Lữ Cánh Nam nhìn Trác Mộc Cường Ba ngần ngừ do dự, lại nhắc nhở lần nữa: “Nếu giờ muốn rút lui thì vẫn chưa muộn đâu.”
Trác Mộc Cường Ba đứng phắt dậy nói: “Ai bảo rút lui chứ? Ai bảo muốn rút lui chứ?”
Lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân đưa mắt nhìn nhau cười cười. Tính cách của Trác Mộc Cường Ba quả thực quá dễ nhìn thấu, gần như ai cũng biết nhược điểm của gã ở đâu.
Giáo sư Phương Tân thầm nhủ: “Cái cô Lữ Cánh Nam này giỏi thuật công tâm thật, trước tiên dùng một đống số liệu làm Cường Ba đầu váng mắt hoa, sau đó lại dùng tư liệu làm mồi nhử, từng chút từng chút hút lấy hứng thú của Trác Mộc Cường Ba. Giờ thì tình thế đã đảo ngược rồi. Vốn là định dạo rút lui để uy hiếp đối phương, giờ thì… Có điều, Cường Ba không phải người dễ chịu thua, tiếp tục hợp tác không biết sẽ xảy ra chuyện gì nữa.”
Lữ Cánh Nam nói: “Tốt lắm, nếu anh đã không muốn rút lui, và nếu không có vấn đề gì khác nữa, theo như tôi nói hôm qua, có phải là nên đưa bản tổng kết của anh cho tôi xem rồi không?”
Trác Mộc Cường Ba ngẩng cao đầu ưỡn ngực lên: “Chưa viết!”
Lữ Cánh Nam nói: “Vậy thì, tôi đã nói là…”
Trác Mộc Cường Ba thẳng thắn đáp: “Phạt chép một vạn lần thôi mà, không vấn đề. Tôi đi chép một vạn lần là xong.”
Lữ Cánh Nam vân vê cây bút trên tay, gật gật đầu nói: “Vậy thì đi làm đi. Sau khi ra khỏi đây anh có thể đem chuyện này đi nói rõ đầu đuôi với mọi người, vì đằng nào thì cũng kết thúc rồi. Tới lúc thích hợp, tôi sẽ đích thân nói một tiếng xin lỗi. Có điều, khuyết điểm của mọi người thì vẫn là khuyết điểm, đã hiểu chưa?”
Trác Mộc Cường Ba chỉ hai chồng tư liệu trên bàn, ngần ngừ hỏi: “Vậy, còn…tư liệu thì sao?”
Lữ Cánh Nam giờ mới nói hẳn ra: “Còn nhớ trước khi tới châu Mỹ, anh đến phòng làm việc của tôi làm toáng lên bao nhiêu lần không? Lúc đó tôi đã giải thích với anh thế nào? Không phải là không cho mọi người số tư liệu này, mà là thực lực hiện nay của mọi người không đạt yêu cầu của tôi đặt ra. Nếu anh tự nhận thấy sau khi xem qua số tư liệu này, anh vẫn có thể khắc chế mình không đi tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, thì anh cứ lấy đi, chẳng sao cả. Thực ra, căn bản không có cái gì gọi là lệnh của cấp trên. Ở đây, tôi chính là chỉ huy tối cao. Tôi đã nói rồi, tôi huấn luyện mọi người như vậy, không phải vì mọi người có thể tìm kiếm ra cái gì đó cho đất nước, mà chỉ là để mọi người có thể sống sót, bất kể là ở nơi nào, bất kể là trong hoàn cảnh nào cũng đều có thể sống sót! Nhưng anh một mực không hiểu được dụng ý của tôi, nếu cứ nằng nặc muốn xem những tư liệu này, anh cứ lấy đi. Có điều từ sau trở đi, không bao giờ còn có tư liệu gì xuất hiện trước mặt anh nữa đâu…” Nói đoạn, vẻ mặt Lữ Cánh Nam như thể đang hận không thể rèn thành sắt thép, trong mắt toát lên vẻ thất vọng vô cùng, ánh nhìn cũng dịch dần khỏi người Trác Mộc Cường Ba, hướng xuống mặt bàn.
Gian phòng chìm vào yên lặng trong giây lát. Trác Mộc Cường Ba nhìn nét mặt Lữ Cánh Nam, đột nhiên cảm thấy những gì cô nói dường như rất có lý, dường như cô thật sự đang nghĩ cho bọn gã. Ếch ngồi đáy giếng, chưa học bò đã muốn chạy rồi, đây chính là điều Lữ Cánh Nam muốn nói chăng? Nhưng mà… Trác Mộc Cường Ba nhìn chồng tư liệu dày cộp trước mặt, thật tình không nỡ, gã lắc đầu rồi quả quyết, sau khi trở nên mạnh mẽ hơn, gã mới trở lại đây xem tư liệu, tới lúc ấy nhất định phải khiến Lữ Cánh Nam không còn gì để nói nữa. Gã lại đưa mắt nhìn sang giáo sư Phương Tân, trong lòng chán chường thầm nhủ: “Tại sao kết quả cuối cùng vẫn là chép một vạn lần bản tổng kết vậy? Mục đích chúng ta đến đây không phải là vì cái thứ này hay sao?”
“Được, tôi biết rồi, tôi sẽ cố gắng hoàn thành kế hoạch huấn luyện cô đặt ra trong thời gian sớm nhất, tạm thời không hỏi đến số tư liệu này nữa.” Nói đoạn, liền quay người đi ra.
Nghe câu trả lời “khẩu thị tâm phi” của Trác Mộc Cường Ba, khóe mắt Lữ Cánh Nam hiện ra một nét cười cười không dễ gì nhận ra được, chỉ thoáng cái đã biến mất. Cô cất tiếng: “Đợi chút đã.” Vừa nói, Lữ Cánh Nam vừa rút ra một tập tư liệu, “Tối qua sau khi anh đưa ra vấn đề này, tôi cũng đã suy nghĩ rất lâu. Chính xác, không công khai tư liệu gì thì thật bất công với mọi người. Vì vậy, tôi đã tốn mất thời gian một đêm, chọn lựa ra một phần. Đây là những tư liệu trước mắt mọi người nên biết, sẽ rất có ích cho việc tìm hiểu lịch sử Cổ Cách và một số chuyện liên quan tới Bạc Ba La nữa, anh có thể mang đi.”
Trác Mộc Cường Ba lập tức đổi buồn làm vui, điều này gã không hề nghĩ tới. Giáo sư Phương Tân cố nhịn cười, không ngờ Lữ Cánh Nam cũng dùng phương pháp vừa đánh vừa xoa hết sức điển hình này. Cường Ba ơi là Cường Ba, đụng phải cô nàng Lữ Cánh Nam này, ngày tháng về sau của cậu…
Trác Mộc Cường Ba ôm tư liệu lên, đột nhiên nói: “Còn nữa, cả tấm bản đồ nữa, không phải cô đã nói sẽ cho tôi biết chuyện tấm bản đồ nữa, không phải cô đã nói sẽ cho tôi biết chuyện tấm bản đồ hay sao?”
Lữ Cánh Nam gật đầu: “À, đúng thế, thực ra trong các tư liệu kia cũng có rồi, nhưng mà, tôi vẫn cứ nói qua một chút vậy. Chuyện về tấm bản đồ này, phải bắt đầu kể từ năm 1844, trong đó có một nhân vật rất quan trọng, ông ta tên là Henry Morton Stanley…”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm, chúng tôi cũng biết người này.”
Lữ Cánh Nam ra hiệu cho gã chớ nôn nóng: “Người biết chân tướng sự việc này không hề nhiều. Anh có biết rằng vào năm 1843, Stanly gần như còn không biết trên thế giới này có một cao nguyên tên là Thanh Tạng. Vào thời của họ, nội dung được quan tâm nhiều nhất chính là… Maya! Năm 1842, khi nhà khoa học đầu tiên khảo sát văn minh Maya, Stevenson ra tác phẩm nổi tiếng Trung Mỹ – ký sự Sebastian và Yucatan, phong trào thám hiểm Maya trở nên hừng hực khắp toàn cầu. Cuốn sách đó được dịch sang mười bảy thứ tiếng, trong một năm tái bản bảy lần, sau đó tổng cộng đã tái bản mấy chục lần, trở thành cuốn sách bán chạy nhất thế kỷ mười chín, làm cho các nhà thám hiểm trên thế giới đều nhiệt huyết phừng phừng, vô số nhà thám hiểm đều khao khát được đến rừng rậm nhiệt đới, tìm kiếm những di tích hùng vĩ khuất lấp dưới rừng cây. Khi khảo sát ở Trung Mỹ, Stanley là người đầu tiên đưa ra luận đề “người Maya từ châu Á di cư tới đây”. Để chứng thực quan điểm của mình là chính xác, ông ta mới đến châu Á, và lên bờ ở bán đảo China. Thế nhưng, trên đường ông ta đã gặp phải một bước ngoặt lớn trong đời. Từ miệng một nghệ nhân hát rong kể chuyện, Stanley biết được một nơi gọi là Bạc Ba La thần miếu. Cũng chính từ giờ khắc đó trở đi, tòa miếu của nhà Phật ấy trở thành mục tiêu cả đời Stanley khát khao theo đuổi.”
Trác Mộc Cường Ba thắc mắc: “Nhưng không phải năm 1844, ông ta đã mất tích ở Đại Tuyết sơn hay sao?”
Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Sai rồi, năm 1844 chỉ là bắt đầu. Stanley không hề mất tích trong núi, chết ở Đại Tuyết sơn là chuyện của mười mấy năm sau. Sự kiện năm 1844 chỉ là Stanley bắt đầu cố ý che giấu hành tung của mình. Ông ta không muốn bị báo chí viết về mình nữa, nhưng vẫn bí mật kiên trì không ngừng nghỉ tìm kiếm, hơn nữa thu hoạch cũng rất phong phú. Nghe đồn, với số bảo vật chuyển về nước Anh, ông đủ sức mua lại cả đất nước này. Những thứ đó, đều chuyển từ Tây Tạng đi cả.”
Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc kêu lên: “Ông ta đã tìm thấy rồi?”
Lữ Cánh Nam lắc đầu đáp: “Không, cho đến hết đời ông ta cũng không tìm thấy. Chẳng qua là trong quá trình tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, ông ta không ngừng đào bới các di tích và kiến trúc cổ, mang trân châu, vàng bạc nhiều như lông trâu không ngừng chuyển về nước Anh. Nhưng đồng thời, đào bới được càng nhiều kiến trúc và di tích cổ, ông ta lại càng kỳ vọng nhiều hơn vào Bạc Ba La thần miếu. Một người bạn thân của Stanley đã ghi thế này trong cuốn sổ ghi chép của mình, “Tôi hỏi Stanley, anh ta đã có tài sản tiêu mấy đời cũng không hết rồi, tại sao vẫn ủ rũ không vui, vẫn muốn đến cái nơi bất cứ lúc nào cũng có thể mất mạng kia. Stanley lần nào cũng chỉ lắc đầu thở dài, cứ lẩm bẩm, Tôi chưa tìm thấy, tôi vẫn còn thiếu một số đầu mối, tôi chưa tìm thấy nó. Điều tôi đang làm bây giờ, chẳng qua cũng chỉ là mang cát bên bờ biển về thôi, còn ngọc trai, thì vẫn bị chôn lấp dưới đó.” Theo tự liệu của chúng tôi, Stanley có lẽ chết trong khu vực Đại Tuyết sơn ở Tây Tạng vào khoảng năm 1860 đến năm 1870. Lần đó, ông ta có mang theo bản đồ.”
Trác Mộc Cường Ba nôn nóng hỏi: “Tấm bản đồ ấy về sau sao lại rơi vào tay người Anh được?”
