Chân cô nhức nhối, bàn chân cô đau và bàn tay cô ngứa ngáy muốn tát anh. Trên con đường dài về nhà, đã có lúc cô lao đi trước anh, cho đến khi cô rẽ sai đường và anh phải gọi cô quay lại. Sau đó cô đi sau, nhưng vẫn để anh trong tầm nhìn, sự im lặng của anh đều đặn đổ thêm dầu vào cơn giận dữ trong thâm tâm cô.
Tại sao cô lại tin rằng cô có thể tìm thấy sự an toàn và mãn nguyện với người nào đó có một cuộc đời thứ hai? Không ai lao mình vào con đường như thế mà không có sự cưỡng ép. Nếu cô suy nghĩ về chuyện đó, cô sẽ nhận ra rằng đằng sau kẻ ngốc phải là một người đàn ông bí mật và méo mó giống như cô.
Cô đúng là một con ngốc.
Cuộn mình trong vòng xoáy giận dữ, cô gần như không nhìn thấy một người hầu đang chạy về phía cô cho đến khi hắn ta dừng lại và bước theo cô.
“Thưa ông chủ, cô chủ, bà Douglas đi rồi!”
Lời nói của hắn ta không có chút ý nghĩa nào. Cô quệt tay qua mắt. “Nói lại lần nữa đi”.
“Bà Douglas, bà ấy đi rồi!”
“Đi đâu?”
“Ga Paignton, thưa cô”.
Có chuyện gì mà dì Rachel lại đi đến ga Paignton? Bà không có nơi nào để đến thăm mà không cần phải đi tàu.
“Bà Green đâu?” Không nghi ngờ gì là bà y tá sẽ nói với cô rằng người hầu này đang mê sảng.
Bà Green cũng đang chạy đến, mắt mở to, mặt đỏ lựng. “Thưa cô, bà Douglas tự mình bỏ đi rồi!”
Elissande bước nhanh hơn. Chắc chắn rằng đến khi cô đến phòng dì Rachel, cô sẽ thấy bà đang an toàn và khỏe mạnh. “Tại sao bà không đi với dì ấy, bà Green?”
“Sáng nay, chúng tôi đi đạo một vòng trong vườn. Sau đó bà ấy nói muốn nghỉ ngơi. Trông bà ấy không khỏe, vì thế tôi đưa bà ấy vào nhà và lên giường. Tôi quay lại phòng bà ấy một giờ sau đó và nó trống không”.
“Thế thì làm sao bà biết dì ấy đi đến ga Paignton?”
“Peters nói thế”.
Perters là người đánh xe, đến lúc này cũng đã đi bên cạnh Elissande. “Bà Douglas tự đi đến nhà xe để bảo tôi đưa bà ấy đến ga Paignton. Vì vậy tôi làm thế, thưa cô”.
Cuối cùng Elissande cũng dừng lại. Toàn bộ đám tùy tùng của cô cũng dừng lại.
“Dì ấy có nói tại sao lại muốn đi đến nhà ga không?”
“Có, thưa cô. Bà ấy nói sẽ đi London cả ngày. Và khi tôi quay lại, bà Green, bà Dilwyn và mọi người đều nhảy dựng lên vì hốt hoảng”.
Câu chuyện quá sức chịu đựng của Elissande. Cô không thể phân biệt được đầu đuôi câu chuyện, và một phần cô vẫn tin rằng đây là một trò đùa tinh vi của ngày Cá tháng Tư diễn ra nhầm ngày.
Gần như không suy nghĩ, cô liếc nhìn người vẫn còn là chồng mình.
“Hôm nay có người lạ nào đi qua nhà không?” Anh hỏi, vẫn trong cái tôi lạnh lùng và bản lĩnh.
Trái tim cô chìm xuống trước câu hỏi của anh.
Bà Dilwyn lúc này cũng đã tham gia với họ. “Không, thưa ngài, theo tôi biết thì không”.
