, chỉ nghe thấy tiếng thở gấp gáp bên dưới, lại tiếp tục nói: “Nếu kết quả của nhóm nghiên cứu là chính xác, thì tấm bản đồ đó là do vị sứ giả có nhiệm vụ mang Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu đến châu Mỹ chôn giấu, trong thời gian ở Maya, dựa vào trí nhớ siêu phàm của mình vẽ nên con đường ông đã đi qua. Vị sứ giả ấy thuở sinh tiền ắt hẳn là một vị trí giả, ông đã vẽ bản đồ của vùng Tây Tạng-Vệ hết sức tường tận rạch ròi, mặc dù không thể so với bản đồ ngày nay, nhưng cũng đủ cho chúng ta hiểu được đại khái. Còn hình dạng của các quốc gia châu Á khác và châu Mỹ thì lại hết sức cổ quái, làm các chuyên gia của chúng ta phải vắt hết tâm tư mới nhận ra rằng, đây là hình tượng của hai châu lục lớn này trong mắt người xưa. Nhưng nếu những suy đoán về tấm bản đồ hàng hải này là đúng, thì các địa điểm quan trọng chú thích trên đó lại khiến người ta thật không sao hiểu nổi. Kết hợp với rất nhiều tư liệu khác, nhóm nghiên cứu của chúng ta đưa ra kết luận rằng, vị sứ giả kia sau khi đến Bạch thành lo rằng mình không thể trở về Tây Tạng lấy thành vật khác đi, nên đã dùng trí tuệ của mình vẽ nên tấm bản đồ này. Chắc ông ta giao cho người mình tin cậy nhất trong Bạch thành, sau đó mới trở về Tây Tạng, nhất định đã dặn dò người ở lại rằng, bao nhiêu năm sau đó, nếu có đủ năng lực, hãy đến Tây Tạng xem thử những thứ này thứ kia có còn ở đấy hay không, nếu không còn thì phải làm thế nào. Trong đó có ba nơi cực kỳ quan trọng, sau nhiều tranh luận, chúng tôi cho rằng, một là di chỉ Cổ Cách ở khu vực A Lý hiện nay, một là quần thể cổ mộ ở huyện Lạp Tư, khu vực Xigaze ngày nay, còn nơi cuối cùng, thì nằm ở Mặc Thoát, khu vực Lâm Chi ngày nay.”
“Gì hả?” Cặp mắt Trác Mộc Cường Ba như muốn lồi hẳn ra ngoài, gã kinh ngạc thốt lên, “Vậy chẳng phải là đánh dấu cả ba vùng Tạng-Vệ vào rồi hay sao?” Khu vực A Lý nằm ở phía Tây đất Tạng, trên biên giới Trung-Ấn, Xiaze thì ở miền Trung Tây Tạng, còn Lâm Chi thì ở phía Đông, như vậy, phạm vi đánh dấu của tấm bản đồ này đã bao trùm cả Tây Tạng mấy ngàn cây số vuông rồi.
Nhạc Dương cũng nói: “Nhưng vị sứ giả năm ấy chẳng phải đã bình an trở về rồi hay sao? Vậy chắc ông ta đã mang đi những tín vật còn lại rồi, cho dù không phải ông ta, thì những nhà thám hiểm trước chúng ta có lẽ cũng mang đi mất rồi. Chúng ta còn đi…”
Lữ Cánh Nam ngắt lời: “Đúng vậy, trong Cổ Cách kim thư chép là vị sứ giả kia có trở về thật, nhưng sau hi trở về lại không hề rời khỏi Cổ Cách, hơn nữa chẳng bao lâu sau thì đã qua đời, sách chép rằng u uất bi thương mà chết. Vì vậy, có thể đoán rằng ông ta vẫn chưa kịp đến những nơi khác. Có điều, chúng ta không còn thời gian nữa rồi, đám người của Ben đã xuất phát trước chúng ta mấy ngày, mặc dù những người chuyên trách theo sát chúng cho rằng tên Ben đó đã biến mất ở khu vực Khả Khả Tây Lý, song chúng tôi nghi ngờ đó chỉ là trò che mắt thôi, vì vậy, chúng ta cũng phải nhanh chóng lên đường. Mặc dù không có chú thích nào chỉ ra ba nơi ấy có những gì, nhưng dựa trên những tư liệu khác của chúng ta đã có, các chuyên gia suy đoán đó có lẽ là một tấm bản đồ vẽ trên da sói.”
Trương Lập thắc mắc: “Nhưng tấm bản đồ ấy chẳng phải là đã bị người ta lấy đi rồi hay sao?”
Lữ Cánh Nam cười cười: “Đúng thế, có một tấm bản đồ đã bị người ta lấy đi, nhưng ai có thể khẳng định rằng chỉ có một tấm bản đồ thôi chứ. Vị quốc vương năm đó, đến cả Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu còn phục chế được, vậy thì… tại sao không thể có hai tấm bản đồ chứ? Còn nữa, những người có tấm bản đồ kia, cho đến nay vẫn chưa thể tìm được Bạc Ba La thần miếu, tấm bản đồ bị lấy đi ấy là thật hay giả, giờ cũng chưa thể xác định được. Tóm lại, chúng ta không thể bỏ qua bất cứ đầu mối nào, hơn nữa, đây còn là đầu mối có thế khiến đối thủ của chúng ta hết sức hứng thú nữa!”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy nên chúng tôi phải lập tức đi luyện tập, phải vậy không giáo quan?”
Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Đợi chút đã, hôm nay gọi mọi người đến đây chính là vì còn có bài học mới nữa. Có câu, biết mình biết người, trăm trận trăm thắng, lần này chúng ta lên đường chỉ sợ sẽ phải đối mặt với quân đội đặc chủng chính quy của nước ngoài, mặc dù không biết đối phương có thể mang vũ khí vào lãnh thổ Trung Quốc hay không, nhưng tôi vẫn phải nói cho mọi người biết về một số vũ khí loại mới mà bọn họ sử dụng.”
Rèm cửa đều hạ xuống, đèn phòng tắt hết, trên màn hình máy chiếu, bọn Trác Mộc Cường Ba lần lượt tìm hiểu các loại vũ khí mà đối thủ sử dụng. Ngoài các loại vũ khí thông thường của lính đặc chủng, còn có những loại vũ khí hoàn toàn mới mà mấy người nhóm Trác Mộc Cường Ba chưa từng thấy bao giờ, bao gốm súng lắp ống kính camera có thể xoay ngoặt, còn có một loại lựu đạn sáng khiến người ta cũng lúc mất cả thị giác lẫn thính giác, thuốc nổ hẹn giờ dạng dính hình cúc áo, một loại thuốc giảm đau tác động đến trung khu thần kinh, khiến người ta dù tổn thương đến vỡ xương gãy xương cũng không hề thấy đau đớn… Loạt vũ khí mới đó khiến bọn Trác Mộc Cường Ba hoa hết cả mắt, càng nghe lại càng thấy rợn người, nói thế nào cũng thấy giống như mình sắp đi đánh trận…
Thời gian không còn nhiều, chỉ có một ngày để thu thập tư liệu, ngày thứ hai cả nhóm đã sắp xếp hành trang lên đường, đích đến của họ lần này là… Mặc Thoát!
Vùng đất bí mật cuối cùng
Mặc Thoát, ở triền Nam dãy Himalaya, tiếp giáp với Ấn Độ, dịch nghĩa ra là “đóa sen bí ẩn”, từ “Mặc Thoát” trong tiếng Tạng được dùng để chỉ hoa. Nơi này là huyện duy nhất trong toàn quốc không thông với đường quốc lộ, gọi là “hòn đảo cô độc trên cao nguyên”, địa thế Nam thấp Bắc cao, diện tích khoảng ba mươi ngàn kilomet vuông, thuộc vùng lòng chảo hạ du sông Nhã Lỗ Tạng Bố, độ cao trung bình một ngàn mét so với mực nước biển. Mặc Thoát nằm trên vùng đứt gãy Himalaya và vùng đứt gãy Mặc Thoát, hoạt động địa chất rất phức tạp, thường xuyên xảy ra động đất, sụt lở, đất đá trôi, cộng thêm khí hậu ẩm thấp nhiều mưa. Chính phủ cũng từng đầu tư một khoản tiền lớn để xây đường, song gần như không thấy hiệu quả gì. Tương truyền, chính A Quỳnh Kết Ba bảo hộ cho thánh địa cuối cùng của Tạng giáo nguyên thủy này, không để người khác xâm hại; cũng có người nói đây là kết quả năm xưa A Quỳnh Kết Ba đấu ghép với Liên Hoa Sinh đại sư, khiến nơi này núi cao lởm chởm, khe núi sâu dài, lấy sông Nhã Lỗ Tạng Bố làm ranh giới, vạch ra một quan ải thiên nhiên hiểm trở khó thể vượt qua..
Vùng đất núi non bao bọc, lúc nào cũng có nước chảy qua này được các tôn giáo trên đất Tạng coi là thánh địa, Phật giáo cũng vậy, mà các tôn giáo khác cũng vậy. Vì có đại hiệp cốc 4 Nhã Lỗ Tạng Bố, đặc trưng của vùng này chính là “một núi bốn mùa, mười dặm khác thời tiết”; đứng ở chân núi cao mấy trăm mét so với mực nước biển, sẽ được hưởng khí hậu cũng như cảnh sắc của vùng á nhiệt đời, nhưng khi tốn nửa ngày thời gian trèo lên đỉnh núi cao mấy ngàn mét, khí hậu đã chuyển sang thành khí hậu địa cực rồi.
Di tích sông băng cổ nơi này khá phổ biến. Từ sông băng cổ đến lòng chảo sông hiện đại, địa hình đã chuyển từ khe hình chữ “U” tương đối rộng rãi thành khe hẹp và sâu hình chữ “V”, sức ăn mòn của dòng chảy cực lớn, thường hình thành nên những “khe trong khe”, độ cao chênh lệch lên tới 7.000 mét. Mặc Thoát dựa vào khe núi Nam Ca Ba Ngõa cao 7.766 mét so với mực nước biển, bên cạnh là ngọn Gia La Bạch Lũy cao 7.151 mét, vùng đất thấp nhất trong huyện cũng cao 750 mét so với mực nước biển, giữa hai khe có sông treo, và các thác nước lớn nhỏ nối liền, tạo nên một khung cảnh cực kỳ tráng lệ của thiên nhiên.
Mặc Thoát ban đầu gọi là “Lạc Du”, tức là nơi người Lạc Ba sinh sống, về sau các dân tộc hay quần tộc Môn Ba, Hạ Nhĩ Ba, Tạng, Tranh cũng chuyển đến, từ đó đến nay vẫn sống tự túc tự cấp, phương thức sản xuất và phong tục rất độc đáo. Vì đường đi gồ ghề khúc khuỷu, những dân tộc này đã quen với cách sống “lên núi giữa ngàn mây, xuống núi ra bờ sông, nói phải nghe ra tiếng, đi đường phải một ngày” rồi.
Ở dải đất sâu trong trung tâm, nguy hiểm nhất đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, chính là đoạn sông dài gần trăm cây số từ Bạch Mã Cẩu Hùng đi xuống, khe núi sâu thẳm u tối, nước chảy cuồn cuộn, đến giờ vẫn chưa ai có thể đi qua được. Chính vì sự khó khăn và nguy hiểm ấy, nên nơi này được gọi là “vùng đất bí mật cuối cùng của nhân loại”. Theo sự chỉ dẫn của tấm bản đồ kia, bọn Trác Mộc Cường Ba, đang chuẩn bị đến chính nơi đó thử vận may.
“Tại sao chúng ta lại chọn Mặc Thoát vậy?”
“Bởi vì nơi đó là có khả năng tìm thấy nhất. Cậu nghĩ xem, năm 1985, sau khi nhà nước thành lập đội khảo cổ chuyên trách khảo sát, di chỉ Cổ Cách đã được xếp hạng di tích được bảo hộ, nếu trong đó có thứ gì thì cũng đã bị khai quật lên hết cả rồi. Hơn nữa lối vào đánh dấu trên bản đồ cách di chỉ Cổ Cách ngày nay tới mấy chục cây số, chỉ e vị trí không được chính xác cho lắm. Còn quẩn thể mộ cổ La Tư bây giờ cũng được liệt vào hàng văn vật quốc gia, chúng ta có đi chắc cũng chẳng thu hoạch được gì đâu. Chỉ có Mặc Thoát, đến năm 1993 mới lần đầu tiên thông đường, nhưng chưa được nửa năm đã sụt lở nên không thể sử dụng, cho đến nay, những người từng đi Mặc Thoát và người từ Mặc Thoát trở ra đều có thể dùng đầu ngón tay là đã đếm hết, mà quan trọng hơn cả là… thực ra nơi đó, có mối liên hệ rất lớn với Bạc Ba La thần miếu mà chúng ta đang tìm kiếm.”
“Quan hệ rất lớn?”
“Đúng vậy, Mặc Thoát núi non trùng điệp, riêng thần sơn với thánh đồ đã có mấy chục chỗ, mặc dù không thông với đường quốc lộ, nhưng nơi này không chỉ là thánh địa của Phật giáo, mà còn là thánh địa và nơi khởi nguồn của Tạng giáo nguyên thủy và Bản giáo cổ nữa. Đến ngày nay ở đó vẫn còn tín đồ Bản giáo, lưu truyền rất nhiều câu chuyện đại tôn sư của Bản giáo và đại tôn sư Phật giáo đấu phép. Mà Bạc Ba La thần miếu chúng ta đang tìm kiếm dường như có liên hệ rất sâu xa với Bản giáo thì phải.”
“Gì cơ? Có liên hệ rất sâu xa với Bản giáo? Chẳng phải đó là nơi các tăng lữ dời đến trong thời kỳ diệt Phật hay sao?”
“Không sai, nhưng dựa trên những tư liệu chúng ta có, vì khi ấy đang nổi lên làn sóng diệt Phật, tất cả các tăng lữ Phật giáo đều gặp nạn, bọn họ cần nhờ đến lực lượng của các tôn giáo khác để hoàn thành nhiệm vụ che giấu và vận chuyển một lượng lớn các vật phẩm. Mà trong thời kỳ ấy, sợ rằng cũng chỉ có các tín đồ Bản giáo là chấp nhận bỏ qua hiềm khích trong quá khứ thôi. Hơn nữa, như vị sứ giả mang tín vật kia, bản thân cũng chính là một giáo đồ Bản giáo thì phải.”
“À, tôi nhớ ra rồi, không phải đại sư đã nói, cái huyết trì còn nguyên dạng đầu tiên được khai quật ở Mặc Thoát hay sao, nói như vậy thì đúng là có quan hệ rất lớn với nơi này rồi. Huyết trì có phải dụng cụ tế lễ của Bản giáo không?”
“Cũng chưa chắc, khi Phật giáo dần dần đi sâu vào lòng người, có rất nhiều tín ngưỡng nguyên thủy đã bị nó đồng hóa, mà ban đầu vùng Tây Tạng này rốt cuộc có bao nhiêu tôn giáo, đến giờ cũng không ai nói chắc được. Lấy Mật giáo của chúng tôi làm ví dụ nhé, tương truyền trước đây Mật giáo cũng không phải một nhánh của Phật giáo, mà là một tôn giáo hoàn toàn độc lập, nhưng bây giờ, chúng tôi và Tạng truyền Phật giáo đã dung hợp lại thành một và không thể tách rời rồi.”
“Sao chúng ta không chia tổ ra? Như vậy có thể cùng lúc tìm ở hai nơi khác nhau, nói không chừng còn phát hiện ra điều gì đó trước tên Ben kia ấy.”
“Không được, chúng tôi đã suy tính rất kỹ về vấn đề này. Nếu không có đối thủ nào, chúng ta tất nhiên có thể chia làm hai tổ lên đường, nhưng tên Ben Merkin kia quả thực là ghê gớm, trước khi chúng ta làm rõ gốc gác của bọn chúng, cần phải hợp lại mới đối kháng được. Hơn nữa, lần này cứ coi như là kỳ sát hạch nhóm cuối cùng đi, tôi lần đầu tiên dẫn mọi người lên đường, một là có thể quan sát hiệu quả huấn luyện của mọi người, hai là đồng thời cũng có thể sửa chữa những sai sót lệch lạc cho từng người nữa.”
“A, không biết lần này đến Mặc Thoát có kinh khủng như rừng rậm châu Mỹ không nhỉ?”
“Tuyệt đối là không, có mấy tuyến đường khác nhau để đi Mặc Thoát, trong đó lộ tuyến truyền thống là từ huyện Mê Lâm – Đa Hùng Lạp – Nã Cách – Hãn Mật – Mã Ni Ông – Bối Đăng, lộ tuyến của chúng ta là từ huyện Mê Lâm, qua Đại Độ Ca, Cách Ca, sau đó tới Gia Lạp, đi dọc dòng sông tiến vào đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố. Vì từ Gia Lạp trở đi là khu vực không người, đi dọc theo bờ sông đại khái mất khoảng hai, ba ngày là tới được Bạch Mã Cẩu Hùng. Chúng ta đi nhanh, có lẽ chỉ cần hai ngày là đến rồi. Có thể đảm bảo, đây là một con đường hết sức an toàn!”
“Chậc, sao tôi nghe trong ngữ điệu như có sự uy hiếp thì phải?”
“Suỵt… nhỏ thôi, tai giáo quan thính lắm đấy.”
Cả đoàn người rì rầm nói chuyện, cùng xuất phát tiến về hướng vùng đất bí mật cuối cùng của nhân loại. Vừa tới bờ sông, các thành viên tron đội đều ngớ mặt ra. Con đường nhỏ mà Lữ Cánh Nam bảo là cực kỳ an toàn ấy, hóa ra chỉ là một dải hẹp chìa ra lơ lửng trên vách núi, rộng chưa đến một thước, so với sạn đạo vào đất Ba Thục thời cổ còn hẹp hơn nhiều, vách đá thì trơn nhẵn như bị một đường búa xẻ ra, bên dưới là sông Nhã Lỗ Tạng Bố cuồn cuộn sóng cồn, tiếng sóng vang động như sấm. Con đường nhỏ lơ lửng này không cao lắm, cách sông Nhã Lỗ Tạng Bố chừng ba tới năm trăm mét, nếu lỡ rơi xuống có bị lộn nhào mấy vòng trên không cũng vẫn kịp hô gọi cứu mạng, có điều muốn leo trở lên thì e không dễ dàng gì cho lắm.
Nhạc Dương khó khăn nuốt nước bọt đánh ực, nghẹn lời lẩm bẩm: “Đây chính là cực kỳ an toàn à!”
Trương Lập làm bộ khoa trương, ấn hai tay lên ngực nói: “Tôi mắc chứng sợ độ cao rất nặng, Cường Ba thiếu gia có thể làm chứng. Giáo quan, chúng ta là đội khảo sát cấp quốc gia cơ mà, tại sao không phái một chiếc trực thăng…” Lữ Cánh Nam lừ mắt nhìn qua, Trương Lập vội vàng nói: “Ờ hớ, tôi nói… nói là… cái kia… kia…, tôi đang nói gì ấy nhỉ?” Anh chàng đánh mắt sang hỏi Nhạc Dương.
Lữ Cánh Nam đáp: “Không được, dòng xoáy không khí trong hiệp cốc rất mạnh, trực thăng không thể tác nghiệp ở độ cao thấp được. Chứng sợ độ cao hả? Lúc huấn luyện sao không thấy cậu sợ độ cao?”
Nhạc Dương đầu óc linh hoạt, liền phát biểu ý kiến khác: “Có thể nhảy dù mà.”
Trương Lập cũng thẽ thọt nói: “Lúc huấn luyện chỉ cao có mấy chục mét, sao mà so với chỗ này được.”
Lữ Cánh Nam nói: “Các cậu tưởng tôi chưa nghĩ đến sao? Sử dụng phương tiện giao thông đúng là có thể tiết kiệm được thời gian, nhưng các cậu có thử nghĩ chưa, trực thăng là mục tiêu lớn thế nào, nếu bọn chúng cũng ở gần đấy hơn nữa lại có vũ khí… nhớ cho kỹ, không được có bất cứ sai sót nào. Kể từ bây giờ, chúng ta phải giữ tốc độ mỗi ngày đi một trăm cây số, trong hai ngày sẽ đến được Bạch Mã Cẩu Hùng. Ở đó có đường lớn, có thể vượt sông, sau đó chúng ta sẽ đi thẳng tới đích đến của lần này, một nơi tên gọi là Lạp Mẫu Bạc Quả.”
Trác Mộc Cường Ba liếc mắt nhìn Ba Tang, thấy anh ta vẫn lạnh lùng như trước, không để lộ chút cảm xúc gì ra mặt.
Đi trên con đường nhỏ lơ lửng nơi vách núi, mặc dù đều trải qua huấn luyện đặc biệt, mọi người vẫn hết sức cẩn thận, dù sao thì bên dưới cũng là dòng sông cuồn cuộn sóng, rơi xuống tuyệt đối không phải trò đùa. Đi được chừng mười dặm, Lữ Cánh Nam đi đầu tiên đột nhiên chậm lại, cả đoàn cũng cùng lúc dừng lại theo, mọi người nhất loạt trụ vững thân hình. Chỉ riêng một động tác dừng lại đơn giản thế này thôi, cũng đã phải trải qua nhiều lần tập luyện mới đạt tới mức đồng điệu nhịp nhàng thế này, bằng không đang đi với tốc độ cao, phía trước bất ngờ xuất hiện đoạn gãy đứt, nếu người phía sau không kịp dừng bước, khẽ huých vào người đi trước một cái, người phía trước rất có thể sẽ rơi xuống. Mà ở trên vách núi nhô ra rộng chưa đầy một mét này, hai người đụng vào nhau, nguy cơ cả hai cùng rơi xuống là rất lớn.
Lữ Cánh Nam dẫn đầu, lạt ma Á La đi sau cùng đoạn hậu. Nhân lúc dừng lại, Trương Lập đi ở giữa hỏi Nhạc Dương đứng trước mình: “Sao thế hả?”
Đường Mẫn đứng trước Nhạc Dương nói: “Đất sụt.”
Mặc dù Trác Mộc Cường Ba đứng giữa, nhưng thân hình cao lớn, chỉ lờ mờ trông thấy đoạn đường hẹp phía trước bị bùn đất ở trên sụt xuống lấp mất, phần nhô ra trên vách đá chỉ rộng bằng lòng bàn tay. Đoạn đường hẹp không đủ chỗ đặt chân này dài tới mười bảy mười tám mét, Lữ Cánh Nam nghĩ ngợi giây lát, rồi đặt ba lô xuống, ép lưng sát vào vách đá, hai chân giạng ra hình chữ bát, hai tay bám ngược vào đá, nhích người qua từng bước một. Đi qua đoạn ấy, cánh tay liền vung lên kéo chiếc ba lô qua, thì ra từ nãy cô đã quấn sợi dây thép mảnh trên cổ tay vào quai lô rồi. Mọi người liền làm theo cách đó, từng người đều đi qua được. Tới lượt Trác Mộc Cường Ba, gã hít sâu một hơi, áp lưng vào vách đá, hai mắt nhìn thẳng về phía trước, nhìn thấy phía đối diện hiệp cốc núi xanh mơn mởn, lũ chim bay lượn trên cao, nghe thấy tiếng nước chảy ầm ầm, khoảng cách có mười mấy mét mà gã dù được huấn luyện đặc biệt rồi cũng mất gần hai phút mới qua được. Dọc đường cũng hơi thấy nền đá dưới chân lơi ra, tựa hồ như có đá vụn rơi xuống lả tả, có điều cuối cùng cũng qua được bình an.
Người cuối cùng là lạt ma Á La nghệ cao gan lớn, không cần cởi ba lô, mà xoay người úp mặt vào vách đá, ba lô lơ lửng giữa không trung. Trác Mộc Cường Ba biết rõ, đi qua như vậy, trọng tâm hoàn toàn lệch về phía ngoài vách đá, bản thân gã tự nhủ mình không có bản lĩnh ấy. Gã đang nghĩ ngợi, bỗng thấy đá dưới chân lạt ma Á La sụt, cả người ông đã thụt hẳn xuống, trái tim gã như muốn nhảy tót ra khỏi lồng ngực. Chợt thấy ông vươn tay ấn vào một kẽ nứt cạnh đó, cả người bốc hẳn lên cao, tựa như cánh ưng chao liệng. Lúc đó gã ngước lên nhìn lại, vị sư già đã đứng vững vàng phía bên này đoạn đường hẹp ấy rồi.