Lữ Cánh Nam mỉm cười gật gật đầu: “Đáng lẽ Stanley đã vĩnh viễn chôn vùi tấm bản đồ kia ở Tây Tạng. Nhưng năm 1914, ông Michael đại biểu chính phủ Anh phân giới tuyến cho Tây Tạng và Ấn Độ. Trên đường đo đạc giới tuyến, ông ta vô tình phát hiện ra lều bạt và thi thể của Stanley vốn đã bị băng tuyết chôn vùi. Còn về việc họ lấy được những gì trong đống di vật của Stanley thì chúng tôi cũng không thể biết được. Sự việc về sau tương đối phức tạp. Nghe nói chính xác bấy giờ có tìm được một tấm bản đồ, và đã bị chính phủ Anh coi là bí mật tối cao rồi cất giấu đi. Nhưng không lâu sau đó, đại chiến Thế giới lần thứ nhất bùng nổ, tấm bản đồ thần bí ấy cũng theo đó mà biến mất. Nghe đồn người giữ tấm bản đồ đã dựa vào ký ức vẽ lại một tấm khác. Người Anh căn cứ theo tấm bẩn đồ vẽ bằng trí nhớ này phán đoán rằng Bạc Ba La thần miếu hình như ở gần đỉnh núi cao nhất của dãy Himalaya, đỉnh Chomolungma. Từ năm 1921 đến năm 1938, người Anh đã độc lập tổ chức bảy lần thám hiểm đỉnh Chomolungma, nhưng không tìm được đầu mối gì. Cho tới năm 1938, nghe đồn tấm bản đồ gốc lọt vào tay đảng Nazi, tuy rằng chuyện này không hề có chứng cớ nào xác thực. Nhưng từ năm 1939 đến năm 1942, Hitler đã hai lần hạ lệnh cho trợ thủ đắc lực nhất của mình là Himler đích thân tổ chức hai nhóm thám hiểm đi sâu vào đất Tây Tạng, đây là sự thực mười mươi. Còn rốt cuộc bọn chúng tìm kiếm tổ tiên của người German hay là có mục đích gì khác, chúng ta không thể nào biết được. Chuyện xảy ra sau này, có lẽ mọi người đều biết một chút. Trong trận Berlin kết thúc Thế chiến II, lúc đầu vốn định sẵn kế hoạch hoàn chỉnh là vây công tiêu diệt, nhưng quân Mỹ và quân Nga đều liều chết tấn công vào trong thành, cuối cùng đã chia đôi Berlin, mục đích thực sự của họ, dường như cũng vì tấm bản đồ đó. Theo tin tức chúng tôi nhận được, trong lúc họ đang tranh giành một nhà khoa học nghiên cứu phát triển bom nguyên tử, đã vô tình nghe được thông tin liên quan tới bản đồ, còn rốt cuộc đó là thông tin gì, thì chúng tôi cũng không biết. Nhưng chính thông tin ấy đã khiến quan hệ đồng minh xuất hiện xung đột lợi ích trực tiếp. Sau thì cả Liên Xô và Mỹ đều tranh nhau đến Tây Tạng, Trung Quốc. Cho đến tận bây giờ, họ vẫn chưa dừng bước. Có điều từ bấy đến nay, những người đi theo tấm bản đồ này tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu đều không sống sót trở về. Nghe đâu, giờ đây nó được gọi là bản đồ chỉ đường đến chỗ chết.”
Trác Mộc Cường Ba yên lặng nghe hết, thấy cũng tương tự như nội dung giáo sư Phương Tân điều tra được trước đó, chỉ là tường tận hơn một chút. Lữ Cánh Nam lại nói: “Được rồi, những điều anh muốn biết, tôi đã nói cho anh hết cả rồi, giờ anh có thể đi làm chuyện cần làm kia đi.”
Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân vừa đi khỏi, nét mặt Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La đều biến đổi. Lữ Cánh Nam đặt tay dọc đường chỉ quần, đứng thẳng lưng, hơi cúi đầu hỏi: “Con xử lý như vậy đã được chưa, đại nhân?”
Lạt ma Á La hiền từ nói: “Cũng chỉ có thể như vậy thôi, Cường Ba thiếu gia vẫn hoàn toàn chưa hay biết gì về toàn bộ sự việc, cứ để cậu ấy giữ nguyên hiện trạng đi, để cậu ấy tiếp tục lấy chó ngao làm mục đích, như thế, đối với chúng ta, đối với cậu ấy, đều có lợi cả.” Lạt ma Á La thầm nhủ: “Cường Ba thiếu gia, đây chính là số mệnh của cậu, muốn thoát ra cũng không thoát nổi…”
Ra khỏi cửa phòng, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Đúng rồi, thầy giáo, không phải thầy đã quay phim toàn bộ hành trình trong địa cung của chúng ta hay sao?”
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Ừm, đúng vậy, ngoài lúc ở dưới nước không thể quay chụp, những nơi khác đều có ghi chép, giờ đã trao hết cho họ nghiên cứu rồi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng mà…” Gã nhìn tập tư liệu trong tay, trong đó dường như không có thứ nào giống như đĩa CD cả.
“Yên tâm, tôi có chuẩn bị riêng rồi.” Ánh mắt giáo sư trở nên sâu sắc: “Dù sao cũng là thứ phải dùng mạng đổi về. Hơn nữa các thứ trong đó, không có một năm nửa năm thì không nghiên cứu ra được gì đâu. Thu hoạch hôm nay thực ra cũng không tệ, ít nhất chúng ta cũng biết được phương hướng một đầu mối rõ rệt nhất mà lại bị chúng ta bỏ sót.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Thầy muốn nói đến Cổ Cách?”
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Ừm, mặc dù nói tôi không biết rõ lịch sử Cổ Cách cho lắm, nhưng tôi vẫn biết một ít về cái vương triều đã tiêu vong ấy. Trong khi nghiên cứu về Bạc Ba La thần miếu, chúng ta chỉ chú trọng đến điều tra nguồn gốc và tính thực của nó, ngược lại bỏ quên mất quá trình tìm kiếm đầu mối của Stanley.”
Trác Mộc Cường Ba nhìn ông với ánh mắt thắc mắc, giáo sư Phương Tân liền mỉm cười nói: “Sử thi A Lý vương, A Lý vương, không phải là Cổ Cách vương hay sao? Hơn nữa tôi nhớ Lữ Cánh Nam nói vương triều Cổ Cách đến tận thế kỷ mười bảy mới bị diệt vong. Thời đại mà Stanley điều tra về Bạc Ba La thần miếu chỉ cách thời gian Cổ Cách vương triều bị tiêu diệt có hơn hai trăm năm, những nghệ nhân hát nói truyền miệng kia hoàn toàn có thể nhớ được một lượng lớn nội dung liên quan tới sử thi Cổ Cách.”
Nghe giáo sư Phương Tân nhắc nhở, Trác Mộc Cường Ba cũng sực nhớ ra. Gã thốt lên một tiếng: “Ái cha, tôi thật ngu quá, thầy giáo, đáng lẽ tôi cũng phải nghĩ tới rồi chứ, chẳng phải đã nói tiền thân của vương triều Cổ Cách chính là vương triều Tượng Hùng hay sao? Vương triều Tượng Hùng chính là nơi chiến ngao sinh ra. Thầy giáo cũng từng nói, tất cả các sự kiện lịch sử đều có liên quan đến nhau cả. Tôi đúng là hồ đồ, tại sao lúc nãy không nghĩ ra chứ.”
Giáo sư Phương Tân thoáng ngẩn người, bản thân ông cũng từng tranh luận với Trác Mộc Cường Ba về vấn đề vùng đất sinh ra chiến ngao. Dựa vào các tư liệu mà giáo sư Phương Tân đang có trong tay, ngoại trừ các vùng nổi tiếng về chó ngao như Hà Khúc, Đảng Hạng, Ngọc Thụ, khắp cao nguyên Thanh Tạng rải rác những giống ngao của riêng từng vùng cùng với các truyền thuyết liên quan đến chó ngao nữa. Nhưng trong những truyền thuyết mà ông đã khảo sát, chưa từng nghe nhắc đến chó ngao Tượng Hùng bao giờ. Có lẽ nó đã bị lịch sử hoàn toàn nuốt chửng, hoặc có khả năng đã bị đại kim điêu trong tín ngưỡng của người Tượng Hùng che khuất, cũng có thể ở đó không hề có chó ngao. Giáo sư Phương Tân có phần nghiêng về giả thuyết cuối cùng hơn, bởi vì ông từng đến Trát Đạt, ở đó toàn đất là đất, cát bay đá chạy, nhìn chẳng khác gì vùng biển chết La Bố Bạc 1 cả. Theo như một đồng nghiệp của ông, thì đó là một nơi đến cỏ cũng chẳng thể mọc được, nên rốt cuộc con người bỏ đi hết, vô số pháo đài nằm giữa vùng đồi gò đều trở thành những pháo đài chết, trống rỗng. Mặc dù giáo sư Phương Tân cũng biết vương triều Cổ Cách bị diệt vong bởi một trận chiến, song ông cũng cho rằng người đồng nghiệp của mình nói rất có lý, hoàn cảnh tự nhiên ác nghiệt nơi đây có lẽ mới là nguyên nhân thật sự các thành bang trở nên hoang phế sau chiến tranh như vậy.
Thế nhưng, khi Trác Mộc Cường Ba tràn trề hứng khởi nói với giáo sư rằng Tượng Hùng là nơi sinh ra chiến ngao trong truyền thuyết, giáo sư Phương Tân ngẩn người ra ngay từ câu đầu tiên: “Thầy giáo, thầy có biết không, hai ngàn năm trước, Tượng Hùng là một nơi vô cùng tươi đẹp, đất đai màu mỡ, cây cối um tùm, hồ và biển điểm xuyết trên khắp cả vương quốc như những vì sao trên trời. Chỗ chúng tôi có một truyền thuyết, nói rằng chính vùng đất tuyệt đẹp ấy là nơi chiến ngao lần đầu bước chân lên vũ đài lịch sử…”
Về truyền thuyết chiến ngao, Trác Mộc Cường Ba đã mở đầu bằng một câu như thế. Từ khi còn rất nhỏ gã đã nghe một ông già trong làng kể rồi, nhưng đến khi gã thực sự muốn tìm hiểu truyền thuyết về vùng đất sinh ra chiến ngao này, ông già kia đã qua đời từ lâu. Vì vậy, Trác Mộc Cường Ba cũng không biết tại sao lại bảo Tượng Hùng là nơi sản sinh ra chiến ngao. Giáo sư Phương Tân cho rằng gã nhớ nhầm, hai người vì chuyện này mà tranh luận mãi không ra được kết quả gì.
Giáo sư Phương Tân lắc lắc đầu, đây lại là một truyền thuyết vĩnh viễn không thể nào xác định được. Ông nói với Trác Mộc Cường Ba: “Để tôi nghiên cứu đống tư liệu này thật kỹ đã. Trong đây nhất định có thể tìm được những thứ hữu dụng cho chúng ta.”
Mật tu (1)
Trác Mộc Cường Ba đưa tư liệu cho giáo sư Phương Tân, rồi hỏi: “Thầy giáo, lần này trở về, tôi cứ cảm thấy có gì đó không ổn, nhưng lại không biết là chuyện gì không ổn, thầy có thể giải thích được không?”
Giáo sư Phương Tân hiền từ vỗ nhẹ lên vai gã, nói: “Tôi biết tâm trạng hiện tại của cậu như thế nào rồi. Trong lòng cậu đang chất chứa nghi hoặc đấy thôi.”
Trác Mộc Cường Ba thở dài: “Đúng vậy, toàn bộ sự việc này đã trở nên hoàn toàn khác hẳn những gì tôi nghĩ lúc ban đầu. Trở về từ châu Mỹ, tôi cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Sao lại như vậy nhỉ?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Bởi vì vai trò của cậu đã biến chuyển. Từ khi cậu cầm tấm ảnh kia đến tìm tôi, tất cả đều là chúng ta tự thăm dò, phát hiện, tìm kiếm. Thế nhưng, kể từ khi tôi và cậu gia nhập đội ngũ được huấn luyện đặc biệt này, vai trò của cậu đã từ chủ động biến thành bị động. Từ đó đến giờ chúng ta đều tiếp nhận những bài huấn luyện với độ khó rất cao, còn việc tìm kiếm phát hiện Bạc Ba La thần miếu ở đâu đã giao hết cho người khác thực hiện. Chúng ta chỉ là một phần tử trong cả cái tổ chức này, cũng giống như Trương Lập, Nhạc Dương, Ba Tang và cả Mẫn Mẫn nữa, đồng thời quyền quyết sách và quyền chủ động đã chấm dứt không còn nằm trong tay cậu nữa rồi. Có rất nhiều chuyện bọn họ không hề nói cho chúng ta biết, như vậy, chúng ta lại càng bị động hơn, cảm giác như thể mình là con rối bị người khác điều khiển trong tay vậy. Chẳng hạn lấy hành động trong rừng nguyên sinh lần này làm ví dụ, nếu cậu không bảo tôi, thì tôi cũng không khác gì cậu, đi hết cả hành trình cũng không biết được mục đích thật sự của chuyến đi, cảm thấy ù ù cạc cạc không hiểu gì hết.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Giờ còn đỡ, cô ta đã nói hết với chúng ta rồi.”