Người đánh xe và người hầu đều lắc đầu. Tuy nhiên bà Green cau mày. “Nghĩ đến điều đó, có một kẻ lang thang, thưa ngài. Hắn ta lảng vảng trên lối đi trước nhà khi bà Douglas và tôi đang ở trong vườn. Tôi cố gắng đuổi hắn đi nhưng bà Douglas – trái tim bà ấy quá tử tế – bà ấy bảo tôi đến nhà bếp và lấy một giỏ thức ăn. Và khi tôi mang cái giỏ ra, kẻ lang thang đó quỳ xuống và cảm ơn bà ấy. Tôi không thích hắn ta nắm tay bà ấy, vì thế tôi đẩy hắn ta đi. Hắn chạy vụt đi sau đó”.
Elissande đã nghĩ chồng cô đã xuyên một cái cọc vào niềm hạnh phúc của cô. Cô đã sai làm sao. Việc này, việc này sẽ làm tan vỡ nền tảng cuộc đời mới của cô.
“Ngày nay, luật dành cho những kẻ lang thang quá khoan dung, tôi vẫn luôn nói thế”, ngài Vere tuyên bố, giờ đã trở lại hoàn toàn với vai diễn. “Và đó là khi bà Douglas bắt đầu có vẻ mệt mỏi, phải không bà Green?”
“Đúng thế, thưa ngài. Đúng là như thế”.
“Bà ấy là một quý bà quá mong manh để ở gần một người thô lỗ như thế”. Anh lắc đầu, sau đó nắm lấy khuỷu tay Elissande. “Đi nào, quý bà Vere”.
Trở lại nhà, căn phòng của dì Rachel trống rỗng như một ngôi mộ bị cướp phá. Elissande lảo đảo và dựa mình vào nắm cửa. Tiếng ồn ào nổi lên từ tầng dưới. Cô bước xuống hai bước một lúc. Đã tìm thấy dì Rachel và mọi người đang reo lên nhẹ nhõm – phải là thế. Phải là thế.
Nhưng nó chỉ là một bức điện tín gửi cho Elissande vừa được tìm thấy, giữa những thư từ đã đến trong lúc ông chủ và cô chủ vắng mặt.
Cháu thân yêu,
Dì bỗng nhiên thèm món hàu nướng pho-mát ở khách sạn Savoy và vì thế đã quyết định đến London và ở lại qua đêm.
Đừng lo lắng cho dì, Elissande nhé. Chỉ biết rằng dì yêu cháu rất nhiều.
Dì thân yêu của cháu.
Ngài Vere lấy bức điện từ bàn tay tê cóng của cô và nhìn lướt qua nội dung, rồi đọc to bức điện cho những người làm đang tụ tập ở đó.
“Thấy chưa, chẳng có gì đáng lo cả”, anh tuyên bố. “Dì ấy đi London, vì dì ấy nói đó là kế hoạch của mình và sẽ trở lại vào ngày mai. Trở lại với công việc đi nào, mọi người. Bà Green, bà có thể uống một tách trà và cứ xem hôm nay là ngày nghỉ vậy”.
“Nhưng…”
Ngài Vere trao cho Elissande một cái nhìn. Elissande thả lỏng tay mình và mỉm cười trấn an bà Green. “Quyết định của dì ấy đôi khi hơi thất thường, bà Green ạ. Chúng ta sẽ quen dần thôi. Dì ấy sẽ trở về vào ngày mai nếu dì ấy nói thế”.
Bà Green nhún chào và đi tìm trà. Những người hầu khác cũng tản đi. Chỉ có ngài Vere và Elissande ở lại hành lang.
“Đi với anh”, anh nói.
Anh đưa cô vào phòng làm việc, đóng cửa và đưa cô một bức điện tín khác. “Cái này gửi cho anh. Có lẽ em muốn đọc”.
Cô liếc xuống bức điện. Nhưng chữ viết lắc lư và chạy náo loạn, không chịu hợp lại thành một câu có cấu trúc hoàn chỉnh. Cô phải nhắm mắt lại và rồi mở ra.
Thưa ngài,
Chúng tôi vừa nhận được báo cáo rằng ông Douglas đã bỏ trốn. Hắn trốn thế nào và trốn ở đâu đều chưa được xác định. Nhưng những nhà chức trách muốn cảnh báo ngài về việc trốn chạy của hắn và yêu cầu sự giúp đỡ của ngài để đưa hắn ta về lại trại giam.