Nhạc Dương gần như không hiểu nổi, người bộ tộc Môn Ba làm sao mà đi đi lại lại trên con đường này được. Có điều anh chàng cũng biết, người đi được trên con đường này quả thực là ít càng thêm ít, ở đây mười mấy hai mươi ngày không thấy bóng người cũng là chuyện hết sức bình thường.
Cùng lúc ấy, Merkin dẫn theo một đám người đang ở trong gian đại sảnh màu vàng rộng lớn. Bọn họ cắm những ống phun lửa nhỏ vào bốn bức tường, sau đó đứng ngắm nghía gian đại điện rộng rãi. Merkin mặc bộ rằn ri của lục quân Anh quốc, chiếc thắt lưng bản lớn bó chặt làm thân hình khôi vĩ của y thêm phần cao lớn mạnh mẽ. Soares vẫn mặc chiếc áo xám trông như thầy mo, chỉ đệ lộ ra nửa gương mặt quỷ trông chẳng khác nào quả quýt nát nhừ.
Một người thân hình gầy gò nhỏ bé dùng thứ tiếng từa tựa như tiếng Tạng cổ nói: “Xin Thánh sứ đi theo tôi, bên này có lẽ có thứ các vị muốn tìm.” Soares đưa mắt nhìn Merkin, khóe miệng nhếch lên tựa hồ như cười mà không phải cười. Merkin bừng bừng nổi giận, nhấc cái người nhỏ bé cao chưa tới mét rưỡi kia lắc mạnh: “Ta đã bảo với ngươi rồi, ở bên ngoài không cần gọi ta là Thánh sứ thánh siếc gì cả! Ngươi không hiểu à!”
Người nhỏ bé kia không phản kháng, vẫn gượng cười nói: “Vâng, Thánh sứ đại nhân.”
Merkin chán nản thở dài, đành dặn dò đám thủ hạ canh gác cẩn thận, rồi cùng Soares theo chân người nhỏ con kia đi qua cánh cửa đá khổng lồ, xuống những bậc thang rộng tới một gian phòng giống như gian thờ Phật. Giữa căn phòng đặt một cái đài cao hình tròn có hàng lan can gỗ mục nát, trên đài đặt một pho tượng đá lớn tạc hình hai người đứng ôm chặt nhau. Merkin không khỏi bật lên tiếng cười lạnh lẽo: “Hoan Hỉ Phật, giáo phái này thờ toàn tà Phật hả, hừ… lý thú lắm.”
Soares nói: “Chỗ này còn tà dị hơn những gì chúng ta tưởng tượng nữa, cả tôi và anh đều không hề biết gì về giáo phái nguyên thủy này. Chẳng hạn những thứ động vật bọn họ đặt trong các vò vại kia cả tôi cũng chưa từng thấy bao giờ, hình như vừa giống cá, lại vừa như động vật có vú. Còn các thi thể bên ngoài kia nữa, ở đây e là còn tà quái hơn địa cung Ah Puch nhiều.”
Người đàn ông nhỏ bé kia dường như vừa hoàn thành việc gì đó, quay sang cung kính nói với Merkin: “Thánh sứ, mời ngài xem…” Chỉ nghe “rầm” một tiếng, bức tượng đá khổng lồ không ngờ đã tách ra!
Buổi sáng đi được ba mươi kilomet, dọc đường gặp phải sáu chỗ đất sụt, có nơi thậm chí hoàn toàn không thể đi được, chỉ còn cách bám vào vách đá trèo qua. Lữ Cánh Nam nói, có thể trận mưa lớn ba ngày trước chính là nguyên nhân gây nên sụp lở đất trên phạm vi lớn. Buổi trưa, họ tìm thấy một chỗ tương đối rộng rãi, vách đá lõm vào trong một chút, hình thành nên một hang động bán thiên nhiên, liền dừng lại chuẩn bị dùng bữa. Cũng may là dọc đường còn có một số hang hốc nhân tạo này nên người đi đường mới có một số chỗ nghỉ ngơi. Lữ Cánh Nam đột nhiên nói: “Giáo sư, đại sư, mọi người xem ở trong này…”
Trác Mộc Cường Ba cũng hen vào, chỉ thấy dưới đất có một mẩu thuốc, màu sắc phai hết, cách đó không xa còn có hai mẩu nữa, những chỗ khác cũng có vài thứ linh tinh. Giáo sư Phương Tân nói: “Xem ra, bọn chúng đã qua đây rồi, giờ đang ở ngay phía trước chúng ta thôi.”
Lạt ma Á La gật đầu: “Đúng thế, dân Tạng không hút thứ thuốc này.”
Lữ Cánh Nam nhìn mặt đất khô ráo, nói: “Đầu mẩu thuốc này chưa bị ngâm nước thì không mất màu đên mức này đâu, ít nhất chúng cũng đi qua đây từ ba hôm trước rồi.” Nói đoạn, cô xoay người lại, “Ăn nhanh lên, ăn xong chúng ta còn phải lên đường cho sớm.”
Lạt ma Á La lắc đầu: “Chỉ e đã muộn mất rồi.”
Lữ Cánh Nam nói: “Dù thế nào, chúng ta cũng phải đến xem thử một phen, hơn nữa…” cô ngẩng đầu lên, “chỉ có hai ngày tới đây trời mới không mưa, nếu sau hai ngày mà vẫn chưa qua được đoạn đường trên vách núi này, muốn tiến lên lại càng khó khăn hơn gấp bội đấy.”
Sau đó đoàn người lại phát hiện ra nhiều bao bì thực phẩm vương vãi bên đường, mỗi thứ dường như đều cố tình chọc vào mắt bọn họ, khiến ai nấy càng thêm nôn nóng hơn. Qua các dấu vết đối phương để lại, có thể phán đoán sơ bộ như sau, nhân số của chúng khoảng từ mười đến hai mươi người, đều được huấn luyện kỹ càng. Ở những chỗ đất sụt sau cơn mưa ba hôm trước, còn phát hiện dấu vết sử dụng đinh tán và dây trượt. Ngoài ra đám người này thích dùng các đồ ăn có nhiệt lượng cao, có lẽ là đến từ một vùng đất lạnh lẽo. Thói quen thường ngày của chúng rất tệ, túi bọc đều bị xé rách toang, đầu mẩu thuốc vứt lung tung, đại tiểu tiện bừa bãi, lại còn hút cả thuốc phiện nữa. Lữ Cánh Nam cho rằng, những thói quen này rất giống của đám lính đánh thuê. Vì giờ phút nào cũng phải lượn lờ qua mặt tử thần, nên tính tình chúng hầu hết đều hết sức lưu manh. Còn có một số dấu vết chỉ ra rằng, thân hình bọn chúng không cao lớn lắm – đây là một điểm không khỏi khiến người ta phải sinh nghi.
Thấy Lữ Cánh Nam phân tích hết sức rõ ràng, Trác Mộc Cường Ba dần dần cũng lĩnh hội được một số cách tư duy của Lữ Cánh Nam. Cả đoàn người cứ hành quân như vậy, cũng phải tới hoàng hôn ngày thứ ba mới đến được con đường lớn mà Lữ Cánh Nam nói ban đầu.
Nhạc Dương là người đầu tiên kêu ca: “Giáo quan à, cô có thể dùng con mắt của người bình thường mà nói với chúng tôi, con đường này rốt cuộc là thế nào không? Đừng có dùng con mắt của cô nhìn vấn đề có được không hả, cái này… cái này mà gọi là đường lớn ư? Rõ ràng là dây trượt Đại Lưu Tố mà.”
Đại Lưu Tố là một điểm đặc sắc của đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, cũng là con đường duy nhất để người các bộ tộc như Môn Ba, Lạc Ba vào ra Mặc Thoát, là một sợi dây sắt to như cột đèn dài mấy trăm mét, vắt ngang hai bên vách núi. Khi trượt qua, người bản địa sử dụng giá gỗ tự chế gá lên xích sắt, rồi quấn một sợi thừng ở eo hông, sau đó buộc chặt hai đầu giá gỗ, hai chân giơ lên cao, kẹp hờ vào dây xích, rồi thuận theo độ cong của xích sắt mà trượt xuống, khi trượt tới mấy chục mét cuối cùng, phải dùng cả tay lẫn chân để bám leo lên.
Nếu không đủ kỹ thuật và tài nghệ, lúc sắp đến bờ bên kia không kịp thời bám lấy dây xích, sẽ bị trượt ngược trở lại, cuối cùng lơ lửng ở chính giữa dây xích, bên dưới mấy trăm mét là dòng Nhã Lỗ Tạng Bố sóng cuộn ầm ầm như sấm động, giữa hiệp cốc lại thường có gió buốt thổi qua, nghe nói mùi vị ấy thật vô cùng khó chịu, đã từng có trường hợp bị hãi hùng mà mắc phải bệnh thần kinh. Khi ấy, cách duy nhất chính là có người giỏi kỹ thuật trượt qua, đẩy người phía trước sang bờ đối diện, ngoài ra số người ở trên xích sắt cùng một lúc không thể quá nhiều, một là đụng chạm vào nhau sẽ cực kỳ nguy hiểm, hai là dây xích cũng không thể chịu được trọng lượng quá lớn, có thể đứt đoạn.
Bọn Trác Mộc Cường Ba sử dụng bánh xe trượt, tốc độ di chuyển lớn hơn giá gỗ nhiều lần, hơn nữa chỉ cần leo lên là có thể trượt đi ngay, có điều đến đoạn cuối cùng thì vẫn phải dùng cả tay lẫn chân bò lên.
Mấy người đi trước đều đã an toàn sang bờ bên kia, riêng Đường Mẫn bỗng dưng sợ hãi. Trác Mộc Cường Ba khuyên mấy lần, nhưng cô vẫn không dám treo mình lên. Không còn cách nào khác, gã đành để những người khác qua trước, cuối cùng chỉ còn lại hai người, gã và Đường Mẫn, phải cổ vũ mãi, cuối cùng Đường Mẫn mới chịu đồng ý thử một lần.
Ở đầu bên kia, Lữ Cánh Nam hỏi: “Đường Mẫn sợ dây thừng hả?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Ừm, lúc leo lưới thì không sợ, nhưng lúc trượt dây hình như hơi sợ một chút, có điều chưa lần nào sợ đến mức này cả, mỗi lần cũng đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.”
Lữ Cánh Nam nắm sợi xích trong tay, trầm ngâm giây lát rồi nói: “Có thể cô ấy từng bị rắn cắn. Trương Lập, Nhạc Dương, hai người lại gần đây một chút, đợi lát nữa nếu cô ấy không trèo lên được thì giúp một tay kéo lên.”
Trương Lập và Nhạc Dương chia nhau đứng hai bên dây xích. Chỉ thấy Đường Mẫn cắn môi trượt qua, vừa tới đầu bên này, thân hình dừng sững lại, đáng lẽ phải lập tức kẹp chặt hai chân, đồng thời dùng cả hai tay ôm lấy dây xích leo lên, nhưng không hiểu tại sao, tay Đường Mẫn vẫn nắm chặt lấy bánh xe trượt, không dám ôm lấy xích sắt. Trương Lập vội hét lớn: “Bám lấy xích sắt, bám lấy xích sắt đi!” Đồng thời cùng Nhạc Dương tiến lên trước một bước, đến sát mép vách đá, chuẩn bị tóm lấy chân Đường Mẫn kéo lên.
Lúc này, Đường Mẫn đột nhiên trượt ngược về phía sau, Trương Lập và Nhạc Dương đều không kịp tóm lấy, chỉ biết trơ mắt ra nhìn Đường Mẫn trượt đi càng lúc càng xa, kế đó trượt đi trượt lại trên dây xích mấy lượt, cuối cùng dừng lại ở chính giữa sợi xích sắt.
Lữ Cánh Nam nói: “Cô ấy không qua được rồi, lúc huấn luyện sao không phát hiện ra vậy?”
Lạt ma Á La nói: “Có lẽ khi huấn luyện làm tương đối ít, dù sao trượt dây cũng là một hạng mục rất đơn giản, hơn nữa bên dưới bãi huấn luyện là cát, hoàn cảnh không giống như bây giờ.”
“Hình như cô ấy không chịu được nữa rồi!” Trương Lập và Nhạc Dương cùng lúc kêu lên, chỉ thấy hai chân Đường Mẫn không hiểu tại sao đột nhiên tuột ra, cả người lơ lửng trên sợi xích sắt, hơn nữa, còn đung đưa dữ dội giữa không trung!
“Không xong rồi, có âm phong!” Đôi lông mày lá liễu của Lữ Cánh Nam nhướng lên, lẩm bẩm nói, “Đành xem có qua nổi cửa ải này không vậy.”
Thụ táng
Khu vực không người trên hoang mạc, phóng mắt nhìn ra chỉ thấy một dải cát dài tít tắp, tháp cao san sát, gió thổi đá chạy, một đoàn người xếp hàng một, trông tựa như một con sâu dài nhiều chân lặc lè bò trên cao nguyên hoàng thổ. Leo lên ngọn đồi cao nhất khu vực, bốn ngàn mét so với mực nước biển, gió lạnh thổi qua, tinh thần con người cũng thêm phần phấn chấn, Merkin bít một hơi khí lạnh: “Con đường quỷ quái này, rốt cuộc còn bao xa nữa đây?”
Soares cười gằn lạnh lẽo: “Thánh sứ, không tìm được đường nữa à?”
Merkin nổi giận nói: “Tôi đã bảo bao nhiêu lần rồi, tôi cũng không biết tại sao mình lại thành thánh cái gì sứ cái gì đó, thật sự là họ không hề nói gì với tôi cả. Giờ không có cái đám người ấy, đừng gọi tôi như vậy nữa.” Y ngoảnh sang nhìn Soares, hết sức thành khẩn nói. “Tin tôi đi, Soares, ngoài chuyện huyết trì lần trước, tôi không hề giấu giếm anh bất cứ việc gì nữa.”
Soares chỉ cười cười không tỏ thái độ gì, tiếp tục tiến lên. Max đi sau thấy vậy, khẽ nhếch mép lên cười.
Vì không có đường, hơn nữa đâu đâu cũng thấy đồi gò đất san sát như rừng, người không quen đường thuộc lối căn bản không thể điều khiển xe đi trong khu vực này được. Năm chiếc xe của bọn Merkin đều hỏng dọc đường, cả bọn đều phải đeo những chiếc ba lô nặng nề cuốc bộ tiến lên. Đây là vùng Tây Nam khu vực A Lý, trong vòng hai trăm kilomet vuông không thấy một bóng người sinh sống, cách di chỉ Cổ Cách chừng hơn trăm kilomet, kết cấu địa lý cực kỳ đặc biệt, được gọi là “thổ lâm” (rừng đất).
Địa mạo “núi rừng bằng đất” đặc biệt này, là do tầng trầm tích dưới đáy hồ nơi đây từ thời viễn cổ bị ảnh hưởng bởi quá trình tạo sơn của dãy Himalaya, mực nước hạ xuống, đáy hồ nâng lên, đồng thời bị khí hậu biến đổi và nước sông xói mòn cắt xẻ mà hình thành nên. Vách núi dựng đứng hiểm trở thoạt nhìn tựa như những tòa thành, tháp canh, tháp Phật nguy nga hùng vĩ, muôn hình vạn trạng, tráng lệ vô cùng.
Soares lấy bản đồ ra, nói: “Theo lời tên nhỏ con kia, chắc là ở ngay gần đây thôi, A Nam Tháp đang ngủ say, A Nam Tháp, bên kia…” Ở hướng Soares chỉ tay, chỉ thấy rừng đất cao lớn tựa như vô số tòa linh tháp khổng lồ đứng san sát cạnh nhau, xoáy thành hình rồng, nếu không phải lên cao nhìn xa, ở giữa nơi ấy thì căn bản không thể phân biệt được.
Merkin vung tay lên ra lệnh: “Chạy tới đó!”
Hai tiếng đồng hồ sau, đám người này cũng đến được dưới chân khu rừng đất, trong mắt đều lộ ra vẻ kinh ngạc. Merkin nhếch mép lên nói: “A, khó mà tin nổi.”
Phía trước gò đất nhô cao, mặt đất nứt nẻ, sườn dốc san sát nối nhau như bát úp, hang đất trùng trùng điệp điệp như tổ ong, từ trái sang phải, nhìn ngút tầm mắt mà cũng không thấy hết, khiến người ta có cảm giác nơi này chẳng phải cao nguyên Tây Tạng, mà như hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng vậy. “Trái tim của A Nam Tháp, ẩn chứa ánh sáng màu bạc…” Merkin lẩm bẩm nói, rồi nhìn theo hướng chạy của khu rừng đất. Chỉ thấy những gò những đồi san sát nhau nhấp nhô trải dài từ hướng Tây sang hướng Bắc, ngoằn ngoèo uốn khúc, tựa như một con rồng khổng lồ đang ngóc đầu lên cao, muốn xé toang không gian mà đi. Bọn y lúc này chính là đang đứng ở đuôi rồng. Merkin búng ngón tay đánh “tách” một tiếng: “Hướng Bắc, hướng Bắc.”
Vì hai bên đại hiệp cốc đều là cao nguyên cao mấy ngàn mét so với mực nước biển, địa hình sông kẹp giữa núi thế này sẽ khiến không khí bị thổi vào hiệp cốc sẽ chỉ có thể tiến ra theo một hướng duy nhất. Gió giống như nước triều, từng đợt từng đợt hết sức mãnh liệt, gió lớn có thể thổi cho sợi xích nặng nề đung đưa không ngớt, người ở trên dây cũng gian nguy chẳng kém gì gặp phải cơn sóng thần trên biển lớn.
Cơn gió lạnh làm Đường Mẫn chao đảo trên dây xích như con diều đứt dây, liên tiếp đảo lộn mấy vòng, mắt trợn ngược lên, bàn tay bám vào sợi thừng mỗi lúc một lơi dần. Nhìn Đường Mẫn rơi vào tình cảnh ấy, Lữ Cánh Nam nôn nóng kêu lên: “Không được rồi, cô ấy không trụ được đâu, tôi phải đi kéo cô ấy về. Gió đã ngừng chưa?”
Bỗng chợt nghe Nhạc Dương kêu toáng lên: “Cường Ba thiếu gia, Cường Ba thiếu gia qua rồi!”
Chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba quấn chặt sợi dây nối với bánh xe trượt vào cổ tay, một tay giữ dây trượt, nhanh chóng lướt về phía Đường Mẫn, đúng trong khoảnh khắc gió vừa ngừng, người vừa rơi xuống, gã đã tựa như chim éo điểm nước, ôm Đường Mẫn vào lòng, rồi lao vút về phía bên này. Trương Lập lẩm bẩm nói: “Chà, thân thủ Cường Ba thiếu gia khá thật, nếu đến đoàn xiếc diễn tạp kỹ, đảm bảo là có nhiều người đến xem lắm.” Lữ Cánh Nam chỉ khẽ hừ một tiếng, hàng lông mày càng nhíu chặt lại.
Trác Mộc Cường Ba cởi ba lô, đặt Đường Mẫn xuống đất, chỉ thấy sắc mặt cô trắng bệch như tờ giấy trắng, môi tái xanh đen, ý thức mơ hồ, không ngờ đến cả hơi thở cũng đã ngưng lại, gã vội vàng giúp cô hô hấp nhân tạo. Đè bốn thở một, chính là ấn ngực bốn lần, rồi miệng áp miệng hô hấp một lần, làm như vậy mấy lượt liền, Đường Mẫn mới khẽ khục khặc ho một tiếng, cuối cùng cũng coi như hô hấp được bình thường trở lại.
Cô từ từ mở mắt ra, trông thấy gương mặt mơ hồ cùng đôi mắt chan chứa sự quan tâm của Trác Mộc Cường Ba, khẽ thở hắt ra một hơi: “Em… không phải em… cố ý đâu.”
Trác Mộc Cường Ba ôm chặt Đường Mẫn, nhẹ nhàng an ủi: “Anh biết mà, anh biết, không ai trách em đâu.”
Nhạc Dương và Trương Lập đứng bên cạnh thấp giọng rì rầm: “Khóc, khóc, lại khóc rồi…” Đến giờ thì tính hay khóc của Đường Mẫn đã được thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt quen thuộc hết, chỉ cần miệng cô hơi dẩu lên, mắt ươn ướt đỏ, là đã đủ khiến các thành viên trong nhóm phải đề cao cảnh giác rồi, đến cả lạt ma Á La cũng phải nói cô bé này nước mắt nhiều như nước suối, có trời mới hiểu cô lấy đâu ra nhiều nước mắt đến thế, cứ như thể mãi mãi không hết, dùng mãi không kiệt vậy. Tiếng khóc của Đường Mẫn gần như đã thành vũ khí tối thượng của nhóm học viên, cộng với cô là người nhỏ tuổi nhất ở đây, Trương Lập và Nhạc Dương đã lén đặt cho cô một cái biệt danh, gọi là “công chúa nước mũi”.
Giáo sư Phương Tân cốc vào sau gáy mỗi người một cái, đùa cợt thế nào thì cũng có giới hạn của nó.
Không ngờ, lần này biểu hiện của Đường Mẫn lại khác hẳn dự đoán của hai anh chàng Trương, Nhạc, cô không rơi lấy một giọt nước mắt nào. Trương Lập thầm nhủ: “Chẳng lẽ là vì giáo quan cũng ở đây?” Anh chàng quay đầu lại nhìn Lữ Cánh Nam, không biết cô đã tách ra khỏi nhóm từ lúc nào, một mình đứng bên bờ vực cho gió thổi. Ba Tang thì đứng ở một phía khác của vách đá ngẩng đầu lên nhìn sắc trời. Trương Lập cũng ngước nhìn lên bầu không; chỉ thấy từng đóa mây trắng lững lờ trôi quá, vươn tay ra là có thể chạm tới, nhưng vừa trông thấy điệu bộ của Ba Tang, anh liền không khỏi lạnh hết cả người: “Thời tiết quỷ quái này, bảo thay đổi là thay đổi luôn, chắc là không xuất hiện thiên tai gì nữa đấy chứ?”
Vì sự việc của Đường Mẫn, tốc độ của cả đoàn đã chậm lại. Sau khi vượt qua đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, mấy người cứ nhắm hướng Đông Nam thẳng tiến. Dọc đường núi non trùng trùng điệp điệp, đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa, lưng chừng núi cây xanh rợp bóng, chân núi hoa tươi nở rộ, hồng tím đủ màu. Đây chính là cảnh quan đặc hữu của vùng này… một ngọn núi có đủ bốn mùa, mỗi núi một phong cảnh riêng. Đường núi dốc ngược, rừng sâu cây cối um tùm, thi thoảng lại có vài cánh chim chao liệng ngang trời, chốc chốc lại có dã thú chạy cắt ngang đường, bọn họ đi một mạch đến lúc trời tối, không khí mờ mịt sương mù, trời lại rải xuống một cơn mưa lất phất, đường trơn khó đi, cả đoàn liền dừng lại ở một chỗ bằng phẳng bên cạnh khe núi dựng trại qua đêm. Bốn phía xung quanh cây cối cao lớn, che kín cả bầu trời, giáo sư Phương Tân phóng mắt nhìn qua, không giấu nổi niềm cảm khái dâng trào: “Rừng bách lớn quá!”
Cây bách ở khu vực Lâm Chi khác với vân sam, hay cây bạch đàn ở rừng già Nam Mỹ, nếu cùng cao bốn mươi mét, thì cây ở châu Mỹ có thể nói là thẳng tắp mà thanh tú, còn bách khổng lồ ở Lâm Chi lại to lớn hùng vĩ. Tán cây xòe rộng như một chiếc ô khổng lồ, chiếm tới quá nửa thân cây, cành và rẽ cũng rất to lớn, trên cành cây có vô số những u những bướu hình dạng khác nhau, chính nhờ vậy mà cây bách ở đây rất dễ trèo.
