Quý bà Avery là một người buôn chuyện tầm phào.
Elissande không hoàn toàn xa lạ với khái niệm người buôn chuyện tầm phào: bà Webster trong làng là một người như thế, nói liên hồi về vợ của người bán thịt hay người làm vườn mới của cha xứ. Nhưng quý bà Avery coi mình trên tầm những người phao tin đồn nhảm tỉnh lẻ như bà Webster: Bà là một phụ nữ của thế giới với những câu chuyện về Xã hội cao sang nhất.
Với sự xuất hiện của bà ta, ngài Frederick biến mất ngay lập tức, làm cho Elissande càng tuyệt vọng hơn.
Chắc chắn rồi, cô thậm chí đã bắt đầu tuyệt vọng trước cả khi quý bà Avery xuất hiện mà không thông báo trước, ngài Frederick không hề vội vã giành lấy cô, trong khi thời gian của cô, vốn đã hạn chế như trí thông minh của ngài Vere đang rút ngắn lại từng giây.
Quý bà Avery chẳng giúp được gì ngoài cách ngay lập tức truy vấn Elissande về nguồn gốc của nhà Douglas, và không chịu tin rằng Elissande thật sự không biết gì về nguồn gốc của chú mình và chỉ chút xíu về dì mình.
“Nhà Douglas ở tây Cheshire?” quý bà Avery hỏi. “Chắc chắn cô phải có liên hệ với nhà Douglas ở tây Cheshire”.
Quý bà Avery có phải là học sinh trường học chuyên nghiên cứu phả hệ của ngài Vere không?
“Không, thưa bà. Tôi chưa bao giờ nghe về họ”.
Quý bà Avery hắng giọng. “Không bình thường thật. Vậy dòng họ của cô là ai? Nhà Edgerton ở Derbyshire?”
À, ít nhất thì cô biết điều này. “Edgerton ở Cumberland, thưa bà”.
Lông mày của bà Avery nhíu lại. “Edgerton ở Cumberland. Edgerton ở Cumberland”, bà lẩm bẩm. Rồi bà đắc thắng kêu lên, “Cô là cháu gái của ngài Cecil Edgerton, đúng không? Con gái của anh con trai út?”
Elissande sửng sốt nhìn chằm chằm vào bà ta. Cô đã tin rằng tài buôn chuyện của quý bà Avery có giá trị như kiến thức của ngài Vere về nghề chăn nuôi gia súc. “Vâng, ngài Cecil là ông nội của tôi”.
“Đấy, tôi biết mà”, quý bà Avery hài lòng nói. “Chuyện cha cô bỏ chạy với mẹ cô là một vụ khá tai tiếng. Và kết thúc thật buồn, cả hai người họ đều chết trong vòng ba năm”.
Quý bà Kingsley, cô Kingsley và cô Beauchamp bước vào phòng khách. Elissande bỗng thấy lo lắng giống như ngài Frederick trước đó. Câu chuyện của cha mẹ cô không những bi thảm mà còn không phù hợp với sự bầu bạn lịch sự, như chú cô đã nhắc đi nhắc lại với cô. Nếu quý bà Avery quyết định để lộ những chi tiết không mấy hay ho trước sự hiện diện của mọi người thì sao?
“Quý bà Avery, ngài Vere nói bà dọa em trai ngài ấy bỏ chạy”, cô Kingsley vui vẻ gọi.
“Vớ vẩn. Tôi đã moi móc tất cả từ ngài Frederick trong suốt mùa lễ hội rồi. Cậu ấy không có gì phải sợ tôi vào lúc này”.
Cô Beauchamp ngồi xuống cạnh quý bà Avery. “Ồ, kể đi, quý bà thân mến. Bà đã moi móc được gì từ ngài Frederick?”
“À…”, quý bà Avery kéo dài âm tiết đó trong đúng ba giây, rõ ràng thích thú với vai trò người phân phát những mẩu tin béo bổ. “Cậu ấy đã gặp cô ấy vào tháng Sáu, khi cô ấy ở thành phố để dự đám cưới của cô nàng thừa kế người Mỹ, cô Van der Waals đó. Và các cô sẽ không tin điều này đâu, họ cũng đã gặp nhau ở Paris, Nice và New York”.
Mọi người có vẻ sửng sốt, bao gồm cả chính cô, Elissande nghĩ thế. Ai là ‘cô ấy’?
“Họ đã gặp nhau sao?” Quý bà Kingsley thốt lên. “Ngài Tremaine nghĩ gì?”
“À, dường như anh ta đồng ý. Hai người đàn ông đã ăn tối cùng nhau”.
Quý bà Kingsley lắc đầu. “Ôi, Chúa tôi, có phải những điều lỳ lạ không bao giờ hết?”
“Thực sự là không. Tôi hỏi ngài Frederick là cô ấy có khỏe không và cậu ấy hỏi tôi rằng có khi nào cô ấy có vẻ không khỏe không”.
“Ôi, trời!” cô Beauchamp rú lên.
Xin đừng để như thế. “Ngài Frederick đã có hôn ước với ai đó rồi à?” Elissande liều lĩnh hỏi.
“Tôi xin lỗi, tôi quên là cô không biết, cô Edgerton. Ngài Frederick đã có hôn ước với Nữ hầu tước của Tremaine. Và cô ấy chuẩn bị ly dị chồng để lấy cậu ấy, vào mùa xuân năm ‘93. Đó là một vụ tai tiếng ầm ĩ, nhưng vụ ly dị chưa bao giờ diễn ra. Cô ấy đoàn tụ với chồng mình và rút lại đơn xin ly dị”.
“Tội nghiệp ngài Frederick”. Cô Kingsley thở dài.
“Không, may mắn cho ngài Frederick”, quý bà Avery chỉnh lại. “Bây giờ cậu ấy có thể kết hôn với một quý cô trẻ đẹp như cô Edgerton đây, thay vì một người mãi mãi bị nhắc đến là ‘người phụ nữ đã ly dị’. Cô có đồng ý không, cô Edgerton?”
“Tôi không nghĩ ngài Frederick có ý định cưới tôi”, Elissande trả lời mà không có sự khiêm tốn giả tạo nào, than ôi. “Nhưng nói chung tôi tin rằng mọi chuyện sẽ… thuận lợi hơn nếu người chồng hoặc người vợ chưa bao giờ ly dị”.
“Tuyệt vời”, quý bà Avery nói. “Cô Edgerton thân mến, cô đã hiểu được tầm quan trọng của vấn đề. Người ta không nên lãng mạn trong cuộc đời này. Hãy nhìn những người cay độc xem, họ đều đã từng là những người lãng mạn”.
“Thế… thế bây giờ ngài Frederick là một người cay độc?”
“Không, Chúa phù hộ cậu ấy, cậu ấy vẫn là một người lãng mạn, cô có tin được không. Tôi cho rằng không phải tất cả những người lãng mạn bị thất vọng đều biến thành người cay độc”.
Ngài Frederick, một người đàn ông thật tốt. Giá như Elissande có thể dụ dỗ anh cầu hôn cô, cô sẽ yêu anh nhiều hơn rất nhiều quý bà Tremaine không chung thủy kia.