Kính thư,
Filbert.
“Ông ta là kẻ lang thang”, ngài Vere kiên quyết. “Ông ta hẳn đã chỉ dẫn dì em cách đến gặp ông ta”.
Một gọng kìm siết lại quanh ngực Elissande. Cô không thể thở. Bốn ngày trước khi xét xử, chú cô đã săn lùng dì cô ngay giữa ban ngày.
Và Elissande đã làm gì? Ruột để ngoài da, cố gắng tán tỉnh người chồng tàn nhẫn của mình trong một tòa lâu đài đổ nát.
Cũng là người chồng đang ấn một ly whisky vào tay cô.
“Uống đi”.
Rượu whisky cháy một đường xuống cổ họng cô. Cô dốc cái ly lần nữa. Nó đã cạn. “Em cần nữa”.
“Không phải lúc này. Em không có tửu lượng cao đâu”.
Cô chà cái ly không vào trán. “Em không hiểu, không có chuyện nào hợp lý cả. Dì ấy không phải ở một mình. Chú em không nắm cổ và đích thân ra tay bắt cóc dì ấy. Tại sao dì ấy tự bỏ đi gặp ông ta”.
“Ông ta có thể đã đe dọa sự an toàn của em hoặc anh, có thể là cả hai”.
“Ông ta là kẻ trốn ngục. Ông ta bị luật pháp săn đuổi. Ông ta không thể làm hại bất kỳ ai trong chúng ta”.
“Em không hiểu ông ta như dì ấy”.
Cô phản đối giả thuyết của anh. “Em sống với ông ta gần cả cuộc đời mình”.
Anh nhìn chằm chằm vào cô một lúc lâu, như thể cô là sinh vật nào đó sắp bị dẫn đi giết mổ. “Em có muốn ngồi xuống không? Anh cần nói với em vài chuyện”.
Anh cần nói với cô vài chuyện. Về chú cô?
Đột nhiên những sự kiện trong tuần qua lóe lên trước mắt cô. Hàng trăm con chuột tìm được đường vào nhà quý bà Kingsley, một người đàn ông rất thông minh giả dạng một tên ngốc đến Highgate Court, lén lút dò dẫm tất cả mọi nơi, và chỉ vài ngày sau cảnh sát sở hữu đủ chứng cứ để bắt chú cô. Có khả năng nào tất cả những chuyện này đều là những sự việc ngẫu nhiên không?
Cô ngồi xuống. Hoặc có lẽ chân cô đơn giản không thể chống đỡ nổi nữa. “Anh có liên quan đến chuyện này, đúng không? Anh không đến nhà em bởi vì quý bà Kinsley gặp vấn đề về chuột, anh đến bởi vì đang tìm kiếm chứng cứ chống lại chú em”.
“Anh thấy là chúng ta có thể bỏ qua phần đó được rồi”, anh nhẹ nhàng nói.
“Anh làm việc cho cảnh sát?”
Anh nhướng một bên lông mày. “Tất nhiên là không, hầu tước không làm việc. Mặc dù thỉnh thoảng anh hỗ trợ cảnh sát”.
Cô nhấn ngón tay vào sống mũi. “Đó có phải điều anh muốn nói với em không?”
“Em có biết quá trình tìm hiểu của họ không?”
“Theo như ông ta kể, chuyện đó thể hiện lòng nhân đạo và cảm thông của ông ta. Ông ta là một người đàn ông rất giàu có trở lại từ Nam Phi. Dì ấy là một thiếu nữ khốn khổ có người cha đã chết trong nghèo đói sau khi ngân hàng của mình bị phá sản và người chị gái bỏ đi rồi trở thành gái điếm. Tất nhiên, chú em lao đến và giải cứu dì ấy khỏi một cuộc sống cực khổ và tuyệt vọng”.
“Họ có thể đã được giới thiệu với nhau chỉ sau khi ông ta trở về từ Nam Phi, nhưng anh tin rằng ông ta đã lưu luyến với dì ấy từ rất lâu trước đó”.