Sau khi chọn xong nơi cắm trại, mọi người chia nhau làm việc. Hai người Trương Lập, Nhạc Dương phụ trách thăm dò xung quanh, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang khỏe mạnh lo việc cắm trại, chặt cây đốt lửa, giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La thì dựa vào kinh nghiệm cũng như tri thức phong phú của mình tiến hành trao đổi nghiên cứu khoa học, còn Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn thì phụ trách việc hậu cần. Đường Mẫn chỉ bị kinh hoảng một lúc chứ không tổn thương gì nên hồi phục rất nhanh.
Trương Lập than vãn với Nhạc Dương: “Phải thăm dò đến tít cái gò cao kia, xa quá đi mất, còn việc của giáo quan thì nhẹ nhàng quá, chỉ cần sắp xếp mấy cái ba lô, lấy đồ ăn ra là xong rồi.”
Lữ Cánh Nam đứng sau lưng anh chàng cất tiếng: “Chưa từng nghe nói phải tôn trọng phụ nữ bao giờ hả?”
Trương Lập tức khắc run như cầy sấy, đến thở mạnh cũng không dám. Nhạc Dương thấy vậy thì cười thầm trong bụng, tiện miệng hỏi luôn: “Giáo quan, gần đây chắc không có loại dã thú nào nguy hiểm đấy chứ? Đừng có giống như lần trước…”
Lữ Cánh Nam ngắt lời anh chàng: “Sử dụng những gì các cậu học được, tự trả lời câu hỏi này đi.”
Nhạc Dương le lưỡi, lần này thời gian chuẩn bị không được đầy đủ lắm, cả bọn đều nghĩ đến chiếc máy tính chứa đủ thứ thông tin bao la vạn tượng của giáo sư Phương Tân, đoán chắc có mượn tra cứu một chút cũng không sao, chẳng ngờ hòn đảo cô độc trên cao nguyên này có hoàn cảnh địa lý hết sức đặc thù, nên đã sản sinh ra đủ các loại sinh vật kỳ quái hiếm thấy trên đời, chỉ nhìn lướt qua một lượt, các loại sinh vật nguy hiểm đã phải dùng con số hàng trăm làm đơn vị tính rồi. Trương Lập và Nhạc Dương cúi đầu ủ rũ, xem ra lần này hai người họ phải tập trung một trăm hai mươi phần trăm tinh thần đi thăm dò địa hình xung quanh đây rồi. Lữ Cánh Nam vẫn chưa yên tâm, trước khi họ đi lại nhắc nhở phải chú ý quan sát lực bám đất của cây cỏ, và mức độ xốp của thổ nhưỡng vùng này. Cô ngước mắt nhìn lên không trung lẩm bẩm: “Mưa mà lớn hơn nữa, các cậu cũng biết tình huống tệ nhất sẽ là như thế nào rồi đấy.”
Một lát sau, Trương Lập và Nhạc Dương quay lại, không phát hiện ra dã thú gì nguy hiểm, cũng không tìm được xung quanh có dấu vết của con người sinh sống.
Lữ Cánh Nam nói: “Chỗ này ở sâu trong núi, rất khó phát hiện được người sinh sống ở đây. Ăn cơm xong mọi người nghỉ ngơi cho tốt, ngày mai còn phải đi hết một ngày đường mới đến đích đó.”
Sau bữa cơm, Lữ Cánh Nam có vẻ rất thần bí kéo Đường Mẫn vào lều, Nhạc Dương tinh mắt đã ngấm ngầm lưu ý, không hiểu ra sao, vì chuyện này trừ trước đến giờ chưa từng xảy ra lần nào. Anh chàng thầm nhủ, có lẽ nào là do giáo quan ghen tuông, muốn nhân lúc hạ trại nghỉ ngơi mà báo thù Đường Mẫn chăng?
Mưa lớn dần, lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân thu dọn các thứ máy móc, cả hai đều chau mày lại. Giáo sư Phương Tân nói: “Độ dốc sườn núi phía Bắc lớn quá, thổ nhưỡng có tính acid yếu, một phần là sa thạch, rất dễ vỡ vụn. Nếu mưa lớn thêm chút nữa, chỉ sợ sẽ có đất đá trôi, hơn nữa chỗ này rừng bách phân bố rất thưa thớt, có lẽ trước đây đã từng xảy ra rồi. Đại sư xem, dời chỗ cắm trại ra phía Tây ba trăm mét liệu có tốt hơn một chút không?”
Lạt ma Á La nói: “Thế nhưng chỗ này đã là nơi bằng phẳng cao nhất trong khu vực gần đây rồi, từ lưng chừng núi xuống đến triền núi, có hai rãnh sâu tạo thành hình chữ bát, có lẽ nếu có đất đá trôi thì sẽ trôi qua hai bên trái phải của chúng ta mới đúng. Nếu dịch sang phía Tây, chẳng phải là chúng ta sẽ ở giữa quần thể thụ tán kia hay sao?
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Nói chuyện với Cánh Nam, nghe ý kiến của cô ấy thế nào đã.”
Trong lều, Đường Mẫn ngạc nhiên hỏi: “Có chuyện gì vậy, giáo quan?”
Lữ Cánh Nam ngần ngừ do dự một lúc, rồi mới miễn cưỡng nói: “Mẫn Mẫn, có thể nhờ cô giúp tôi một chuyện nhỏ không?”
Đường Mẫn nói: “Hả?”
Lữ Cánh Nam nói: “Là… là thế này, cúc áo lót của tôi không hiểu sao lại kẹt cứng lại, tôi không cởi ra được, cứ côm côm ở lưng thế nào ấy, tôi muốn nhờ cô…”
Đường Mẫn nói: “Chậc, tôi còn tưởng là vấn đề gì lớn lắm chứ, nào, để tôi giúp cô cởi áo ngoài ra đã…”
Đang chuẩn bị đứng lên, chợt nghe lạt ma Á La ở bên ngoài lều hỏi: “Có thể vào được không?”
“À… được ạ, mời đại sư vào.”
Lạt ma Á La vào trong lều, nói với Lữ Cánh Nam: “Theo kết quả quan sát của bọn Trác Mộc Cường Ba, và kết quả trắc định thổ nhưỡng của chúng tôi, nếu trận mưa này tiếp tục, chúng ta cần phải đề phòng có đất đá trôi.”
Lữ Cánh Nam nói: “Ừm, tôi biết rồi. Lúc bắt đầu cắm trại, tôi đã chọn kỹ rồi, nhìn thế núi này, nếu xảy ra đất đá trôi, chắc là sẽ xối qua hai bên chúng ta thôi. Nếu đại sư đã nói thế, tôi nay phái người trực đem đi, lưu ý quan sát cẩn thận, như vậy là cũng tương đối ổn thỏa rồi.”
Lạt ma Á La đưa mắt nhìn vẻ mặt kỳ quái của Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn, gật đầu bước ra. Mới đi được không xa mấy, đã thấy Nhạc Dương làm bộ thần bí chạy tới, hỏi: “Đại sư, hai người bọn họ trong ấy không có chuyện gì chứ?”
Lạt ma Á La nói: “Chuyện gì là sao?”
Nhạc Dương nói: “Chỉ là tôi hơi ngạc nhiên, trước đây chưa từng thấy giáo quan và cô Mẫn Mẫn thân thiết với nhau như vậy, hôm nay cô Mẫn Mẫn sợ dây thừng làm chậm trễ hành trình của chúng ta, tôi sợ giáo quan sẽ…”
Lạt ma Á La mỉm cười nói: “Giáo quan Cánh Nam không nhỏ nhen như vậy đâu. Ừm, có điều nghe cậu nói, vừa rồi tôi ở trong lều thấy nét mặt hai người bọn họ, cũng hơi kỳ quái thật.”
——————————–
1 Một vùng thuộc tỉnh Kashmir của Ấn Độ.
2 Đoạn này tác giả viết không rõ ràng, dịch giả trung thành với nguyên tác – (ND)
3 Bào Đinh là một đầu bếp rất giỏi nghề mổ trâu, ông chỉ cần một đường dao là đã có thể mổ phanh cả con trâu ra. (Nam Hoa Kinh, Trang Tử).
4 Địa hình nơi có con sông chảy qua khe hẹp giữa hai ngọn núi.
Ở dải đất sâu trong trung tâm, nguy hiểm nhất đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, chính là đoạn sông dài gần trăm cây số từ Bạch Mã Cẩu Hùng đi xuống. Khe núi sâu thẳm u tối, nước chảy cuồn cuộn, đến giờ vẫn chưa ai có thể đi qua được. Chính vì sự khó khăn và nguy hiểm ấy, nên nơi này gọi là “vùng đất bí mật cuối cùng của nhân loại”. Theo sự chỉ dẫn của tấm bản đồ kia, bọn Trác Mộc Cường Ba đang chuẩn bị đến chính nơi đó thử vận may.
Bí mật lịch sử Cổ Cách
Lại thêm ba tuần nữa trôi qua, Ba Tang sau khi điều trị hồi phục và xuất viện ở Colombia đã liên lạc với Lữ Cánh Nam, chẳng mấy hôm đã thông qua bộ Ngoại giao trở về Trung Quốc. Mọi người vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Mặc dù chuyên băng rừng nguyên sinh này có thể xem như là một thất bại lớn, song dù sao các thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt cũng không ai hy sinh vì nhiệm vụ cả. Trải qua sự việc nơi rừng hoang núi thẳm lần này, quan hệ giữa Ba Tang và các thành viên khác trong nhóm của Trác Mộc Cường Ba cũng bắt đầu trở nên hòa hợp hơn. Chỉ có Trác Mộc Cường Ba là có vẻ khó xử rõ rệt. Những lời của Lữ Cánh Nam, giống như mũi dao sắc đâm thẳng vào lồng ngực gã, “Chúng tôi nghi ngờ, trong các anh có một kẻ mật báo tin tức ra ngoài.” Sau khi nghe được điều này, trong lòng Trác Mộc Cường Ba đã ngấm ngầm xếp hạng mức độ tin cậy cho tất cả các thành viên trong nhóm. Bản thân gã cho rằng mình sẽ xếp Đường Mẫn đứng đầu tiên, nhưng khi xếp như thế rồi gã mới nhận ra, dù thế nào, vị trí đầu tiên vẫn nhất định thuộc về thầy giáo của gã, giáo sư Phương Tân. Mẫn Mẫn chỉ có thể xếp thứ hai. Nhạc Dương và Trương Lập đều là người trong quân đội, bản thân gã cũng hết sức tín nhiệm hai người này. Chỉ có mình anh chàng Ba Tang này là đáng nghi nhất. Một khi đã nghi ngờ người nào đó, Trác Mộc Cường Ba sẽ không thể nào rặn ra được một nụ cười giả vờ thiện chí với kẻ ấy được nữa. Khi bắt tay với Ba Tang, ánh mắt gã lộ rõ vẻ hoài nghi. Gã miễn cưỡng gượng cười nói: “Tôi biết là anh không dễ dàng hy sinh như vậy được mà.”
Ba Tang cũng nói: “Không ngờ rốt cuộc các cậu cũng đi trước tôi một bước.”
Theo lời kể của Ba Tang, anh ta bị cơn lũ cuốn về phía Bắc, vì đụng phải cây lớn bị thương nên mất hết tri giác, phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng trong bệnh viện hơn một tháng trời. Bệnh án và một loạt bản báo cáo về anh ta cũng được Bộ Ngoại giao chuyển hết đến tay Lữ Cánh Nam. Những Trác Mộc Cường Ba lại phát hiện ra một điều, chính là da Ba Tang đã đen sạm đi, trên người dường như còn mang theo vị mằn mặn ẩm ướt của gió biển, nhanh nhác mùi của một loại nước hoa cao cấp nào đó. Nói là nghỉ ngơi trong bệnh viện hơn 1 tháng, chi bằng bảo đi du lịch đâu đó hơn một tháng thì giống hơn. Nếu suy đoán của gã mà chính xác, vậy thì kinh phí đi du lịch của Ba Tang lấy từ đâu ra?
Nhìn hai người Trương Lập, Nhạc Dương tíu tít kể cho Ba Tang những chuyện xảy ra sau khi họ lạc nhau, Trác Mộc Cường Ba không muốn tiến đến quá gần, chỉ lặng lẽ đứng dưới một tán cây. Giáo sư Phương Tân nhận ra vẻ lo âu của gã, bèn hỏi: “Cậu nghi ngờ Ba Tang?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi không biết, nếu trong chúng ta thật sự có một người đáng nghi ngờ, thì cũng chỉ có thể là anh ta mà thôi. Song tôi cũng rất mâu thuẫn, tôi có nên vô duyên vô cớ đem lòng nghi ngờ người khác không nhỉ?”
Giáo sư Phương Tân mỉm cười khuyên giải: “Đường dài mới hay sức ngựa, ngày lâu mới thấy lòng người, hà tất phải dồn tâm trí nghi ngờ ai làm gì? Nếu thực làm chuyện trái với lương tâm, sớm muộn gì anh ta cũng phải lộ ra thôi. Hơn nữa, tại sao chỉ có chúng ta mới bị nghi ngờ, bọn họ, chẳng lẽ không có điểm nào đáng nghi hay sao?” Trác Mộc Cường Ba hiểu được, “bọn họ” mà giáo sư Phương Tân nhắc đến chính là chỉ ba người đến sau, bao gồm Lữ Cánh Nam, Ngải Lực Khắc và lạt ma Á La. Không thể hoàn toàn tin tưởng bất cứ người nào khác hay sao? Gã lắc đầu, chỉ vì thái độ đối với người khác của ai đấy mà làm cả một nhóm người thành ra nghi ngờ lẫn nhau thế này, rốt cuộc là đúng hay sai đây?
Trác Mộc Cường Ba cố gạt những ý nghĩ khiến người ta phải đau đầu ấy ra khỏi tâm trí, chuyển sang chủ đề khác: “Phải rồi, thầy giáo, có phát hiện gì mới về giai đoạn lịch sử ấy của vương triều Cổ Cách chưa?”
Theo những tư liệu điều tra được, lịch sử Cổ Cách đại khái cũng đã hiện lên khá rõ ràng. Giáo sư Phương Tân từng buông lời cảm thán thế này: “Cổ Cách đúng là một vương triếu sinh ra vì Phật giáo, rồi cũng vì Phật giáo mà diệt vong.”
Cổ Cách vương là hậu duệ trực hệ của vị Tạng vương đã ra lệnh diệt Phật giáo Lãng Đạt Mã. Tạng vương Lãng Đạt Mã diệt Phật chỉ mới hai năm, đã bị La Long Bối Cát Đa Kiệt của Phật giáo giết chết. Sau sự kiện ấy, triều đình Thổ Phồn bắt đầu phân hóa. Duy Tùng là con côi do thứ phi của Lãng Đạt Mã sinh ra, được gia tộc Vĩ thị ủng hộ tôn làm Tán thổ. Còn chính phi cũng không cam chịu để mất quyền lớn trong tay. Tương truyền bà ta đã lén lút mua về một đứa trẻ sơ sinh, rồi cũng lập đứa con mua về này làm Tán thổ, gọi là Vân Đơn. Kể từ đó trở đi, vương triều Thổ Phồn xuất hiện hai vị Tán thổ cùng một lúc, chia thành hai phái đều tự nhận Tán thổ của mình lập nên mới là Tán thổ thực sự, tranh đấu không ngừng nghỉ. Chiến tranh vì thế bùng nổ và không ngừng lan rộng, nên giai đoạn này người đời sau gọi là Loạn ngũ như.
Chiến tranh kéo dài trong nhiều năm liền khiến trăm họ lầm than, khổ sở không sao tả xiết, cuối cùng đã vùng lên dưới sự lãnh đạo của các quý tộc và một số quân sĩ. Cả hai vị tán thổ, một người bỏ trốn, một người bị giết. Phụ thân của Cổ Cách vương đời thứ nhất, chính là cháu nội của vị Tán thổ Duy Tùng kia, gọi là Cát Đức Ni Mã Cổn, chạy đến vùng A Lý, thông hôn với tù trưởng địa phương, sinh được ba người con là Bối Cát Nhật Ba Cổn, Trát Tây Cổn và Đức Tổ Cổn, lần lượt chiếm cứ Mang Vực (Ladakh 1 ngày nay), Bố Nhượng (khu vực huyện Phổ Lan) và Tang Cát Nhĩ (phía Nam Ladakh. Ba người con này được xưng là “Thượng Bộ tam Cổn”, “Thượng Bộ” ý chỉ vùng A Lý, vì là thổ vương của một vùng nhỏ, nên gọi là Cổn, Cổn có nghĩa là Đấng cứu thế.
Trong các pho Tạng sử chính thức mà họ tra cứu, gần như đều nói Cổ Cách vương đầu tiên là Trát Tây Cổn, nhưng trong tư liệu của Lữ Cánh Nam cung cấp lại có phần dã sử và ghi chép trong dân gian trực tiếp gọi Cát Đức Ni Mã Cổn là Cổ Cách vương đời thứ nhất, vì ông ta đã kế thừa gia nghiệp của vị tù trưởng kia, Cổ Cách cũng nằm trong lãnh địa trị vì ấy. Chỉ có điều nếu như vậy, vị quốc vương nghênh tiếp sứ giả kia phải tính từ Cát Đức Ni Mã Cổn hay tính từ Đức Tổ Cổn, trước mắt bọn họ vẫn chưa thể đưa ra được một kết luận, khoảng thời gian chênh lệch đó ước cũng phải khoảng chừng ba bốn chục năm 2.
Giáo sư Phương Tân nói: “Trước mắt chúng tôi tạm thời nghiêng về giả thiết cho rằng vị Quốc vương nghênh đón sứ giả kia là Cổ Cách vương đời thứ hai Tùng Ngang, bởi vị Quốc vương này có thể nói là đã tận tâm tận lực đối với sự nghiệp hoằng dương Tạng truyền Phật giáo. Tương truyền trong khoảng thời gian từ năm 975 đến 981 sau Công nguyên, ông ta đã phái hai mươi mốt thanh niên bao gồm cả Đại dịch sư Thiết Tang Bố sang Thiên Trúc học Phật (cũng có tài liệu nói là hai mươi bảy người). Hành trình của họ gian khổ khó khăn không bút nào tả xiết, cuối cùng chỉ có hai người sống sót trở về, nghe nói chính là Đại dịch sư và Tiểu dịch sư sau này. Hơn nữa, không lâu sau khi phái đi các thanh niên cầu Phật, vị Quốc vương này thoái vị nhường ngôi, quy y Phật pháp, về sau xây chùa Thác Lâm, đến những năm cuối đời còn gom góp tiền của đích thân đi mời A Để Hiệp đại sư, nhưng dọc đường đã bị quân đội nước khác bắt cóc, cuối cùng thì chết giữa đường. Thằng nhóc Nhạc Dương kia suy đoán, vị Cổ Cách vương này nhiệt tâm với Phật giáo như vậy, quá nửa là do nhìn thấy thần tích mà vị sứ giả kia mang tới, song có điều là, trước khi nhìn thấy Cổ Cách kim thư, tất cả cũng chỉ là suy đoán mà thôi.” Nói tới đây, giáo sư Phương Tân không nén nổi mà gượng cười lắc lắc đầu, “Lịch sử của Cổ Cách, quả thực là… cậu có biết không, chỉ riêng chuyện cuối cùng vị Cổ Cách vương ấy Tây du cầu Phật bị bắt cóc, chúng tôi đã tra ra bảy phiên bản khác nhau, địa điểm, thời gian, quân đội nước ngoài, quá trình sự kiện xảy ra, số tiền chuộc đều khác nhau, thực sự là không thể nào phán đoán xem phiên bản nào mới là sự thực đã xảy ra trong lịch sử cả.”
Nhìn vẻ mặt chua chát của giáo sư Phương Tân, Trác Mộc Cường Ba hiểu rõ, đây là một vấn đề rất lớn khác mà bọn họ gặp phải khi tra cứu lịch sử của vương triều Cổ Cách. Vương triều này tuy rằng kéo dài đến cả mấy trăm năm, song lại nằm ở miền biên viễn xa xôi. Ngoại trừ các văn bản lịch sử của bản thân nó ra, toàn bộ các tư liệu khác đều chỉ là những thông tin vụn vặt. Đến cả bộ sử thuộc về giai đoạn đầu như Tây Tạng vương thống ký cũng chỉ ghi chép có chín đời Cổ Cách vương, từ sau đó trở đi là không rõ, bọn họ cũng chưa thể đưa ra kết luận cuối cùng về thời gian trong lịch sử. Mà vương triều Cổ Cách này lại còn bị chiến tranh hủy diệt. Bản thân sự biến mất của nó có thể nói đến nay vẫn còn là một câu đó. Mãi đến thế kỷ mười chín, trước khi các nhà thám hiểm nước ngoài bắt đầu tiến vào vùng đất hoang vu không người sinh sống này, mọi người gần như đã hoàn toàn quên lãng rằng từng có một vương triều như vậy trong lịch sử.
Giáo sư Phương Tân thở dài nói: “Lịch sử Cổ Cách và nền văn minh Maya không ngờ lại giống nhau đến kinh người. Cả hai vương triều này đều đột nhiên gặp phải đại họa khi đang trong thời kỳ phát triển rực rỡ huy hoàng nhất. Chính vì biến cố bất ngờ mà tất cả đều được bảo tồn, đều được lưu giữ lại. Mấy thế kỷ sau đó, nhân loại dường như không biết đến sự tồn tại của chúng, kiến trúc và đường phố của chúng không bị hoạt động của con người phá hoại, văn tự và tôn giáo không bị sửa sang, phong cách nghệ thuật và bích họa không bị bóp méo, thậm chí hiện trường lúc gặp phải tai họa hủy diệt của chúng cũng được bảo tồn nữa kia.”
Trong đầu Trác Mộc Cường Ba lúc này, tự nhiên lại nghe thấy tiếng Babatou ngâm nga bài sử ca: “Một khi để máu tanh xâm phạm đến bậc thang của thánh miếu, vô số tai họa sẽ như cơn mưa đá đáng sợ liên hồi kéo đến giáng xuống tất cả mọi nơi, tòa thành sẽ biến thành nơi hoang phế chết chóc, một hoang mạc không người.”
Trong biệt thự của Merkin, giữa chiếc bàn vứt bừa bãi ngồn ngộn giấy bút, hai đầu bàn chồng chất sách vở thành hai bức tường. Merkin vùi đầu vào giữa hai bức tường ấy, gần như bò toài ra trên tấm bản đồ, giơ kính lúp lên soi từng đường chỉ mảnh trên đó. Đôi mắt của y nhìn tựa hồ như thuộc về một loài dã thú đói khát nào đó chứ không phải của con người nữa. Soares thì ngồi ôm một cuốn từ điển khổng lồ, dài tới ba mươi centimet, dài rộng sáu mươi centimet, chúi mũi lật lật giở giở.
Những nét đen mảnh trên bản đồ cuối cùng dẫn đến ba nơi khác nhau, dường như ý của người vẽ tấm bản đồ này là muốn người ta đến ba nơi ấy kiếm ba thứ gì đó. Đầu tiên là một viên bảo thạch sáng lấp lánh, phần chú thích bằng tiếng Tạng dịch ra nghĩa là: “Màu đỏ, mở ra món lễ vật tán dương sự sống”; món thứ hai là một cuốn sách dày cộp, bên cạnh có chú thích: “Lý lẽ huyền ảo đều ở trong đây”; còn một món nữa đã bị xóa nhòa đi mất, có lẽ để chứng tỏ không cần thiết, nhưng lờ mờ có thể nhận ra những nét chữ mơ hồ dịch nghĩ là: “Bảo khí, cuối cùng”. Ngoài ra, trên bản đồ còn có vô số mũi tên, trỏ đi trỏ lại giữa ba nơi này, dựa vào những vết xóa có thể nhận ra, người vẽ vốn hy vọng ai có được bản đồ sẽ đến nơi ở giữa trước tiên, nhưng sau tính toán thế nào lại xóa mờ thứ ở giữa và đầu mũi tên đi, ý nói không cần phải đến nơi ấy nữa. Mới đầu bọn y còn nghi ngờ không hiểu có ai đã đụng tay đụng chân vào tấm bản đồ này hay chưa, nhưng sau khi kiểm tra bằng các phương tiện khoa học kỹ thuật, phát hiện ra vết xóa và các dấu hằn được tạo ra cùng một thời gian với những đường nét khác, hơn nữa thủ pháp và phong cách là của cùng một người, vì vậy chỉ có thể phán đoán là chính người vẽ bản đồ đã thay đổi ý kiến mà thôi.