Thực ra, cô sẽ trở thành người vợ tốt nhất trong lịch sử các cuộc hôn nhân.
Vere cần ở nhà. Nhưng khi Freddie đến với anh, muốn có người bên cạnh, anh không thể từ chối. Họ đi bộ hàng dặm quanh vùng quê, chèo thuyền qua một trong không nhiều những cái hồ nằm rải rác ở phía bắc của Shropshire, và ăn trưa ở một nhà trọ trong làng.
“Anh sẽ quay về”, Vere nói vào cuối bữa trưa, đứng lên khỏi bàn và ngáp. Anh phải biết Holbrook đã hướng dẫn những gì và hợp tác với quý bà Kingsley ra sao để đưa Nye ra vào dinh thự an toàn. “Anh cần chợp mắt. Đêm qua anh ngủ không ngon”.
“Ác mộng à?” Freddie cũng đứng lên và sánh bước cùng Vere.
“Không, bây giờ anh không gặp ác mộng thường xuyên nữa”. Trong năm cuối cùng ở trường Eton, Freddie đã đến phòng Vere hầu như mọi đêm để lắc anh tỉnh dậy. “Dù sao đi nữa, nếu muốn thì em cứ ở lại đây. Anh sẽ thuê xe của nhà trọ để về”.
“Em sẽ đi với anh”, Freddie nhỏ nhẹ nói.
Vere chịu đựng một nhát đâm tội lỗi khác.
Hiển nhiên Freddie muốn tránh xa ngôi nhà cho đến cuối ngày – câu chuyện với quý bà Tremaine đã trở thành lịch sử cổ đại, nhưng quý bà Avery vẫn còn vớ lấy em trai anh như thể nó vừa mới nhảy van-xơ với vụ tai tiếng đó. Nhưng Freddie luôn muốn ở cùng Vere bất cứ khi nào họ đến một nơi xa lạ.
Vere khẽ siết vai Freddie. “Vậy đi nào”.
Trở về nhà, Vere thấy quý bà Kingsley đang sốt ruột đợi anh. Nye sẽ đến ngay trước khi bữa tối bắt đầu. Họ thống nhất rằng Vere sẽ để anh ta vào nhà qua cánh cửa thư viện mở ra khoảng sân phía đông, cách xa bếp, do đó ít có khả năng bị người làm nhìn thấy.
“Và chúng ta sẽ làm gì sau khi tôi phải buông tha cô Edgerton tối nay, nếu Nye vẫn còn chưa làm xong?” quý bà Kingsley hỏi.
“Tôi sẽ nghĩ ra chuyện gì đó”.
“Hãy chắc là nó không phải thứ làm anh hối tiếc”, quý bà Kingsley nói.
Hai mươi tư tiếng đồng hồ còn chưa trôi qua kể từ anh nhìn thấy cô Edgerton lần đầu tiên. Chẳng có gì phải băn khoăn khi ký ức về sự mê đắm của anh vẫn còn tươi mới trong đầu quý bà Kingsley. Nhưng với Vere dường như đã xa vời vợi, một thời ngây thơ từ rất lâu rồi.
“Tôi sẽ cẩn trọng”, anh lạnh lùng nói.
Biết được mục tiêu của cô Edgerton, ngay khi kết thúc công việc với quý bà Kingsley, anh đi tìm em trai. Anh tìm thấy Freddie và cô Edgerton trong phòng ăn vắng lặng, Freddie đang nhìn chăm chú vào chiếc máy ảnh Kodak 4, cô Edgerton, trong chiếc váy ban ngày màu vàng phấn vừa vặn nhất, đắm đuối nhìn Freddie.
Vẻ đắm đuối trong mắt cô lạnh đi đáng kể khi cô nhận thấy sự hiện diện của Vere. “Ngài Vere”.
Vere phớt lờ cảm giác chua cay trong tim. “Cô Edgerton. Freddie”.
Freddie kéo cái nút đồng trên hộp máy ảnh để kéo cánh cửa chớp lên. “Này, Penny. Anh ngủ nghê thế nào? Bây giờ mới là…”, anh liếc nhìn đồng hồ, “… một giờ bốn lăm”.
“Rất tuyệt. Em đang làm gì thế?”
“Chụp ảnh bức tranh này. Cô Edgerton tốt bụng đã cho phép em”.
“Từ chối em thì đúng là keo kiệt, đúng không cô Edgerton?” Vere mỉm cười với cô.
Cô mỉm cười lại với anh, biểu hiện cũng rạng rỡ y như anh. “Đương nhiên là thế. Hơn nữa, tôi chưa bao giờ nhìn thấy một cái máy ảnh”.
“Tôi đã nhìn thấy vô số lần. Và chúng đều làm chính xác một việc như nhau”, anh nói bừa. “À nhân tiện, cô Edgerton, cô Kingsley nói các quý cô muốn cùng cô đi dạo một vòng quanh vườn”.
“Ồ”, cô nói, “Ngài có chắc không, ngài Vere?”
“Tất nhiên. Tôi nhìn thấy cô ấy cách đây chưa đến ba phút ở phòng khách hoa hồng”.
Anh đã nhìn thấy cô Kingsley ở phòng khách hoa hồng không đến ba phút trước. Tuy nhiên, cô Kingsley đang bận bịu chơi trò cờ tào cáo với Conrad, người đang tán tỉnh cô và không hề có ý định đi đâu. Nhưng đến khi cô Edgerton nhận ra điều này thì đã quá muộn, Vere sẽ mang Freddie đi đến nơi nào an toàn, ít nhất là an toàn hơn, tránh xa vòng bủa vây tính toán của cô.
“Và cô ấy rất mong đợi sự bầu bạn của cô”, Vere nói thêm.
“Tôi nghĩ tốt nhất là tôi đi gặp cô ấy”, cô Edgerton miễn cưỡng nói. “Cám ơn, ngài Vere. Xin cáo lỗi, ngài Frederick”.
Vere quan sát cô. Cô quay lại nhìn ở ngưỡng cửa. Nhưng Freddie đang bận rộn với tấm ảnh tiếp theo. Thay vào đó mắt cô gặp mắt Vere. Anh đảm bảo ánh mắt anh chuyển đến ngực cô một cách lộ liễu. Cô nhanh chóng bỏ đi sau đó.
Anh quay sự chú ý lại với Freddie. “Có thích chơi một ván bi-a không, anh bạn già?”
Tất nhiên ngài Vere đã nhầm. Tất nhiên.
Cô Kingsley và anh Conrad đồng thanh cười giòn tan và nói Elissande đừng lo lắng. Có lẽ người nào khác đã nhờ ngài Vere chuyển lời nhắn, và ngài Vere, với trí nhớ có phần không chính xác của mình, một cách diễn đạt thật tử tế, đã nhầm lẫn cả người nhắn lẫn người nhận.
Cô Kingsley thậm chí còn tử tế đứng lên và đề nghị đi một vòng trong vườn với Elissande, nếu cô vẫn còn tâm trạng để đi. Elissande, người chưa bao giờ có tâm trạng đó, nồng nhiệt cảm ơn cô Kingsley và mong cô cùng anh Conrad thứ lỗi cho sự chen ngang và hãy tiếp tục thưởng thức trò chơi của họ.