Điều gì đó trong cô chao đảo một cách nguy hiểm trước tiết lộ của anh. Cô đã nghĩ chắc chắn rằng cô biết mọi thứ cô cần biết về dì và chú cô. “Tại sao anh nghĩ thế?”
“Những bức tranh ở Highgate Court. Freddie đã truy tìm được một bức tranh chị em, có lẽ là hoàn thành vào cuối những năm sáu mươi. Ngày hôm qua anh đã đến Kent để xem. Nó cũng vẽ một thiên thần và một người đàn ông: Cả người thiên thần là màu trắng và người đàn ông đang quỳ gối trong trạng thái ngất ngây. Thiên thần có khuôn mặt của bà Douglas. Người họa sĩ, người anh tin rằng là chú em, bán bức tranh để lấy tiền cho chuyến đi đến Nam Phi”.
“Ông ta đi Nam Phi vì dì ấy?”
“Có lẽ không phải vì dì ấy, nhưng có vẻ dì ấy chiếm một vị trí quan trọng trong tâm trí ông ta. Nó gần như là một nỗi ám ảnh”.
Cô đứng lên, cô không thể ngồi thêm nữa. “Và sau đó chuyện gì xảy ra?”
“Ông ta thất bại, chú em thiếu may mắn hoặc sự nhạy bén trong kinh doanh, hoặc có lẽ cả hai. Nhưng ông ta biết có người tìm được một mạch kim cương dồi dào và khoác lác với bất kỳ ai chịu nghe. Người đàn ông này sẽ khởi hành về Anh và vẻ vang trong sự giàu có mới tìm thấy. Tên ông ta là Edmund Douglas”.
Sự xấu xa anh hàm ý – cô không muốn nghe nữa. Nhưng cô phải biết mọi chuyện. “Tiếp tục đi”, cô nói lào khào.
“Anh có lý do để tin rằng chú em giết Edmund Douglas thật trong chuyến đi từ Nam Phi về Anh. Khi đến Anh, ông ta biến mình thành Edmund Douglas, sử dụng những thư tín dụng của người đàn ông đã chết, và kết hôn với dì em dưới cái tên giả”.
Cô nghĩ mình đã sẵn sàng để nghe điều tồi tệ nhất. Nhưng ly whisky vẫn rơi khỏi tay cô. Nó khẽ rơi bộp xuống thảm và lăn đi.
“Cuộc điều tra đã lan sang đến tận Nam Phi. Người biết Edmund Douglas trước khi ông ta rời mỏ nhớ ông ta là một người nói giọng Liverpool nặng, và có một vết sẹo vắt qua mắt trái từ một cuộc đánh nhau trong quán rượu khi ông ta vẫn còn ở Anh”.
“Tại sao, tại sao không ai từng nghi ngờ chú em là một kẻ mạo danh?”
“Ông ta thông minh. Ông ta sống ở một vùng xa xôi và ít giao tiếp với xã hội, ông ta chưa bao giờ trở lại Nam Phi và có thể ông ta cũng đã giết hết những người họ hàng còn lại của Edmund Douglas thật ở Anh”.
Cô rùng mình.
“Nhưng anh nghĩ dì em đã phát hiện ra”. Cô siết chặt thành ghế.
“Em có muốn uống thêm một ly whisky không?”
Anh lấy ly mới và rót cho cô. Cô uống nhanh đến mức hầu như không cảm thấy cháy rát. “Làm thế nào dì em tìm ra được?”
Chồng cô liếc nhìn cô. “Anh không biết. Người ta khám phá ra mọi thứ trong hôn nhân”.
“Đó là toàn bộ giải thích của anh?”
“Đó là sự giải thích cho lý do vì sao chú em cư xử như thế. Ông ta tin rằng mình là một anh hùng lãng mạn, sẵn sàng làm bất cứ điều gì vì tình yêu”.
Cô lại rùng mình. “Ông ta nói thế với em khi chúng ta ở Highgate Court lần cuối”.