Giáo sư Phương Tân ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt rất diễn cảm: “Vậy cậu cho rằng cậu đã nghe được những gì rồi?” Giáo sư vỗ vỗ lên đống tư liệu, “Cậu nghĩ rằng đống tư liệu này, tính luôn cả phần cậu không lấy được kia, có bao nhiêu phần trăm là không thể tìm được trên Internet? Còn thứ chúng ta thực sự cần phải biết, là Cổ Cách kim thư và thông tin trong trục quyển, cô Lữ Cánh Nam đó nói được bao nhiêu? Thực ra, cậu ở trên thương trường nhiều năm như vậy rồi, chắc cũng phải hiểu được điểm này chứ, lòng người khó dò, đặc biệt là một nhóm như chúng ta đây, muốn tiếp xúc với bí mật tầm cỡ như Bạc Ba La thần miếu, tôi có thể khẳng định là họ vẫn giữ thái độ hoài nghi một cách một cách thiện ý với tất cả các thành viên trong nhóm chúng ta. Đối với bất cứ ai cũng không thể tin hoàn toàn, nhưng cũng không thể không tin, quan hệ giữa người với người chính là như vậy đó, không giống như thái độ xử sự lúc bình thường của cậu đâu. Cậu quá dễ dàng tín nhiệm một người nào đó, đây chính là nhược điểm lớn của cậu đấy, Cường Ba à.”
Trác Mộc Cường Ba buồn bực nói: “Nhưng mà, tôi vẫn cho rằng nếu đã để chúng ta tham gia vào tập thể này, ít nhiều họ cũng sẽ cho chúng ta biết một số chuyện. Không phải vậy sao? Nếu nghi ngờ hiềm kỵ cả chúng ta, vậy thì làm sao chúng ta có thể đạt được yêu cầu và mục đích của họ chứ? Tôi nhớ Sean đã từng nói, trong hoàn cảnh hiểm nguy, con người cần phải liều mạng vì nhau thì mới sống sót được, nếu tất cả cứ khư khưu giữ lấy mạng mình, mọi người bó chặt lại với nhau, rồi cuối cùng chẳng ai sống sót nổi đâu.”
Giáo sư Phương Tân lắc đầu: “Trong hoàn cảnh hiểm nguy thì như vậy, nhưng mà, sau khi ra khỏi hiểm cảnh thì sao chứ? Con người, ai chẳng có tâm tư, giống như nhóm chúng ta vậy, cậu, muốn tìm Tử Kỳ Lân, còn bọn họ, muốn tìm Bạc Ba La thần miếu, mục đích hai bên khác nhau, song phương hướng thì tương đồng, vì vậy nên mới đi cùng với nhau. Nếu nói ở khu vực phụ cận Bạc Ba La thần miếu không thể tìm được Tử Kỳ Lân, hoặc là nơi có Tử Kỳ Lân không thể nào có Bạc Ba La thần miếu, vậy thì, cậu và họ có đi chung một đường nữa hay không?”
Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: “Vậy thì bây giờ phải làm sao? Tôi cảm thấy thực sự rất khó chịu.”
Giáo sư Phương Tân chân thành nói: “Lòng người, thảy đều hướng về cái thiện cả, nếu cậu không thể phán đoán một người là tốt hay xấu, vậy thì hãy thử tin ở bọn họ đi, trừ phi họ thực sự gây những chuyện vô cùng bất lợi với cậu. Xét tình hình trước mắt, với tư liệu chúng ta nắm trong tay và năng lực của cả nhóm, đích thực là không đủ để tìm kiếm Tử Kỳ Lân. Vì vậy, điều chúng ta nên làm lúc này, chính là học hỏi nhiều hơn, quan sát nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn. Ít nhất giờ chúng ta cũng đã biết rằng cso một nhóm người chuyên nghiệp cung cấp cho chúng ta những nguồn tin nhanh nhạy nhất, đáng tin cậy nhất, có sự giúp đỡ này của họ, chúng ta sẽ giống như đứng trên vai người khổng lồ thu thập thông tin vậy, tiến lên trên con đường đã được người đi trước lát sẵn gạch đá, chuyện này chỉ có lợi chứ không có hại. Thực ra, từ lúc gia nhập vào nhóm huấn luyện đặc biệt này, có hai chuyện đã nằm ngoài dự liệu của tôi. Thứ nhất, chính là tôi không ngờ cậu lại đáp ứng nhanh và dễ dàng như vậy, mà tôi còn cho rằng nếu cậu đã đáp ứng, vậy thì chắc cũng biết sau đó cục diện sẽ như thế nào, giờ xem ra thì lúc ấy cậu cũng không suy nghĩ nhiều đến thế. Thứ hai, tôi không ngờ nhà nước ta lại chấp thuận chuyện này nhanh như vậy, giờ nghĩ lại, thì ra đây chỉ là trùng hợp mà thôi, nếu chẳng phải lúc ấy nhà nước cũng có ý này, tài liệu chúng ta trình lên kia, chỉ sợ nửa năm một năm cũng không được xem xét đâu.” Giáo sư Phương Tân vuốt vuốt tóc, trầm ngâm nói tiếp, “Còn nữa, đối với nhóm huấn luyện đặc biệt của chúng ta, tôi luôn có một dự cảm chẳng lành, có lẽ một ngày nào đó… đương nhiên, tốt nhất là ngày ấy đừng bao giờ đến thì hơn.”
Trác Mộc Cường Ba biết, ý giáo sư Phương Tân muốn nói là, có lẽ một ngày nào đó trong tương lai, bọn họ còn chưa đủ khả năng đi tìm Bạc Ba La thần miếu, cái nhóm này đã bất ngờ giải tán rồi, còn bọn họ thì bị đá đít đuổi đi giống như người ta vứt thứ xỉ than vô dụng. Giáo sư Phương Tân lại nói tiếp: “Thế nào thì thế, những thứ học được ở đây chung quy vẫn có ích cho cậu, đợi khi chúng ta thật sự nắm được các kỹ xảo đó, cho dù ngày ấy có đến thật, chúng ta cũng có thể tự mình đi tìm kiếm mà.” Giáo sư ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba, lại giải thích, “Từ khi biết đến Bạc Ba La thần miếu, chúng ta đã chuẩn bị như vậy rồi, chúng ta bắt đầu từ thần miếu trước, tìm một nơi như vậy, so với trực tiếp điều tra về Tử Kỳ Lân thì dễ hơn nhiều, thông tin cũng có được nhiều hơn. Bấy giờ, đã đến lúc thực hiện kế hoạch này rồi đây, tôi sẽ thảo luận với các chuyên gia trong hội nghiên cứu. Tôi nghĩ, sau sự kiện lần này, bọn họ cũng không tiện giấu giếm tất cả thông tin như trước nữa đâu.”
Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Phải rồi, về thông tin liên quan tới tấm bản đồ đó, tôi thấy có vẻ hơi khoa trương quá thì phải. Không hiểu tôi nghe làm sao mà cứ cảm thấy, theo như giáo quan nói, hình như thế chiến I, thế chiến II, rồi chiến tranh Lạnh Xô Mỹ, đều có quan hệ mật thiết với tấm bản đồ ấy, điều này…”
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Đừng nói là cậu, cả tôi cũng không thể hoàn toàn tin tưởng được, quá nửa là nghe sai đồn sai, dẫn đến sau này càng lúc càng khoa trương. Có điều chúng ta cũng có thể nghiên cứu theo hướng này, chẳng hạn như ông Haln gì đó, nếu có thể tìm được bản đồ… Ngoài ra, dựa trên những thông tin hiện nay, Ben Merkin và người của hắn dường như không đơn giản là chỉ tìm kiếm báu vật đâu, với khả năng tài chính của hắn, không cần gì phải mạo hiểm đích thân tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, bên trong nhất định còn có nguyên nhân gì khác.” Ánh mắt giáo sư Phương Tân hiện lên vẻ lạnh lẽo, chậm rãi nói: “Một nguyên nhân, mà chúng ta còn chưa biết…”
Trác Mộc Cường Ba lại không nghĩ vậy, hy vọng tìm được tư liệu về Haln và bản đồ gì gì đó thật quá mong manh, hơn nữa dường như cũng quá xa vời so với mục tiêu của họ. Gã bèn nói lảng sang chủ đề khác: “Đúng rồi, thầy giáo, thầy nói xem, chúng ta tự cho rằng mình đã học được rất nhiều khả năng sinh tồn nơi hoang dã rồi, nhưng tại sao khoảng cách với giáo quan lại vẫn lớn đến thế?”
Giáo sư Phương Tân lắc lắc đầu: “Không biết, có lẽ là cô ấy đã được huấn luyện đặc biệt thế nào đó chăng.”
“Huấn luyện đặc biệt…” Trác Mộc Cường Ba lặp lại hai lần, đột nhiên kêu lên, “A, nhất định là như vậy!”
Khi lạt ma Á La ra khỏi phòng làm việc của Lữ Cánh Nam, ông nhận ra Trác Mộc Cường Ba đang đứng ở bãi tập, vẫy vẫy tay chào mình. Ông liền bước tới, Trác Mộc Cường Ba trực tiếp hỏi luôn: “Đại sư, giáo quan từng tiếp nhận huấn luyện mật tu phải không?”
Lạt ma Á La có chút kinh ngạc, hỏi: “Sao đột nhiên cậu lại nghĩ đến vấn đề này?”
Trác Mộc Cường Ba khẳng định: “Bởi vì trong lần huấn luyện băng rừng nguyên sinh lần này, cá nhân tôi cho rằng một con người bình thường, có huấn luyện thế nào chăng nữa, khả năng chịu đựng và ý chí cũng đủ để một mình vượt qua rừng sâu. Mà tôi còn nhớ tiến sĩ Cổ Tuấn Nhân từng nói, ông ấy chỉ dạy giáo quan một số kỹ năng cơ bản về sinh tồn nơi hoang dã và khảo sát khoa học thôi, khả năng chiến đấu và các bản lĩnh khác của giáo quan là học của danh sư khác, mà đại sư ngài cũng không giống người thường, cộng với thường ngày đại sư và giáo quan tiếp xúc tương đối nhiều, vì vậy tôi cho rằng, giáo quan cũng từng tiếp nhận huấn luyện mật tu giống như đại sư vậy. Có phải thế không? Đại sư Á La?”
Lạt ma Á La ngước mặt lên thở dài: “Cánh Nam là đệ tử do đích thân Chu Cổ đại sư truyền dạy, nếu nghiêm khắc xét bối phận, tôi là sư điệt của cô ấy. Cô ấy là Cách tây2 kiệt xuất nhất trong thế hệ mật tu trẻ tuổi đó.”
Trác Mộc Cường Ba cả mừng, nào biết mật tu phân cấp thế nào, lập tức thành khẩn nói: “Xin hãy cho tôi tiếp nhận huấn luyện mật tu đi, đại sư, tôi có thể chấp nhận bất cứ khảo nghiệm nào.”
“Hả! Cậu ư?” Lạt ma Á La có ung dung đến mấy cũng không khỏi thoáng biến sắc. Đã qua bốn mươi tuổi rồi còn đòi mật tu, xem ra Trác Mộc Cường Ba thiếu gia này chẳng biết gì về mật tu rồi. Lạt ma Á La lấy làm khó xử hỏi, “Cậu có biết mật tu rốt cuộc là thế nào không? Cường Ba thiếu gia?”
Trác Mộc Cường Ba thản nhiên đáp: “Không biết, nhưng tôi biết nó có thể khiến tôi trở nên mạnh mẽ hơn, khiến tôi có khả năng chịu đựng và nghị lực hơn người.”
Lạt ma Á La phì cười thốt lên: “Tất nhiên rồi, khả năng chịu đựng và nghị lực vốn đã là thứ cơ sở nhất của mật tu mà, ừm… nếu Cường Ba thiếu gia có hứng thú với mật tu, tôi có thể cho cậu biết một số việc liên quan đến mật tu. Mật tu tuyển lựa nhân tài hết sức nghiêm khắc, người có tư cách mật tu chúng tôi gọi là Bối Ca, Bối Ca có tư cách tiến hành mật tu. Các tăng nhân Cách Lỗ phái của ba ngôi chùa lớn ở Lhasa cần phải tu hết Ngũ bộ đại luận của Hiển tông 3, hoàn thành khảo hạch mới có thể tiến hành mật tu. Khảo hạch dựa theo đẳng cấp mà chia thành Lạt nhiên ba, Thổ nhiên ba, Lâm trại và Đa nhiên ba (hoặc gọi là Nhật nhiên ba). Bốn đẳng cấp này gọi chung là Cách tây, các tăng nhân đã đạt được học vị Cách tây nếu tiếp tục học tập tại học viện Mật tông, thì gọi là Trác nhân ba, từ đây dần dần tăng lên Cách quả, Ông tắc, Kham bố, Kham tô, Hạ tư khước kiệt hoặc Giáng tư khước kiệt, hai cái sau thuộc về Cam đơn trì ba (giáo chủ của Cách Lỗ phái) sau khi xuất thế có thể luân lưu thăng nhiệm, được hưởng vinh dự tối cao, sau khi chết còn có tư cách làm Hoạt Phật chuyển thế.”