Đến khi Elissande quay lại phòng ăn, ngài Frederick đã đi mất. Cô tìm được anh trong phòng bi-a mười lăm phút sau, nhưng căn phòng đầy kín đàn ông, hình như là vậy, ngoại trừ anh Conrad.
“Cô Edgerton, cô có muốn tham gia trò chơi này không?” Ngài Vere vui vẻ hỏi.
Những quý ông khác khẽ cười khoái trá. Cho dù không có chút kinh nghiệm chỉ dẫn nào trong vấn đề này, Elissande hiểu rằng cô không thể chấp nhận lời mời. Làm thế sẽ khiến ngài Frederick có ấn tượng sai lầm về tính cách của cô, tính cách thật của cô, và điều đó không có tác dụng gì.
“Cảm ơn, thưa ngài”, cô nói với giọng mà cô hy vọng là nhẹ nhàng. “Nhưng không, cảm ơn. Tôi chỉ đi qua thôi”.
Cô vẫn còn bữa tối, nơi cô có ngài Frederick ngồi cạnh cô suốt thời gian.
Than ôi, cú đánh tiếp theo đến chính xác ngay sau đó. Quý bà Kingsley đã chuẩn bị trước một sơ đồ chỗ ngồi cho buổi tối, vì Elissande chưa bao giờ phải đối mặt với những quy tắc về địa vị. Elissande tràn trề mong đợi rằng chỗ ngồi vẫn sẽ giữ nguyên. Tuy nhiên, trước sự kinh hoàng của cô, sơ đồ chỗ ngồi quý bà Kingsley chuẩn bị cho buổi tối hôm đó khiến ngài Frederick ngồi cách Elissande ba ghế.
Cô ăn uống khổ sở. Cổ họng của cô như bị siết chặt khiến cô không thể nuốt nổi, cả một ngày trôi qua, và cô không có chút tiến triển. Sự trở về của chú cô, đến gần theo từng giờ, là một cơn ớn lạnh xâm chiếm giữa hai bả vai cô, một cơn ớn lạnh không áo khoác và lửa nào có thể xua tan.
Niềm an ủi duy nhất là ngài Vere cũng được xếp ngồi xa cô. Thật may mắn cho anh ta. Vì nếu cô bắt gặp anh ta nhìn chằm chằm vào ngực cô một lần nữa, cô có thế vớ lấy một vật trang trí trên bàn ăn để táng vào đầu anh ta.
Sau bữa tối, mọi người chơi trò đố chữ cho đến mười giờ kém mười lăm. Khi chú cô ở nhà, đây thường là lúc Elissande sẽ thầm cảm tạ vì được chúc ông ta ngủ ngon và thoát về phòng riêng. Tối hôm qua, sau cuộc thử thách với chuột, các quý cô đã đi nghỉ vào giờ này. Tuy nhiên, ngài Vere quyết tâm thay đổi sự việc.
“Vẫn còn sớm mà”, anh ta nói. “Chúng ta hãy chơi trò gì khác đi”.
Cô Kingsley ngay lập tức hưởng ứng gợi ý này. “Ồ, đúng rồi, chúng ta chơi nhé. Được không, dì thân yêu?”
Dì của cô có vẻ ngần ngại.
“Thôi nào, quý bà Kingsley”, ngài Vere dỗ dành. “Không có quy tắc nào viết trên đá nói rằng các quý cô phải ở trên giường khi đồng hồ điểm mười tiếng”.
Elissande nghiến răng. Hình như cô làm thế mỗi khi ngài Vere xác nhận sự hiện diện của mình.
“Đúng thế. Tôi cũng đồng ý là chúng ta hãy chơi trò gì khác”. Cô Beauchamp tham gia.
“Này, quyết định không phải ở tôi”, quý bà Kingsley nói. “Chúng ta đang ở đây nhờ vào lòng hiếu khách tử tế của cô Edgerton”.
Một dàn đồng ca những lời cầu khẩn bay đến Elissande. Cô không thể nói gì nhiều, ngoài, “Tất nhiên chúng ta có thể chơi trò nào đó. Nhưng chúng ta sẽ chơi gì?”
“Trò Chuyển Bưu kiện thì sao?” cô Melbourne hỏi.
“Chúng ta không chuẩn bị trước gói bưu kiện nào cả”, cô Duvall nói. “Tôi đề nghị La Vache Qui Tache [1]”.
[1] Một trò chơi trong các bữa tiệc, có nguồn gốc từ Pháp.
“La Vache Qui Tache khiến trái tim tôi nhức nhối”, ngài Vere than phiền. “Tôi không bao giờ có thể nhớ được ai có bao nhiêu chấm. Trò gì đơn giản hơn, làm ơn”.
“Trò Nhồi nhét [2]”, anh Kingsley gợi ý.
[2] Là một trò chơi ngược lại với trò Trốn tìm, trong đó một người sẽ tìm một nơi để trốn, những người còn lại sẽ đi tìm người trốn đó. Khi tìm được thì trốn vào cùng người đang trốn, và cứ như thế, trò chơi kết thúc khi người cuối cùng tìm được chỗ trốn và chui vào đó cùng tất cả những người kia.
“Không, Richard”, dì anh nói. “Nhất định không. Không ai được chạy quanh ngôi nhà này để làm phiền bà Douglas”.
“Tôi biết rồi. Hãy chơi trò Ré như lợn con nhé”, cô Kingsley nói.
Anh Conrad nhanh chóng ủng hộ, sau đó là ngài Vere. Những người khách còn lại cũng lên tiếng đồng ý.
“Ừm”, quý bà Kingsley nói, “Tôi không thực sự tán thành trò này, nhưng tôi cho rằng với sự hiện diện của tôi và quý bà Avery, mọi người không thể gặp nhiều phiền toái được”.
Các quý cô trẻ vỗ tay vì được phép thức khuya. Những quý ông sắp xếp lại ghế. Vốn xa lạ với những trò chơi này, Elissande hỏi cô Beauchamp, “Tôi xin lỗi, nhưng trò Ré như lợn con chơi như thế nào?”
“Ồ, nó rất đơn giản”, cô Beauchamp nói. “Chúng ta ngồi thành một vòng tròn. Một người bị bịt mắt và đứng ở tâm vòng tròn. Anh ta sẽ là nông dân, và tất cả chúng ta là lợn. Ai đó quay người nông dân ba vòng, sau đó người nông dân phải tìm đường đến một con lợn và ngồi vào lòng nó. Con lợn kêu ré lên và người nông dân đoán danh tính của con lợn. Nếu anh ta thành công, con lợn sẽ trở thành nông dân. Nếu không, người nông dân phải làm thêm một lượt nữa”.
“Tôi hiểu rồi”, Elissande nói. Hèn gì quý bà Kingsley yêu cầu hai người giám sát. Quá nhiều anh chàng và cô nàng chưa kết hôn lần lượt ngồi lên lòng nhau như thế, nếu nói thẳng thì là khó coi, còn không thì cũng không phải phép lắm.
Anh Wessex xung phong làm nông dân đầu tiên. Anh Kingsley bịt mắt và quay anh ta ít nhất là sáu chứ không phải ba vòng. Sau vài ly rượu vào bữa tối, anh Wessex loạng choạng một cách nguy hiểm. Anh ta trượt chân về phía cô Kingsley. Cô Kingsley ré lên và giơ cánh tay ra để ngăn anh ta lao thẳng vào người mình.