Bọn y nhận ra được đường chỉ thứ hai dẫn đến một nơi gọi là “đóa hoa”. Địa danh ở khu vực phía trên dịch nghĩa là “sáu ngọn núi”, bên dưới “sáu ngọn núi” là “đại đài địa” và một địa danh được dịch thành “tổ tiên”, bên phải là “bảo tọa mặt trời”, kế đó là hai nơi có tên phát âm thành “liangbu”, “tabu”, ba nơi này ở sát cạnh nhau.
“Tìm thấy rồi, là ở đây, vùng đất hoa sen nở rộ, chính là Mặc Thoát chứ còn đâu nữa, hại tôi tốn bao nhiêu thời gian tìm kiếm…” Merkin hưng phấn kêu lên.
Soares bỏ chiếc kính xuống, ngả người dựa vào sofa, hé miệng thở hắt ra “phì” một tiếng. Mấy tháng vừa rồi, bọn y gần như đã hoàn thành được cả một đại công trình. Các địa danh được chú thích trên bản đồ toàn bộ đều là địa danh cổ từ hơn ngàn năm trước, có rất nhiều tên từ thời Thổ Phồn vương triều hoặc thậm chí là trước đó, thể chữ chuỗi hạt này lại khác hẳn với Tạng văn ngày nay, bọn y phải dò từng con sông, từng ngọn núi một. Hơn thế, Merkin không tin tưởng vào người khác, tất cả công việc tìm kiếm tư liệu đều phải do bọn y tự thực hiện. Tuy nhiên cũng rất may là, tấm bản đồ này dường như được chuẩn bị cho người không thể tìm được đường, người vẽ ra nó đã chú thích rất tường tận từng địa danh, tên núi, tên sông, chỉ còn mỗi ba nơi cuối cùng kia là đều vẽ ra một ký hiệu Ung Trọng trông như vòng xoáy, dịch ra tiếng hiện đại thì không phải Bạc Ba La, mà là… cái rốn!
Sau khi khôi phục thể lực chừng một tháng, Lữ Cánh Nam đem những điều tâm đắc mọi người viết ra để tổng kết một cách tường tận, đồng thời bắt đầu tiến hành huấn luyện có tính định hướng. Lại một tháng nữa trôi qua, Lữ Cánh Nam đứng trên bục giảng, tay cầm một vật bằng gỗ gần giống như cục rubik, nói với các học viên: “Kể từ hôm nay, mọi người sẽ học môn cuối cùng, và cũng là môn nguy hiểm nhất – cơ quan học!”
Các học viên đều lộ ra vẻ hoan hỉ mừng rỡ. Trác Mộc Cường Ba rõ là có nhu cầu bức thiết muốn biết các tri thức liên quan tới cơ quan học, nhưng người hưng phấn nhất thì phải là Trương Lập. Anh chàng này từ lâu đã ngưỡng mộ môn học này, đồng thời cũng đã tìm hiểu sơ bộ về máy móc trang bị và cách chế tạo một số cạm bẫy đơn giản rồi.
“Thử cho tôi biết xem, mọi người hiểu thế nào về “cơ quan”?” Lữ Cánh Nam bình thản nói.
“Cạm bẫy”, “vũ khí giết người”, “vũ khí có thể tự động giết người”, bên dưới lập tức vang lên nhiều đáp án khác nhau.
Lữ Cánh Nam lại nói: “Thứ gọi là cơ quan, hoàn toàn không chỉ có nghĩa hẹp là cạm bẫy giết người, vũ khí tự động tấn công như mọi người vẫn tưởng, mà chỉ là tất cả các thứ có kết cấu bằng lẫy chốt, lớn thì như mộng, như chốt, rường xà cột kèo trong các công trình kiến trúc, nhỏ thì là một ổ khóa sắt, còng sắt, tất cả đều có quan hệ với cơ quan học cả. Trong số mọi người ở đây, ngoài lạt ma Á La và chú Mao Lạp ra, những người còn lại e rằng đều rất lạ lẫm với môn học này. Nếu muốn tinh thông cơ quan học, chỉ sợ nghiên cứu cả đời cũng khó hoàn thành được hết các hạng mục, vì vậy, thứ chúng ta cần học, chỉ là tư duy phát hiện mấu chốt của cơ quan, đồng thời phán đoán được cấu tạo của nó mà thôi, cũng chính là tránh cạm bẫy giết người, phát hiện cửa ngầm bí mật mà người ta vẫn thường nói tới. Chỉ riêng khoản này, cũng đủ cho mọi người học hết hơn nửa năm rồi đấy.” Đến đây, cô giơ tay lên nói: “Đây chính là một cơ quan, mỗi người một chiếc, tự lên lấy xuống đi.”
Mỗi người bước lên nhặt một khối lập phương bằng gỗ, rồi lại trở về chỗ ngồi của mình. Trác Mộc Cường Ba cầm khối gỗ trên tay, phát hiện ra hình lập phương này do những khối gỗ nhỏ bề ngang, chiều dày đều một centimet, chiều dài mười centimet ghép lại mà thành, đan xen chằng chịt, bên ngoài trơn nhẵn tựa như là một khối chỉnh thể, rất khó tách rời. Xoay xoay vặn vặn một lúc lâu mà cũng không phát hiện ra lẫy chốt gì bên trong, gã nhủ thầm trong bụng: “Cái này thì là cơ quan gì chứ? Có phải định bịp người ta không đây?”
Lữ Cánh Nam nói: “Thứ mọi người đang cầm trong tay lúc này, chính là cơ quan nguyên thủy nhất, và cũng đơn giản nhất, gọi là khóa gỗ, ở cửa hàng đồ chơi cho người lớn hay đồ chơi trí tuệ đều có bán, hai nhân dân tệ một cái.”
Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: “Quả nhiên là gạt người.”
Lữ Cánh Nam lại mỉm cười nói tiếp: “Mọi người đừng coi thường thứ này không có gì đặc biệt, thực ra bên trong nó là kết tinh trí tuệ của cổ nhân đó. Nhìn bề ngoài thì các khối gỗ nhỏ đều giống hệt nhau cả, kỳ thực chỉ có mặt ngoài mọi người mới nhìn thấy giống nhau thôi, còn bên trong thì hết sức chằng chịt phức tạp, có hình móc, có hình vòng, có khối gồ lên ở giữa, có khối hõm vào. Tổng cộng có sáu mươi tư khối gỗ nhỏ, có thể tách rời hẳn ra, bây giờ mọi người bắt đầu chia tách chúng ra đi, xem thử khả năng thiên phú về cơ quan học của từng người đến đâu.”
Tất cả học viên đều bắt đầu tách khóa gỗ. Trác Mộc Cường Ba lần mò một lúc, ngoảnh đầu nhìn về phía giáo sư Phương Tân, thấy ông đang ấn một khối gỗ nhỏ ở giữa khối lập phương ra một đoạn, lập tức được gợi ý, vội dùng sức ấn vào giữa hình lập phương, nhưng đã ấn cả sáu mặt rồi cũng không thấy khối lập phương ấy lơi lỏng ra một chút nào. Mười phút trôi qua, Trác Mộc Cường Ba mặt đẫm mồ hôi, Nhạc Dương và Trương Lập thì chúi đầu vào một chỗ rì rầm bàn tán, Ba Tang ngấm ngầm nhíu chặt đôi mày, đến cả Đường Mẫn cũng rầu rĩ không làm được gì, chỉ có hai ông già là vẫn ung dung thoải mái, lạt ma Á La thậm chí còn rút hẳn một khối gỗ nhỏ ra ngoài, kế đó thì như Bào Đinh mổ trâu 3, càng làm càng nhanh.
Lữ Cánh Nam nhìn mọi người mà thầm thấy tức cười, bèn lên tiếng nhắc nhở: “Không cần phải trao đổi kinh nghiệm đâu, mỗi cái khóa gỗ đó đều có kết cấu bên trong khác nhau. Mấu chốt của việc mở khóa gỗ, chính là thuận theo kết cấu bên trong của nó, từng bước từng bước một tách ra. Điểm khó ở đây là mọi người không nhìn thấy kết cấu bên trong của khóa như thế nào, chỉ có thể tự lần mò thôi.”
Nghe Lữ Cánh Nam nhắc nhở, Trương Lập dường như đã tìm ra được bí quyết gì đó, anh kéo khối gỗ này ra một chút, rồi lại ấn khối kia xuống một chút, nhấc khối bên trái lên, kéo khối bên phải xuống, lúc không di động được nữa, thì đẩy ngược trở về theo quỹ đạo ban đầu, thử nghiệm một phương cách di động khác. Còn Trác Mộc Cường Ba cuối cùng cũng tìm ra được một khối gỗ có thể di động, hóa ra là ở góc phía trên bên phải của một mặt hình lập phương, nhưng sau khi ấn nó ra, thì các khối gỗ khác lại không động cựa gì được nữa, gã đành phải thử đi thử lại từng khối một. Riêng lạt ma Á La thì đã tháo hết cái khóa gỗ của mình ra, sáu mươi tư khối gỗ nhỏ khác nhau xếp ngay ngắn trên mặt bàn.
Kế đó, Trương Lập, giáo sư Phương Tân, Ba Tang, Đường Mẫn, Nhạc Dương cũng đều tháo được khóa gỗ, chỉ còn mỗi Trác Mộc Cường Ba, trên trán gân xanh nổi chằng chịt, hai mắt đỏ ngầu, cơ bắp gồ lên, nghiến răng nghiến lợi ấn ấn xoay xoay. Chỉ nghe “cạch” một tiếng khe khẽ, miếng gỗ tưởng chừng như sắp rút ra được tới nơi, đến cuối cùng lại kẹt ở bên trong khối lập phương. Trác Mộc Cường Ba kéo hai ba lượt vẫn không ra, liền dùng sức, làm gãy luôn.
Tất cả mọi người đều đổ dồn ánh mắt về phía gã. Nhạc Dương và Trương Lập lập tức phát ra một tiếng kêu đầy tiếc nuối. Trác Mộc Cường Ba đập cái khóa gỗ xuống bàn, thở hồng hộc. Đường Mẫn vội lên tiếng: “Anh nôn nóng quá.” “Phải đấy, Cường Ba thiếu gia, cái thứ này muốn nhanh cũng không nhanh được đâu.” Nhạc Dương cũng lên tiếng chia sẻ kinh nghiệm.
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Lữ Cánh Nam: “Năng khiếu của tôi không đủ, cho tôi thử lại lần nữa.”
Lữ Cánh Nam mỉm cười giơ một ngón tay lên nói: “Đừng nóng, sớm đã chuẩn bị rồi.” Nói đoạn, không ngờ lại lấy ra một khối lập phương bằng thép ròng, nhìn bề ngoài giống hệt như khóa gỗ…
Ba giờ sáng, Nhạc Dương trằn trọc mãi vẫn chưa ngủ được, đành bò dậy dụi dụi mắt nói: “Cường Ba thiếu gia, sáng mai anh làm tiếp có được không, tôi nghe cái tiếng động ấy cứ thấy như có chuột vậy đó.”
Trác Mộc Cường Ba tập trung toàn bộ tinh thần vặn vẹo khối lập phương bằng sắt trên tay, lơ đễnh nói: “Chuột thì sợ gì chứ, nhắm mắt vào nghĩ mình là mèo tự nhiên sẽ ngủ được thôi.” Trương Lập ở bên cạnh mở mắt ra nói: “Cường Ba thiếu gia, hay là, để chúng tôi làm giúp anh nhé.”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Thế làm sao được, các cậu mặc kệ tôi đi, nhất định tôi phải tháo được nó ra.”
Lăn qua lăn lại mãi đến hơn bốn giờ sáng, hai người Nhạc Dương và Trương Lập mới thiêm thiếp ngủ. Ngày hôm sau, khi hai người bò dậy, đã thấy Trác Mộc Cường Ba ngồi ngắm vầng dương mới lên. Dưới ánh nắng rực rỡ, gương mặt cương nghị đường nét rõ ràng ấy toát lên vẻ tự tin vô tận. Trên mặt bàn, xếp gọn ghẽ chỉnh tề tám tám sáu mươi tư khối thép.
Lữ Cánh Nam nhìn thành quả Trác Mộc Cường Ba giao lên, nhận thức đối với gã lại tăng thêm mấy phần nữa. Gã là một người đàn ông biết sợ hãi. Nghe lạt ma Á La kể, trong rừng Mãng Xà và ở dưới địa cung, Trác Mộc Cường Ba đã để lộ ra nỗi sợ hãi đằng sau ngoại hình cao lớn mạnh mẽ ấy. Nhưng gã sợ hãi, mà không hề có ý thoái lui. Gã có sự dẻo dai giống như của cao su vậy, bất kể bị đả kích nặng nề ra sao, thế nào cũng dần hồi phục lại nguyên hình trạng. Chỉ cần không đạt tới yêu cầu của chính bản thân mình đặt ra, gã sẽ mãi mãi không bao giờ bỏ cuộc. Tính cách này đúng là hết sức kỳ quái, nếu là người bình thường, sợ hãi ắt sẽ trốn tránh, khi tin chắc mình không phải là đối thủ của người khác, ắt sẽ lảng tránh; nhưng Trác Mộc Cường Ba vừa hay lại trái ngược hoàn toàn, gã sợ hãi ắt sẽ bước thẳng tới mà nghênh đón, biết rõ mình không đánh lại người ta cũng vẫn muốn xông tới, thoạt nhìn bề ngoài thì có vẻ hơi ngốc nghếch, tính cách gì mà như vậy chứ! Lữ Cánh Nam nhớ lại từ khi quen biết Trác Mộc Cường Ba đến giờ, nhất cử nhất động của gã đều gây cho cô một cảm giác không thể đoán biết. “Hừ, đại trí giả ngu, đây cũng là đại trí giả ngu hay sao?” Nhớ lại lời lạt ma Á La đã nói, cô không khỏi khe khẽ mỉm cười.
Mấy tháng tiếp sau đó, các thành viên trong nhóm đều trải qua một đợt huấn luyện đặc biệt về các kiến thức liên quan đến cơ quan học, bắt đầu học từ loại cạm bẫy nhi đồng đơn giản nhất, tức là đào hố dưới đất, lót tờ báo rồi vùi cát lên trên, kế đó là tới trận xe gỗ ngựa gỗ của Gia Cát Lượng, Cứu Lưu Bàn Long Thần của Quỷ Cốc Tử, càng học lại càng thấy môn cơ quan học này đúng là cao thâm khó dò.
Bí mật huyết trì
Trải qua khảo nghiệm trong rừng sâu Nam Mỹ, các thành viên trong nhóm đều nhận ra điểm yếu của mình, ai cũng gần như điên cuồng tham gia huấn luyện, ban ngày vượt qua khảo nghiệm của đủ loại các cơ quan cạm bẫy, tối về lại thường đọc sách đến tận đêm khuya. Mỗi người đều rèn luyện bản thân bằng ý chí của một mật tu giả, gắng sức đột phá cực hạn năng lực cơ thể.
Trong thời gian này, Lữ Cánh Nam đồng thời để các đội viên tiến hành phát triển cá nhân, thực hiện vận động cực hạn, hay nghiên cứu các tác phẩm học thuật nổi tiếng như Thuyết tiến hóa…, ngoài ra còn dạy họ sử dụng mấy loại công cụ mới. Ví dụ như lắp thêm dây quăng vào đồng hồ nguyên tử đeo trên tay mỗi người, quấn vào mặt bên trong áp với cổ tay, kích thướt chừng bằng một hộp diêm, bên trong có hai mươi lăm mét dây hợp kim, phát xạ dựa trên nguyên lý của pháo điện từ, một đầu trước có đầu mũi khoan nhỏ bằng kim cương, có thể đâm sâu mười phân vào bề mặt kim loại, sau đó tự động dãn nở bắt chặt vào mục tiêu, thứ này thuộc loại dụng cụ cứu sinh, trong rừng sâu mà dùng loại này thì tiện hơn dây leo rất nhiều. Ngoài ra còn có loại giày dính chặt được vào mặt tường trơn nhẵn, ứng dụng nguyên lý bàn chân con thằn lằn: đế giày có rất nhiều lông cứng theo nguyên lý ống siphon, khiến lực ma sát có thể chịu được trọng lượng của cơ thể người, ngoài ra còn lắp thêm lò xo giảm xóc hình cung, khiến một cú nhảy có thể cao ngang tầm người bình thường, còn xung lực lúc rơi xuống hoàn toàn có thể vận dụng để thực hiện các vận động cực hạn, cộng thêm với áo cánh dơi thiết kế dựa theo cánh thịt của sóc bay, vậy là có thể tránh được trường hợp độ cao mười tầng nhà gây khó cho anh hùng rồi. Hoặc là bình sắt siêu cường hóa mặc dù thể thể tích chưa đầy lọ mực, nhưng thời gian cung cấp dưỡng khí từ ba tiếng đồng hồ ban đầu đã kéo dài lên một trăm linh tám tiếng đồng hồ.
Khoảng thời gian này, Trác Mộc Cường Ba cũng không còn thúc giục đòi xuất phát nữa. “Anh dựa vào cái gì mà đi tìm Bạc Ba La thần miếu, vận may hả?” “Điều anh cần làm lúc này, chính là xem nhiều, học nhiều, nghĩ nhiều…” “Chúng ta đứng trên vai người khổng lồ để thu thập thông tin.” “Nếu ngày đó đến thật, chúng ta có thể tự mình đi mà…” Những lời Lữ Cánh Nam và giáo sư Phương Tân nói hết lần này đến lần khác vang vọng bên tai, không ngừng nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba. Những lúc nghỉ ngơi, gã thường ở bên Đường Mẫn, nhưng gã cũng thường xuyên cảm nhận được, có một bóng hình yểu điệu đang đứng ở mãi đằng xa chăm chú nhìn mình. Trương Lập, Nhạc Dương và Ba Tang đã trở nên thân thiện hơn rất nhiều, thường xuyên nghe thấy hai người Trương, Nhạc cất tiếng cười sảng khoái, cả Ba Tang thỉnh thoảng cũng nở ra một nụ cười lạnh lùng. Còn giáo sư Phương Tân thì mải mê nghiên cứu băng video ông quay được dưới địa cung Ah Puch. Theo giáo sư, nếu đã cho rằng địa cung Ah Puch và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu có liên quan với nhau, vậy thì các bức bích họa, tượng điêu khắc trong địa cung Ah Puch, tất cả đều có thể gợi ra những thông tin có liên quan tới Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu kia. Phía nhóm nghiên cứu cũng cung cấp cho giáo sư rất nhiều đầu mối. Cùng nghiên cứu thông qua mạng Internet, tác phong cẩn trọng và thái độ làm việc không biết mệt mỏi đó của giáo sư khiến cả lạt ma Á La và Lữ Cánh Nam đều hết sức nể phục. Có điều, câu đố lịch sử mà hai nền văn minh Cổ Cách và Maya để lại có thể nói là một cái hang không đáy, giáo sư Phương Tân bước chân vào đó, càng đi càng thấy sâu, khiến hai trợ thủ của ông là Trương Lập và Nhạc Dương cứ kêu trời kêu đất, phàn nàn rằng làm việc này còn khổ hơn cả huấn luyện nữa. Mỗi lần như vậy, giáo sư Phương Tân lại lấy Đường Mẫn ra làm tấm gương giáo dục hai chàng thanh niên này phải có lòng nhẫn nại, có lòng tin, có trái tim yêu thương…
Núi Đường Cổ Lạp, bên bờ sông Đà, một chiếc xe tải lớn nhìn bề ngoài như sắp muốn long ra xong xọc đến nơi tròng trành đi giữa dải núi non trập trùng.
Tây Mễ ngồi bên ghế lái phụ thưởng ngoạn phong cảnh trước mắt. Hắn thích vùng đất này, thích núi non ở đây, thích mây trời ở đây. Không thể không thừa nhận, nơi này đích thực là một vùng đất có thể khiến người ta vui ngắm cảnh mà quên cả đường về. Một điều càng hay hơn nữa là, khi nhìn những đám mây trắng muốt bay qua bầu trời, cảm giác tội lỗi trong lòng hắn sẽ bị đè nén xuống. Năm ấy Tây Mễ chọn Khả Khả Tây Lý, có lẽ cũng chính là một dải tuyết trắng mênh mang ở đây mênh mang ở đấy hấp dẫn cũng nên.
Gã đang lái xe kia tên là Dakis, cao một mét bảy lăm, hơi gầy, dưới cặp lông mày thẳng như hai chữ “nhất” là đôi mắt giống hình thang. Có người nói, kẻ có đôi mắt này thì rất hung hăng, cảm giác như đang miệt thị người khác vậy, mà tên Dakis này đích thực là cũng rất hung hăng. Hắn gia nhập Hồ Lang chưa được hai năm, vậy mà đã không kẻ nào dám đụng đến hắn nữa. “Lôi Ba khỏe, Dakis ác”, câu này từ lâu đã lan truyền trong nội bộ Hồ Lang. Số đội viên đội tuần tra núi Khả Khả Tây Lý bị tên Dakis này giết trong hai năm còn nhiều hơn tổng số đội viên bị toàn bộ Hồ Lang giết trong mười năm về trước. Hồ Tử nói, da của Dakis lột là bán được giá tốt nhất, nếu không phải hắn có một chút tác dụng này, thì từ khi Hồ Lang bị quân đội bao vây sào huyệt, Tây Mễ đã thịt hắn luôn rồi. Bởi chính vì tên này hung tàn thành tính mới khiến quân đội phải bao vây tiễu trừ toàn bộ tổ chức của bọn hắn.
Niềm đam mê lột da của Dakis là một loại bệnh thái. Mỗi khi lóc thịt linh dương Tây Tạng, hai mắt y sáng rực lên, miệng ngâm nga một điệu nhạc nào đó, dáng điệu vô cùng thỏa mãn. Tây Mễ hiểu rõ, từ hồi còn trong đội đặc nhiệm Nhện Xanh hắn đã được dạy rằng, loại người này có vấn đề về tâm lý, ở phương Tây còn có thuật ngữ y học chuyên dụng, gọi là “hội chứng thích phân tách”, bọn họ thích phân tách tất cả các thứ mình nhìn thấy ra, không tách ra một cách triệt để thì trong lòng không thể nào thỏa mãn được. Loại người này mỗi khi giết người, bao giờ cũng chặt xác nạn nhân ra làm bảy tám chín mảnh. Mấy tên giết người hàng loạt nổi tiếng nhất ở phương Tây gần như đều mắc phải chứng bệnh này.
Dakis bảo mình là người Tạng ở Thanh Hải, Tây Mễ thấy không giống lắm. Không giống người Tạng, gương mặt hắn không có vẻ chân chất mộc mạc của dân Tạng, cũng không giống người Mông Cổ. Có điều cũng không ai truy vấn hắn, sau khi hắn giết đội viên đội tuần tra núi cũng như giết linh dương Tây Tạng, thì không còn ai dám nghi ngờ hắn là nội gián nằm vùng nữa.
Tây Mễ thu ánh mắt lại, quay sang nhìn bàn tay Dakis. Tay hắn rất vững, trên con đường núi tròng trành rung lắc, bàn tay nắm vô lăng không hề động đậy, cẳng tay phải hồi trước có lẽ có một hình xăm, có điều giờ chỗ đó là một vết sẹo thịt dài, song không giống đốt bằng tia laze. Thấy Tây Mễ chú ý nhìn mình, Dakis giơ tay lên quẹt quẹt mũi, nói: “Không đẹp được như hình xăm của đại ca đâu, hồi trước xăm con thằn lằn, về sau sợ bị truy nã, sợ bị người ta nhận ra, liền lấy dao cắt luôn chỗ thịt ấy đi.” Tây Mễ không nói gì, tiếp tục ngắm nhìn trời xanh mây trắng và dòng sông Đà Đà như dải ngọc kia.