Đây là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba nghe nói, trong mật tu còn có phân biệt đẳng cấp nghiêm khắc như vậy, bèn hỏi: “Vậy đại sư ở đẳng cấp nào?”
Lạt ma Á La mỉm cười: “Nói ra thật hổ thẹn, tôi mật tu đã năm mươi bảy năm, đến giờ vẫn chỉ là Cách quả thôi.”
Trác Mộc Cường Ba ngơ ngẩn xuất thần, Cách quả đã lợi hại như vậy rồi, nếu tu đến Kham bố gì gì đó, vậy thì sẽ thế nào nữa.
Lạt ma Á La nghiêm mặt nói: “Mật tu, thực chất chính là khiêu chiến với cực hạn của bản thân, không ngừng khiêu chiến cực hạn, không ngừng vượt qua chính mình, phát huy ý chí và khả năng chịu đựng đến cực hạn. Nói ra thì có vẻ huyền ảo khó giải thích, thực ra nếu giải thích theo tri thức khoa học hiện đại, chính là thông qua mật tu, để điều chỉnh nội hoàn cảnh, tức môi trường bên trong cơ thể mình.”
Trác Mộc Cường Ba lộ vẻ hoang mang. Lạt ma Á La lại giải thích: “Khác với y học, những người tu luyện mật tu như chúng tôi gọi phần bên trong cơ thể mình là nội hoàn cảnh. Thần kinh con người, đại thể chia thành hai hệ thống lớn, y học hiện đại gọi là thần kinh động vật và thần kinh thực vật. Thần kinh động vật khiến cho ý thức của cậu có thể khống chế các động tác toàn thân, chẳng hạn nói chuyện, động tay động chân, đảo tròng mắt, tất cả những thứ này đều thuộc phạm vi khống chế của thần kinh động vật; còn thần kinh thực vật, lại là hệ thống tự thân của các khí quan trong cơ thể, không chịu sự khống chế của ý chí, chẳng hạn như tim đập, dạ dày tiêu hóa, tiết kích thích tố, bất kể là cậu có ý thức hay vô ý thức, thần kinh thực vật đều đảm bảo cho những khí quan ấy tiếp tục vận hành, chúng khống chế các khí quan trong cơ thể cậu. Trên thực tế, hai hệ thống này không phải hoàn toàn tách rời, chúng liên hệ với nhau để tạo thành một chỉnh thể. Lấy một ví dụ nhé, trong bóng đêm, nếu cảm giác thấy chuyện gì đáng sợ lắm, khi cậu truyền những thông tin về thứ mình nhìn thấy, thứ mình nghe thấy, thứ làn da cảm nhận thấy về đại não, đại não sẽ lập tức khiến cơ thể có phản ứng, thần kinh thực vật bắt đầu vận hành, hormon tuyến thượng thận (adrenalin) sẽ tiết ra nhiều hơn, khiến tim cậu đập nhanh hơn, đồng tử dãn lớn. Đồng tử dãn lớn, là để giúp cậu có thể thu nhận nhiều ánh sáng hơn trong bóng tối, nhìn thấy nhiều thứ hơn; tim đập nhanh hơn, để cho máu tràn đầy dưỡng khí, đưa đến khắp các vị trí toàn thân, khiến cơ bắp của cậu đầy xung lực, bất cứ lúc nào cũng có thể xuất ra một lượng động năng lớn để chạy trốn hoặc phản kháng, thần kinh động vật và thực vật đã điều tiết với nhau như vậy để khiến thân thể cậu có phản ứng tốt nhất trong các môi trường khác nhau.”
Trác Mộc Cường Ba có vẻ nửa hiểu nữa không, lắng nghe rất chăm chú. Lạt ma Á La thở dài nói: “Đáng tiếc, con người lại quá ỷ lại vào thần kinh động vật, mà bỏ mặc cho thần kinh thực vật tư hoạt động, chẳng bao giờ quan tâm đến sự hài hòa giữa các nội quan trong cơ thể, chỉ khi nào gặp vấn đề thì mới đến gặp bác sĩ. Cái gọi là mật tu, chính là thông qua sự biến đổi hoàn cảnh của con người và sự thay đổi hô hấp, mở ra cánh cửa giữa ý thức và thần kinh thực vật, khiến ý thức của cậu có thể trực tiếp khống chế thần kinh thực vật của cậu. Có rất nhiều thứ để tu tâm dưỡng tính, thực ra đều cùng một nguyên lý, chẳng hạn như khí công, yoga, đều thông qua tiếp xúc với tự nhiên và điều chỉnh hô hấp để đạt được mục đích thay đổi nội hoàn cảnh, thông qua cải thiện nội hoàn cảnh mà khiến thân thể đạt được hài hòa bên trong và bên ngoài, tiến đến hoàn thiện, đây mới là khỏe mạnh thực sự. Có rất nhiều người nhìn bề ngoài có vẻ cường tráng, thực ra nội hoàn cảnh lại là một mớ hồ đồ, lúc nào cũng ở trong trạng thái nửa khỏe mạnh mà chính họ cũng không hề hay biết, bất cứ lúc nào cũng có thể bị bệnh tật quấy nhiễu. Bây giờ, cậu hãy làm theo tôi nói, hít vào… tiếp tục hít vào… cảm giác lồng ngực cậu mở rộng, cậu còn hít được nhiều không khí hơn nữa… tiếp tục, không được ngừng… được rồi, nín thở đi… cố lên… cố lên nữa…”
Theo yêu cầu của lạt ma Á La, Trác Mộc Cường Ba hít vào đầy một bụng không khí, nửa phút sau thì bắt đầu đỏ mặt tía tai. Lạt ma Á La lại nói: “Được rồi… giờ bắt đầu thở ra, chầm chậm… chầm chậm thôi… cố gắng giảm tốc độ thở ra của cậu, giống như cảm giác cơn gió nhẹ mùa xuân thổi qua miệng cậu vậy, từ từ thôi, không ngừng…” Trác Mộc Cường Ba vươn cổ ra, thở một cách khó nhọc, cuối cùng cũng không thể gượng được, tắc nghẹn nói: “Tôi sắp, không được rồi!”
Lạt ma Á La lại nói: “Tốt, dùng hết sức lực của cậu, hít mạnh vào một hơi, thở ra nhanh, thở ra nhanh, thở ra toàn bộ thật nhanh. Lại một lần nữa, hít mạnh, lập tức thở ra, được rồi, giờ cậu đã hồi phục lại hô hấp bình thường rồi đấy.” Lạt ma Á La mỉm cười hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Cảm giác lúc này thế nào?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Đầu hơi váng một chút.” Lạt ma Á La lại hỏi: “Còn gì nữa?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Tim đập nhanh hơn!”
Lạt ma Á La nói: “Đây chính là một kỹ thuật căn bản của mật tu, giống như yoga hay khí công vậy, thông qua hít thở khiến nội hoàn cảnh của con người thay đổi. Đương nhiên, thứ tôi vừa dạy cậu không phải thuật Thổ nạp thực sự, chẳng qua chỉ là một ví dụ đơn giản để cậu biết rằng, bằng cách thay đổi thần kinh động vật có thể điều chỉnh thần kinh thực vật đưa ra những thay đổi tương ứng mà thôi, sau này không cần phải thử nữa đâu. Mật tu của chúng tôi, chính là kháng cự lại tất cả những mê hoặc ngoại tại, điều chỉnh thâm tâm tới cảnh giới ý thức có thể khống chế được. Nói một cách đơn giản, chính là học cách khống chế nhịp tim và mạch đập của mình, không chế nhu động dạ dày, khống chế hướng và tốc độ huyết mạch; tu luyện đến trình độ tương đối cao, có thể tự khống chế các khớp xương tách rời hoặc kết hợp, khống chế chất dịch trong cơ thể bài tiết hay hấp thụ, khống chế tất cả các cảm giác mà kích thích bên ngoài gây ra đối với thân thể.”
Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Vậy còn tu luyện tới tầng cao hơn nữa thì sao?”
Lạt ma Á La thoáng giật mình, lẩm bẩm: “Không biết, tôi chỉ nghe nói đến trình độ tương đối cao mà thôi, còn cao hơn nữa… tôi chưa từng nghe đến bao giờ!” Đồng thời ông cũng thầm nhủ: “Hình như mình cũng chưa từng nghĩ đến vấn đề này thì phải, rốt cuộc Cường Ba thiếu gia đang nghĩ gì vậy?”
Trác Mộc Cường Ba mừng rỡ thốt: “Tốt quá rồi, tôi cảm thấy mật tu đúng là hết sức cần thiết với mình đấy.”
Lạt ma Á La nói: “Khí công thổ nạp để dưỡng sinh, giống như quá trình từ dễ đến khó, từ nhẹ đến nặng, dần dà tăng cường rèn luyện cường hóa cơ thể, hòng kháng cự lại bệnh tật, yoga lấy hô hấp để di dưỡng tinh thần, thông qua sự tiếp xúc với tự nhiên của tâm linh khiến lòng người rộng mở, tâm tình vui vẻ, hòng tiêu trừ mệt mỏi, khiến thân thể khó mắc bệnh hơn; còn mật tu chúng tôi, lại thông qua những phương cách tàn khốc, dùng thân xác khiên chiến với tự nhiên không ngừng thay đổi, tựa như một liều thuốc mạnh, hòng một dao cắt hết những nhân tố nguy hiểm dễ gây bệnh tật trong cơ thể đi. Khí công và yoga là những thứ ai cũng luyện được, bởi vì luyện tập chúng đều từ dễ đến phức tạp, tuần tự nhi tiến, luyện được thì dễ, nhưng luyện thành thì khó; còn mật tu lại là thứ không phải người nào cũng có thể luyện được, môn này là dùng thủ đoạn sấm sét, vừa bắt đầu đã thông qua đào thải tự nhiên để lựa chọn người có thể đủ tiêu chuẩn, người nào không đạt yêu cầu, thường thì từ lúc nhập môn chọn lựa đã mắc đầy mình bệnh tật, cả đời cũng khó khỏi, hơn nữa, còn nguy hiểm tới tính mạng nữa. Cho dù có thể vượt qua chọn lựa, các bài huấn luyện sau này cũng đều theo phương thức bậc thang, bất cứ lúc nào cũng có khả năng ngã tan xương nát thịt đấy.”
Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên: “Nguy hiểm thế cơ à?”
Lạt ma Á La nói: “Thần kinh thực vật tuân theo tự nhiên, còn người mật tu chúng tôi, để đạt đến cảnh giới dùng ý thức khống chế thần kinh thực vật, bước đầu tiên phải làm chính là đi ngược lại với tự nhiên, có rất nhiều người không thể vượt qua được cửa này, hậu quả vô cùng đáng sợ. Tôi lấy một ví dụ đơn giản nhé, từng có một thanh niên khỏe mạnh muốn tham gia mật tu, chúng tôi tiến hành khảo nghiệm Ngạ quỷ đạo với anh ta, cậu cũng biết rồi đấy, con người đói thì muốn ăn, đây là một phản ứng sinh lý tự nhiên, cái gọi là Ngạ quỷ đạo, chính là chống lại cơn đói. Ai ngờ được, mới có bốn tiếng đồng hồ, anh ta đã không chịu nổi mà lăn ra chết, mặc dù chúng tôi đã toàn lực cấp cứu, song cuối cùng cũng không thể nào cứu nổi.”
Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc hỏi: “Sao mà thế được? Chống lại cơn đói thì đơn giản thôi mà, dù là người bình thường nhịn ăn bốn năm tiếng đồng hồ cũng không có vấn đề gì lớn mà?”
Lạt ma Á La cười khổ một tiếng: “Cậu cho rằng khảo nghiệm Ngạ quỷ đạo đơn giản như cậu tưởng tượng hay sao?”
——————————–
Chú thích:
1 Lop Nur hay La Bố Bạc là một nhóm các hố, hồ muối nhỏ nằm giữa sa mạc Taklamakan và sa mạc Taklamakan và sa mạc Kuruktag ở phía Đông khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, Trung Quốc. Đây là nơi Trung Quốc thử bom hạt nhân.
2 Cách tây, viết tắt của Cách uy tây liên trong tiếng Tạng, dịch ra thành Thiện trí thức, là một học vị trong hệ thống Tạng truyền Phật giáo.