Anh Wessex cố tình ngả người vào lòng cô. Cô Kingsley ré lên lần nữa. Những cô gái khác cười khúc khích. Anh Wessex, đột ngột nhưng không hẳn là lập cập, quay lại và ngồi xuống lòng cô Kingsley.
“Được rồi, con lợn con thân mến của tôi, kêu lên cho tôi xem nào”.
Mọi người cười phá lên, ngoại trừ Elissande. Nghe miêu tả trò chơi là một chuyện, quan sát nó lại là một chuyện hoàn toàn khác. Mức độ tiếp xúc giữa cô Kingsley và anh Wessex làm cô điếng người. Bầu không khí táo bạo bất ngờ trong phòng khách khiến cô vừa khổ sở vừa hiếu kỳ là lạ.
Cô Kingsley ré lên lần nữa.
“Ừm, phải rồi, tôi biết con lợn con bé nhỏ này rồi. Nhưng một phần trong tôi muốn làm nông dân thêm một lúc nữa”. Anh Wessex vắt chéo chân và lẩm bẩm. “Tình huống khó xử, khó xử”.
Cô Kingsley cười không thành tiếng trong lòng bàn tay. Anh Conrad hùng hổ phát biểu rằng những người khác cũng xứng đáng đến lượt làm nông dân. Anh Wessex đành từ bỏ ý định trước áp lực đó và xác nhận tên cô Kingsley. Trở thành người nông dân mới, ngay lập tức cô Kingsley rơi vào lòng anh Conrad và ở lại đó để cân nhắc những lựa chọn trong khoảng thời gian dường như dài vô tận.
Chúa lòng thành, chuyện này thật không đứng đắn.
Quý bà Kingsley và Avery cho phép nó? Đúng thế. Hai người họ ngồi đằng sau Elissande một chút, ngoài vòng tròn trò chơi, quý bà Avery nói chuyện sôi nổi, như bà vẫn luôn thế.
“… năm trước, trong một trò chơi Nhồi nhét, cô ta đang trốn và anh ta tìm thấy đầu tiên, rồi chui vào chiếc tủ búp phê với cô ta. Họ hẳn đã nghĩ nơi chốn của cô ta là không thể xâm nhập được hoặc hoàn toàn quên mất chính mình. Bà mà nhìn thấy tình trạng không quần áo của cô ta và anh ta! – khi tôi đi đến cái tủ búp phê đó. Vì thế tất nhiên họ đã kết hôn”. Quý bà Avery thở dài. “Tôi thực sự thích cái trò Nhồi nhét đó”.
Elissande gần như hét lên khi ai đó đột nhiên ngồi vào lòng cô. Đó là cô Beauchamp, đang cười ngặt nghẽo như thể vừa được cho uống một liều thuốc cười.
“Tôi có thể nói luôn là đây không phải một quý ông”, cô nói giữa những tràng cười bùng nổ.
“Lam sao cô biết được?” Ngài Vere hỏi, với tất cả vẻ chân thành.
Elissande trợn tròn mắt từ phía sau đầu cô Beauchamp.
“Ngốc nghếch, thưa ngài. Tất nhiên là tôi biết. Lưng tôi đang được tựa vào cái đệm rất êm. Tôi thậm chí không cần con lợn này ré lên để nhận ra cô ấy. Một bộ ngực tuyệt vời như thế này chỉ có thể thuộc về chủ nhân của chúng ta. Là cô Edgerton. Tôi nói đúng không?”
Elissande phải trả lời. “Đúng, cô đã đúng, cô Beauchamp”.
Cô Beauchamp nhảy khỏi lòng Elissande và giật khăn bịt mắt ra. “Tôi biết mà”.
Bây giờ chiếc khăn đang bịt trên mắt Elissande. Cô bị quay vòng, hoặc là cảm thấy thế, bốn vòng rưỡi sang bên trái và hai vòng rưỡi sang bên phải. Vì thế cô đang đối mặt gần với hướng mà cô vừa đứng lên khỏi ghế.
Đối diện với cô là ngài Vere. Và cô chắc chắn không muốn tiến đến phía đó. Cô ngập ngừng quay sang bên phải. Một chút nữa. Một chút nữa chăng, có lẽ thế? Đó có phải vị trí của ngài Frederick không?
Cô không biết ngồi vào lòng anh có ích lợi gì. Nhưng nếu cô phải rơi vào lòng ai đó, cô thà rằng rơi vào lòng anh.
Cô lưỡng lự quyết định hướng, bàn tay cô giơ về phía trước. Nhưng sau vài bước, cô dừng lại. Tiếng lò sưởi lách tách. Âm thanh đến thẳng từ sau lưng cô, nghĩa là không phải cô đang tiến đến chỗ ngài Frederick.
Cô quay một phần tư vòng sang bên trái. Ai đó huýt sáo trước mặt cô và một cô gái cười khúc khích bên phải cô. Âm thanh đó giống tiếng cô Kingsley? Nếu cô đang tiền vế phía ngài Frederick, chẳng phải cô Kingsley nên ở bên trái chứ không phải bên phải cô hay sao?
Cô lùi lại một hai bước. Có phải cô đã trở lại trung tâm của vòng tròn rồi không? Cô lùi lại hai bước nữa, và vấp vào một bàn chân ở phía sau.
Cô thở dốc. Và thở dốc lần nữa khi một đôi tay mạnh mẽ nhẹ nhàng bắt lấy eo cô. Anh ta khéo léo chỉnh cô đứng thẳng – phải là anh ta, cô rất chắc chắn điều đó. Tạng người cô không nhỏ nhắn như một con chim; không một quý cô nào đang hiện diện có thể điều chỉnh trọng lượng của cô dễ dàng như thế.
“Cám ơn”, cô nói.
Không có trả lời, nhưng quý bà Avery nói từ đâu đó “Nào, nào, cô Edgerton, cô không thể đơn giản bước đi như thế. Cô đang tiến đến lòng anh ta. Và đừng tranh cãi, thưa ngài. Cô ấy đã tiến đến lòng ngài. Ngài không thể chuyển hướng cô ấy đến nơi khác”.
Quý bà Avery đang di chuyển vòng quanh. Elissande không thể nhận ra giọng nói của bà ta xuất phát từ đâu. Cô đứng nguyên một chỗ, không chắc chắn phải làm gì.
“Ôi, thôi nào, thưa ngài. Ngài biết phải làm gì mà”, quý bà Avery thúc giục.
Hiển nhiên là anh ta biết, vì anh ta đích thân nhấc cô lên, như thể cô nặng không hơn một con mèo, và đặt cô xuống không phải vào lòng, mà là chiếc ghế, giữa hai đùi của anh ta.
Cô nuốt nghẹn với cảm giác báo động ở quá gần với một người đàn ông, đùi cô áp vào đùi anh ta. Anh ta tỏa ra một sức mạnh thể xác mạnh mẽ, mạnh hơn cả phần không gian anh đang chiếm hữu quanh cô, như thể cơ thể anh ta sẽ dễ dàng nhấn chìm cô nếu cô không cẩn thận giữ mình.