“Vậy là ông ta gây ra tội lỗi kinh khủng, có thể hơn một lần, vì người phụ nữ ông ta xem là thiên thần của mình. Ông ta tự ấn tượng với chính mình. Và khi dì em phát hiện ra việc làm của ông ta, giống như bất kỳ con người tỉnh táo nào, dì em không những không ấn tượng, mà còn kinh hoàng và ghê tởm. Ông ta coi như thế là sự phản bội của thiên thần. Rằng dì em không trân trọng những hy sinh vì dì ấy, mà thay vào đó lại ghê tởm ông ta. Đó là lý do ông ta vẽ dì ấy bỏ chạy, sau khi đã đâm ông ta bằng một thanh kiếm”.
“Và đó là động cơ cho sự tàn nhẫn của ông ta trong suốt những năm vừa qua”, cô lẩm bẩm.
“Anh sẽ không kể câu chuyện này với người có thần kinh kém vững vàng hơn, nhưng em có thể đối mặt với nó. Và em cần biết, để em hiểu được vì sao dì em sợ hãi ông ta ngay cả khi ông ta là một kẻ trốn ngục. Để em biết được chúng ta đang đối phó với ai”.
Cô kéo cổ áo. “Cảnh sát có giúp được gì không?”
“Tất nhiên, chúng ta sẽ cần cảnh sát bắt ông ta. Nhưng anh còn đang lưỡng lự, vì chuyện này nằm trong phạm vi giải quyết của cảnh sát địa phương mà họ thì không được huấn luyện để giải cứu con tin. Hơn nữa, chúng ta không có chứng cứ nào về sự liên quan của ông ta. Theo như mọi người biết, dì Douglas đã tự mình đi đến London, bà ấy hoàn toàn được tự do làm điều này”.
Cô thả mình xuống ghế đệm và đưa hai tay ôm mặt. “Vậy chúng ta chỉ ngồi đây đợi thôi sao?”
“Chú em sẽ liên hệ với em”.
“Nghe như anh rất chắc chắn”.
Cô nghe thấy anh ngồi xuống chiếc ghế cạnh cô. “Em nói rằng chú em là một kẻ thích báo thù?” anh hỏi khẽ.
“Đúng thế”.
“Thế thì hãy tin rằng ông ta vẫn còn chưa xong việc đâu. Chỉ giành lại vợ mình thôi, đối với ông ta khó mà đủ để trả thù. Ông ta sẽ muốn bắt em phải chịu đựng thêm nữa”.
Cô thốt ra một tiếng rên rỉ. “Chúng ta sẽ phải đợi bao lâu?”
“Anh đoán là em sẽ nghe được tin từ phía ông ta trong chuyến phát thư buổi chiều. Rốt cuộc thì, thời gian không ủng hộ ông ta”.
Cô không muốn, nhưng cô rên rỉ lần nữa vì sợ hãi. Cô gập người giấu mặt giữa hai đầu gối.
Trước sự nhẹ nhõm của Vere, cô không co mình trong sự thảm bại quá lâu. Cô đứng lên, đi lại liên tục trong căn phòng, phớt lờ bữa trưa Vere yêu cầu mang lên cho cô, khuấy trà mà không uống, và nhìn ra ngoài cửa sổ từng phút một.
Anh viết nhanh hàng loạt bức điện và sai người đi gửi chúng. Anh đã ăn trưa và uống trà. Anh thậm chí đã lướt qua vài lá thư khác gửi cho anh trong buổi sáng. Và bây giờ, anh cũng không có việc gì để làm, ngoại trừ nhìn cô trong cơn kích động.
“Tại sao em lại cất một cuốn sách trong ngăn kéo đồ lót?” anh hỏi. Tốt hơn là nên giữ cho đầu óc cô tách khỏi những khả năng tồi tệ nhất trong thời gian chờ đợi còn lại.
Cô đang nhấc lên đặt xuống những đồ vật ngẫu nhiên trên mặt lò sưởi. Cô quay ngoắt lại trước câu hỏi của anh. “Anh làm gì mà lại lục lọi đồ của em?”
“Anh phải lục tìm mọi phòng trong nhà. Phòng của em không phải là ngoại lệ”.
Nhưng tất nhiên phòng của cô đã là một ngoại lệ. Anh đã từng lục lọi đồ lót của vô số phụ nữ trong quá trình làm việc, nhưng anh chưa bao giờ nấn ná như anh đã làm giữa những món đồ vải lanh cũ, mềm mại của cô. Và đó là sau khi anh đã biết rằng những nụ cười của cô chỉ là công cụ.