Sau xe ngồi chật người, Max cũng ở trong đám này. Khi ông chủ không có mặt, hắn cũng không dám làm ra vẻ khâm sai đại thần trước mặt cái đám liều mạng này. Hắn cẩn thận khuyên nhủ để Tây Mễ lên ngồi ghế lái phụ, còn mình thì ở phía sau với Thiết Quân, dù sao thì hắn cũng quen Thiết Quân một thời gian rồi. Ngồi trong thùng xe lắc lư, Max nhớ lại nhiệm vụ ông chủ đã giao cho hắn nửa tháng trước, “Max, mày mang tấm bản đồ này đến Trung Quốc trước, chuyện này phải làm cho tốt.”
“Ông chủ, sao không fax về cho xong, không thì scan lên máy tính cũng được, cần gì…”
“Đồ ngu, mày biết cái gì chứ? Mày tưởng Cục tình báo Trung ương Mỹ ăn phân mà sống hả, tấm bản đồ này chỉ cần dùng phương tiện điện tử truyền đi, nói không chừng đã lập tức bị bọn ấy biết ngay rồi.”
“Nhưng mà, nếu trên đường…”
“Thế nên mới phải để mày đích thân mang đi, mày phải đảm bảo với ta không được để xảy ra sơ xuất…”
“Tôi…”
“Yên tâm, tấm bản đồ này là do đích thân tao vẽ, tao đã giở chút thủ đoạn lên đó rồi, cho dù có lọt vào tay cảnh sát Trung Quốc, bọn chúng chưa chắc đã hiểu được đâu. Có điều để đề phòng vạn nhất, mày vẫn phải đảm bảo tuyệt đối không để nó rơi vào tay bọn chúng. Con mẹ nó, nếu cả tấm bản đồ mà cũng không mang đi nổi thì mày còn được việc gì nữa chứ!”
“Vâng.”
“Còn nữa, đám người kia huấn luyện cũng kha khá rồi phải không, đã đến lúc cho chúng ra ngoài hoạt động một chút rồi. Sau khi mang tấm bản đồ này tới Trung Quốc, mày hãy nghỉ cách đưa chúng đến khu vực Lâm Chi, nhớ kỹ, ngàn vạn lần không được thu hút sự chú ý của cảnh sát Trung Quốc…”
“Ha ha ha…” Một tràng cười lớn làm Max giật mình sực tỉnh. Đám người này đã bị giữ chân trong khe núi hoang vu không bóng người suốt hơn nửa năm ròng, từ lâu đã sắp phát điên lên rồi. Mặc dù Max cũng sắp xếp một số trò vui, nhưng dù sao thì thế giới bên ngoài cũng đặc sắc hơn nhiều. So với đám lính đánh thuê của Merkin, bọn Hồ Lang còn đỡ hơn một chút, nói thế nào thì bọn chúng cũng đã quen phải lẩn trốn rồi. Nghe ông chủ kể, vào lúc không phải mùa săn, hay thời điểm bị truy đuổi gắt gao, bọn Hồ Lang này không có chỗ nào để đi, vậy là liền trốn trong hang động trên núi trong suốt nửa năm liền khiến đội điều tra lần nào cũng trở về tay trắng. Vì vậy Max đặc biệt cẩn thận với tên Tây Mễ đứng đầu băng săn trộm này. Có thể khiến một đám liều mạng nằm yên trong hang núi lâu như vậy, sự nhẫn nại đó, uy thế đó, chính xác là chỉ có bộ đội đặc chủng siêu cấp mới làm nổi mà thôi.
Đến giờ rốt cuộc cũng có thể ra khỏi khe núi đó, đám liều mạng này chen chúc trong thùng xe chật chội, râm ran kể cho nhau những truyện cười dâm tục nghe mãi cũng không biết chán, làm ra đủ thứ động tác tục tĩu, cố hết sức phát tiết tâm trạng được ra khỏi núi rừng trở về với nhân loại. Người cười lớn nhất là Ivan, còn cái tên giọng eo éo the thé, cứ nhảy qua nhảy lại trong thùng xe kia là nói nhiều nhất. Đầu hắn trông nhọn nhọn như quả trám, mặt gầy mà đen, mắt rất nhỏ, cằm nhọn hoắt, bất kể là nhìn từ góc nào, cái miệng hắn trông cũng to một cách quá đáng. Hơn nữa trong miệng hắn dường như lúc nào cũng đang nhai nhóp nhép thứ gì đó, mỗi khi cười liền lộ ra hàm răng đen đen vàng vàng khấp khểnh. Không hiểu tại sao, khi nhìn vào cái miệng đầy những răng của hắn, Max tưởng như đang nhìn vào cặp mắt ông chủ. Cả hai đều gây cho người khác cảm giác lạnh buốt trong tận đáy lòng.
“Bồ câu hoang, món ngon đấy, nướng hay hầm đều ngon cả!” Dọc đường, tên đó cứ huyên thuyên bất tuyệt chỉ cho đám người trong xe biết thứ nọ thứ kia nên ăn thế nào, như thể là đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng về các món ăn vậy.
“Con bò Yak hoang kia nướng lên đảm bảo là cực ngon!” “Con la hoang này mà tùng xẻo thì ngon nhất luôn!” “Vịt Thu Sa, bọn vịt Thu Sa dưới sông kia mà hấp cách thủy thì ngon tuyệt! Còn cả cá nhảy sông nữa chứ, nhất định là mấy người chưa ăn bao giờ rồi!” “Nhạn đầu đốm, nấu canh ngon lắm!” “Sao không thấy con rắn nào nhỉ, không thì có thể làm bát canh rắn được rồi!” Tóm lại là các loài động vật hoang dã dọc đường đều bị hắn sắp xếp thành đủ các món ăn, cả chim sẻ và chuột núi cũng không bỏ qua. Max nhủ thầm trong bụng, giả như Soares mà ở đây, không chừng đã giết luôn cái thằng lắm mồm này đi rồi. Ông chủ từng nói với hắn, người điều khiển thú vật là một nghề nghiệp hết sức kỳ quái. Bọn họ có thể ở chung một chỗ, hòa mình vào giữa đàn thú, song ngược lại, cũng không hề nương tay chút nào khi dùng các loại động vật thảm sát con người.
Thấy tên kia vẫn đang hưng phấn tưởng tượng các loài động vật cả đám gặp trên đường thành các món cao lương mỹ vị, Max không nhịn được hỏi Thiết Quân: “Thằng kia là ai đấy? Chính là cái thằng vẫn nói từ nãy đến giờ ấy.”
Thiết Quân cười cười đáp: “Hắn tên là Lâm Nhân, quê Quảng Đông, là thành viên cấp cao của Hồ Lang, đừng nhìn bề ngoài hắn gầy đét ra như thế, lúc ra tay thì không hàm hồ chút nào đâu. Nghe nói trước khi gia nhập Hồ Lang hắn đã đi khắp toàn quốc săn trộm động vật hoang dã rồi. Hắn từng tự nhận rằng, ở Trung Quốc, chỉ cần là động vật người ta biết đến, tất thảy đều vào miệng gã cả rồi, chẳng hạn cái gì mà gấu trúc, vượn đen tơ vàng, hổ Đông Bắc, cá tầm Trung Hoa…”
Lâm Nhân nghe bọn hắn nói chuyện, liền nhảy vù tới, dương dương đắc ý nói: “Thế có đáng gì, toàn món bình thường cả, tôi còn ăn kiến ở Vân Nam, ăn rết ở Nghi Xương, đổ rượu, ăn sống, ăn xong còn cảm thấy nó bò qua bò lại trong dạ dày nữa cơ. Ở Quý Châu thì ăn ốc sên, đặc sản vùng ấy là một loài ốc sên không có vỏ, toàn thân đen bóng, đại khái to bằng đầu ngón tay này, thịt nó thì…”
Nghe những loại món ăn ly kỳ cổ quái tuôn ra từ cái miệng toàn răng vàng răng đen ấy, Max chợt cảm thấy buồn nôn.
Mấy tháng sau, Trác Mộc Cường Ba đến tìm gặp Lạt ma Á La.
Mặc dù đã nắm bắt được các đặc trưng cơ bản của cơ quan học, nhưng Trác Mộc Cường Ba trước sau vẫn không thể quên được huyết trì mà họ trông thấy trong địa cung Ah Puch. Gã còn nhớ lạt ma Á La đã từng nói, đó mới là cơ quan chân chính. Đến bây giờ, đã học được rất nhiều kiến thức lý thuyết, đồng thời cũng có không ít kinh nghiệm thực tiễn, gã vẫn không thể hiểu thấu huyết trì rốt cuộc là thứ gì. Nhưng cảnh tượng đầy máu tanh và tàn nhẫn đó quả thật khiến người ta kinh hồn bạt vía. Vì vậy, hôm nay gã định tìm ông hỏi cho rõ ngọn ngành.
Trên bãi huấn luyện, Trương Lập và Nhạc Dương đang bố trí một cạm bẫy liên hoàn vừa mới học được. Ba Tang đứng bên cạnh góp ý. Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La ngồi trên hai cái đôn đá nhìn họ từ đằng xa. Gã nói: “Đại sư, ngài còn nhớ huyết trì ở tầng năm trong địa cung Ah Puch không?”
Lạt ma Á La nhìn Trương Lập đang lắp giá đỡ, “ờ” một tiếng, đoạn hỏi: “Cậu muốn hỏi gì vậy?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi muốn biết biết huyết trì rốt cuộc là thứ gì?”
Lạt ma Á La giờ mới quay đầu nhìn gã, ngạc nhiên thốt lên: “Tại sao đột nhiên lại muốn hỏi vấn đề này?”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Chúng tôi đã học cơ quan học từ rất lâu rồi, nhưng đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa có khái niệm gì về huyết trì cả. Tôi còn nhớ đại sư đã từng nói, chỉ huyết trì mới có thể coi là cơ quan chân chính, vậy nguyên lý của nó là thế nào? Rốt cuộc là nó dùng để làm gì?”
Lạt ma Á La nói: “Với những gì cậu nắm được lúc này, cậu cảm thấy tác dụng chủ yếu của các loại cơ quan hàm nghĩa hẹp mà chúng ta học tập là gì?”
Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát rồi nói: “Hình như vẫn là để giết người, à không, chủ yếu là để vây khốn hoặc làm tổn thương vật săn chạm phải chốt lẫy thì đúng hơn.”
Lạt ma Á La lắc đầu nói: “Không hẳn thế, các loại cơ quan mang nghĩa hẹp hiện nay, chúng ta đã học được có hai tác dụng chủ yếu. Thứ nhất, chính là điều cậu vừa nói, người chạm phải cơ quan sẽ gặp phải phiền phức, còn thứ hai, chính là để bảo vệ một số đồ vật không bị kẻ khác lấy đi hoặc hủy hoại, tác dụng như một ổ khóa vậy. Huyết trì, chính là loại cơ quan có tác dụng này. Tôi có thể cho cậu biết một điều, hệ thống khóa của huyết trì tuyệt đối không kém hệ thống nhận dạng vân tay hiện đại bây giờ đâu, thậm chí còn đạt đến mức độ tinh vi như hệ thống nhận dạng gien nữa cơ.”
“Hả,” Trác Mộc Cường Ba khẽ kêu lên một tiếng, “ghê gớm vậy cơ à!”
Lạt ma Á La gật đầu: “Cậu còn nhớ cánh cửa đó mở ra thế nào đấy chứ? Những tảng đá vốn là màu trắng cuối cùng toàn bộ thành màu đỏ, sau đó cửa liền mở ra, có đúng không?” Trác Mộc Cường Ba khẽ gật đầu.
Lạt ma Á La lại nói tiếp: “Thực ra bên ngoài cánh cửa đá đó còn một tầng vật chất khác nữa, thứ đó là cái gì thì tạm thời tôi không thể cho cậu biết được, cậu cứ coi nó như một loại sợi có thể co dãn cũng được. Lực co dãn của loại sợi này rất lớn, giống như bắp thịt của con người vậy. Khi chúng co lại hết cỡ, một sợi to như sợi mì có thể nhấc được tảng đá nặng mấy chục kologram, cánh cửa khổng lồ đó, chính là được mở ra bằng cách ấy.”
Trác Mộc Cường Ba chỉ gật đầu không nói. Cánh cửa khổng lồ hình khung xương ấy kiên cố dị thường, chỉ sợ xe tải cũng chưa chắc có thể một lần húc đổ luôn, vậy mà lại bị thứ sợi đó sơi sơi kéo ra như vậy, lực co dãn ấy quả là kinh người.
Lạt ma Á La nói tiếp: “Thế nhưng, muốn làm thứ sợi co giãn ấy, chất lỏng bình thường không có tác dụng, cần phải dùng…”
Trác Mộc Cường Ba thốt lên: “Máu? Chẳng trách nó được gọi là huyết trì.”
Lạt ma Á La sửa lại: “Máu người. Nhưng không phải toàn bộ. Cậu có biết trong máu người có bao nhiêu loại vật chất không?”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Hồng cầu, còn có, còn có… có gì nữa nhỉ?”
Lạt ma Á La mỉm cười: “Nhiều lắm, tôi nói như thế này nhé, số lượng các vật chất trong máu người nhiều không kể xiết, chỉ riêng các loại y học hiện đại thường dùng đã có tới mấy chục rồi, hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, mấy chục loại protein làm đông máu, protein chống đông máu cũng có mấy chục loại, ngoài ra còn các nguyên tố vi lượng, kháng nguyên thể, mấy thứ này thì còn nhiều hơn nữa. Còn huyết trì, chính là dùng các cơ quan khác nhau trong cơ thể người, tiến hành lọc máu, cuối cùng sẽ có được một loại dịch thể màu đỏ, bởi vì chưa phân tích cụ thể bao giờ, nên tôi chỉ đoán có lẽ trong đó chứa hồng cầu và một số loại protein chống đông máu, mà chỉ có loại dịch thể màu đỏ này mới có thể khiến thứ sợi kia co rút hết cỡ mà thôi.”
Trác Mộc Cường Ba nghe mà đần thối mặt, vội hỏi: “Đại sư sao lại hiểu rõ về huyết trì vậy?”
Lạt ma Á La điềm đạm mỉm cười: “Cậu có biết cái huyết trì nguyên vẹn đầu tiên được khai quật ở đâu không? Huyện Mặc Thoát ở Tây Tạng đấy. Vì vậy, tôi có thể khẳng định địa cung Ah Puch và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu kia có quan hệ tất yếu. Dựa theo kết quả khảo chứng trước mắt, huyết trì rất có thể là dụng cụ tế lễ của một số giáo phái cổ xưa đã tiêu vong rất lâu ở Tây Tạng.”
Lạt ma Á La nhổm người dứng dậy, nhìn ra phía bãi huấn luyện nói: “Hiểu biết của tôi về huyết trì cũng chỉ giới hạn ở bề ngoài thế thôi, toàn bộ chỉ có vậy. Có điều đã nói tới đây, đã học môn cơ quan học này một thời gian dài như vậy, cậu cho rằng chỗ lợi hại của cơ quan nằm ở đâu, Cường Ba thiếu gia?”
Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn ra bãi huấn luyện phía xa, mấy người bọn Trương Lập đã bố trí xong cạm bẫy, chỉ thấy giữa bãi cỏ là một lùm cây bụi, hoàn toàn không hề có dấu tích của sự nguy hiểm chút nào.
Nhạc Dương mở cửa lồng, thả con thỏ hoang làm thí nghiệm ra. Con thỏ vừa ra khỏi lồng, liền nhanh chóng chạy vào chỗ kín ẩn nấp, không ngờ bên dưới bóng cây nhân tạo kia chính là chốt lẫy của cơ quan, cả bụi cây đổ sập xuống. Con thỏ cũng cực kỳ nhanh nhẹn, lập tức đảo sang bên trái, lưới thép phía trước liền “tưng” một tiếng bung vọt lên, thỏ hoang tức khắc dừng chân, lăn tròn một vòng dưới đất, đảo ngược đường lao sang bên phải. Phía bãi cỏ bỗng đâu bật lên một miếng ván gỗ chặn ngay trước mặt con thỏ, con vật không kịp dừng bước, húc thẳng vào đấy. Cú va chạm làm con thỏ hoang váng đầu váng mặt, lảo đảo mấy lượt, thấy ván gỗ đổ ụp xuống, vội chạy đi, nào ngờ cọc gỗ dưới đất lại liên tiếp nhô lên, chặn đứng đường lui của nó. Con thỏ hoang cũng khá nhanh nhẹn, lách bên trái né bên phải, vừa mới thoát được vòng vây của cọc gỗ thì đã thấy phía trước một cái hang, liền không nghĩ ngợi gì đã chui tọt vào trong ấy.
Cửa sắt đóng sập lại, con thỏ lại trở về lồng của nó, Nhạc Dương, Trương Lập và cả Ba Tang cười cười bàn luận, xem ra cơ quan tổ hợp này đã thiết kế thành công rồi.
Trác Mộc Cường Ba hồi tưởng lại cả quá trình ấy, đột nhiên thốt lên: “A, tôi hiểu rồi, chỗ đáng sợ nhất của cơ quan, chính là ở tính bí mật của nó!”
Lạt ma Á La hài lòng gật gật đầu: “Đúng vậy, Cường Ba thiếu gia, cậu đã nắm được yếu quyết của cơ quan học rồi đó. Chỗ đáng sợ của cơ quan, chính là cậu không nhìn thấy nó. Khi cậu phát hiện ra đó là một cơ quan, thì nguy hiểm cũng theo đó mà giảm xuống đáng kể rồi. Quá trình phá giải cơ quan, thực chất chính là quá trình đấu trí đấu lực với người thiết kế nên cơ quan ấy. Hai bên đều không nhìn thấy đối thủ, nhưng lại phải suy nghĩ xem đối phương có thể nghĩ tới những vấn đề gì, hay có vấn đề gì y không nghĩ tới. Giống như lúc ở tầng sáu địa cung Ah Puch, chúng ta lặn xuống nước như vậy thực ra là rất mạo hiểm, nhưng lúc ấy thì chúng ta hết cách rồi, đó là đường ra duy nhất của mọi người, nên đành liều đánh cược một phen. Được rồi, hôm nay nói tới đây thôi, mấy người trong nhóm gọi cậu kìa.” Trương Lập đang đứng phía xa vẫy vẫy tay gọi Trác Mộc Cường Ba tới.
Bước ngoặt mới
Trác Mộc Cường Ba đứng ngẩn người ra một lúc, nghiền ngẫm lại những lời lạt ma Á La vừa nói, “Chỗ đáng sợ của cơ quan, chính là cậu không nhìn thấy nó,” đồng thời lời cảnh báo của Babatou cũng vọng lại bên tai gã, “Kẻ thù đáng sợ thực sự, là những thứ ta không nhìn thấy,” điểm chung của hai thứ này, chính là phát hiện. Những lời này không hiểu sao gã cảm thấy rất quen thuộc, tựa hồ như trong một thời gian, ngày nào cũng có người nhắc nhở gã vậy.
Trương Lập chạy tới, cười cười nói: “Cường Ba thiếu gia, có thấy cơ quan tổ hợp của chúng tôi không? Coi là thành công được chưa nhỉ?”
“Ừm.” Trác Mộc Cường Ba khẽ đáp một tiếng, trong lòng bỗng nhiên dâng lên cảm giác sợ hãi vô cùng mạnh mẽ. Rất nhiều sự việc xảy ra trong quá khứ, rất nhiều điều đến nay gã không thể nào lý giải nổi, từng sự kiện một hiện lên trong tâm trí, nỗi sợ ấy còn đáng sợ hơn cả khi gã đối diện với người đàn ông có đôi mắt như của loài rắn độc và tên thổi rắn ở Putumayo kia, bởi bản thân gã xưa nay chưa từng có cảm giác như vậy bao giờ cả. Rốt cuộc là chuyện gì đây? Tại sao có thể khiến gã trào dâng một nỗi phát xuất từ sâu thẳm nội tâm? Đầu óc Trác Mộc Cường Ba tức khắc chìm vào u mê hỗn độn, muốn bình tâm tĩnh trí lại thì chỉ càng thêm rối loạn.
Lúc này, Lữ Cánh Nam bước qua bên cạnh hai người, Trương Lập vội đứng thẳng người, cung kính nói: “Giáo quan.” Mọi lần thì Lữ Cánh Nam bao giờ cũng đáp lại, nhưng lần này dường như cô không hề nghe thấy, thậm chí cả nét mặt bần thần hỗn loạn của Trác Mộc Cường Ba cô cũng không chú ý đến, mà rảo bước đi thẳng qua.
Lữ Cánh Nam nhanh chóng đuổi theo lạt ma Á La, đánh mắt ra hiệu, vị sư già hiểu ý, liền đi theo vào văn phòng của cô.
Lạt ma Á La vừa bước vào cửa, Lữ Cánh Nam đã không sao kìm nén nổi cảm giác kích động trong lòng, trực tiếp nói luôn: “Đại nhân, có hai việc hết sức quan trọng. Merkin đến Trung Quốc rồi!”
“Hả!” Lạt ma Á La cũng lập tức trở nên nghiêm túc, mặc dù không biết khoảng thời gian này Merkin đã đi đâu, làm những chuyện gì, nhưng một khi y đã xuất hiện ở Trung Quốc, chắc chắn là tên này sẽ có hành động gì đó. Lạt ma Á La điềm tĩnh hỏi tiếp: “Còn một chuyện nữa là gì?”
Lữ Cánh Nam gật đầu đáp: “Hôm kia có người báo cáo, ở biên giới Thanh Tạng có kẻ khả nghi, đoán là một băng săn trộm, thế nên công an của chúng ta đã tiến hành tấn công đột kích. Một đám người thân phận bất minh hoảng loạn bỏ chạy, không phát hiện ra động vật hoang dã nào, nhưng đã tìm thấy một tấm bản đồ. Các chuyên gia cho rằng, bản đồ này có liên quan đến Tây Tạng cổ đại, nên đã giao cho nhóm nghiên cứu, con có mang theo bản sao đây, đại nhân xem.”
Lạt ma Á La cầm tấm bản đồ lên, lẩm bẩm nói: “Hình như là một tấm bản đồ hàng hải cổ, chú thích này là… ồ… hả! Đây là…” Cánh tay vị sư già đột nhiên run lẩy bẩy, kinh ngạc thốt lên, “Không thể nào, không thể nào như vậy được! Tấm bản đồ này sao lại đột nhiên xuất hiện chứ? Chẳng lẽ đúng là ý trời hay sao?”
Lữ Cánh Nam nói: “Đại nhân, ngài cho rằng việc tấm bản đồ này đột nhiên xuất hiện liệu có liên quan gì đến chuyện Merkin bất ngờ trở về nước hay không?”
Lạt ma Á La nói: “Ý của con là?”
Lữ Cánh Nam nói: “Trong báo cáo của nhóm nghiên cứu gửi đến, trong tay bọn họ là tấm bản đồ gốc, một tấm bản đồ hàng hải được dân Tạng cổ vẽ trên da sói từ trên một ngàn năm trước. Theo phán đoán của con, Merkin không dám mạo hiểm mang tấm bản đồ này xuất hiện, mà thông qua phương thức khác, trước tiên là chuyển bản đồ đến đất nước chúng ta, sau đó y mới tới, chỉ là y không ngờ được mình đã ủy thác sai người, cho nên…”
Lạt ma Á La vỗ tay nói: “Không sai được đâu! Tấm bản đồ này nhất định đã được lấy ra từ trong địa cung Ah Puch, chính là kẻ xuất hiện cuối cùng đó, mặc dù ta chỉ trông thấy bóng lưng hắn thôi, nhưng kẻ ấy thật vô cùng đáng sợ, toàn thân toát ra một thứ mùi vị tà quái khó hiểu. Hắn là người của tổ chức kia, một trong mười ba người, hắn là người ở trong lăng tẩm ấy lâu nhất, chắc chắn là đã phát hiện ra điểm gì mà chúng ta sơ suất bỏ qua. Đáng lẽ ta phải nghĩ ra lâu rồi mới phải, kẻ ấy tuyệt đối không thể là quân du kích, chẳng trách Merkin lại không xuất hiện, thì ra đã có kẻ khác đến địa cung Ah Puch rồi, mục đích chính là mở cánh cửa lần trước bọn chúng chưa mở ra được kia.”
Lữ Cánh Nam liền hỏi: “Có lẽ nào, tấm bản đồ ấy chính là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu hay sao?”