Cô xòe bàn tay, lần tìm chỗ gác tay của ghế. Nhưng cô chỉ chạm vào bàn tay anh ta: trần, ấm áp và đã chiếm cứ thành ghế. Cô giật tay lại. Cử động đó giật người cô ra sau áp vào ngực anh ta.
Cô đã sai; không phải cơ thể anh ta sẽ nhấn chìm cô, mà nó thực sự đã làm được như vậy. Cô đã bị anh ta bao quanh, bởi sự im lặng, nhưng vẫn hiện diện, trong khi cô bồn chồn và lóng ngóng, không thể coi sự tiếp xúc giữa họ là sự vô tư đùa cợt như những người khác vẫn làm.
Anh ta chạm vào cô lần nữa, bàn tay nắm cẳng tay cô, giữ cô ổn định. Thực ra là, đẩy phần thân trên của cô ra xa khỏi anh ta.
Có lẽ cuối cùng cô đã ngã vào ngài Frederick. Cô cảm thấy thế, anh có thể nghĩ rằng phải duy trì ý thức về lòng tự trọng và tính đúng đắn giữa những lúc thô tục vô nghĩa như thế này. Để giúp anh trong nỗ lực đó, cô đẩy mông về phía trước. Chỉ để gần như rời khỏi ghế. Cô vội vã lùi lại, thẳng vào người anh.
Lần này, cô thậm chí không thể thở dốc. Đằng sau mông cô anh đã, Chúa kính mến, anh đã…
Cứng.
Má cô bỏng rát. Cô không thể hiểu gì hơn nữa. Cô chết lặng tại chỗ: Cô không thể nghĩ, không thể nói, không thể nhúc nhích dù chỉ một cơ bắp để giải thoát mình.
Lần nữa, anh lại là người chịu trách nhiệm về tình huống này, nâng cô lên, và lần này, khi ngồi xuống, cô nhận ra mình ngồi trên lòng anh, phần nào tách khỏi phần cơ thể đã làm cô kinh ngạc.
Nhưng vẫn chưa đủ xa để thoát khỏi cảm giác cặp đùi mạnh mẽ của anh thật sống động dưới mông cô. Thật là, ý tưởng thoát khỏi sự rộn ràng này là của ai cơ chứ?
“Tôi… tôi phải làm gì bây giờ?” cô cầu cứu.
“Nói, ‘Ré lên, lợn con, ré lên’”, ai đó nói.
Cô không thể nói kiểu thế với người đàn ông sau lưng. Làm như thế trong những hoàn cảnh bình thường đã là kỳ cục. Trong tình huống này lại là sai lầm khủng khiếp. Cô sẽ phải đoán danh tính của anh ta mà không có manh mối nào.
Anh ta dường như khá cao, vậy là loại được anh Kingsley. Và gần như chắc chắn rằng anh ta không phải anh Wessex, người có nước hoa cologne luôn đi trước mình. Người đàn ông phía sau cô chỉ có mùi khói thuốc lá nhẹ và, thoang thoảng mùi kem cạo râu.
“Tôi nghĩ cô Edgerton thích được ngồi trên lòng con lợn này”, cô Beauchamp vừa nói vừa cười khúc khích.
Giọng cô Beauchamp rất gần, thực ra là ngay bên trái Elissande. Và bên phải cô Beauchamp phải là…
“Ngài Vere”, cô lẩm bẩm.
Và đứng lên ngay lập tức. Anh ta bắt đầu vỗ tay trước cả khi cô kéo chiếc khăn bịt mắt ra.
“Làm sao cô biết là tôi?” anh ta nói, vẫn vỗ tay, với một nụ cười cực kỳ ngây thơ đến mức lẽ ra nó phải thuộc về cô. “Tôi thậm chí còn chưa ré lên”.
“Giỏi đoán thôi”, cô trả lời.
Cô Beauchamp đã đúng: cô đã thích cảm giác kích thích, lạ lẫm, xấu hổ nhưng không hoàn toàn khó chịu lúc ngồi gọn trong lòng anh ta. Nhưng bây giờ cô đang bị cự tuyệt – bởi anh ta, bởi chính cô và bởi nhục vọng mù quáng của cơ thể cô.
Tuy nhiên, sự cự tuyệt đó không ngăn được những nhận thức mới về anh ta: mái tóc mềm mại khi cô buộc khăn bịt mắt cho anh ta, bờ vai rộng khi cô quay anh ta, thật mạnh khiến anh ta lảo đảo, cánh tay cơ bắp và rắn chắc khi cô ngăn anh ta không ngã vào cô.
Trò chơi tiếp tục, kết thúc một cách ầm ĩ và hào hứng vào lúc mười một giờ, với cô Beauchamp ngồi gọn gàng trong lòng ngài Vere và cả hai người cười như thể họ chưa bao giờ có một thời gian vui vẻ như thế.
Mười hai giờ rưỡi đêm, Elissande cuối cùng đã rời khỏi phòng của quý bà Kingsley. Quý bà Kingsley đã trượt chân khi họ cùng nhau đi lên cầu thang chính và Elissande đã đỡ được. Cô đã không than phiền gì, nhưng cô Kingsley đã lo lắng thì thầm với Elissande rằng dì cô mắc chứng bệnh đau nửa đầu và có lẽ cuộc chơi ầm ĩ trong buổi tối vừa rồi là quá sức đối với dì cô.
Vì thế Elissande và cô Kingsley đã ngồi cùng quý bà Kingsley cho đến khi cô chìm vào giấc ngủ. Sau đó Elissande đưa cô cháu gái đang ngáp liên hồi về phòng. Bản thân cô cũng ngáp, khi cô đi về phía phòng dì Rachel ở đầu bên kia ngôi nhà.
Cô dừng lại trong lúc đang ngáp nửa chừng. Ai đó đang hát, vui vẻ léo nhéo điệp khúc hào hứng của một bài hát lố bịch.
“‘Cha sẽ không mua cho tôi một con chó! Một con chó! Cha sẽ không mua cho tôi một con chó! Một con chó! Tôi đã có một con mèo nhỏ. Và tôi rất thích nó. Nhưng tôi thích một con chó hơn. Wow, wow, wow, wow’”.
Cô rẽ qua góc nhà. Ngài Vere. Tất nhiên. Anh ta đang nhún nhảy, lắc lư và tựa mình vào bức tường ngay ngoài cửa phòng của dì Rachel.
“‘Chúng tôi thường có hai con chó nhỏ’”, anh ta hát, “‘Những chú chó nhỏ xinh đẹp đến thế. Nhưng cha bán chúng bởi vì chúng thường cắn tai nhau’”.
Cô vật lộn để tách răng ra. “Ngài Vere, làm ơn. Ngài sẽ đánh thức mọi người dậy đấy”.
“À, cô Edgerton. Thật thú vị khi gặp được cô, như mọi khi”.
“Muộn rồi, thưa ngài. Ngài nên đi nghỉ”.
“Đi nghỉ? Không đâu, cô Edgerton. Buổi tối hôm nay là để ca hát. Tôi hát không hay sao?”