3 Một trong các tông phái của Phật giáo.
Lữ Cánh Nam nhìn Trác Mộc Cường Ba ngần ngừ do dự, lại nhắc nhở lần nữa: “Nếu giờ muốn rút lui thì vẫn chưa muộn đâu.”
Trác Mộc Cường Ba đứng phắt dậy nói: “Ai bảo rút lui chứ? Ai bảo muốn rút lui chứ?”
Lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân đưa mắt nhìn nhau cười cười. Tính cách của Trác Mộc Cường Ba quả thực quá dễ nhìn thấu, gần như ai cũng biết nhược điểm của gã ở đâu.
Giáo sư Phương Tân thầm nhủ: “Cái cô Lữ Cánh Nam này giỏi thuật công tâm thật, trước tiên dùng một đống số liệu làm Cường Ba đầu váng mắt hoa, sau đó lại dùng tư liệu làm mồi nhử, từng chút từng chút hút lấy hứng thú của Trác Mộc Cường Ba. Giờ thì tình thế đã đảo ngược rồi. Vốn là định dạo rút lui để uy hiếp đối phương, giờ thì… Có điều, Cường Ba không phải người dễ chịu thua, tiếp tục hợp tác không biết sẽ xảy ra chuyện gì nữa.”
Lữ Cánh Nam nói: “Tốt lắm, nếu anh đã không muốn rút lui, và nếu không có vấn đề gì khác nữa, theo như tôi nói hôm qua, có phải là nên đưa bản tổng kết của anh cho tôi xem rồi không?”
Trác Mộc Cường Ba ngẩng cao đầu ưỡn ngực lên: “Chưa viết!”
Lữ Cánh Nam nói: “Vậy thì, tôi đã nói là…”
Trác Mộc Cường Ba thẳng thắn đáp: “Phạt chép một vạn lần thôi mà, không vấn đề. Tôi đi chép một vạn lần là xong.”
Lữ Cánh Nam vân vê cây bút trên tay, gật gật đầu nói: “Vậy thì đi làm đi. Sau khi ra khỏi đây anh có thể đem chuyện này đi nói rõ đầu đuôi với mọi người, vì đằng nào thì cũng kết thúc rồi. Tới lúc thích hợp, tôi sẽ đích thân nói một tiếng xin lỗi. Có điều, khuyết điểm của mọi người thì vẫn là khuyết điểm, đã hiểu chưa?”
Trác Mộc Cường Ba chỉ hai chồng tư liệu trên bàn, ngần ngừ hỏi: “Vậy, còn…tư liệu thì sao?”
Lữ Cánh Nam giờ mới nói hẳn ra: “Còn nhớ trước khi tới châu Mỹ, anh đến phòng làm việc của tôi làm toáng lên bao nhiêu lần không? Lúc đó tôi đã giải thích với anh thế nào? Không phải là không cho mọi người số tư liệu này, mà là thực lực hiện nay của mọi người không đạt yêu cầu của tôi đặt ra. Nếu anh tự nhận thấy sau khi xem qua số tư liệu này, anh vẫn có thể khắc chế mình không đi tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, thì anh cứ lấy đi, chẳng sao cả. Thực ra, căn bản không có cái gì gọi là lệnh của cấp trên. Ở đây, tôi chính là chỉ huy tối cao. Tôi đã nói rồi, tôi huấn luyện mọi người như vậy, không phải vì mọi người có thể tìm kiếm ra cái gì đó cho đất nước, mà chỉ là để mọi người có thể sống sót, bất kể là ở nơi nào, bất kể là trong hoàn cảnh nào cũng đều có thể sống sót! Nhưng anh một mực không hiểu được dụng ý của tôi, nếu cứ nằng nặc muốn xem những tư liệu này, anh cứ lấy đi. Có điều từ sau trở đi, không bao giờ còn có tư liệu gì xuất hiện trước mặt anh nữa đâu…” Nói đoạn, vẻ mặt Lữ Cánh Nam như thể đang hận không thể rèn thành sắt thép, trong mắt toát lên vẻ thất vọng vô cùng, ánh nhìn cũng dịch dần khỏi người Trác Mộc Cường Ba, hướng xuống mặt bàn.
Gian phòng chìm vào yên lặng trong giây lát. Trác Mộc Cường Ba nhìn nét mặt Lữ Cánh Nam, đột nhiên cảm thấy những gì cô nói dường như rất có lý, dường như cô thật sự đang nghĩ cho bọn gã. Ếch ngồi đáy giếng, chưa học bò đã muốn chạy rồi, đây chính là điều Lữ Cánh Nam muốn nói chăng? Nhưng mà… Trác Mộc Cường Ba nhìn chồng tư liệu dày cộp trước mặt, thật tình không nỡ, gã lắc đầu rồi quả quyết, sau khi trở nên mạnh mẽ hơn, gã mới trở lại đây xem tư liệu, tới lúc ấy nhất định phải khiến Lữ Cánh Nam không còn gì để nói nữa. Gã lại đưa mắt nhìn sang giáo sư Phương Tân, trong lòng chán chường thầm nhủ: “Tại sao kết quả cuối cùng vẫn là chép một vạn lần bản tổng kết vậy? Mục đích chúng ta đến đây không phải là vì cái thứ này hay sao?”
“Được, tôi biết rồi, tôi sẽ cố gắng hoàn thành kế hoạch huấn luyện cô đặt ra trong thời gian sớm nhất, tạm thời không hỏi đến số tư liệu này nữa.” Nói đoạn, liền quay người đi ra.
Nghe câu trả lời “khẩu thị tâm phi” của Trác Mộc Cường Ba, khóe mắt Lữ Cánh Nam hiện ra một nét cười cười không dễ gì nhận ra được, chỉ thoáng cái đã biến mất. Cô cất tiếng: “Đợi chút đã.” Vừa nói, Lữ Cánh Nam vừa rút ra một tập tư liệu, “Tối qua sau khi anh đưa ra vấn đề này, tôi cũng đã suy nghĩ rất lâu. Chính xác, không công khai tư liệu gì thì thật bất công với mọi người. Vì vậy, tôi đã tốn mất thời gian một đêm, chọn lựa ra một phần. Đây là những tư liệu trước mắt mọi người nên biết, sẽ rất có ích cho việc tìm hiểu lịch sử Cổ Cách và một số chuyện liên quan tới Bạc Ba La nữa, anh có thể mang đi.”
Trác Mộc Cường Ba lập tức đổi buồn làm vui, điều này gã không hề nghĩ tới. Giáo sư Phương Tân cố nhịn cười, không ngờ Lữ Cánh Nam cũng dùng phương pháp vừa đánh vừa xoa hết sức điển hình này. Cường Ba ơi là Cường Ba, đụng phải cô nàng Lữ Cánh Nam này, ngày tháng về sau của cậu…
Trác Mộc Cường Ba ôm tư liệu lên, đột nhiên nói: “Còn nữa, cả tấm bản đồ nữa, không phải cô đã nói sẽ cho tôi biết chuyện tấm bản đồ nữa, không phải cô đã nói sẽ cho tôi biết chuyện tấm bản đồ hay sao?”
Lữ Cánh Nam gật đầu: “À, đúng thế, thực ra trong các tư liệu kia cũng có rồi, nhưng mà, tôi vẫn cứ nói qua một chút vậy. Chuyện về tấm bản đồ này, phải bắt đầu kể từ năm 1844, trong đó có một nhân vật rất quan trọng, ông ta tên là Henry Morton Stanley…”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm, chúng tôi cũng biết người này.”
Lữ Cánh Nam ra hiệu cho gã chớ nôn nóng: “Người biết chân tướng sự việc này không hề nhiều. Anh có biết rằng vào năm 1843, Stanly gần như còn không biết trên thế giới này có một cao nguyên tên là Thanh Tạng. Vào thời của họ, nội dung được quan tâm nhiều nhất chính là… Maya! Năm 1842, khi nhà khoa học đầu tiên khảo sát văn minh Maya, Stevenson ra tác phẩm nổi tiếng Trung Mỹ – ký sự Sebastian và Yucatan, phong trào thám hiểm Maya trở nên hừng hực khắp toàn cầu. Cuốn sách đó được dịch sang mười bảy thứ tiếng, trong một năm tái bản bảy lần, sau đó tổng cộng đã tái bản mấy chục lần, trở thành cuốn sách bán chạy nhất thế kỷ mười chín, làm cho các nhà thám hiểm trên thế giới đều nhiệt huyết phừng phừng, vô số nhà thám hiểm đều khao khát được đến rừng rậm nhiệt đới, tìm kiếm những di tích hùng vĩ khuất lấp dưới rừng cây. Khi khảo sát ở Trung Mỹ, Stanley là người đầu tiên đưa ra luận đề “người Maya từ châu Á di cư tới đây”. Để chứng thực quan điểm của mình là chính xác, ông ta mới đến châu Á, và lên bờ ở bán đảo China. Thế nhưng, trên đường ông ta đã gặp phải một bước ngoặt lớn trong đời. Từ miệng một nghệ nhân hát rong kể chuyện, Stanley biết được một nơi gọi là Bạc Ba La thần miếu. Cũng chính từ giờ khắc đó trở đi, tòa miếu của nhà Phật ấy trở thành mục tiêu cả đời Stanley khát khao theo đuổi.”
Trác Mộc Cường Ba thắc mắc: “Nhưng không phải năm 1844, ông ta đã mất tích ở Đại Tuyết sơn hay sao?”
Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Sai rồi, năm 1844 chỉ là bắt đầu. Stanley không hề mất tích trong núi, chết ở Đại Tuyết sơn là chuyện của mười mấy năm sau. Sự kiện năm 1844 chỉ là Stanley bắt đầu cố ý che giấu hành tung của mình. Ông ta không muốn bị báo chí viết về mình nữa, nhưng vẫn bí mật kiên trì không ngừng nghỉ tìm kiếm, hơn nữa thu hoạch cũng rất phong phú. Nghe đồn, với số bảo vật chuyển về nước Anh, ông đủ sức mua lại cả đất nước này. Những thứ đó, đều chuyển từ Tây Tạng đi cả.”
Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc kêu lên: “Ông ta đã tìm thấy rồi?”
Lữ Cánh Nam lắc đầu đáp: “Không, cho đến hết đời ông ta cũng không tìm thấy. Chẳng qua là trong quá trình tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, ông ta không ngừng đào bới các di tích và kiến trúc cổ, mang trân châu, vàng bạc nhiều như lông trâu không ngừng chuyển về nước Anh. Nhưng đồng thời, đào bới được càng nhiều kiến trúc và di tích cổ, ông ta lại càng kỳ vọng nhiều hơn vào Bạc Ba La thần miếu. Một người bạn thân của Stanley đã ghi thế này trong cuốn sổ ghi chép của mình, “Tôi hỏi Stanley, anh ta đã có tài sản tiêu mấy đời cũng không hết rồi, tại sao vẫn ủ rũ không vui, vẫn muốn đến cái nơi bất cứ lúc nào cũng có thể mất mạng kia. Stanley lần nào cũng chỉ lắc đầu thở dài, cứ lẩm bẩm, Tôi chưa tìm thấy, tôi vẫn còn thiếu một số đầu mối, tôi chưa tìm thấy nó. Điều tôi đang làm bây giờ, chẳng qua cũng chỉ là mang cát bên bờ biển về thôi, còn ngọc trai, thì vẫn bị chôn lấp dưới đó.” Theo tự liệu của chúng tôi, Stanley có lẽ chết trong khu vực Đại Tuyết sơn ở Tây Tạng vào khoảng năm 1860 đến năm 1870. Lần đó, ông ta có mang theo bản đồ.”
Trác Mộc Cường Ba nôn nóng hỏi: “Tấm bản đồ ấy về sau sao lại rơi vào tay người Anh được?”