Lạt ma Á La đáp: “Chuyện này khó nói lắm, nhưng tin tức xuất hiện bất ngờ này sẽ lấp đầy rất nhiều điểm còn trống trong điều tra của chúng ta, nói thể nào thì nói, chúng ta cũng càng lúc càng đến gần mục tiêu rồi. Bây giờ thì ta đã hoàn toàn minh bạch. Chính kẻ kia đã đưa bản đồ cho Merkin, hoặc là bọn y cùng vùi đầu nghiên cứu, hơn nửa năm nay, sau khi đã hiểu được bản đồ nói gì, bọn y mới đến Trung Quốc. Thật đúng là lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt, bọn y có năng lực mấy cũng chẳng thể nào ngờ nổi, tấm bản đồ ấy cuối cùng lại lọt vào tay chúng ta.”
Lữ Cánh Nam nói: “Dưới sự chỉ dẫn của đức Phật toàn năng, ánh sáng mãi mãi ở phía chúng ta.”
Lạt ma Á La nói: “Không thể do dự được nữa, nói với nhóm nghiên cứu, cần phải lập tức làm rõ xem rốt cuộc trên bản đồ ẩn chứa thông tin gì. Lần này chúng ta đã bị chúng bỏ lại sau lưng rồi, à, báo với các thành viên trong nhóm, cần chuẩn bị sẵn sàng để xuất phát bất cứ lúc nào.”
“Vâng!”
Cùng thời điểm đó, ở một nơi hoang vắng không bóng người, Merkin lớn tiếng chửi vào điện thoại: “Max! Mày là đồ ngu xuẩn! Tao phải lột da mày! Một chuyện bí mật như vậy, không ngờ lại để mày làm lộ ra hết cả! Tao thật không thể nào hiểu nổi tại sao mình lại cho một thằng ngu như mày đi theo lâu như thế nữa.
Trong ống nghe vang lên giọng sợ sệt của Max: “Chính… chính vì ẩn mật quá… bọn họ cũng làm rất cẩn thận, lúc đi trên đường luôn quan sát xem có ai theo dõi không. Không ngờ… không ngờ… lại khiến cảnh sát Trung Quốc chú ý đến… ông chủ…”
“Cạch,” Merkin dập mạnh ống nghe xuống. Nhìn điệu bộ y, như thể muốn đấm một phát cho nát bấy cái điện thoại ra vậy.
“Sao vậy hả?” Giọng Soares lành lạnh như băng cất lên trong một góc u ám.
Merkin hằn học nói: “Mất bản đồ rồi. Tấm bản đồ ấy đã rơi vào tay cảnh sát Trung Quốc. Cái thằng Max ấy đã theo tôi bao nhiêu năm, vậy mà một chút chuyện nhỏ vậy cũng không làm cho xong, thật đúng là ngu xuẩn hết chỗ nói. Còn cả đám lợn Trung Quốc được huấn luyện đặc biệt kia nữa chứ, đúng là một thằng ngu lớn dắt theo một lũ ngu nhỏ!”
Soares phì cười thành tiếng, thầm nhủ, “Không hiểu thằng cha Merkin này đang nói đám thuộc hạ hay nói chính hắn nữa.” Chỉ nghe y chậm rãi nói: “Không can hệ gì, chúng ta đã nghiên cứu đi nghiên cứu lại tấm bản đồ đó bao nhiêu lần rồi, không có thì cũng vẫn tìm được thôi.”
Merkin nói: “Tôi không lo chuyện này, vấn đề là, tấm bản đồ đó sẽ nhanh chóng rơi vào tay bọn người ở Tây Tạng kia ấy chứ.”
Soares bật cười: “Thế thì sao chứ? Bọn chúng cũng phải làm rõ được ý nghĩa của tấm bản đồ trước đã, chỉ sợ cũng phải mất một thời gian, mà trong khoảng thời gian đó, chúng ta đã sớm lấy được thứ mình cần, nếu đúng là có thứ ấy. Sau đó, chúng ta sẽ có thể… trực tiếp đến Bạc Ba La thần miếu rồi!”
Merkin vẫn lo lắng nói: “Vấn đề là, số lượng thông tin mà chúng nắm giữ trong tay lớn hơn của chúng ta rất nhiều. Nói ngay lần này thôi, nếu không phải tôi nhận được tin tức, biết chuyện Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu kia đã được người Tạng cổ mang đến châu Mỹ, e là đến giờ chúng ta cũng không thể nào lý giải được, tại sao trong địa cung người Maya lại xuất hiện bản đồ do người Tây Tạng vẽ ra nữa.”
Soares trầm ngâm nói: “Ừm, anh nói cũng phải, xem ra phán đoán đầu tiên của chúng ta đã sai lầm, đám người đó nghiên cứu Bạc Ba La thần miếu không chỉ mới một hai năm, mà đã nghiên cứu cả một thời gian dài rồi. Nói không chừng, chỉ trong mấy ngày ngắn ngủi chúng đã dịch được thông tin trên tấm bản đồ ấy cũng nên. Có điều như vậy đâu có sao, đằng nào cũng có mấy nơi khác nhau cơ mà, chúng ta cứ đánh cược một phen đi, xem bên nào tìm được chìa khóa cuối cùng dẫn đến Bạc Ba La thần miếu trước.” Y nhổm dậy hít một hơi dài, cái bóng màu xám trong góc tối toát lên vẻ lạnh lùng cô độc, chỉ nghe y chầm chậm nói: “Ben, thời gian nghiên cứu về Tây Tạng của anh dài hơn tôi, anh cho rằng chỗ nào là nơi có khả năng cất giấu bản đồ nhất?”
Khóe miệng Merkin nhếch lên, lộ ra một nụ cười: “Mặc Thoát!” đồng thời lấy di động ra báo cho Max, “Gọi cho bọn ngu xuẩn đã được huấn luyện kia đi, chúng ta xuất phát!”
Lần này Lữ Cánh Nam không giấu các thành viên trong nhóm nữa, tin tức mau chóng thông qua con đường truyền miệng đến tai từng người một. Hai ngày sau, khi Trác Mộc Cường Ba nghe được tin tức từ chỗ Nhạc Dương, liền lập tức báo ngay cho giáo sư Phương Tân vẫn đang vùi đầu nghiên cứu về địa cung của người Maya. Đẩy cánh cửa phòng giáo sư, Trác Mộc Cường Ba cao giọng nói: “Thầy giáo, có tin tức mới, có thể chúng ta sắp xuất phát đến nơi rồi!”
Gian phòng hết sức bừa bộn, giáo sư đang ngồi trước màn hình máy tính, nhìn lướt qua đâu đâu cũng thấy các tài liệu về văn minh Maya. Ông ngoảnh đầu, chỉnh lại gọng kính trên mũi, những nếp nhăn trên trán và mái tóc điểm bạc khiến Trác Mộc Cường Ba không khỏi bồi hồi xúc động. Gã hiểu được, vì gã, người thầy này đã bỏ ra quá nhiều công sức, tình nghĩa giữa gã và giáo sư Phương Tân, một chữ “cảm kích” thôi thật không thể biểu đạt nổi.
Giáo sư Phương Tân gỡ chiếc kính xuống, hỏi: “Ừm, lần này lại có tin gì thế?”
Trác Mộc Cường Ba không giấu nổi niềm hân hoan: “Nghe nói, là có đầu mối mới rồi, hình như là một tấm bản đồ hay gì đó thì phải.”
“Ồ!” Giáo sư Phương Tân trầm tư nói, “Cường Ba à, khoảng thời gian này, tôi có trao đổi kinh nghiệm với mấy người bên nhóm nghiên cứu, đồng thời cũng cùng một số người bạn nghiên cứu thêm, chúng tôi phát hiện ra, cái nơi gọi là Bạc Ba La thần miếu này, thật không hề đơn giản như chúng ta hằng tưởng tượng đâu.”
Trác Mộc Cường Ba ngồi xuống trước bàn, nhìn gương mặt già nua đi rõ rết của ông, nói: “Thầy giáo, thầy mệt mỏi quá rồi, cứ như vậy sức khỏe không trụ nổi đâu, mà cũng làm tôi thấy áy náy trong lòng nữa.”
Giáo sư Phương Tân dụi dụi dử ở khóe mắt: “Cũng hết cách rồi, Cường Ba ạ, cậu vẫn chưa nắm được toàn bộ biến hóa của sự kiện này à?” Ông ngoảnh đầu lại nghiêm túc nói, “Ngải Lực Khắc đi rồi, ông ta không chỉ là giáo quan huấn luyện chúng ta, mà còn là thành phần cốt cán cùng cả nhóm lên đường; anh ta đi khỏi đây, chứng tỏ cấp trên đã truyền đạt xuống đây một tín hiệu rồi. Thời gian kéo dài quá lâu, sự nhẫn nại của cấp trên cũng có hạn thôi, thứ họ muốn nhìn thấy không phải là sự trưởng thành của mấy người chúng ta đây, mà là một thứ có thể khiến người ta phấn chấn thực sự, thế nhưng cho đến tận bây giờ, chúng ta vẫn cứ mãi giậm chân tại chỗ. Vì vậy, trước mắt là nguy khốn trùng trùng, phải tận dụng hết mọi thời gian, nhân lúc còn có thể lợi dụng được nguồn tư liệu quý giá này, chúng ta cần tranh thủ trao đổi nhiều hơn với đám chuyên gia kia, hòng có được những tài liệu muốn có. Những thứ ấy, ở nơi khác chúng ta không thể nào tra ra được đâu.”
Trác Mộc Cường Ba đặt tay lên vai giáo sư, gật đầu nói: “Tôi biết, tôi biết, kể từ khi bắt đầu tìm kiếm Tử Kỳ Lân, toàn bộ sự việc đều trở nên phức tạp, hơn nữa lại còn càng ngày càng phức tạp hơn. Thế nhưng, chúng ta… vẫn đề đang sống khỏe mạnh mà, chẳng phải vậy sao? Vả lại, chúng ta cũng đang ngày một tiến gần mục tiêu hơn rồi còn gì.” Trải qua một đợt huấn luyện địa ngục, khó khăn lắm mới thoát ra được, cuối cùng cũng coi như có một bước tiến mới, tâm trạng Trác Mộc Cường Ba đương nhiên là hết sức tốt.
Giáo sư Phương Tân thầm tán thưởng trong lòng: “Kiên nhẫn bền bỉ, đây mới chính là Cường Ba mà tôi biết chứ.” Ông mở máy tính ra nói: “Trước mắt, đối với việc nghiên cứu văn hóa Maya, phía nhóm nghiên cứu không có tiến triển gì lớn lắm, dù sao họ cũng là chuyên gia về Tạng học chứ không phải chuyên gia về văn minh Maya. Bạn bè tôi giúp liên hệ với một số người chuyên nghiên cứu văn hóa Maya, mỗi người đã nhận được một phần của băng video ấy, và đều gặp phải trở ngại khi xem những chữ khắc trong hầm mộ. Đầu tiên là văn tự ấy không phải là văn tự Maya truyền thống mà đã có một số biến đổi, tệ hơn nữa là, trong số ấy còn xuất hiện gần một trăm ký hiệu bọn họ chưa từng trông thấy bao giờ, vì vậy muốn giải dịch ra cũng có độ khó nhất định. Có điều, tư liệu hình ảnh tôi chụp lại ở chỗ thạch trận khổng lồ thì đã được dịch ra một phần rồi, cậu xem này.”
Trác Mộc Cường Ba nhận lấy phần tư liệu, chỉ thấy trên các ký hiệu chi chít những đoạn chú thích, phần văn bản dịch ra ở dưới là: vầng dương đỏ như máu chìm xuống trời Tây, bên trên cánh rừng sâu xanh thẳm như mực là những áng mây xám xịt, tộc trưởng đã sắp qua đời, ông hạ lệnh: “Xây cho ta một căn phòng bằng đá dưới đất sâu, nhỏ thôi nhưng phải kiên cố, mặc cho ta chiếc áo lớn tượng trưng cho vương quyền, rồi đặt ta vào đó, giống như ta vẫn sống, chẳng qua chỉ là ngủ thiếp một giấc dài mà thôi. Bên cạnh hãy đặt chiếc bát đá, bàn ăn và con dao bằng đá lửa, rồi hãy đóng hầm mộ lại theo đúng tập tục của chúng ta, tiếp tục đi con đường của các người, mong rằng các người sẽ tìm thấy Thánh thành trong năm katun tới đây. Ta sẽ mãi ở trên bầu trời quan sát các người, vĩnh viễn chúc phúc cho các người.”
Tất cả đều được làm theo mệnh lệnh của ông. Người ta đào một cái hố lớn, xây một căn nhà đá mái tròn dưới đó, bên ngoài nhà đá dựng một tấm bảng đá trên khắc hình chim quyên xanh và rất nhiều động vật khác, từ chỗ thấp nhất lên đỉnh, xây thành ba bậc bình đài, mỗi bậc đều có cầu thang xoáy xung quanh. Ở giữa gian nhà đá, những bức tường trắng và cây cột được điêu khắc tinh tế tỉ mỉ tạo thành một gian phòng đá kín, trên tường có vẽ những sự tích vĩ đại của tộc trưởng, người đã lãnh đạo bộ tộc của mình tìm kiếm quê hương mới. Chính nhờ sự anh minh và dũng cảm của ông, bộ tộc họ mới được sinh sôi phát triển. Trong gian phòng đá này, mọi người trong bộ tộc y theo mệnh lệnh cuối cùng của người, mặc cho ông chiếc áo lớn tượng trưng cho vương quyền, đặt ông nằm giữa hầm mộ, sau đó cử hành nghi thức cổ xưa rồi đóng cửa hầm mộ lại, trên hầm mộ ném cây giáo gãy, cuộn lại và xé rách lá chiến kỳ nổi danh lừng lẫy của ông, để tiếng quát mạnh mẽ của tộc trưởng mãi mãi bầu bạn bên người. Sau đó, mọi người san lấp hố, xây bên trên một ngôi đền bằng đá, có trụ đá ghi niên kỷ và những bức tường đá trắng sáng bóng. Sau khi hoàn tất mọi việc, dân tộc kiên cường bất khuất này lại tiếp tục tiến vào rừng sâu thăm thẳm dưới sự lãnh đạo của một thủ lĩnh mới…
Trác Mộc Cường Ba đọc tới đây, lẩm bẩm nói: “Giống như thánh ca của người Kukuer, nhưng lại khác với những gì chúng ta nhìn thấy.”
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Ừm, đây chỉ là nội dung trên ba cây trụ đá trắng thôi, những nội dung khác vẫn đang được gấp rút tiến hành giải mã và dịch ra, tin rằng không lâu nữa sẽ có kết quả thôi. Còn một thứ nữa, còn nhớ loài động vật trâu không ra trâu lợn không ra lợn mà cậu nhìn thấy trong cấm địa Ah Puch không?”
Trác Mộc Cường Ba nói ngay: “Đương nhiên là nhớ, hình như không phải động vật ăn thịt đúng không?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Đối với những nhà nghiên cứu Nam Mỹ, đó đã không còn là bí mật nữa rồi. Loài động vật ấy gọi là trâu lợn, từ những năm ba mươi của thế kỷ trước đã có người phát hiện ra, cũng là một loại động vật mà các nhà khoa học cho rằng đã tuyệt chủng từ bảy đến mười ngàn năm trước, cùng thời với voi ma mút, thổ dân bản địa thường săn bắn làm thức ăn. Về sau đội khảo sát vào rừng tìm kiếm, nhưng không có kết quả gì, cho đến nay vẫn còn một số nhà động vật học đang tìm kiếm nó đấy.”
Lúc này, Trương Lập mừng vui khấp khởi chạy vào, cuống quýt nói: “Giáo sư, Cường Ba thiếu gia, mau ra đây, giáo quan sắp tuyên bố rồi, tin tức tốt đấy!”
Mọi người tập trung cả về gian phòng học lớn. Lữ Cánh Nam nói với học viên bằng giọng hòa nhã nhất có thể: “Có lẽ trong các bạn cũng có người biết rồi. Mấy hôm trước, đối thủ của chúng ta, Ben đã đến Trung Quốc, đồng thời, công an Trung Quốc chúng ta cũng tìm được một tấm bản đồ chú thích bằng tiếng Tạng cổ, nói chính xác hơn, đó là một tấm bản đồ hàng hải, sau khi được các chuyên gia trong nhóm nghiên cứu ngày đêm không ngừng tìm hiểu, cuối cùng chúng ta đã phát hiện ra được vấn đề quan trọng nhất.”
Lữ Cánh Nam dừng lời, chỉ nghe thấy tiếng thở gấp gáp bên dưới, lại tiếp tục nói: “Nếu kết quả của nhóm nghiên cứu là chính xác, thì tấm bản đồ đó là do vị sứ giả có nhiệm vụ mang Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu đến châu Mỹ chôn giấu, trong thời gian ở Maya, dựa vào trí nhớ siêu phàm của mình vẽ nên con đường ông đã đi qua. Vị sứ giả ấy thuở sinh tiền ắt hẳn là một vị trí giả, ông đã vẽ bản đồ của vùng Tây Tạng-Vệ hết sức tường tận rạch ròi, mặc dù không thể so với bản đồ ngày nay, nhưng cũng đủ cho chúng ta hiểu được đại khái. Còn hình dạng của các quốc gia châu Á khác và châu Mỹ thì lại hết sức cổ quái, làm các chuyên gia của chúng ta phải vắt hết tâm tư mới nhận ra rằng, đây là hình tượng của hai châu lục lớn này trong mắt người xưa. Nhưng nếu những suy đoán về tấm bản đồ hàng hải này là đúng, thì các địa điểm quan trọng chú thích trên đó lại khiến người ta thật không sao hiểu nổi. Kết hợp với rất nhiều tư liệu khác, nhóm nghiên cứu của chúng ta đưa ra kết luận rằng, vị sứ giả kia sau khi đến Bạch thành lo rằng mình không thể trở về Tây Tạng lấy thành vật khác đi, nên đã dùng trí tuệ của mình vẽ nên tấm bản đồ này. Chắc ông ta giao cho người mình tin cậy nhất trong Bạch thành, sau đó mới trở về Tây Tạng, nhất định đã dặn dò người ở lại rằng, bao nhiêu năm sau đó, nếu có đủ năng lực, hãy đến Tây Tạng xem thử những thứ này thứ kia có còn ở đấy hay không, nếu không còn thì phải làm thế nào. Trong đó có ba nơi cực kỳ quan trọng, sau nhiều tranh luận, chúng tôi cho rằng, một là di chỉ Cổ Cách ở khu vực A Lý hiện nay, một là quần thể cổ mộ ở huyện Lạp Tư, khu vực Xigaze ngày nay, còn nơi cuối cùng, thì nằm ở Mặc Thoát, khu vực Lâm Chi ngày nay.”
“Gì hả?” Cặp mắt Trác Mộc Cường Ba như muốn lồi hẳn ra ngoài, gã kinh ngạc thốt lên, “Vậy chẳng phải là đánh dấu cả ba vùng Tạng-Vệ vào rồi hay sao?” Khu vực A Lý nằm ở phía Tây đất Tạng, trên biên giới Trung-Ấn, Xiaze thì ở miền Trung Tây Tạng, còn Lâm Chi thì ở phía Đông, như vậy, phạm vi đánh dấu của tấm bản đồ này đã bao trùm cả Tây Tạng mấy ngàn cây số vuông rồi.
Nhạc Dương cũng nói: “Nhưng vị sứ giả năm ấy chẳng phải đã bình an trở về rồi hay sao? Vậy chắc ông ta đã mang đi những tín vật còn lại rồi, cho dù không phải ông ta, thì những nhà thám hiểm trước chúng ta có lẽ cũng mang đi mất rồi. Chúng ta còn đi…”
Lữ Cánh Nam ngắt lời: “Đúng vậy, trong Cổ Cách kim thư chép là vị sứ giả kia có trở về thật, nhưng sau hi trở về lại không hề rời khỏi Cổ Cách, hơn nữa chẳng bao lâu sau thì đã qua đời, sách chép rằng u uất bi thương mà chết. Vì vậy, có thể đoán rằng ông ta vẫn chưa kịp đến những nơi khác. Có điều, chúng ta không còn thời gian nữa rồi, đám người của Ben đã xuất phát trước chúng ta mấy ngày, mặc dù những người chuyên trách theo sát chúng cho rằng tên Ben đó đã biến mất ở khu vực Khả Khả Tây Lý, song chúng tôi nghi ngờ đó chỉ là trò che mắt thôi, vì vậy, chúng ta cũng phải nhanh chóng lên đường. Mặc dù không có chú thích nào chỉ ra ba nơi ấy có những gì, nhưng dựa trên những tư liệu khác của chúng ta đã có, các chuyên gia suy đoán đó có lẽ là một tấm bản đồ vẽ trên da sói.”
Trương Lập thắc mắc: “Nhưng tấm bản đồ ấy chẳng phải là đã bị người ta lấy đi rồi hay sao?”
Lữ Cánh Nam cười cười: “Đúng thế, có một tấm bản đồ đã bị người ta lấy đi, nhưng ai có thể khẳng định rằng chỉ có một tấm bản đồ thôi chứ. Vị quốc vương năm đó, đến cả Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu còn phục chế được, vậy thì… tại sao không thể có hai tấm bản đồ chứ? Còn nữa, những người có tấm bản đồ kia, cho đến nay vẫn chưa thể tìm được Bạc Ba La thần miếu, tấm bản đồ bị lấy đi ấy là thật hay giả, giờ cũng chưa thể xác định được. Tóm lại, chúng ta không thể bỏ qua bất cứ đầu mối nào, hơn nữa, đây còn là đầu mối có thế khiến đối thủ của chúng ta hết sức hứng thú nữa!”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy nên chúng tôi phải lập tức đi luyện tập, phải vậy không giáo quan?”
Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Đợi chút đã, hôm nay gọi mọi người đến đây chính là vì còn có bài học mới nữa. Có câu, biết mình biết người, trăm trận trăm thắng, lần này chúng ta lên đường chỉ sợ sẽ phải đối mặt với quân đội đặc chủng chính quy của nước ngoài, mặc dù không biết đối phương có thể mang vũ khí vào lãnh thổ Trung Quốc hay không, nhưng tôi vẫn phải nói cho mọi người biết về một số vũ khí loại mới mà bọn họ sử dụng.”
Rèm cửa đều hạ xuống, đèn phòng tắt hết, trên màn hình máy chiếu, bọn Trác Mộc Cường Ba lần lượt tìm hiểu các loại vũ khí mà đối thủ sử dụng. Ngoài các loại vũ khí thông thường của lính đặc chủng, còn có những loại vũ khí hoàn toàn mới mà mấy người nhóm Trác Mộc Cường Ba chưa từng thấy bao giờ, bao gốm súng lắp ống kính camera có thể xoay ngoặt, còn có một loại lựu đạn sáng khiến người ta cũng lúc mất cả thị giác lẫn thính giác, thuốc nổ hẹn giờ dạng dính hình cúc áo, một loại thuốc giảm đau tác động đến trung khu thần kinh, khiến người ta dù tổn thương đến vỡ xương gãy xương cũng không hề thấy đau đớn… Loạt vũ khí mới đó khiến bọn Trác Mộc Cường Ba hoa hết cả mắt, càng nghe lại càng thấy rợn người, nói thế nào cũng thấy giống như mình sắp đi đánh trận…
Thời gian không còn nhiều, chỉ có một ngày để thu thập tư liệu, ngày thứ hai cả nhóm đã sắp xếp hành trang lên đường, đích đến của họ lần này là… Mặc Thoát!
Vùng đất bí mật cuối cùng
Mặc Thoát, ở triền Nam dãy Himalaya, tiếp giáp với Ấn Độ, dịch nghĩa ra là “đóa sen bí ẩn”, từ “Mặc Thoát” trong tiếng Tạng được dùng để chỉ hoa. Nơi này là huyện duy nhất trong toàn quốc không thông với đường quốc lộ, gọi là “hòn đảo cô độc trên cao nguyên”, địa thế Nam thấp Bắc cao, diện tích khoảng ba mươi ngàn kilomet vuông, thuộc vùng lòng chảo hạ du sông Nhã Lỗ Tạng Bố, độ cao trung bình một ngàn mét so với mực nước biển. Mặc Thoát nằm trên vùng đứt gãy Himalaya và vùng đứt gãy Mặc Thoát, hoạt động địa chất rất phức tạp, thường xuyên xảy ra động đất, sụt lở, đất đá trôi, cộng thêm khí hậu ẩm thấp nhiều mưa. Chính phủ cũng từng đầu tư một khoản tiền lớn để xây đường, song gần như không thấy hiệu quả gì. Tương truyền, chính A Quỳnh Kết Ba bảo hộ cho thánh địa cuối cùng của Tạng giáo nguyên thủy này, không để người khác xâm hại; cũng có người nói đây là kết quả năm xưa A Quỳnh Kết Ba đấu ghép với Liên Hoa Sinh đại sư, khiến nơi này núi cao lởm chởm, khe núi sâu dài, lấy sông Nhã Lỗ Tạng Bố làm ranh giới, vạch ra một quan ải thiên nhiên hiểm trở khó thể vượt qua..