“Ngài hát rất tuyệt. Nhưng ngài không thể hát ở đây”. Và ngài Frederick đang ở đâu mà không cứu cô vào lúc này?
“Vậy tôi có thể hát ở đâu?”
“Ngài nên ra ngoài nếu muốn hát”.
“Cũng được”.
Anh ta đi được một đoạn thì vấp chân và phải níu lấy cánh cửa phòng chú cô. Cô chạy ào đến và giật tay anh ta ra khỏi tay nắm cửa. “Ngài đang làm gì thế, ngài Vere?”
“Cánh cửa này lẽ ra phải mở ra ngoài nhà chứ nhỉ?”
“Tất nhiên là không, thưa ngài. Vì đây là phòng của chú tôi”.
“Thật ư? Xin lỗi. Tôi thường không mắc phải sai lầm như thế này, tôi đảm bảo với cô đấy, cô Edgerton. Bình thường tôi có khả năng định hướng không chê vào đâu được”.
“Ồ, phải thế không?”
“Cô có thể chỉ đường ra cho tôi không?” anh hỏi.
Cô hít sâu. “Tất nhiên. Hãy theo tôi. Và làm ơn im lặng cho đến khi chúng ta ra khỏi nhà”.
Anh ta không hát ầm lên, nhưng anh ta cũng không thực sự im lặng. Anh ta nói liên tục khi đi ngoằn ngoèo bên cạnh cô. “Tối nay chơi trò Ré như lợn con rất vui phải không?”
“Tôi chưa bao giờ có một thời gian vui vẻ hơn thế”.
“Và tôi sẽ luôn luôn trân trọng ký ức xúc động khi mông cô đặt trên lòng tôi”.
Cô không trân trọng ký ức phần cương cứng của anh áp vào mông cô và một luồng hơi nóng lan trên mặt, cô ghê tởm mình khi nhớ lại.
Vì sao cô lại cảm thấy chút rung động đối với anh ta? Sự ngu ngốc quá mức của anh ta lẽ ra phải thể hiện rành rành qua sự đụng chạm, mà đáng lý không thể nhầm lẫn được như một cơn sốt, hay căn bệnh phong.
Cô bước nhanh hơn. Anh ta bắt kịp bằng cách nào đó. “Cô nghĩ vì sao mà ký ức mông cô trên lòng tôi lại đáng nhớ hơn so với người khác, như cô Melbourne chẳng hạn?”
Nêu có dấu hiệu nào cho cô biết rằng anh ta sẽ nóỉ chuyện thô tục trần trụi như thế, cô đã quay lại và đấm anh ta. Thậm chí có lẽ đá anh ta. Nhưng anh ta đang mải miết trong sự lãng đãng vốn đã quá đặc trưng, và làm thế sẽ giống như đánh một đứa bé hay đập một con chó.
“Vì mông tôi to gấp đôi mông của cô Melbourne”, cô nói giọng kèn kẹt.
“Vậy ư? Tuyệt vời. Sao tôi chưa bao giờ nghĩ như thế nhỉ?”
Họ đi đến cửa chính của ngôi nhà. Cô mở khóa và dẫn anh ta ra ngoài một đoạn. Lúc họ dừng lại, anh ta bắt đầu hát. Cô quay người bỏ đi.
“Không, không, cô Edgerton. Cô nhất định không được đi. Hãy để tôi biểu diễn cho cô”.
“Nhưng tôi mệt”.
“Thế thì tôi sẽ biểu diễn dưới cửa sổ phòng cô. Thế không lãng mạn sao?”
Cô thà chọc một vật nhọn vào tai. “Trong trường hợp đó, tôi sẽ ở lại đây và lắng nghe”.
Anh ta hát tràng giang đại hải. Đủ lâu để tiến hành một đám cưới theo đạo Hindu. Đủ lâu để một con sên trèo lên đỉnh Mont Blanc. Đủ lâu để lục địa Atlantis dâng lên và chìm xuống lần nữa.
Trời nhiều gió và lạnh, nhiệt độ khoảng bốn độ. Cô rùng mình trong chiếc váy mặc trong bữa tối mong manh, đôi vai trần và cánh tay cô có cảm giác như bị kim chích. Anh ta hát to và lạc điệu như đang say xỉn. Và ngay cả bầu trời đêm cũng âm mưu chống lại cô: không đổ mưa để buộc anh ta trở lại giường, và quá nhiều mây để cô có thể đề xuất ngắm trăng sao thay vì hát hò.
Bỗng nhiên anh ta dừng lại. Cô nhìn anh ta, ngạc nhiên. Cô đã chấp nhận khả năng rằng anh ta sẽ không bao giờ dừng lại. Anh ta cúi chào, gần như ngã lộn nhào vì hành động đó, và sau đó nhìn cô đầy mong chờ. Rõ ràng cô được chờ đợi để vỗ tay. Cô làm thế. Bất cứ điều gì để vứt bỏ anh ta.
Tiếng vỗ tay của cô khiến anh ta hạnh phúc và anh ta không ngần ngại nói với cô như thế. “Tôi thật vui mừng vì đã trở thành nguồn vui cho cô, cô Edgerton. Tôi sẽ ngủ ngon hơn khi biết rằng cuộc đời cô phong phú hơn và đẹp đẽ hơn vì giọng hát của tôi”.
Cô không đánh anh ta. Việc đó chắc chắn sẽ là căn cứ để cô được phong thánh một ngày nào đó, bởi vì bất kỳ người nào có lòng kiên nhẫn kém hơn một vị thánh sẽ gây tổn thương khủng khiếp cho anh ta vào lúc này.
Cô cùng đi đến cửa phòng anh ta, cẩn thận mở cửa cho anh ta.
“‘Chúc ngủ ngon, chúc ngủ ngon, chia tay quả là một nỗi đau ngọt ngào’”. Anh ta cúi chào lần nữa và đổ sang một bên, va rầm vào khung cửa. “Ai viết câu đó, cô có nhớ không?”
“Ai đó rất quen, thưa ngài”.
“Tôi cho là cô nói đúng. Cám ơn, cô Edgerton. Cô khiến buổi tối hôm nay trở thành một đêm không thể nào quên”.
Cô đẩy anh ta vào phòng và đóng cửa lại.
Dì Rachel đang ngủ, tất nhiên – cồn thuốc phiện giúp bà thoát khỏi cuộc đời. Thỉnh thoảng, và rất nhiều lúc gần đây, Elissande cũng bị quyến rũ bởi cồn thuốc phiện. Nhưng cô sợ vòng kìm tỏa của nó. Tự do là mục đích duy nhất của cô. Phụ thuộc khốn khổ vào một loại thuốc không phải là tự do, ngay cả khi không có chú cô nhăm nhe rút lại cái chai đó chỉ vì ý nghĩ nhất thời.
Cô vẫn còn một đêm và một ngày. Tự do của cô lúc này không gần hơn hai ngày trước là bao. Thực ra, nó xa hơn rất nhiều trong suốt những giờ choáng váng khi mà cô nhìn thấy ngài Vere nhưng lại không thể nghe hết những gì anh ta nói. Và ngài Frederick, ngài Frederick tử tế, tốt bụng, thân ái theo cách riêng của mình vẫn khó với tới như mặt trăng.