Lữ Cánh Nam mỉm cười gật gật đầu: “Đáng lẽ Stanley đã vĩnh viễn chôn vùi tấm bản đồ kia ở Tây Tạng. Nhưng năm 1914, ông Michael đại biểu chính phủ Anh phân giới tuyến cho Tây Tạng và Ấn Độ. Trên đường đo đạc giới tuyến, ông ta vô tình phát hiện ra lều bạt và thi thể của Stanley vốn đã bị băng tuyết chôn vùi. Còn về việc họ lấy được những gì trong đống di vật của Stanley thì chúng tôi cũng không thể biết được. Sự việc về sau tương đối phức tạp. Nghe nói chính xác bấy giờ có tìm được một tấm bản đồ, và đã bị chính phủ Anh coi là bí mật tối cao rồi cất giấu đi. Nhưng không lâu sau đó, đại chiến Thế giới lần thứ nhất bùng nổ, tấm bản đồ thần bí ấy cũng theo đó mà biến mất. Nghe đồn người giữ tấm bản đồ đã dựa vào ký ức vẽ lại một tấm khác. Người Anh căn cứ theo tấm bẩn đồ vẽ bằng trí nhớ này phán đoán rằng Bạc Ba La thần miếu hình như ở gần đỉnh núi cao nhất của dãy Himalaya, đỉnh Chomolungma. Từ năm 1921 đến năm 1938, người Anh đã độc lập tổ chức bảy lần thám hiểm đỉnh Chomolungma, nhưng không tìm được đầu mối gì. Cho tới năm 1938, nghe đồn tấm bản đồ gốc lọt vào tay đảng Nazi, tuy rằng chuyện này không hề có chứng cớ nào xác thực. Nhưng từ năm 1939 đến năm 1942, Hitler đã hai lần hạ lệnh cho trợ thủ đắc lực nhất của mình là Himler đích thân tổ chức hai nhóm thám hiểm đi sâu vào đất Tây Tạng, đây là sự thực mười mươi. Còn rốt cuộc bọn chúng tìm kiếm tổ tiên của người German hay là có mục đích gì khác, chúng ta không thể nào biết được. Chuyện xảy ra sau này, có lẽ mọi người đều biết một chút. Trong trận Berlin kết thúc Thế chiến II, lúc đầu vốn định sẵn kế hoạch hoàn chỉnh là vây công tiêu diệt, nhưng quân Mỹ và quân Nga đều liều chết tấn công vào trong thành, cuối cùng đã chia đôi Berlin, mục đích thực sự của họ, dường như cũng vì tấm bản đồ đó. Theo tin tức chúng tôi nhận được, trong lúc họ đang tranh giành một nhà khoa học nghiên cứu phát triển bom nguyên tử, đã vô tình nghe được thông tin liên quan tới bản đồ, còn rốt cuộc đó là thông tin gì, thì chúng tôi cũng không biết. Nhưng chính thông tin ấy đã khiến quan hệ đồng minh xuất hiện xung đột lợi ích trực tiếp. Sau thì cả Liên Xô và Mỹ đều tranh nhau đến Tây Tạng, Trung Quốc. Cho đến tận bây giờ, họ vẫn chưa dừng bước. Có điều từ bấy đến nay, những người đi theo tấm bản đồ này tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu đều không sống sót trở về. Nghe đâu, giờ đây nó được gọi là bản đồ chỉ đường đến chỗ chết.”
Trác Mộc Cường Ba yên lặng nghe hết, thấy cũng tương tự như nội dung giáo sư Phương Tân điều tra được trước đó, chỉ là tường tận hơn một chút. Lữ Cánh Nam lại nói: “Được rồi, những điều anh muốn biết, tôi đã nói cho anh hết cả rồi, giờ anh có thể đi làm chuyện cần làm kia đi.”
Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân vừa đi khỏi, nét mặt Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La đều biến đổi. Lữ Cánh Nam đặt tay dọc đường chỉ quần, đứng thẳng lưng, hơi cúi đầu hỏi: “Con xử lý như vậy đã được chưa, đại nhân?”
Lạt ma Á La hiền từ nói: “Cũng chỉ có thể như vậy thôi, Cường Ba thiếu gia vẫn hoàn toàn chưa hay biết gì về toàn bộ sự việc, cứ để cậu ấy giữ nguyên hiện trạng đi, để cậu ấy tiếp tục lấy chó ngao làm mục đích, như thế, đối với chúng ta, đối với cậu ấy, đều có lợi cả.” Lạt ma Á La thầm nhủ: “Cường Ba thiếu gia, đây chính là số mệnh của cậu, muốn thoát ra cũng không thoát nổi…”
Ra khỏi cửa phòng, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Đúng rồi, thầy giáo, không phải thầy đã quay phim toàn bộ hành trình trong địa cung của chúng ta hay sao?”
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Ừm, đúng vậy, ngoài lúc ở dưới nước không thể quay chụp, những nơi khác đều có ghi chép, giờ đã trao hết cho họ nghiên cứu rồi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng mà…” Gã nhìn tập tư liệu trong tay, trong đó dường như không có thứ nào giống như đĩa CD cả.
“Yên tâm, tôi có chuẩn bị riêng rồi.” Ánh mắt giáo sư trở nên sâu sắc: “Dù sao cũng là thứ phải dùng mạng đổi về. Hơn nữa các thứ trong đó, không có một năm nửa năm thì không nghiên cứu ra được gì đâu. Thu hoạch hôm nay thực ra cũng không tệ, ít nhất chúng ta cũng biết được phương hướng một đầu mối rõ rệt nhất mà lại bị chúng ta bỏ sót.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Thầy muốn nói đến Cổ Cách?”
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Ừm, mặc dù nói tôi không biết rõ lịch sử Cổ Cách cho lắm, nhưng tôi vẫn biết một ít về cái vương triều đã tiêu vong ấy. Trong khi nghiên cứu về Bạc Ba La thần miếu, chúng ta chỉ chú trọng đến điều tra nguồn gốc và tính thực của nó, ngược lại bỏ quên mất quá trình tìm kiếm đầu mối của Stanley.”
Trác Mộc Cường Ba nhìn ông với ánh mắt thắc mắc, giáo sư Phương Tân liền mỉm cười nói: “Sử thi A Lý vương, A Lý vương, không phải là Cổ Cách vương hay sao? Hơn nữa tôi nhớ Lữ Cánh Nam nói vương triều Cổ Cách đến tận thế kỷ mười bảy mới bị diệt vong. Thời đại mà Stanley điều tra về Bạc Ba La thần miếu chỉ cách thời gian Cổ Cách vương triều bị tiêu diệt có hơn hai trăm năm, những nghệ nhân hát nói truyền miệng kia hoàn toàn có thể nhớ được một lượng lớn nội dung liên quan tới sử thi Cổ Cách.”
Nghe giáo sư Phương Tân nhắc nhở, Trác Mộc Cường Ba cũng sực nhớ ra. Gã thốt lên một tiếng: “Ái cha, tôi thật ngu quá, thầy giáo, đáng lẽ tôi cũng phải nghĩ tới rồi chứ, chẳng phải đã nói tiền thân của vương triều Cổ Cách chính là vương triều Tượng Hùng hay sao? Vương triều Tượng Hùng chính là nơi chiến ngao sinh ra. Thầy giáo cũng từng nói, tất cả các sự kiện lịch sử đều có liên quan đến nhau cả. Tôi đúng là hồ đồ, tại sao lúc nãy không nghĩ ra chứ.”
Giáo sư Phương Tân thoáng ngẩn người, bản thân ông cũng từng tranh luận với Trác Mộc Cường Ba về vấn đề vùng đất sinh ra chiến ngao. Dựa vào các tư liệu mà giáo sư Phương Tân đang có trong tay, ngoại trừ các vùng nổi tiếng về chó ngao như Hà Khúc, Đảng Hạng, Ngọc Thụ, khắp cao nguyên Thanh Tạng rải rác những giống ngao của riêng từng vùng cùng với các truyền thuyết liên quan đến chó ngao nữa. Nhưng trong những truyền thuyết mà ông đã khảo sát, chưa từng nghe nhắc đến chó ngao Tượng Hùng bao giờ. Có lẽ nó đã bị lịch sử hoàn toàn nuốt chửng, hoặc có khả năng đã bị đại kim điêu trong tín ngưỡng của người Tượng Hùng che khuất, cũng có thể ở đó không hề có chó ngao. Giáo sư Phương Tân có phần nghiêng về giả thuyết cuối cùng hơn, bởi vì ông từng đến Trát Đạt, ở đó toàn đất là đất, cát bay đá chạy, nhìn chẳng khác gì vùng biển chết La Bố Bạc 1 cả. Theo như một đồng nghiệp của ông, thì đó là một nơi đến cỏ cũng chẳng thể mọc được, nên rốt cuộc con người bỏ đi hết, vô số pháo đài nằm giữa vùng đồi gò đều trở thành những pháo đài chết, trống rỗng. Mặc dù giáo sư Phương Tân cũng biết vương triều Cổ Cách bị diệt vong bởi một trận chiến, song ông cũng cho rằng người đồng nghiệp của mình nói rất có lý, hoàn cảnh tự nhiên ác nghiệt nơi đây có lẽ mới là nguyên nhân thật sự các thành bang trở nên hoang phế sau chiến tranh như vậy.
Thế nhưng, khi Trác Mộc Cường Ba tràn trề hứng khởi nói với giáo sư rằng Tượng Hùng là nơi sinh ra chiến ngao trong truyền thuyết, giáo sư Phương Tân ngẩn người ra ngay từ câu đầu tiên: “Thầy giáo, thầy có biết không, hai ngàn năm trước, Tượng Hùng là một nơi vô cùng tươi đẹp, đất đai màu mỡ, cây cối um tùm, hồ và biển điểm xuyết trên khắp cả vương quốc như những vì sao trên trời. Chỗ chúng tôi có một truyền thuyết, nói rằng chính vùng đất tuyệt đẹp ấy là nơi chiến ngao lần đầu bước chân lên vũ đài lịch sử…”
Về truyền thuyết chiến ngao, Trác Mộc Cường Ba đã mở đầu bằng một câu như thế. Từ khi còn rất nhỏ gã đã nghe một ông già trong làng kể rồi, nhưng đến khi gã thực sự muốn tìm hiểu truyền thuyết về vùng đất sinh ra chiến ngao này, ông già kia đã qua đời từ lâu. Vì vậy, Trác Mộc Cường Ba cũng không biết tại sao lại bảo Tượng Hùng là nơi sản sinh ra chiến ngao. Giáo sư Phương Tân cho rằng gã nhớ nhầm, hai người vì chuyện này mà tranh luận mãi không ra được kết quả gì.
Giáo sư Phương Tân lắc lắc đầu, đây lại là một truyền thuyết vĩnh viễn không thể nào xác định được. Ông nói với Trác Mộc Cường Ba: “Để tôi nghiên cứu đống tư liệu này thật kỹ đã. Trong đây nhất định có thể tìm được những thứ hữu dụng cho chúng ta.”
Mật tu (1)
Trác Mộc Cường Ba đưa tư liệu cho giáo sư Phương Tân, rồi hỏi: “Thầy giáo, lần này trở về, tôi cứ cảm thấy có gì đó không ổn, nhưng lại không biết là chuyện gì không ổn, thầy có thể giải thích được không?”
Giáo sư Phương Tân hiền từ vỗ nhẹ lên vai gã, nói: “Tôi biết tâm trạng hiện tại của cậu như thế nào rồi. Trong lòng cậu đang chất chứa nghi hoặc đấy thôi.”
Trác Mộc Cường Ba thở dài: “Đúng vậy, toàn bộ sự việc này đã trở nên hoàn toàn khác hẳn những gì tôi nghĩ lúc ban đầu. Trở về từ châu Mỹ, tôi cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Sao lại như vậy nhỉ?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Bởi vì vai trò của cậu đã biến chuyển. Từ khi cậu cầm tấm ảnh kia đến tìm tôi, tất cả đều là chúng ta tự thăm dò, phát hiện, tìm kiếm. Thế nhưng, kể từ khi tôi và cậu gia nhập đội ngũ được huấn luyện đặc biệt này, vai trò của cậu đã từ chủ động biến thành bị động. Từ đó đến giờ chúng ta đều tiếp nhận những bài huấn luyện với độ khó rất cao, còn việc tìm kiếm phát hiện Bạc Ba La thần miếu ở đâu đã giao hết cho người khác thực hiện. Chúng ta chỉ là một phần tử trong cả cái tổ chức này, cũng giống như Trương Lập, Nhạc Dương, Ba Tang và cả Mẫn Mẫn nữa, đồng thời quyền quyết sách và quyền chủ động đã chấm dứt không còn nằm trong tay cậu nữa rồi. Có rất nhiều chuyện bọn họ không hề nói cho chúng ta biết, như vậy, chúng ta lại càng bị động hơn, cảm giác như thể mình là con rối bị người khác điều khiển trong tay vậy. Chẳng hạn lấy hành động trong rừng nguyên sinh lần này làm ví dụ, nếu cậu không bảo tôi, thì tôi cũng không khác gì cậu, đi hết cả hành trình cũng không biết được mục đích thật sự của chuyến đi, cảm thấy ù ù cạc cạc không hiểu gì hết.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Giờ còn đỡ, cô ta đã nói hết với chúng ta rồi.”