Vùng đất núi non bao bọc, lúc nào cũng có nước chảy qua này được các tôn giáo trên đất Tạng coi là thánh địa, Phật giáo cũng vậy, mà các tôn giáo khác cũng vậy. Vì có đại hiệp cốc 4 Nhã Lỗ Tạng Bố, đặc trưng của vùng này chính là “một núi bốn mùa, mười dặm khác thời tiết”; đứng ở chân núi cao mấy trăm mét so với mực nước biển, sẽ được hưởng khí hậu cũng như cảnh sắc của vùng á nhiệt đời, nhưng khi tốn nửa ngày thời gian trèo lên đỉnh núi cao mấy ngàn mét, khí hậu đã chuyển sang thành khí hậu địa cực rồi.
Di tích sông băng cổ nơi này khá phổ biến. Từ sông băng cổ đến lòng chảo sông hiện đại, địa hình đã chuyển từ khe hình chữ “U” tương đối rộng rãi thành khe hẹp và sâu hình chữ “V”, sức ăn mòn của dòng chảy cực lớn, thường hình thành nên những “khe trong khe”, độ cao chênh lệch lên tới 7.000 mét. Mặc Thoát dựa vào khe núi Nam Ca Ba Ngõa cao 7.766 mét so với mực nước biển, bên cạnh là ngọn Gia La Bạch Lũy cao 7.151 mét, vùng đất thấp nhất trong huyện cũng cao 750 mét so với mực nước biển, giữa hai khe có sông treo, và các thác nước lớn nhỏ nối liền, tạo nên một khung cảnh cực kỳ tráng lệ của thiên nhiên.
Mặc Thoát ban đầu gọi là “Lạc Du”, tức là nơi người Lạc Ba sinh sống, về sau các dân tộc hay quần tộc Môn Ba, Hạ Nhĩ Ba, Tạng, Tranh cũng chuyển đến, từ đó đến nay vẫn sống tự túc tự cấp, phương thức sản xuất và phong tục rất độc đáo. Vì đường đi gồ ghề khúc khuỷu, những dân tộc này đã quen với cách sống “lên núi giữa ngàn mây, xuống núi ra bờ sông, nói phải nghe ra tiếng, đi đường phải một ngày” rồi.
Ở dải đất sâu trong trung tâm, nguy hiểm nhất đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, chính là đoạn sông dài gần trăm cây số từ Bạch Mã Cẩu Hùng đi xuống, khe núi sâu thẳm u tối, nước chảy cuồn cuộn, đến giờ vẫn chưa ai có thể đi qua được. Chính vì sự khó khăn và nguy hiểm ấy, nên nơi này được gọi là “vùng đất bí mật cuối cùng của nhân loại”. Theo sự chỉ dẫn của tấm bản đồ kia, bọn Trác Mộc Cường Ba, đang chuẩn bị đến chính nơi đó thử vận may.
“Tại sao chúng ta lại chọn Mặc Thoát vậy?”
“Bởi vì nơi đó là có khả năng tìm thấy nhất. Cậu nghĩ xem, năm 1985, sau khi nhà nước thành lập đội khảo cổ chuyên trách khảo sát, di chỉ Cổ Cách đã được xếp hạng di tích được bảo hộ, nếu trong đó có thứ gì thì cũng đã bị khai quật lên hết cả rồi. Hơn nữa lối vào đánh dấu trên bản đồ cách di chỉ Cổ Cách ngày nay tới mấy chục cây số, chỉ e vị trí không được chính xác cho lắm. Còn quẩn thể mộ cổ La Tư bây giờ cũng được liệt vào hàng văn vật quốc gia, chúng ta có đi chắc cũng chẳng thu hoạch được gì đâu. Chỉ có Mặc Thoát, đến năm 1993 mới lần đầu tiên thông đường, nhưng chưa được nửa năm đã sụt lở nên không thể sử dụng, cho đến nay, những người từng đi Mặc Thoát và người từ Mặc Thoát trở ra đều có thể dùng đầu ngón tay là đã đếm hết, mà quan trọng hơn cả là… thực ra nơi đó, có mối liên hệ rất lớn với Bạc Ba La thần miếu mà chúng ta đang tìm kiếm.”
“Quan hệ rất lớn?”
“Đúng vậy, Mặc Thoát núi non trùng điệp, riêng thần sơn với thánh đồ đã có mấy chục chỗ, mặc dù không thông với đường quốc lộ, nhưng nơi này không chỉ là thánh địa của Phật giáo, mà còn là thánh địa và nơi khởi nguồn của Tạng giáo nguyên thủy và Bản giáo cổ nữa. Đến ngày nay ở đó vẫn còn tín đồ Bản giáo, lưu truyền rất nhiều câu chuyện đại tôn sư của Bản giáo và đại tôn sư Phật giáo đấu phép. Mà Bạc Ba La thần miếu chúng ta đang tìm kiếm dường như có liên hệ rất sâu xa với Bản giáo thì phải.”
“Gì cơ? Có liên hệ rất sâu xa với Bản giáo? Chẳng phải đó là nơi các tăng lữ dời đến trong thời kỳ diệt Phật hay sao?”
“Không sai, nhưng dựa trên những tư liệu chúng ta có, vì khi ấy đang nổi lên làn sóng diệt Phật, tất cả các tăng lữ Phật giáo đều gặp nạn, bọn họ cần nhờ đến lực lượng của các tôn giáo khác để hoàn thành nhiệm vụ che giấu và vận chuyển một lượng lớn các vật phẩm. Mà trong thời kỳ ấy, sợ rằng cũng chỉ có các tín đồ Bản giáo là chấp nhận bỏ qua hiềm khích trong quá khứ thôi. Hơn nữa, như vị sứ giả mang tín vật kia, bản thân cũng chính là một giáo đồ Bản giáo thì phải.”
“À, tôi nhớ ra rồi, không phải đại sư đã nói, cái huyết trì còn nguyên dạng đầu tiên được khai quật ở Mặc Thoát hay sao, nói như vậy thì đúng là có quan hệ rất lớn với nơi này rồi. Huyết trì có phải dụng cụ tế lễ của Bản giáo không?”
“Cũng chưa chắc, khi Phật giáo dần dần đi sâu vào lòng người, có rất nhiều tín ngưỡng nguyên thủy đã bị nó đồng hóa, mà ban đầu vùng Tây Tạng này rốt cuộc có bao nhiêu tôn giáo, đến giờ cũng không ai nói chắc được. Lấy Mật giáo của chúng tôi làm ví dụ nhé, tương truyền trước đây Mật giáo cũng không phải một nhánh của Phật giáo, mà là một tôn giáo hoàn toàn độc lập, nhưng bây giờ, chúng tôi và Tạng truyền Phật giáo đã dung hợp lại thành một và không thể tách rời rồi.”
“Sao chúng ta không chia tổ ra? Như vậy có thể cùng lúc tìm ở hai nơi khác nhau, nói không chừng còn phát hiện ra điều gì đó trước tên Ben kia ấy.”
“Không được, chúng tôi đã suy tính rất kỹ về vấn đề này. Nếu không có đối thủ nào, chúng ta tất nhiên có thể chia làm hai tổ lên đường, nhưng tên Ben Merkin kia quả thực là ghê gớm, trước khi chúng ta làm rõ gốc gác của bọn chúng, cần phải hợp lại mới đối kháng được. Hơn nữa, lần này cứ coi như là kỳ sát hạch nhóm cuối cùng đi, tôi lần đầu tiên dẫn mọi người lên đường, một là có thể quan sát hiệu quả huấn luyện của mọi người, hai là đồng thời cũng có thể sửa chữa những sai sót lệch lạc cho từng người nữa.”
“A, không biết lần này đến Mặc Thoát có kinh khủng như rừng rậm châu Mỹ không nhỉ?”
“Tuyệt đối là không, có mấy tuyến đường khác nhau để đi Mặc Thoát, trong đó lộ tuyến truyền thống là từ huyện Mê Lâm – Đa Hùng Lạp – Nã Cách – Hãn Mật – Mã Ni Ông – Bối Đăng, lộ tuyến của chúng ta là từ huyện Mê Lâm, qua Đại Độ Ca, Cách Ca, sau đó tới Gia Lạp, đi dọc dòng sông tiến vào đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố. Vì từ Gia Lạp trở đi là khu vực không người, đi dọc theo bờ sông đại khái mất khoảng hai, ba ngày là tới được Bạch Mã Cẩu Hùng. Chúng ta đi nhanh, có lẽ chỉ cần hai ngày là đến rồi. Có thể đảm bảo, đây là một con đường hết sức an toàn!”
“Chậc, sao tôi nghe trong ngữ điệu như có sự uy hiếp thì phải?”
“Suỵt… nhỏ thôi, tai giáo quan thính lắm đấy.”
Cả đoàn người rì rầm nói chuyện, cùng xuất phát tiến về hướng vùng đất bí mật cuối cùng của nhân loại. Vừa tới bờ sông, các thành viên tron đội đều ngớ mặt ra. Con đường nhỏ mà Lữ Cánh Nam bảo là cực kỳ an toàn ấy, hóa ra chỉ là một dải hẹp chìa ra lơ lửng trên vách núi, rộng chưa đến một thước, so với sạn đạo vào đất Ba Thục thời cổ còn hẹp hơn nhiều, vách đá thì trơn nhẵn như bị một đường búa xẻ ra, bên dưới là sông Nhã Lỗ Tạng Bố cuồn cuộn sóng cồn, tiếng sóng vang động như sấm. Con đường nhỏ lơ lửng này không cao lắm, cách sông Nhã Lỗ Tạng Bố chừng ba tới năm trăm mét, nếu lỡ rơi xuống có bị lộn nhào mấy vòng trên không cũng vẫn kịp hô gọi cứu mạng, có điều muốn leo trở lên thì e không dễ dàng gì cho lắm.
Nhạc Dương khó khăn nuốt nước bọt đánh ực, nghẹn lời lẩm bẩm: “Đây chính là cực kỳ an toàn à!”
Trương Lập làm bộ khoa trương, ấn hai tay lên ngực nói: “Tôi mắc chứng sợ độ cao rất nặng, Cường Ba thiếu gia có thể làm chứng. Giáo quan, chúng ta là đội khảo sát cấp quốc gia cơ mà, tại sao không phái một chiếc trực thăng…” Lữ Cánh Nam lừ mắt nhìn qua, Trương Lập vội vàng nói: “Ờ hớ, tôi nói… nói là… cái kia… kia…, tôi đang nói gì ấy nhỉ?” Anh chàng đánh mắt sang hỏi Nhạc Dương.
Lữ Cánh Nam đáp: “Không được, dòng xoáy không khí trong hiệp cốc rất mạnh, trực thăng không thể tác nghiệp ở độ cao thấp được. Chứng sợ độ cao hả? Lúc huấn luyện sao không thấy cậu sợ độ cao?”
Nhạc Dương đầu óc linh hoạt, liền phát biểu ý kiến khác: “Có thể nhảy dù mà.”
Trương Lập cũng thẽ thọt nói: “Lúc huấn luyện chỉ cao có mấy chục mét, sao mà so với chỗ này được.”
Lữ Cánh Nam nói: “Các cậu tưởng tôi chưa nghĩ đến sao? Sử dụng phương tiện giao thông đúng là có thể tiết kiệm được thời gian, nhưng các cậu có thử nghĩ chưa, trực thăng là mục tiêu lớn thế nào, nếu bọn chúng cũng ở gần đấy hơn nữa lại có vũ khí… nhớ cho kỹ, không được có bất cứ sai sót nào. Kể từ bây giờ, chúng ta phải giữ tốc độ mỗi ngày đi một trăm cây số, trong hai ngày sẽ đến được Bạch Mã Cẩu Hùng. Ở đó có đường lớn, có thể vượt sông, sau đó chúng ta sẽ đi thẳng tới đích đến của lần này, một nơi tên gọi là Lạp Mẫu Bạc Quả.”
Trác Mộc Cường Ba liếc mắt nhìn Ba Tang, thấy anh ta vẫn lạnh lùng như trước, không để lộ chút cảm xúc gì ra mặt.
Đi trên con đường nhỏ lơ lửng nơi vách núi, mặc dù đều trải qua huấn luyện đặc biệt, mọi người vẫn hết sức cẩn thận, dù sao thì bên dưới cũng là dòng sông cuồn cuộn sóng, rơi xuống tuyệt đối không phải trò đùa. Đi được chừng mười dặm, Lữ Cánh Nam đi đầu tiên đột nhiên chậm lại, cả đoàn cũng cùng lúc dừng lại theo, mọi người nhất loạt trụ vững thân hình. Chỉ riêng một động tác dừng lại đơn giản thế này thôi, cũng đã phải trải qua nhiều lần tập luyện mới đạt tới mức đồng điệu nhịp nhàng thế này, bằng không đang đi với tốc độ cao, phía trước bất ngờ xuất hiện đoạn gãy đứt, nếu người phía sau không kịp dừng bước, khẽ huých vào người đi trước một cái, người phía trước rất có thể sẽ rơi xuống. Mà ở trên vách núi nhô ra rộng chưa đầy một mét này, hai người đụng vào nhau, nguy cơ cả hai cùng rơi xuống là rất lớn.
Lữ Cánh Nam dẫn đầu, lạt ma Á La đi sau cùng đoạn hậu. Nhân lúc dừng lại, Trương Lập đi ở giữa hỏi Nhạc Dương đứng trước mình: “Sao thế hả?”
Đường Mẫn đứng trước Nhạc Dương nói: “Đất sụt.”
Mặc dù Trác Mộc Cường Ba đứng giữa, nhưng thân hình cao lớn, chỉ lờ mờ trông thấy đoạn đường hẹp phía trước bị bùn đất ở trên sụt xuống lấp mất, phần nhô ra trên vách đá chỉ rộng bằng lòng bàn tay. Đoạn đường hẹp không đủ chỗ đặt chân này dài tới mười bảy mười tám mét, Lữ Cánh Nam nghĩ ngợi giây lát, rồi đặt ba lô xuống, ép lưng sát vào vách đá, hai chân giạng ra hình chữ bát, hai tay bám ngược vào đá, nhích người qua từng bước một. Đi qua đoạn ấy, cánh tay liền vung lên kéo chiếc ba lô qua, thì ra từ nãy cô đã quấn sợi dây thép mảnh trên cổ tay vào quai lô rồi. Mọi người liền làm theo cách đó, từng người đều đi qua được. Tới lượt Trác Mộc Cường Ba, gã hít sâu một hơi, áp lưng vào vách đá, hai mắt nhìn thẳng về phía trước, nhìn thấy phía đối diện hiệp cốc núi xanh mơn mởn, lũ chim bay lượn trên cao, nghe thấy tiếng nước chảy ầm ầm, khoảng cách có mười mấy mét mà gã dù được huấn luyện đặc biệt rồi cũng mất gần hai phút mới qua được. Dọc đường cũng hơi thấy nền đá dưới chân lơi ra, tựa hồ như có đá vụn rơi xuống lả tả, có điều cuối cùng cũng qua được bình an.
Người cuối cùng là lạt ma Á La nghệ cao gan lớn, không cần cởi ba lô, mà xoay người úp mặt vào vách đá, ba lô lơ lửng giữa không trung. Trác Mộc Cường Ba biết rõ, đi qua như vậy, trọng tâm hoàn toàn lệch về phía ngoài vách đá, bản thân gã tự nhủ mình không có bản lĩnh ấy. Gã đang nghĩ ngợi, bỗng thấy đá dưới chân lạt ma Á La sụt, cả người ông đã thụt hẳn xuống, trái tim gã như muốn nhảy tót ra khỏi lồng ngực. Chợt thấy ông vươn tay ấn vào một kẽ nứt cạnh đó, cả người bốc hẳn lên cao, tựa như cánh ưng chao liệng. Lúc đó gã ngước lên nhìn lại, vị sư già đã đứng vững vàng phía bên này đoạn đường hẹp ấy rồi.
Nhạc Dương gần như không hiểu nổi, người bộ tộc Môn Ba làm sao mà đi đi lại lại trên con đường này được. Có điều anh chàng cũng biết, người đi được trên con đường này quả thực là ít càng thêm ít, ở đây mười mấy hai mươi ngày không thấy bóng người cũng là chuyện hết sức bình thường.
Cùng lúc ấy, Merkin dẫn theo một đám người đang ở trong gian đại sảnh màu vàng rộng lớn. Bọn họ cắm những ống phun lửa nhỏ vào bốn bức tường, sau đó đứng ngắm nghía gian đại điện rộng rãi. Merkin mặc bộ rằn ri của lục quân Anh quốc, chiếc thắt lưng bản lớn bó chặt làm thân hình khôi vĩ của y thêm phần cao lớn mạnh mẽ. Soares vẫn mặc chiếc áo xám trông như thầy mo, chỉ đệ lộ ra nửa gương mặt quỷ trông chẳng khác nào quả quýt nát nhừ.
Một người thân hình gầy gò nhỏ bé dùng thứ tiếng từa tựa như tiếng Tạng cổ nói: “Xin Thánh sứ đi theo tôi, bên này có lẽ có thứ các vị muốn tìm.” Soares đưa mắt nhìn Merkin, khóe miệng nhếch lên tựa hồ như cười mà không phải cười. Merkin bừng bừng nổi giận, nhấc cái người nhỏ bé cao chưa tới mét rưỡi kia lắc mạnh: “Ta đã bảo với ngươi rồi, ở bên ngoài không cần gọi ta là Thánh sứ thánh siếc gì cả! Ngươi không hiểu à!”
Người nhỏ bé kia không phản kháng, vẫn gượng cười nói: “Vâng, Thánh sứ đại nhân.”
Merkin chán nản thở dài, đành dặn dò đám thủ hạ canh gác cẩn thận, rồi cùng Soares theo chân người nhỏ con kia đi qua cánh cửa đá khổng lồ, xuống những bậc thang rộng tới một gian phòng giống như gian thờ Phật. Giữa căn phòng đặt một cái đài cao hình tròn có hàng lan can gỗ mục nát, trên đài đặt một pho tượng đá lớn tạc hình hai người đứng ôm chặt nhau. Merkin không khỏi bật lên tiếng cười lạnh lẽo: “Hoan Hỉ Phật, giáo phái này thờ toàn tà Phật hả, hừ… lý thú lắm.”
Soares nói: “Chỗ này còn tà dị hơn những gì chúng ta tưởng tượng nữa, cả tôi và anh đều không hề biết gì về giáo phái nguyên thủy này. Chẳng hạn những thứ động vật bọn họ đặt trong các vò vại kia cả tôi cũng chưa từng thấy bao giờ, hình như vừa giống cá, lại vừa như động vật có vú. Còn các thi thể bên ngoài kia nữa, ở đây e là còn tà quái hơn địa cung Ah Puch nhiều.”
Người đàn ông nhỏ bé kia dường như vừa hoàn thành việc gì đó, quay sang cung kính nói với Merkin: “Thánh sứ, mời ngài xem…” Chỉ nghe “rầm” một tiếng, bức tượng đá khổng lồ không ngờ đã tách ra!
Buổi sáng đi được ba mươi kilomet, dọc đường gặp phải sáu chỗ đất sụt, có nơi thậm chí hoàn toàn không thể đi được, chỉ còn cách bám vào vách đá trèo qua. Lữ Cánh Nam nói, có thể trận mưa lớn ba ngày trước chính là nguyên nhân gây nên sụp lở đất trên phạm vi lớn. Buổi trưa, họ tìm thấy một chỗ tương đối rộng rãi, vách đá lõm vào trong một chút, hình thành nên một hang động bán thiên nhiên, liền dừng lại chuẩn bị dùng bữa. Cũng may là dọc đường còn có một số hang hốc nhân tạo này nên người đi đường mới có một số chỗ nghỉ ngơi. Lữ Cánh Nam đột nhiên nói: “Giáo sư, đại sư, mọi người xem ở trong này…”
Trác Mộc Cường Ba cũng hen vào, chỉ thấy dưới đất có một mẩu thuốc, màu sắc phai hết, cách đó không xa còn có hai mẩu nữa, những chỗ khác cũng có vài thứ linh tinh. Giáo sư Phương Tân nói: “Xem ra, bọn chúng đã qua đây rồi, giờ đang ở ngay phía trước chúng ta thôi.”
Lạt ma Á La gật đầu: “Đúng thế, dân Tạng không hút thứ thuốc này.”
Lữ Cánh Nam nhìn mặt đất khô ráo, nói: “Đầu mẩu thuốc này chưa bị ngâm nước thì không mất màu đên mức này đâu, ít nhất chúng cũng đi qua đây từ ba hôm trước rồi.” Nói đoạn, cô xoay người lại, “Ăn nhanh lên, ăn xong chúng ta còn phải lên đường cho sớm.”
Lạt ma Á La lắc đầu: “Chỉ e đã muộn mất rồi.”
Lữ Cánh Nam nói: “Dù thế nào, chúng ta cũng phải đến xem thử một phen, hơn nữa…” cô ngẩng đầu lên, “chỉ có hai ngày tới đây trời mới không mưa, nếu sau hai ngày mà vẫn chưa qua được đoạn đường trên vách núi này, muốn tiến lên lại càng khó khăn hơn gấp bội đấy.”
Sau đó đoàn người lại phát hiện ra nhiều bao bì thực phẩm vương vãi bên đường, mỗi thứ dường như đều cố tình chọc vào mắt bọn họ, khiến ai nấy càng thêm nôn nóng hơn. Qua các dấu vết đối phương để lại, có thể phán đoán sơ bộ như sau, nhân số của chúng khoảng từ mười đến hai mươi người, đều được huấn luyện kỹ càng. Ở những chỗ đất sụt sau cơn mưa ba hôm trước, còn phát hiện dấu vết sử dụng đinh tán và dây trượt. Ngoài ra đám người này thích dùng các đồ ăn có nhiệt lượng cao, có lẽ là đến từ một vùng đất lạnh lẽo. Thói quen thường ngày của chúng rất tệ, túi bọc đều bị xé rách toang, đầu mẩu thuốc vứt lung tung, đại tiểu tiện bừa bãi, lại còn hút cả thuốc phiện nữa. Lữ Cánh Nam cho rằng, những thói quen này rất giống của đám lính đánh thuê. Vì giờ phút nào cũng phải lượn lờ qua mặt tử thần, nên tính tình chúng hầu hết đều hết sức lưu manh. Còn có một số dấu vết chỉ ra rằng, thân hình bọn chúng không cao lớn lắm – đây là một điểm không khỏi khiến người ta phải sinh nghi.
Thấy Lữ Cánh Nam phân tích hết sức rõ ràng, Trác Mộc Cường Ba dần dần cũng lĩnh hội được một số cách tư duy của Lữ Cánh Nam. Cả đoàn người cứ hành quân như vậy, cũng phải tới hoàng hôn ngày thứ ba mới đến được con đường lớn mà Lữ Cánh Nam nói ban đầu.
Nhạc Dương là người đầu tiên kêu ca: “Giáo quan à, cô có thể dùng con mắt của người bình thường mà nói với chúng tôi, con đường này rốt cuộc là thế nào không? Đừng có dùng con mắt của cô nhìn vấn đề có được không hả, cái này… cái này mà gọi là đường lớn ư? Rõ ràng là dây trượt Đại Lưu Tố mà.”