Ván bạc đặt-cược-tất-cả của cô có vẻ đã kết thúc thất bại. Cô không biết phải làm gì thêm nữa.
“Đi đi”, dì Rachel đột nhiên thì thầm.
Elissande đến gần giường. “Dì nói gì thế?”
Mí mắt dì Rachel rung rung nhưng không mở. Bà đang lẩm bẩm trong giấc ngủ. “Đi đi, Ellie. Và đừng quay lại”.
Khi Elissande mười lăm tuổi, cô đã bỏ đi một lần. Và đó chính xác là những gì dì cô đã thì thầm vào tai cô trước khi cô đi bộ năm dặm đến Ellesmere. Con đường rẽ ở Ellesmere dẫn cô đến Whitchurch. Đường ranh giới ở Whitchurch dẫn cô đến Crewe. Từ Crewe, cô chỉ còn ba giờ đồng hồ để đến London.
Tuy nhiên ở Crewe, cô đã gục ngã.
Cuối ngày cô đã trở về nhà, đi bộ đúng năm dặm để về đến Highgate Court nửa tiếng trước khi chú cô trở lại. Dì Rachel không nói gì. Dì chỉ khóc. Họ khóc cùng nhau.
“Đi đi”, dì Rachel lại nói, lần này yếu ớt hơn.
Elissande áp tay vào mặt. Cô phải suy nghĩ nhiều hơn. Cô không được để một trở ngại nhỏ bé như việc không có khả năng thu hút một lời cầu hôn ngáng đường. Chắc chắn Chúa đã không tạo ra một tai nạn chuột đối với quý bà Kingsley mà không vì cái gì.
Đầu cô ngẩng lên. Tối nay quý bà Avery đã nói gì? Bà ta bắt gặp một người đàn ông và một phụ nữ trần truồng trong trong tủ búp phê và họ phải kết hôn.
Quý bà Avery có thể bắt quả tang Elissande và ngài Frederick ở cùng nhau, trong tình trạng trần truồng. Và sau đó họ sẽ phải kết hôn.
Nhưng làm sao cô có thể làm điều này với ngài Frederick? Làm sao cô có thể cố tình gài bẫy anh? Chú của cô là người sở hữu tất cả sự xảo quyệt, tất cả sự nhẫn tâm và tất cả những mánh khóe. Cô chưa bao giờ muốn giống như ông ta.
“Ellie”, dì cô lẩm bẩm trong giấc ngủ phiền muộn. “Ellie. Đi đi. Đừng quay lại”.
Trái tim Elissande thít chặt. Rõ ràng một đời sống dưới sự kiểm soát của chú cô đã khiến cô không thể không nhuốm bẩn. Bởi vì cô có thể làm được. Cô có thể làm điều này với ngài Frederick. Cô có thể sử dụng anh để cứu chính mình và dì Rachel.
Và cô sẽ làm.
Từ trong phòng mình, Vere quan sát cô Edgerton trở về phòng riêng. Sau khi ánh sáng dưới cánh cửa phòng cô biến mất, anh đợi thêm năm phút trước khi bước ra hành lang, gõ một tiếng vào cửa phòng quý bà Kingsley khi đi ngang qua.
Bà Douglas đang ngủ. Anh mở khóa bức tranh và đẩy nó sang một bên. Quý bà Kingsley đến kịp lúc để cầm đèn trong khi anh cạy lại khóa cánh cửa ngoài của ngăn bí mật – anh đã bảo Nye khóa ngăn bí mật trước khi bỏ đi, nếu không bức tranh sẽ không đóng khít lại.
Lần này, anh chỉ mất một phút để mở khóa. Quý bà Kingsley đã đứng gác cho Nye trong khi Vere giữ Elissande ở xa, cô đã có mã số của ổ khóa. Cô quay số và kéo cửa trong ra.
Và việc này thật đáng để mất công.
Bên trong ngăn chứa bí mật là tài liệu chứng minh quá khứ thất bại của Edmund Douglas. Mỏ kim cương là hợp pháp. Nhưng sau gia tài đáng nể tìm thấy ở Nam Phi, những cuộc đầu tư làm ăn tiếp theo nhằm nhân lượng tài sản mới tìm thấy lên đã không có thành công nào mà toàn thất bại nặng nề.
“Ôi Chúa tôi, ông ta là người ưa chuốc khổ vào thân, phải không?” quý bà Kingsley kinh ngạc.
Đúng thế và điều này không hợp lý đối với Vere. Tại sao Douglas tiếp tục bám trụ những vụ đầu tư này? Sau năm hoặc bảy lần thất bại, một người đàn ông không phải sẽ nhận ra rằng anh ta đơn giản chỉ là một gã may mắn tìm được một mỏ kim cương và cần dừng việc cố gắng đoạt lại may mắn chớp nhoáng đó hay sao?
“Nếu anh tính tổng thiệt hại, có lẽ ông ta đang nợ nần chồng chất ấy chứ”, quý bà Kingsley phấn khích thì thầm. “Thấy không, ông ta cần tiền. Đó là động cơ chúng ta đang tìm”.
Thứ làm quý bà Kingsley phấn khích hơn nữa là một tập hồ sơ viết bằng mật mã, một loại mật mã phức tạp hơn nhiều so với loại chỉ chuyển đổi vòng quanh những chữ cái.
Nếu cho rằng Edmund Douglas đã viết lại những bí mật của mình bằng mật mã, thì ông ta thực sự phải viết lách rất thông thạo. Càng biết về Douglas, Vere càng thấy người đàn ông này không giống với vẻ bề ngoài. Ngôi nhà khiêm tốn, diện mạo thanh lịch, chữ viết tao nhã, không kể đến giọng nói đầy giáo dục, cách nói của cháu gái ông ta không hề có dấu hiệu của những bến tàu Liverpool. Một gia tài ở Nam Phi thực sự có thể thay đổi một người đàn ông nhiều đến như thế hay sao?
“Một trăm bảng để khẳng định rằng tất cả chứng cứ chúng ta cần đã ở đây”, quý bà Kingsley nói.
Vere gật đầu. Anh sờ tay xung quanh ô bí mật. Chà, họ vẫn chưa khám phá hết bí mật. Có một đáy giả.
Ngăn dưới đáy giả chỉ chứa một chiếc túi nhỏ có dây rút ở đầu. Vere mong nó chứa đầy kim cương, thay vào đó anh chỉ thấy một món đồ trang sức hoàn chỉnh.
“Cũng bình thường, đúng không?” quý bà Kingsley hỏi, sờ nhẹ vào chiếc vòng cổ bằng đá hồng ngọc. “Tôi cho là mọi thứ bên trong nhiều nhất cũng chỉ đáng giá một nghìn bảng”.
Hình ảnh cô Edgerton đột nhiên đến với anh, cô Edgerton với cái cổ trống không, cổ tay trống không, và những ngón tay trống không. Anh chưa bao giờ nhận ra điều này trước đây, nhưng cô không đeo một món đồ nữ trang nào, kể cả một chiếc trâm cài đầu chạm trổ. Một điều kỳ quặc khác thường đối với cô cháu gái của một ông chủ mỏ kim cương.