“Chỉ để biết thôi, anh không thấy có gì thú vị, ngoại trừ như anh nói, anh chưa bao giờ nhìn thấy một cuốn sách hướng dẫn du lịch nằm giữa đồ lót của phụ nữa trước đây”.
Cô ngồi xuống chiếc ghế gần cửa sổ, cả người cô cứng nhắc và căng thẳng. “Em vui mừng được mang đến cho anh một giây phút xao nhãng. Và chỉ để anh biết thôi, cuốn sách hướng dẫn du lịch chỉ là bất cẩn để giữa đồ lót khi chú em đi xa. Khi ông ấy ở nhà, nó được giấu trong một cuốn sách nào đó bằng tiếng Hy Lạp, trên một giá sách có ba trăm cuốn sách tiếng Hy Lạp khác”.
Anh đọc được năm ngôn ngữ ngoài tiếng Anh và đã không nghi ngờ gì đến sự thiếu vắng những cuốn sách tiếng Anh trong thư viện của Douglas. Nhưng với người không biết những ngôn ngữ khác, đi vào một thư viện như thế chắc phải bị hành hạ như bị khát cháy giữa lòng đại dương.
Bên dưới mọi chi tiết của cuộc đời cô là một lịch sử bị đàn áp. Tuy nhiên cô không chỉ đứng lên với tinh thần nguyên vẹn, mà còn với một khả năng tiếp nhận niềm vui anh mới chỉ bắt đầu thấu hiểu được. Và bây giờ anh sẽ không bao giờ thực sự hiểu hết được.
Suy nghĩ đó là một nhát dao đâm vào trái tim anh.
“Cuốn sách trong ngăn kéo của em hướng dẫn đến miền Nam nước Ý. Anh nghĩ rằng nó có nhắc đến Capri?”
“Không nhiều lắm. Có một cuốn sách hay hơn, nhưng em đã mất nó khi chú em thanh lọc thư viện”.
Những ký ức của đêm trước tự nhiên ùa đến: cánh tay cô ôm anh, giọng nói đáng yêu của cô kể về hòn đảo xa xăm. Anh nhận ra anh chưa bao giờ nghĩ đến người bạn sữa và mật ong của anh sẽ làm gì khi đối mặt với những cơn ác mộng của anh. Anh chỉ cho rằng chúng sẽ không tồn tại nữa khi anh có được hình mẫu trong sáng, dịu dàng đó.
Cô đang nhìn ra ngoài cửa sổ, nhưng lúc này mặt cô quay về phía anh. “Tại sao anh bắt em nghe anh hát? Anh là một ca sĩ kinh khủng”.
“Có một người phá khóa mã hóa làm việc trong phòng dì em. Phải giữ em cách xa”.
“Anh có thể nói với em. Em sẽ cầm đèn cho anh ta”.
“Anh không thể nói với em. Em có vẻ sống rất vui sướng trong ngôi nhà của chú em”.
“Ngốc thật. Anh có thể cứu mình khỏi sự thử thách của cuộc hôn nhân này”.
Anh gõ bút vào bàn. Đột nhiên tất cả những gì anh có thể nhớ được là những giây phút vui sướng đến kinh ngạc. Giấc ngủ ngắn cùng nhau trên tàu; cuộc độc thoại sai bét một cách cường điệu của cô về cách làm mứt đã khiến anh mỉm cười cả nửa ngày hôm sau khi anh đi bộ và đi bộ; và đêm hôm qua.
“Anh không coi cuộc hôn nhân này là một thử thách. Nó giống một gánh nặng hơn”.
Cô quăng một chậu cây nhỏ ngang qua phòng. Chiếc bình đất nung tráng men đập vào mặt lò sưởi vỡ tan. Sỏi và cây hoa lan trồng trong chậu rơi xuống sàn nhà với một tiếng bộp vọng lại.
“Anh nhận được tất cả lòng thông cảm của em”, cô nói. “Và lời chia buồn chân thành”.