Giáo sư Phương Tân ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt rất diễn cảm: “Vậy cậu cho rằng cậu đã nghe được những gì rồi?” Giáo sư vỗ vỗ lên đống tư liệu, “Cậu nghĩ rằng đống tư liệu này, tính luôn cả phần cậu không lấy được kia, có bao nhiêu phần trăm là không thể tìm được trên Internet? Còn thứ chúng ta thực sự cần phải biết, là Cổ Cách kim thư và thông tin trong trục quyển, cô Lữ Cánh Nam đó nói được bao nhiêu? Thực ra, cậu ở trên thương trường nhiều năm như vậy rồi, chắc cũng phải hiểu được điểm này chứ, lòng người khó dò, đặc biệt là một nhóm như chúng ta đây, muốn tiếp xúc với bí mật tầm cỡ như Bạc Ba La thần miếu, tôi có thể khẳng định là họ vẫn giữ thái độ hoài nghi một cách một cách thiện ý với tất cả các thành viên trong nhóm chúng ta. Đối với bất cứ ai cũng không thể tin hoàn toàn, nhưng cũng không thể không tin, quan hệ giữa người với người chính là như vậy đó, không giống như thái độ xử sự lúc bình thường của cậu đâu. Cậu quá dễ dàng tín nhiệm một người nào đó, đây chính là nhược điểm lớn của cậu đấy, Cường Ba à.”
Trác Mộc Cường Ba buồn bực nói: “Nhưng mà, tôi vẫn cho rằng nếu đã để chúng ta tham gia vào tập thể này, ít nhiều họ cũng sẽ cho chúng ta biết một số chuyện. Không phải vậy sao? Nếu nghi ngờ hiềm kỵ cả chúng ta, vậy thì làm sao chúng ta có thể đạt được yêu cầu và mục đích của họ chứ? Tôi nhớ Sean đã từng nói, trong hoàn cảnh hiểm nguy, con người cần phải liều mạng vì nhau thì mới sống sót được, nếu tất cả cứ khư khưu giữ lấy mạng mình, mọi người bó chặt lại với nhau, rồi cuối cùng chẳng ai sống sót nổi đâu.”
Giáo sư Phương Tân lắc đầu: “Trong hoàn cảnh hiểm nguy thì như vậy, nhưng mà, sau khi ra khỏi hiểm cảnh thì sao chứ? Con người, ai chẳng có tâm tư, giống như nhóm chúng ta vậy, cậu, muốn tìm Tử Kỳ Lân, còn bọn họ, muốn tìm Bạc Ba La thần miếu, mục đích hai bên khác nhau, song phương hướng thì tương đồng, vì vậy nên mới đi cùng với nhau. Nếu nói ở khu vực phụ cận Bạc Ba La thần miếu không thể tìm được Tử Kỳ Lân, hoặc là nơi có Tử Kỳ Lân không thể nào có Bạc Ba La thần miếu, vậy thì, cậu và họ có đi chung một đường nữa hay không?”
Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: “Vậy thì bây giờ phải làm sao? Tôi cảm thấy thực sự rất khó chịu.”
Giáo sư Phương Tân chân thành nói: “Lòng người, thảy đều hướng về cái thiện cả, nếu cậu không thể phán đoán một người là tốt hay xấu, vậy thì hãy thử tin ở bọn họ đi, trừ phi họ thực sự gây những chuyện vô cùng bất lợi với cậu. Xét tình hình trước mắt, với tư liệu chúng ta nắm trong tay và năng lực của cả nhóm, đích thực là không đủ để tìm kiếm Tử Kỳ Lân. Vì vậy, điều chúng ta nên làm lúc này, chính là học hỏi nhiều hơn, quan sát nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn. Ít nhất giờ chúng ta cũng đã biết rằng cso một nhóm người chuyên nghiệp cung cấp cho chúng ta những nguồn tin nhanh nhạy nhất, đáng tin cậy nhất, có sự giúp đỡ này của họ, chúng ta sẽ giống như đứng trên vai người khổng lồ thu thập thông tin vậy, tiến lên trên con đường đã được người đi trước lát sẵn gạch đá, chuyện này chỉ có lợi chứ không có hại. Thực ra, từ lúc gia nhập vào nhóm huấn luyện đặc biệt này, có hai chuyện đã nằm ngoài dự liệu của tôi. Thứ nhất, chính là tôi không ngờ cậu lại đáp ứng nhanh và dễ dàng như vậy, mà tôi còn cho rằng nếu cậu đã đáp ứng, vậy thì chắc cũng biết sau đó cục diện sẽ như thế nào, giờ xem ra thì lúc ấy cậu cũng không suy nghĩ nhiều đến thế. Thứ hai, tôi không ngờ nhà nước ta lại chấp thuận chuyện này nhanh như vậy, giờ nghĩ lại, thì ra đây chỉ là trùng hợp mà thôi, nếu chẳng phải lúc ấy nhà nước cũng có ý này, tài liệu chúng ta trình lên kia, chỉ sợ nửa năm một năm cũng không được xem xét đâu.” Giáo sư Phương Tân vuốt vuốt tóc, trầm ngâm nói tiếp, “Còn nữa, đối với nhóm huấn luyện đặc biệt của chúng ta, tôi luôn có một dự cảm chẳng lành, có lẽ một ngày nào đó… đương nhiên, tốt nhất là ngày ấy đừng bao giờ đến thì hơn.”
Trác Mộc Cường Ba biết, ý giáo sư Phương Tân muốn nói là, có lẽ một ngày nào đó trong tương lai, bọn họ còn chưa đủ khả năng đi tìm Bạc Ba La thần miếu, cái nhóm này đã bất ngờ giải tán rồi, còn bọn họ thì bị đá đít đuổi đi giống như người ta vứt thứ xỉ than vô dụng. Giáo sư Phương Tân lại nói tiếp: “Thế nào thì thế, những thứ học được ở đây chung quy vẫn có ích cho cậu, đợi khi chúng ta thật sự nắm được các kỹ xảo đó, cho dù ngày ấy có đến thật, chúng ta cũng có thể tự mình đi tìm kiếm mà.” Giáo sư ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba, lại giải thích, “Từ khi biết đến Bạc Ba La thần miếu, chúng ta đã chuẩn bị như vậy rồi, chúng ta bắt đầu từ thần miếu trước, tìm một nơi như vậy, so với trực tiếp điều tra về Tử Kỳ Lân thì dễ hơn nhiều, thông tin cũng có được nhiều hơn. Bấy giờ, đã đến lúc thực hiện kế hoạch này rồi đây, tôi sẽ thảo luận với các chuyên gia trong hội nghiên cứu. Tôi nghĩ, sau sự kiện lần này, bọn họ cũng không tiện giấu giếm tất cả thông tin như trước nữa đâu.”
Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Phải rồi, về thông tin liên quan tới tấm bản đồ đó, tôi thấy có vẻ hơi khoa trương quá thì phải. Không hiểu tôi nghe làm sao mà cứ cảm thấy, theo như giáo quan nói, hình như thế chiến I, thế chiến II, rồi chiến tranh Lạnh Xô Mỹ, đều có quan hệ mật thiết với tấm bản đồ ấy, điều này…”
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Đừng nói là cậu, cả tôi cũng không thể hoàn toàn tin tưởng được, quá nửa là nghe sai đồn sai, dẫn đến sau này càng lúc càng khoa trương. Có điều chúng ta cũng có thể nghiên cứu theo hướng này, chẳng hạn như ông Haln gì đó, nếu có thể tìm được bản đồ… Ngoài ra, dựa trên những thông tin hiện nay, Ben Merkin và người của hắn dường như không đơn giản là chỉ tìm kiếm báu vật đâu, với khả năng tài chính của hắn, không cần gì phải mạo hiểm đích thân tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, bên trong nhất định còn có nguyên nhân gì khác.” Ánh mắt giáo sư Phương Tân hiện lên vẻ lạnh lẽo, chậm rãi nói: “Một nguyên nhân, mà chúng ta còn chưa biết…”
Trác Mộc Cường Ba lại không nghĩ vậy, hy vọng tìm được tư liệu về Haln và bản đồ gì gì đó thật quá mong manh, hơn nữa dường như cũng quá xa vời so với mục tiêu của họ. Gã bèn nói lảng sang chủ đề khác: “Đúng rồi, thầy giáo, thầy nói xem, chúng ta tự cho rằng mình đã học được rất nhiều khả năng sinh tồn nơi hoang dã rồi, nhưng tại sao khoảng cách với giáo quan lại vẫn lớn đến thế?”
Giáo sư Phương Tân lắc lắc đầu: “Không biết, có lẽ là cô ấy đã được huấn luyện đặc biệt thế nào đó chăng.”
“Huấn luyện đặc biệt…” Trác Mộc Cường Ba lặp lại hai lần, đột nhiên kêu lên, “A, nhất định là như vậy!”
Khi lạt ma Á La ra khỏi phòng làm việc của Lữ Cánh Nam, ông nhận ra Trác Mộc Cường Ba đang đứng ở bãi tập, vẫy vẫy tay chào mình. Ông liền bước tới, Trác Mộc Cường Ba trực tiếp hỏi luôn: “Đại sư, giáo quan từng tiếp nhận huấn luyện mật tu phải không?”
Lạt ma Á La có chút kinh ngạc, hỏi: “Sao đột nhiên cậu lại nghĩ đến vấn đề này?”
Trác Mộc Cường Ba khẳng định: “Bởi vì trong lần huấn luyện băng rừng nguyên sinh lần này, cá nhân tôi cho rằng một con người bình thường, có huấn luyện thế nào chăng nữa, khả năng chịu đựng và ý chí cũng đủ để một mình vượt qua rừng sâu. Mà tôi còn nhớ tiến sĩ Cổ Tuấn Nhân từng nói, ông ấy chỉ dạy giáo quan một số kỹ năng cơ bản về sinh tồn nơi hoang dã và khảo sát khoa học thôi, khả năng chiến đấu và các bản lĩnh khác của giáo quan là học của danh sư khác, mà đại sư ngài cũng không giống người thường, cộng với thường ngày đại sư và giáo quan tiếp xúc tương đối nhiều, vì vậy tôi cho rằng, giáo quan cũng từng tiếp nhận huấn luyện mật tu giống như đại sư vậy. Có phải thế không? Đại sư Á La?”
Lạt ma Á La ngước mặt lên thở dài: “Cánh Nam là đệ tử do đích thân Chu Cổ đại sư truyền dạy, nếu nghiêm khắc xét bối phận, tôi là sư điệt của cô ấy. Cô ấy là Cách tây2 kiệt xuất nhất trong thế hệ mật tu trẻ tuổi đó.”
Trác Mộc Cường Ba cả mừng, nào biết mật tu phân cấp thế nào, lập tức thành khẩn nói: “Xin hãy cho tôi tiếp nhận huấn luyện mật tu đi, đại sư, tôi có thể chấp nhận bất cứ khảo nghiệm nào.”
“Hả! Cậu ư?” Lạt ma Á La có ung dung đến mấy cũng không khỏi thoáng biến sắc. Đã qua bốn mươi tuổi rồi còn đòi mật tu, xem ra Trác Mộc Cường Ba thiếu gia này chẳng biết gì về mật tu rồi. Lạt ma Á La lấy làm khó xử hỏi, “Cậu có biết mật tu rốt cuộc là thế nào không? Cường Ba thiếu gia?”
Trác Mộc Cường Ba thản nhiên đáp: “Không biết, nhưng tôi biết nó có thể khiến tôi trở nên mạnh mẽ hơn, khiến tôi có khả năng chịu đựng và nghị lực hơn người.”
Lạt ma Á La phì cười thốt lên: “Tất nhiên rồi, khả năng chịu đựng và nghị lực vốn đã là thứ cơ sở nhất của mật tu mà, ừm… nếu Cường Ba thiếu gia có hứng thú với mật tu, tôi có thể cho cậu biết một số việc liên quan đến mật tu. Mật tu tuyển lựa nhân tài hết sức nghiêm khắc, người có tư cách mật tu chúng tôi gọi là Bối Ca, Bối Ca có tư cách tiến hành mật tu. Các tăng nhân Cách Lỗ phái của ba ngôi chùa lớn ở Lhasa cần phải tu hết Ngũ bộ đại luận của Hiển tông 3, hoàn thành khảo hạch mới có thể tiến hành mật tu. Khảo hạch dựa theo đẳng cấp mà chia thành Lạt nhiên ba, Thổ nhiên ba, Lâm trại và Đa nhiên ba (hoặc gọi là Nhật nhiên ba). Bốn đẳng cấp này gọi chung là Cách tây, các tăng nhân đã đạt được học vị Cách tây nếu tiếp tục học tập tại học viện Mật tông, thì gọi là Trác nhân ba, từ đây dần dần tăng lên Cách quả, Ông tắc, Kham bố, Kham tô, Hạ tư khước kiệt hoặc Giáng tư khước kiệt, hai cái sau thuộc về Cam đơn trì ba (giáo chủ của Cách Lỗ phái) sau khi xuất thế có thể luân lưu thăng nhiệm, được hưởng vinh dự tối cao, sau khi chết còn có tư cách làm Hoạt Phật chuyển thế.”