Tuy nhiên, khi anh trả lại chiếc túi vào ngăn bí mật, anh nhận ra rằng anh đã sai lầm. Còn một thứ khác trong ngăn, một chiếc chìa khóa nhỏ xíu, chiều dài ngắn hơn ba centinmet, với rất nhiều khấc dọc xương sống mảnh như một cái tăm.
Quý bà Kingsley đưa chiếc chìa khóa ra trước ánh đèn. “Nếu đây là chìa cho một ổ khóa, thì tôi có thể bẻ đôi cái ổ khóa đó bằng tay không”.
Họ để lại mọi thứ ngoại trừ bộ hồ sơ mật mã hóa mà quý bà Kingsley muốn giữ.
“Cô sẽ mang nó đến London vào buổi sáng chứ?” Vere thì thầm, phớt lờ giọng nói kiệt sức của mình.
“Tôi không thể để tất cả khách khứa ở lại và bỏ đi trong tám tiếng. Và tốt nhất anh cũng không nên làm thế. Nếu không Douglas dứt khoát sẽ nghi ngờ anh nếu ông ta phát hiện ra nó bị mất trước khi chúng ta có thể trả lại về ngăn bí mật”.
Cô bỏ đi với tập hồ sơ. Vere đóng và khóa ngăn bí mật lại. Khi anh đẩy bức tranh trở lại đúng chỗ và đóng chốt, anh quay lại và chết lặng.
Khi đến kiểm tra dì mình, cô Edgerton chắc chắn đã thêm than vào lò sưởi. Trong ánh lửa, bà Douglas đang nằm mở to mắt, và nhì trừng trừng vào anh.
Bất kỳ một người đàn bà nào khác hẳn sẽ gào lên. Nhưng bà ta vẫn im lặng đến kỳ lạ, thậm chí ngay cả khi đôi mắt bà ta chứa đầy nỗi kinh hoàng.
Vere thận trọng di chuyển, nhích từng tí một về phía cửa. Bà ta nhắm mắt lại, cả người run rẩy.
Anh hít một hơi thật sâu, lách ra khỏi cửa, và lắng nghe. Nếu bà Douglas khôi phục lại giọng nói và hét lên, bây giờ bà ta sẽ làm thế. Cầu thang của người làm ở ngay gần, anh sẽ thoát theo lối ấy để tránh bị những vị khách khác bắt gặp khi họ nghe thấy tiếng thét khủng khiếp đó.
Nhưng không có âm thanh nào đến từ bà Douglas, không một tiếng thở hổn hển, không một tiếng thở khò khè, thậm chí không cả một tiếng thì thầm.
Anh đi về phòng, lòng bồn chồn không yên.
Chiếc đồng hồ đứng bằng đồng điểm ba tiếng chuông vang lên trong không gian đen tối, tĩnh lặng.
Luôn luôn là ba giờ.
Lan can bằng đồng giả vàng lạnh ngắt. Cây cọ cao cha anh vô cùng tự hào giờ như bóng ma với những cánh tay dài đu đưa. Một chiếc lá cào xước mu bàn tay anh. Anh rùng mình sợ hãi.
Nhưng anh vẫn đi xuống, dò dẫm từng bước một. Chân cầu thang có ánh sáng mờ mờ. Anh bị lôi kéo đến đó như một đứa bé chập chững đi đến một giếng nước sâu.
Trước tiên anh nhìn thấy bàn chân của bà, hai bàn chân thon thả trong đôi giày khiêu vũ xanh lơ. Chiếc váy mờ ảo, hơi óng ánh trong ánh sáng không biết đến từ nơi nào. Một cánh tay, đi găng tay trắng dài qua khuỷu tay, nằm ngang trên nửa thân người trên của bà.
Chiếc khăn choàng trắng cuốn lỏng lẻo quanh vai. Kiểu tóc của bà đã bị hỏng, những chiếc lông và kẹp cắm lộn xộn trong búi tóc rối bời. Chiếc vòng cổ có năm sợi dây bằng đá sapphire đáng ghen tị đã tự lật ngược và bây giờ đang nằm trên miệng và cằm bà như một cái khóa miệng bằng châu báu.
Sau đó, và chỉ sau đó, anh mới chú ý rằng cổ bà đã gãy gập lại.
Bụng anh nhộn nhạo muốn nôn. Nhưng bà là mẹ anh. Anh với tay để chạm vào bà. Mắt bà đột nhiên mở ra, đôi mắt trống rỗng nhưng tê liệt vì khiếp sợ. Anh giật lùi lại, gót chân anh mắc vào bậc đầu tiên của cầu thang, và anh ngã xuống.
Xuống, xuống, xuống…
Vere bật dậy trên giường, thở hổn hển. Giấc mơ tái diễn theo định kỳ, nhưng chưa bao giờ giống như thế này. Bằng cách nào đó anh đã mang cặp mắt hãi hùng của bà Douglas vào trong cơn ác mộng cũ.
Cửa phòng anh mở ra. “Ngài ổn chứ, ngài Vere? Tôi nghe thấy tiếng ồn”.
Cô Edgerton, một hình bóng mơ hồ ở ngưỡng cửa.
Trong giây lát anh bị mắc kẹt trong khao khát điên rồ muốn có cô bên cạnh anh, bàn tay cô vuốt ve cằm anh, nói với anh rằng đó chỉ là một giấc mơ. Cô sẽ dỗ dành anh nằm xuống, dém chăn cho anh, và mỉm cười…
“Ồ, không, trời, không, tôi không ổn!” Anh nói khó khăn. “Tôi ghét giấc mơ đó làm sao. Cô biết giấc mơ đó mà, cô đang đi lên đi xuống tìm một cái nhà vệ sinh và không tìm thấy cái nào ở bất cứ đâu trong ngôi nhà này – không có bô và thậm chí không có một cái thùng phù hợp. Và mọi phòng đều chật cứng, và cả ngoài vườn, bãi cỏ, và… Ôi, Chúa lòng thành, tôi hy vọng tôi đã không…”
Cô phát ra một âm thanh tắc nghẹn.
“Ồ, tạ ơn Chúa”, anh tiếp tục. “Chăn đệm của cô an toàn. Nhưng nếu cô thứ lỗi cho tôi, tôi phải…”
Cánh cửa đóng lại một cách dứt khoát.
Vào buổi sáng, mọi người đánh xe đến dinh thự Woodley để nhìn đống chuột chết kinh tởm. Người bắt chuột, cùng với vài con chó bắt chuột kiệt sức, một cuộc săn lùng đáng hài lòng và một giọng nói khó hiểu, hãnh diện xoắn lấy hàng ria mép đen dày đặc khi anh ta tạo dáng trước máy ảnh của ngài Frederick, để làm kỷ niệm cho dịp này.
“Người làm của tôi đang dốc sức làm việc”, quý bà Kingsley nói với Elissande. “Có rất nhiều việc phải làm, nhưng họ đảm bảo với tôi rằng ngôi nhà sẽ ở được vào ngày mai. Tôi hứa với cô chúng tôi sẽ rời đi ngay khi đó”.
Elissande nhìn thấy chữ viết trên tường. Không còn thời gian nữa. Điều gì đó phải xảy ra.
Cô phải làm điều gì đó.
Phải tự cứu mình trước khi trời cứu.