Người đồng hành lý tưởng của anh không biết giận dữ là gì. Giọng cô ấy không bao giờ chứa đầy sự châm chích. Và, tất nhiên, vì cô ấy không có thật, thế nên cô ấy không dễ có những cảm xúc mạnh, chỉ mỉm cười, ôm ấp và hoàn hảo tuyệt đối.
Anh nhìn vào người phụ nữ rất thật bên ngưỡng cửa sổ mệt mỏi nhưng không gục ngã. Tất cả những cảm xúc của cô đều mạnh mẽ: giận dữ, vỡ mộng, tuyệt vọng và tình yêu của cô.
Anh cầm chiếc đĩa sandwich trên bàn lên và đến gần cô. “Đừng bỏ đói mình. Như thế không giúp được em và tất nhiên sẽ không giúp được dì em”.
Cô nhăn nhó như thế chiếc đĩa đựng đầy bọ cạp sống. Nhưng vừa lúc anh nghĩ cô sẽ hất nó xuống sàn nhà, cô nhận nó. “Cám ơn”.
“Anh sẽ gọi một ấm trà mới”.
“Anh không cần phải quá tốt với em. Em sẽ không trân trọng nó đâu”.
Điều này anh biết nhiều hơn cô. “Sai rồi: Anh chưa bao giờ gặp một người biết hàm ơn nhiều hơn vì một lòng tốt nho nhỏ như thế”.
Cô gầm gừ và quay người hẳn về phía cửa sổ.
Chuyến thư buổi chiều mang theo một lá thư từ dì Rachel.
Elissande thân yêu,
Trên đường đến London, dì gặp một người bạn học cũ trên tàu. Hãy tưởng tượng xem sự vui sướng của dì! Bọn dì đã quyết định dừng lại ở Exeter và đi ngắm cảnh. Bà Halliday rất mong được gặp cháu. Bà ấy đề nghị cháu đi chuyến 7:00 tối nay từ ga Paignton và xuống tàu ở ga phố Queen. Đến gặp chúng ta ở Rougemont.
Người dì yêu thương của cháu.
Tái bút: Đi một mình nhé, vì bà ấy không thích người lạ.
Tái tái bút: Đeo nữ trang đẹp nhất của cháu.
Elissande đưa lá thư cho ngài Vere. “Em không có nữ trang”.
Đây là sự mỉa mai lớn nhất, vì chú cô đã có một gia tài bằng kim cương. Nữ trang là một thứ dễ mang, dễ dàng mua bán; tất nhiên chú cô sẽ không muốn cô có bất cứ thứ gì.
“Anh có vài món của mẹ anh. Dùng chúng là được”.
Cô xoa thái dương. Cô thậm chí còn chưa nhận ra, nhưng đầu cô đã giần giật khá lâu rồi. “Vậy là em phải xuất hiện ở Rougemont và ngoan ngoãn giao nữ trang của mẹ anh cho ông ta?”
“Không phải em, mà là chúng ta. Anh sẽ ở đó”.
“Anh thấy lá thư nói gì rồi đấy. Em phải đi một mình”.
“Với ông ấy thì có vẻ là em đi một mình, nhưng anh sẽ ở đó. Anh sẽ trông chừng em”.
‘Nhưng nếu chúng ta đi cùng nhau…”
“Em sẽ đi chuyến bảy giờ, như ông ta bảo. Anh sẽ đi chuyến sớm hơn đến Exeter để xem có thể sắp xếp được gì không”.
Cô không nghĩ là anh đi trước cô. Cô không muốn ở một mình lúc này. Cô muốn – cô cần – ôi, đừng để tâm đến cô cần gì. Nếu anh có thể làm điều gì đó ở Exeter để giúp cô đưa dì Rachel bình an và toàn vẹn trở về, thì anh phải đi Exeter.
“Được rồi”.
Anh khẽ chạm vào tay áo cô. “Nếu ai đó có thể đối mặt với ông ta, thì người đó là em”.
“Được rồi”, cô nhắc lại, xua đi ký ức về những gì đã xảy ra trong lần cuối cùng cô ở một mình với chú cô.
Anh nhìn cô một lúc. “Anh có vài phút trước khi phải đi. Để anh giúp em chuẩn bị”.