Đây là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba nghe nói, trong mật tu còn có phân biệt đẳng cấp nghiêm khắc như vậy, bèn hỏi: “Vậy đại sư ở đẳng cấp nào?”
Lạt ma Á La mỉm cười: “Nói ra thật hổ thẹn, tôi mật tu đã năm mươi bảy năm, đến giờ vẫn chỉ là Cách quả thôi.”
Trác Mộc Cường Ba ngơ ngẩn xuất thần, Cách quả đã lợi hại như vậy rồi, nếu tu đến Kham bố gì gì đó, vậy thì sẽ thế nào nữa.
Lạt ma Á La nghiêm mặt nói: “Mật tu, thực chất chính là khiêu chiến với cực hạn của bản thân, không ngừng khiêu chiến cực hạn, không ngừng vượt qua chính mình, phát huy ý chí và khả năng chịu đựng đến cực hạn. Nói ra thì có vẻ huyền ảo khó giải thích, thực ra nếu giải thích theo tri thức khoa học hiện đại, chính là thông qua mật tu, để điều chỉnh nội hoàn cảnh, tức môi trường bên trong cơ thể mình.”
Trác Mộc Cường Ba lộ vẻ hoang mang. Lạt ma Á La lại giải thích: “Khác với y học, những người tu luyện mật tu như chúng tôi gọi phần bên trong cơ thể mình là nội hoàn cảnh. Thần kinh con người, đại thể chia thành hai hệ thống lớn, y học hiện đại gọi là thần kinh động vật và thần kinh thực vật. Thần kinh động vật khiến cho ý thức của cậu có thể khống chế các động tác toàn thân, chẳng hạn nói chuyện, động tay động chân, đảo tròng mắt, tất cả những thứ này đều thuộc phạm vi khống chế của thần kinh động vật; còn thần kinh thực vật, lại là hệ thống tự thân của các khí quan trong cơ thể, không chịu sự khống chế của ý chí, chẳng hạn như tim đập, dạ dày tiêu hóa, tiết kích thích tố, bất kể là cậu có ý thức hay vô ý thức, thần kinh thực vật đều đảm bảo cho những khí quan ấy tiếp tục vận hành, chúng khống chế các khí quan trong cơ thể cậu. Trên thực tế, hai hệ thống này không phải hoàn toàn tách rời, chúng liên hệ với nhau để tạo thành một chỉnh thể. Lấy một ví dụ nhé, trong bóng đêm, nếu cảm giác thấy chuyện gì đáng sợ lắm, khi cậu truyền những thông tin về thứ mình nhìn thấy, thứ mình nghe thấy, thứ làn da cảm nhận thấy về đại não, đại não sẽ lập tức khiến cơ thể có phản ứng, thần kinh thực vật bắt đầu vận hành, hormon tuyến thượng thận (adrenalin) sẽ tiết ra nhiều hơn, khiến tim cậu đập nhanh hơn, đồng tử dãn lớn. Đồng tử dãn lớn, là để giúp cậu có thể thu nhận nhiều ánh sáng hơn trong bóng tối, nhìn thấy nhiều thứ hơn; tim đập nhanh hơn, để cho máu tràn đầy dưỡng khí, đưa đến khắp các vị trí toàn thân, khiến cơ bắp của cậu đầy xung lực, bất cứ lúc nào cũng có thể xuất ra một lượng động năng lớn để chạy trốn hoặc phản kháng, thần kinh động vật và thực vật đã điều tiết với nhau như vậy để khiến thân thể cậu có phản ứng tốt nhất trong các môi trường khác nhau.”
Trác Mộc Cường Ba có vẻ nửa hiểu nữa không, lắng nghe rất chăm chú. Lạt ma Á La thở dài nói: “Đáng tiếc, con người lại quá ỷ lại vào thần kinh động vật, mà bỏ mặc cho thần kinh thực vật tư hoạt động, chẳng bao giờ quan tâm đến sự hài hòa giữa các nội quan trong cơ thể, chỉ khi nào gặp vấn đề thì mới đến gặp bác sĩ. Cái gọi là mật tu, chính là thông qua sự biến đổi hoàn cảnh của con người và sự thay đổi hô hấp, mở ra cánh cửa giữa ý thức và thần kinh thực vật, khiến ý thức của cậu có thể trực tiếp khống chế thần kinh thực vật của cậu. Có rất nhiều thứ để tu tâm dưỡng tính, thực ra đều cùng một nguyên lý, chẳng hạn như khí công, yoga, đều thông qua tiếp xúc với tự nhiên và điều chỉnh hô hấp để đạt được mục đích thay đổi nội hoàn cảnh, thông qua cải thiện nội hoàn cảnh mà khiến thân thể đạt được hài hòa bên trong và bên ngoài, tiến đến hoàn thiện, đây mới là khỏe mạnh thực sự. Có rất nhiều người nhìn bề ngoài có vẻ cường tráng, thực ra nội hoàn cảnh lại là một mớ hồ đồ, lúc nào cũng ở trong trạng thái nửa khỏe mạnh mà chính họ cũng không hề hay biết, bất cứ lúc nào cũng có thể bị bệnh tật quấy nhiễu. Bây giờ, cậu hãy làm theo tôi nói, hít vào… tiếp tục hít vào… cảm giác lồng ngực cậu mở rộng, cậu còn hít được nhiều không khí hơn nữa… tiếp tục, không được ngừng… được rồi, nín thở đi… cố lên… cố lên nữa…”
Theo yêu cầu của lạt ma Á La, Trác Mộc Cường Ba hít vào đầy một bụng không khí, nửa phút sau thì bắt đầu đỏ mặt tía tai. Lạt ma Á La lại nói: “Được rồi… giờ bắt đầu thở ra, chầm chậm… chầm chậm thôi… cố gắng giảm tốc độ thở ra của cậu, giống như cảm giác cơn gió nhẹ mùa xuân thổi qua miệng cậu vậy, từ từ thôi, không ngừng…” Trác Mộc Cường Ba vươn cổ ra, thở một cách khó nhọc, cuối cùng cũng không thể gượng được, tắc nghẹn nói: “Tôi sắp, không được rồi!”
Lạt ma Á La lại nói: “Tốt, dùng hết sức lực của cậu, hít mạnh vào một hơi, thở ra nhanh, thở ra nhanh, thở ra toàn bộ thật nhanh. Lại một lần nữa, hít mạnh, lập tức thở ra, được rồi, giờ cậu đã hồi phục lại hô hấp bình thường rồi đấy.” Lạt ma Á La mỉm cười hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Cảm giác lúc này thế nào?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Đầu hơi váng một chút.” Lạt ma Á La lại hỏi: “Còn gì nữa?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Tim đập nhanh hơn!”
Lạt ma Á La nói: “Đây chính là một kỹ thuật căn bản của mật tu, giống như yoga hay khí công vậy, thông qua hít thở khiến nội hoàn cảnh của con người thay đổi. Đương nhiên, thứ tôi vừa dạy cậu không phải thuật Thổ nạp thực sự, chẳng qua chỉ là một ví dụ đơn giản để cậu biết rằng, bằng cách thay đổi thần kinh động vật có thể điều chỉnh thần kinh thực vật đưa ra những thay đổi tương ứng mà thôi, sau này không cần phải thử nữa đâu. Mật tu của chúng tôi, chính là kháng cự lại tất cả những mê hoặc ngoại tại, điều chỉnh thâm tâm tới cảnh giới ý thức có thể khống chế được. Nói một cách đơn giản, chính là học cách khống chế nhịp tim và mạch đập của mình, không chế nhu động dạ dày, khống chế hướng và tốc độ huyết mạch; tu luyện đến trình độ tương đối cao, có thể tự khống chế các khớp xương tách rời hoặc kết hợp, khống chế chất dịch trong cơ thể bài tiết hay hấp thụ, khống chế tất cả các cảm giác mà kích thích bên ngoài gây ra đối với thân thể.”
Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Vậy còn tu luyện tới tầng cao hơn nữa thì sao?”
Lạt ma Á La thoáng giật mình, lẩm bẩm: “Không biết, tôi chỉ nghe nói đến trình độ tương đối cao mà thôi, còn cao hơn nữa… tôi chưa từng nghe đến bao giờ!” Đồng thời ông cũng thầm nhủ: “Hình như mình cũng chưa từng nghĩ đến vấn đề này thì phải, rốt cuộc Cường Ba thiếu gia đang nghĩ gì vậy?”
Trác Mộc Cường Ba mừng rỡ thốt: “Tốt quá rồi, tôi cảm thấy mật tu đúng là hết sức cần thiết với mình đấy.”
Lạt ma Á La nói: “Khí công thổ nạp để dưỡng sinh, giống như quá trình từ dễ đến khó, từ nhẹ đến nặng, dần dà tăng cường rèn luyện cường hóa cơ thể, hòng kháng cự lại bệnh tật, yoga lấy hô hấp để di dưỡng tinh thần, thông qua sự tiếp xúc với tự nhiên của tâm linh khiến lòng người rộng mở, tâm tình vui vẻ, hòng tiêu trừ mệt mỏi, khiến thân thể khó mắc bệnh hơn; còn mật tu chúng tôi, lại thông qua những phương cách tàn khốc, dùng thân xác khiên chiến với tự nhiên không ngừng thay đổi, tựa như một liều thuốc mạnh, hòng một dao cắt hết những nhân tố nguy hiểm dễ gây bệnh tật trong cơ thể đi. Khí công và yoga là những thứ ai cũng luyện được, bởi vì luyện tập chúng đều từ dễ đến phức tạp, tuần tự nhi tiến, luyện được thì dễ, nhưng luyện thành thì khó; còn mật tu lại là thứ không phải người nào cũng có thể luyện được, môn này là dùng thủ đoạn sấm sét, vừa bắt đầu đã thông qua đào thải tự nhiên để lựa chọn người có thể đủ tiêu chuẩn, người nào không đạt yêu cầu, thường thì từ lúc nhập môn chọn lựa đã mắc đầy mình bệnh tật, cả đời cũng khó khỏi, hơn nữa, còn nguy hiểm tới tính mạng nữa. Cho dù có thể vượt qua chọn lựa, các bài huấn luyện sau này cũng đều theo phương thức bậc thang, bất cứ lúc nào cũng có khả năng ngã tan xương nát thịt đấy.”
Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên: “Nguy hiểm thế cơ à?”
Lạt ma Á La nói: “Thần kinh thực vật tuân theo tự nhiên, còn người mật tu chúng tôi, để đạt đến cảnh giới dùng ý thức khống chế thần kinh thực vật, bước đầu tiên phải làm chính là đi ngược lại với tự nhiên, có rất nhiều người không thể vượt qua được cửa này, hậu quả vô cùng đáng sợ. Tôi lấy một ví dụ đơn giản nhé, từng có một thanh niên khỏe mạnh muốn tham gia mật tu, chúng tôi tiến hành khảo nghiệm Ngạ quỷ đạo với anh ta, cậu cũng biết rồi đấy, con người đói thì muốn ăn, đây là một phản ứng sinh lý tự nhiên, cái gọi là Ngạ quỷ đạo, chính là chống lại cơn đói. Ai ngờ được, mới có bốn tiếng đồng hồ, anh ta đã không chịu nổi mà lăn ra chết, mặc dù chúng tôi đã toàn lực cấp cứu, song cuối cùng cũng không thể nào cứu nổi.”
Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc hỏi: “Sao mà thế được? Chống lại cơn đói thì đơn giản thôi mà, dù là người bình thường nhịn ăn bốn năm tiếng đồng hồ cũng không có vấn đề gì lớn mà?”
Lạt ma Á La cười khổ một tiếng: “Cậu cho rằng khảo nghiệm Ngạ quỷ đạo đơn giản như cậu tưởng tượng hay sao?”
——————————–
Chú thích:
1 Lop Nur hay La Bố Bạc là một nhóm các hố, hồ muối nhỏ nằm giữa sa mạc Taklamakan và sa mạc Taklamakan và sa mạc Kuruktag ở phía Đông khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, Trung Quốc. Đây là nơi Trung Quốc thử bom hạt nhân.
2 Cách tây, viết tắt của Cách uy tây liên trong tiếng Tạng, dịch ra thành Thiện trí thức, là một học vị trong hệ thống Tạng truyền Phật giáo.
3 Một trong các tông phái của Phật giáo.