Đại Lưu Tố là một điểm đặc sắc của đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, cũng là con đường duy nhất để người các bộ tộc như Môn Ba, Lạc Ba vào ra Mặc Thoát, là một sợi dây sắt to như cột đèn dài mấy trăm mét, vắt ngang hai bên vách núi. Khi trượt qua, người bản địa sử dụng giá gỗ tự chế gá lên xích sắt, rồi quấn một sợi thừng ở eo hông, sau đó buộc chặt hai đầu giá gỗ, hai chân giơ lên cao, kẹp hờ vào dây xích, rồi thuận theo độ cong của xích sắt mà trượt xuống, khi trượt tới mấy chục mét cuối cùng, phải dùng cả tay lẫn chân để bám leo lên.
Nếu không đủ kỹ thuật và tài nghệ, lúc sắp đến bờ bên kia không kịp thời bám lấy dây xích, sẽ bị trượt ngược trở lại, cuối cùng lơ lửng ở chính giữa dây xích, bên dưới mấy trăm mét là dòng Nhã Lỗ Tạng Bố sóng cuộn ầm ầm như sấm động, giữa hiệp cốc lại thường có gió buốt thổi qua, nghe nói mùi vị ấy thật vô cùng khó chịu, đã từng có trường hợp bị hãi hùng mà mắc phải bệnh thần kinh. Khi ấy, cách duy nhất chính là có người giỏi kỹ thuật trượt qua, đẩy người phía trước sang bờ đối diện, ngoài ra số người ở trên xích sắt cùng một lúc không thể quá nhiều, một là đụng chạm vào nhau sẽ cực kỳ nguy hiểm, hai là dây xích cũng không thể chịu được trọng lượng quá lớn, có thể đứt đoạn.
Bọn Trác Mộc Cường Ba sử dụng bánh xe trượt, tốc độ di chuyển lớn hơn giá gỗ nhiều lần, hơn nữa chỉ cần leo lên là có thể trượt đi ngay, có điều đến đoạn cuối cùng thì vẫn phải dùng cả tay lẫn chân bò lên.
Mấy người đi trước đều đã an toàn sang bờ bên kia, riêng Đường Mẫn bỗng dưng sợ hãi. Trác Mộc Cường Ba khuyên mấy lần, nhưng cô vẫn không dám treo mình lên. Không còn cách nào khác, gã đành để những người khác qua trước, cuối cùng chỉ còn lại hai người, gã và Đường Mẫn, phải cổ vũ mãi, cuối cùng Đường Mẫn mới chịu đồng ý thử một lần.
Ở đầu bên kia, Lữ Cánh Nam hỏi: “Đường Mẫn sợ dây thừng hả?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Ừm, lúc leo lưới thì không sợ, nhưng lúc trượt dây hình như hơi sợ một chút, có điều chưa lần nào sợ đến mức này cả, mỗi lần cũng đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.”
Lữ Cánh Nam nắm sợi xích trong tay, trầm ngâm giây lát rồi nói: “Có thể cô ấy từng bị rắn cắn. Trương Lập, Nhạc Dương, hai người lại gần đây một chút, đợi lát nữa nếu cô ấy không trèo lên được thì giúp một tay kéo lên.”
Trương Lập và Nhạc Dương chia nhau đứng hai bên dây xích. Chỉ thấy Đường Mẫn cắn môi trượt qua, vừa tới đầu bên này, thân hình dừng sững lại, đáng lẽ phải lập tức kẹp chặt hai chân, đồng thời dùng cả hai tay ôm lấy dây xích leo lên, nhưng không hiểu tại sao, tay Đường Mẫn vẫn nắm chặt lấy bánh xe trượt, không dám ôm lấy xích sắt. Trương Lập vội hét lớn: “Bám lấy xích sắt, bám lấy xích sắt đi!” Đồng thời cùng Nhạc Dương tiến lên trước một bước, đến sát mép vách đá, chuẩn bị tóm lấy chân Đường Mẫn kéo lên.
Lúc này, Đường Mẫn đột nhiên trượt ngược về phía sau, Trương Lập và Nhạc Dương đều không kịp tóm lấy, chỉ biết trơ mắt ra nhìn Đường Mẫn trượt đi càng lúc càng xa, kế đó trượt đi trượt lại trên dây xích mấy lượt, cuối cùng dừng lại ở chính giữa sợi xích sắt.
Lữ Cánh Nam nói: “Cô ấy không qua được rồi, lúc huấn luyện sao không phát hiện ra vậy?”
Lạt ma Á La nói: “Có lẽ khi huấn luyện làm tương đối ít, dù sao trượt dây cũng là một hạng mục rất đơn giản, hơn nữa bên dưới bãi huấn luyện là cát, hoàn cảnh không giống như bây giờ.”
“Hình như cô ấy không chịu được nữa rồi!” Trương Lập và Nhạc Dương cùng lúc kêu lên, chỉ thấy hai chân Đường Mẫn không hiểu tại sao đột nhiên tuột ra, cả người lơ lửng trên sợi xích sắt, hơn nữa, còn đung đưa dữ dội giữa không trung!
“Không xong rồi, có âm phong!” Đôi lông mày lá liễu của Lữ Cánh Nam nhướng lên, lẩm bẩm nói, “Đành xem có qua nổi cửa ải này không vậy.”
Thụ táng
Khu vực không người trên hoang mạc, phóng mắt nhìn ra chỉ thấy một dải cát dài tít tắp, tháp cao san sát, gió thổi đá chạy, một đoàn người xếp hàng một, trông tựa như một con sâu dài nhiều chân lặc lè bò trên cao nguyên hoàng thổ. Leo lên ngọn đồi cao nhất khu vực, bốn ngàn mét so với mực nước biển, gió lạnh thổi qua, tinh thần con người cũng thêm phần phấn chấn, Merkin bít một hơi khí lạnh: “Con đường quỷ quái này, rốt cuộc còn bao xa nữa đây?”
Soares cười gằn lạnh lẽo: “Thánh sứ, không tìm được đường nữa à?”
Merkin nổi giận nói: “Tôi đã bảo bao nhiêu lần rồi, tôi cũng không biết tại sao mình lại thành thánh cái gì sứ cái gì đó, thật sự là họ không hề nói gì với tôi cả. Giờ không có cái đám người ấy, đừng gọi tôi như vậy nữa.” Y ngoảnh sang nhìn Soares, hết sức thành khẩn nói. “Tin tôi đi, Soares, ngoài chuyện huyết trì lần trước, tôi không hề giấu giếm anh bất cứ việc gì nữa.”
Soares chỉ cười cười không tỏ thái độ gì, tiếp tục tiến lên. Max đi sau thấy vậy, khẽ nhếch mép lên cười.
Vì không có đường, hơn nữa đâu đâu cũng thấy đồi gò đất san sát như rừng, người không quen đường thuộc lối căn bản không thể điều khiển xe đi trong khu vực này được. Năm chiếc xe của bọn Merkin đều hỏng dọc đường, cả bọn đều phải đeo những chiếc ba lô nặng nề cuốc bộ tiến lên. Đây là vùng Tây Nam khu vực A Lý, trong vòng hai trăm kilomet vuông không thấy một bóng người sinh sống, cách di chỉ Cổ Cách chừng hơn trăm kilomet, kết cấu địa lý cực kỳ đặc biệt, được gọi là “thổ lâm” (rừng đất).
Địa mạo “núi rừng bằng đất” đặc biệt này, là do tầng trầm tích dưới đáy hồ nơi đây từ thời viễn cổ bị ảnh hưởng bởi quá trình tạo sơn của dãy Himalaya, mực nước hạ xuống, đáy hồ nâng lên, đồng thời bị khí hậu biến đổi và nước sông xói mòn cắt xẻ mà hình thành nên. Vách núi dựng đứng hiểm trở thoạt nhìn tựa như những tòa thành, tháp canh, tháp Phật nguy nga hùng vĩ, muôn hình vạn trạng, tráng lệ vô cùng.
Soares lấy bản đồ ra, nói: “Theo lời tên nhỏ con kia, chắc là ở ngay gần đây thôi, A Nam Tháp đang ngủ say, A Nam Tháp, bên kia…” Ở hướng Soares chỉ tay, chỉ thấy rừng đất cao lớn tựa như vô số tòa linh tháp khổng lồ đứng san sát cạnh nhau, xoáy thành hình rồng, nếu không phải lên cao nhìn xa, ở giữa nơi ấy thì căn bản không thể phân biệt được.
Merkin vung tay lên ra lệnh: “Chạy tới đó!”
Hai tiếng đồng hồ sau, đám người này cũng đến được dưới chân khu rừng đất, trong mắt đều lộ ra vẻ kinh ngạc. Merkin nhếch mép lên nói: “A, khó mà tin nổi.”
Phía trước gò đất nhô cao, mặt đất nứt nẻ, sườn dốc san sát nối nhau như bát úp, hang đất trùng trùng điệp điệp như tổ ong, từ trái sang phải, nhìn ngút tầm mắt mà cũng không thấy hết, khiến người ta có cảm giác nơi này chẳng phải cao nguyên Tây Tạng, mà như hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng vậy. “Trái tim của A Nam Tháp, ẩn chứa ánh sáng màu bạc…” Merkin lẩm bẩm nói, rồi nhìn theo hướng chạy của khu rừng đất. Chỉ thấy những gò những đồi san sát nhau nhấp nhô trải dài từ hướng Tây sang hướng Bắc, ngoằn ngoèo uốn khúc, tựa như một con rồng khổng lồ đang ngóc đầu lên cao, muốn xé toang không gian mà đi. Bọn y lúc này chính là đang đứng ở đuôi rồng. Merkin búng ngón tay đánh “tách” một tiếng: “Hướng Bắc, hướng Bắc.”
Vì hai bên đại hiệp cốc đều là cao nguyên cao mấy ngàn mét so với mực nước biển, địa hình sông kẹp giữa núi thế này sẽ khiến không khí bị thổi vào hiệp cốc sẽ chỉ có thể tiến ra theo một hướng duy nhất. Gió giống như nước triều, từng đợt từng đợt hết sức mãnh liệt, gió lớn có thể thổi cho sợi xích nặng nề đung đưa không ngớt, người ở trên dây cũng gian nguy chẳng kém gì gặp phải cơn sóng thần trên biển lớn.
Cơn gió lạnh làm Đường Mẫn chao đảo trên dây xích như con diều đứt dây, liên tiếp đảo lộn mấy vòng, mắt trợn ngược lên, bàn tay bám vào sợi thừng mỗi lúc một lơi dần. Nhìn Đường Mẫn rơi vào tình cảnh ấy, Lữ Cánh Nam nôn nóng kêu lên: “Không được rồi, cô ấy không trụ được đâu, tôi phải đi kéo cô ấy về. Gió đã ngừng chưa?”
Bỗng chợt nghe Nhạc Dương kêu toáng lên: “Cường Ba thiếu gia, Cường Ba thiếu gia qua rồi!”
Chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba quấn chặt sợi dây nối với bánh xe trượt vào cổ tay, một tay giữ dây trượt, nhanh chóng lướt về phía Đường Mẫn, đúng trong khoảnh khắc gió vừa ngừng, người vừa rơi xuống, gã đã tựa như chim éo điểm nước, ôm Đường Mẫn vào lòng, rồi lao vút về phía bên này. Trương Lập lẩm bẩm nói: “Chà, thân thủ Cường Ba thiếu gia khá thật, nếu đến đoàn xiếc diễn tạp kỹ, đảm bảo là có nhiều người đến xem lắm.” Lữ Cánh Nam chỉ khẽ hừ một tiếng, hàng lông mày càng nhíu chặt lại.
Trác Mộc Cường Ba cởi ba lô, đặt Đường Mẫn xuống đất, chỉ thấy sắc mặt cô trắng bệch như tờ giấy trắng, môi tái xanh đen, ý thức mơ hồ, không ngờ đến cả hơi thở cũng đã ngưng lại, gã vội vàng giúp cô hô hấp nhân tạo. Đè bốn thở một, chính là ấn ngực bốn lần, rồi miệng áp miệng hô hấp một lần, làm như vậy mấy lượt liền, Đường Mẫn mới khẽ khục khặc ho một tiếng, cuối cùng cũng coi như hô hấp được bình thường trở lại.
Cô từ từ mở mắt ra, trông thấy gương mặt mơ hồ cùng đôi mắt chan chứa sự quan tâm của Trác Mộc Cường Ba, khẽ thở hắt ra một hơi: “Em… không phải em… cố ý đâu.”
Trác Mộc Cường Ba ôm chặt Đường Mẫn, nhẹ nhàng an ủi: “Anh biết mà, anh biết, không ai trách em đâu.”
Nhạc Dương và Trương Lập đứng bên cạnh thấp giọng rì rầm: “Khóc, khóc, lại khóc rồi…” Đến giờ thì tính hay khóc của Đường Mẫn đã được thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt quen thuộc hết, chỉ cần miệng cô hơi dẩu lên, mắt ươn ướt đỏ, là đã đủ khiến các thành viên trong nhóm phải đề cao cảnh giác rồi, đến cả lạt ma Á La cũng phải nói cô bé này nước mắt nhiều như nước suối, có trời mới hiểu cô lấy đâu ra nhiều nước mắt đến thế, cứ như thể mãi mãi không hết, dùng mãi không kiệt vậy. Tiếng khóc của Đường Mẫn gần như đã thành vũ khí tối thượng của nhóm học viên, cộng với cô là người nhỏ tuổi nhất ở đây, Trương Lập và Nhạc Dương đã lén đặt cho cô một cái biệt danh, gọi là “công chúa nước mũi”.
Giáo sư Phương Tân cốc vào sau gáy mỗi người một cái, đùa cợt thế nào thì cũng có giới hạn của nó.
Không ngờ, lần này biểu hiện của Đường Mẫn lại khác hẳn dự đoán của hai anh chàng Trương, Nhạc, cô không rơi lấy một giọt nước mắt nào. Trương Lập thầm nhủ: “Chẳng lẽ là vì giáo quan cũng ở đây?” Anh chàng quay đầu lại nhìn Lữ Cánh Nam, không biết cô đã tách ra khỏi nhóm từ lúc nào, một mình đứng bên bờ vực cho gió thổi. Ba Tang thì đứng ở một phía khác của vách đá ngẩng đầu lên nhìn sắc trời. Trương Lập cũng ngước nhìn lên bầu không; chỉ thấy từng đóa mây trắng lững lờ trôi quá, vươn tay ra là có thể chạm tới, nhưng vừa trông thấy điệu bộ của Ba Tang, anh liền không khỏi lạnh hết cả người: “Thời tiết quỷ quái này, bảo thay đổi là thay đổi luôn, chắc là không xuất hiện thiên tai gì nữa đấy chứ?”
Vì sự việc của Đường Mẫn, tốc độ của cả đoàn đã chậm lại. Sau khi vượt qua đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, mấy người cứ nhắm hướng Đông Nam thẳng tiến. Dọc đường núi non trùng trùng điệp điệp, đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa, lưng chừng núi cây xanh rợp bóng, chân núi hoa tươi nở rộ, hồng tím đủ màu. Đây chính là cảnh quan đặc hữu của vùng này… một ngọn núi có đủ bốn mùa, mỗi núi một phong cảnh riêng. Đường núi dốc ngược, rừng sâu cây cối um tùm, thi thoảng lại có vài cánh chim chao liệng ngang trời, chốc chốc lại có dã thú chạy cắt ngang đường, bọn họ đi một mạch đến lúc trời tối, không khí mờ mịt sương mù, trời lại rải xuống một cơn mưa lất phất, đường trơn khó đi, cả đoàn liền dừng lại ở một chỗ bằng phẳng bên cạnh khe núi dựng trại qua đêm. Bốn phía xung quanh cây cối cao lớn, che kín cả bầu trời, giáo sư Phương Tân phóng mắt nhìn qua, không giấu nổi niềm cảm khái dâng trào: “Rừng bách lớn quá!”
Cây bách ở khu vực Lâm Chi khác với vân sam, hay cây bạch đàn ở rừng già Nam Mỹ, nếu cùng cao bốn mươi mét, thì cây ở châu Mỹ có thể nói là thẳng tắp mà thanh tú, còn bách khổng lồ ở Lâm Chi lại to lớn hùng vĩ. Tán cây xòe rộng như một chiếc ô khổng lồ, chiếm tới quá nửa thân cây, cành và rẽ cũng rất to lớn, trên cành cây có vô số những u những bướu hình dạng khác nhau, chính nhờ vậy mà cây bách ở đây rất dễ trèo.
Sau khi chọn xong nơi cắm trại, mọi người chia nhau làm việc. Hai người Trương Lập, Nhạc Dương phụ trách thăm dò xung quanh, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang khỏe mạnh lo việc cắm trại, chặt cây đốt lửa, giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La thì dựa vào kinh nghiệm cũng như tri thức phong phú của mình tiến hành trao đổi nghiên cứu khoa học, còn Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn thì phụ trách việc hậu cần. Đường Mẫn chỉ bị kinh hoảng một lúc chứ không tổn thương gì nên hồi phục rất nhanh.
Trương Lập than vãn với Nhạc Dương: “Phải thăm dò đến tít cái gò cao kia, xa quá đi mất, còn việc của giáo quan thì nhẹ nhàng quá, chỉ cần sắp xếp mấy cái ba lô, lấy đồ ăn ra là xong rồi.”
Lữ Cánh Nam đứng sau lưng anh chàng cất tiếng: “Chưa từng nghe nói phải tôn trọng phụ nữ bao giờ hả?”
Trương Lập tức khắc run như cầy sấy, đến thở mạnh cũng không dám. Nhạc Dương thấy vậy thì cười thầm trong bụng, tiện miệng hỏi luôn: “Giáo quan, gần đây chắc không có loại dã thú nào nguy hiểm đấy chứ? Đừng có giống như lần trước…”
Lữ Cánh Nam ngắt lời anh chàng: “Sử dụng những gì các cậu học được, tự trả lời câu hỏi này đi.”
Nhạc Dương le lưỡi, lần này thời gian chuẩn bị không được đầy đủ lắm, cả bọn đều nghĩ đến chiếc máy tính chứa đủ thứ thông tin bao la vạn tượng của giáo sư Phương Tân, đoán chắc có mượn tra cứu một chút cũng không sao, chẳng ngờ hòn đảo cô độc trên cao nguyên này có hoàn cảnh địa lý hết sức đặc thù, nên đã sản sinh ra đủ các loại sinh vật kỳ quái hiếm thấy trên đời, chỉ nhìn lướt qua một lượt, các loại sinh vật nguy hiểm đã phải dùng con số hàng trăm làm đơn vị tính rồi. Trương Lập và Nhạc Dương cúi đầu ủ rũ, xem ra lần này hai người họ phải tập trung một trăm hai mươi phần trăm tinh thần đi thăm dò địa hình xung quanh đây rồi. Lữ Cánh Nam vẫn chưa yên tâm, trước khi họ đi lại nhắc nhở phải chú ý quan sát lực bám đất của cây cỏ, và mức độ xốp của thổ nhưỡng vùng này. Cô ngước mắt nhìn lên không trung lẩm bẩm: “Mưa mà lớn hơn nữa, các cậu cũng biết tình huống tệ nhất sẽ là như thế nào rồi đấy.”
Một lát sau, Trương Lập và Nhạc Dương quay lại, không phát hiện ra dã thú gì nguy hiểm, cũng không tìm được xung quanh có dấu vết của con người sinh sống.
Lữ Cánh Nam nói: “Chỗ này ở sâu trong núi, rất khó phát hiện được người sinh sống ở đây. Ăn cơm xong mọi người nghỉ ngơi cho tốt, ngày mai còn phải đi hết một ngày đường mới đến đích đó.”
Sau bữa cơm, Lữ Cánh Nam có vẻ rất thần bí kéo Đường Mẫn vào lều, Nhạc Dương tinh mắt đã ngấm ngầm lưu ý, không hiểu ra sao, vì chuyện này trừ trước đến giờ chưa từng xảy ra lần nào. Anh chàng thầm nhủ, có lẽ nào là do giáo quan ghen tuông, muốn nhân lúc hạ trại nghỉ ngơi mà báo thù Đường Mẫn chăng?
Mưa lớn dần, lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân thu dọn các thứ máy móc, cả hai đều chau mày lại. Giáo sư Phương Tân nói: “Độ dốc sườn núi phía Bắc lớn quá, thổ nhưỡng có tính acid yếu, một phần là sa thạch, rất dễ vỡ vụn. Nếu mưa lớn thêm chút nữa, chỉ sợ sẽ có đất đá trôi, hơn nữa chỗ này rừng bách phân bố rất thưa thớt, có lẽ trước đây đã từng xảy ra rồi. Đại sư xem, dời chỗ cắm trại ra phía Tây ba trăm mét liệu có tốt hơn một chút không?”
Lạt ma Á La nói: “Thế nhưng chỗ này đã là nơi bằng phẳng cao nhất trong khu vực gần đây rồi, từ lưng chừng núi xuống đến triền núi, có hai rãnh sâu tạo thành hình chữ bát, có lẽ nếu có đất đá trôi thì sẽ trôi qua hai bên trái phải của chúng ta mới đúng. Nếu dịch sang phía Tây, chẳng phải là chúng ta sẽ ở giữa quần thể thụ tán kia hay sao?
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Nói chuyện với Cánh Nam, nghe ý kiến của cô ấy thế nào đã.”
Trong lều, Đường Mẫn ngạc nhiên hỏi: “Có chuyện gì vậy, giáo quan?”
Lữ Cánh Nam ngần ngừ do dự một lúc, rồi mới miễn cưỡng nói: “Mẫn Mẫn, có thể nhờ cô giúp tôi một chuyện nhỏ không?”
Đường Mẫn nói: “Hả?”
Lữ Cánh Nam nói: “Là… là thế này, cúc áo lót của tôi không hiểu sao lại kẹt cứng lại, tôi không cởi ra được, cứ côm côm ở lưng thế nào ấy, tôi muốn nhờ cô…”
Đường Mẫn nói: “Chậc, tôi còn tưởng là vấn đề gì lớn lắm chứ, nào, để tôi giúp cô cởi áo ngoài ra đã…”
Đang chuẩn bị đứng lên, chợt nghe lạt ma Á La ở bên ngoài lều hỏi: “Có thể vào được không?”
“À… được ạ, mời đại sư vào.”
Lạt ma Á La vào trong lều, nói với Lữ Cánh Nam: “Theo kết quả quan sát của bọn Trác Mộc Cường Ba, và kết quả trắc định thổ nhưỡng của chúng tôi, nếu trận mưa này tiếp tục, chúng ta cần phải đề phòng có đất đá trôi.”
Lữ Cánh Nam nói: “Ừm, tôi biết rồi. Lúc bắt đầu cắm trại, tôi đã chọn kỹ rồi, nhìn thế núi này, nếu xảy ra đất đá trôi, chắc là sẽ xối qua hai bên chúng ta thôi. Nếu đại sư đã nói thế, tôi nay phái người trực đem đi, lưu ý quan sát cẩn thận, như vậy là cũng tương đối ổn thỏa rồi.”
Lạt ma Á La đưa mắt nhìn vẻ mặt kỳ quái của Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn, gật đầu bước ra. Mới đi được không xa mấy, đã thấy Nhạc Dương làm bộ thần bí chạy tới, hỏi: “Đại sư, hai người bọn họ trong ấy không có chuyện gì chứ?”
Lạt ma Á La nói: “Chuyện gì là sao?”
Nhạc Dương nói: “Chỉ là tôi hơi ngạc nhiên, trước đây chưa từng thấy giáo quan và cô Mẫn Mẫn thân thiết với nhau như vậy, hôm nay cô Mẫn Mẫn sợ dây thừng làm chậm trễ hành trình của chúng ta, tôi sợ giáo quan sẽ…”
Lạt ma Á La mỉm cười nói: “Giáo quan Cánh Nam không nhỏ nhen như vậy đâu. Ừm, có điều nghe cậu nói, vừa rồi tôi ở trong lều thấy nét mặt hai người bọn họ, cũng hơi kỳ quái thật.”
——————————–
1 Một vùng thuộc tỉnh Kashmir của Ấn Độ.
2 Đoạn này tác giả viết không rõ ràng, dịch giả trung thành với nguyên tác – (ND)
3 Bào Đinh là một đầu bếp rất giỏi nghề mổ trâu, ông chỉ cần một đường dao là đã có thể mổ phanh cả con trâu ra. (Nam Hoa Kinh, Trang Tử).
4 Địa hình nơi có con sông chảy qua khe hẹp giữa hai ngọn núi.