Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Máu Lạnh (Chuyện Có Thật)

Chương 8

Tác giả: Truman Capote

Những người chưa ló mặt

Ngày thứ Hai, 16 tháng Mười một năm 1959 ấy vẫn là một tiêu bản đẹp của thời tiết săn trĩ trên bình nguyên cao trồng lúa mì miền Tây bang Kansas – một ngày vòm trời sáng huy hoàng, lấp lánh như mica. Những năm trước đây, vào những ngày này, Andy Erhart thường dành suốt nhiều buổi chiều dài săn trĩ ở Trại Lũng Sông, nhà của Herb Clutter, người bạn tốt của ông, và trong các buổi thể thao dã ngoại đó ông hay đi với ba người bạn thân nhất của Clutter: J. E. Dale, bác sĩ thú y, Carl Myers, chủ xưởng chế biến sữa, và Everett Ogburn, doanh nhân. Giống như Erhart, người phụ trách Trạm Thí nghiệm Nông nghiệp của Đại học Kansas, tất cả đều là những công dân nổi tiếng của Garden City.

Hôm nay, bộ tứ bạn săn lâu đời lại tụ tập làm một chuyến dã ngoại quen thuộc nhưng với một tinh thần chẳng hề quen thuộc, với những thiết bị kỳ quặc phi thể thao – tải lau sàn, xô thùng, bàn chải cọ rửa và một giỏ chất đầy những giẻ lẫn chất tẩy mạnh. Họ đều mặc những bộ quần áo cũ kỹ nhất. Vì cảm thấy đây là nghĩa vụ của mình, một bổn phận của người theo đạo Cơ đốc, những người này đã tình nguyện dọn dẹp sạch sẽ một số phòng trong số mười bốn phòng của ngôi nhà chính ở Trại Lũng Sông: những phòng đã có bốn người trong gia đình Clutter bị giết bởi “một hay nhiều kẻ chưa được nhận diện” như biên bản về cái chết của họ đã chứng thực.

Erhart và các bạn lái xe trong im lặng. Một người về sau nhận xét, “Chuyến đi làm cho cả bọn câm nín hết. Sự kỳ lạ của chuyến đi này. Đi ra ngoài đó, nơi chúng tôi xưa nay luôn được đón chào như thế.” Lúc này thì một người cảnh sát tuần tra xa lộ đón chào họ. Người tuần đường, người trông coi cái rào chắn nhà chức trách dựng lên ở lối vào khu trại, vẫy tay cho họ vào, và họ đi thêm nửa dặm nữa, xuống con đường nhỏ trồng du Tàu dẫn vào nhà Clutter.

Alfred Stoecklein, người làm mướn duy nhất sống ở trên đất nhà ông Clutter, đang chờ để nhận họ vào.

Trước tiên họ vào phòng lò sưởi ở tầng hầm, nơi người ta tìm thấy ông Clutter mặc pijama nằm còng queo trên một cái thùng các tông đựng đệm. Từ đây, họ đi vào phòng giải trí trong đó Kenyon đã bị bắn chết. Chiếc đi văng, một kỷ vật Kenyon đã cứu lấy và vá víu lại, còn Nancy thì phủ vải và chồng chất lên nó những chiếc gối có đề chữ, nó bây giờ là một tàn tích vấy đầy máu; giống như cái thùng đựng đệm, cũng cần phải đem đốt. Dần dần, khi đám người dọn dẹp từ dưới tầng hầm tiến đến các phòng ngủ ở tầng ba nơi Nancy và mẹ cô bị giết ngay trên giường, họ đã có được thêm chất đốt cho cuộc hỏa thiêu sắp tới – chăn đệm giường ố máu, một tấm thảm cạnh giường, một con gấu bông búp bê.

Tuy thường ít nói, Alfred Stoecklein hôm đó đã phải nói nhiều khi ông lấy nước nóng, không thì giúp việc dọn dẹp. Ông mong “họ hàng ông Clutter sẽ thôi cằn nhằn và cố hiểu cho” tại sao ông và vợ ông tuy sống chỉ cách nhà Clutter có một trăm mét mà lại “không nghe thấy tí ti gì” – cả đến tiếng vọng khẽ nhất của súng nổ cũng không – về sự thảm khốc đang diễn ra. “Cảnh sát trưởng và tất cả các ông ấy đã lấy dấu tay ở ngoài kia, đã cào bới khắp chung quanh, các ông ấy có nghề, họ thì họ hiểu chuyện đó thế nào. Như thế nào mà chúng tôi lại không nghe thấy ấy à! Vì một lẽ là gió. Gió Tây thổi, như lúc này đây, thì sẽ mang tiếng động đi tới chỗ khác. Một cái nữa, giữa nhà ông ấy và nhà chúng tôi có một cái kho chứa cao lương. Cái kho cũ ấy nó chắn mất nhiều thứ trước khi vọng đến chúng tôi. Với lại các ông có nghĩ tí nào tới chỗ này không? Là cái đứa đã làm cái đó, nó hẳn phải biết chúng tôi không nghe thấy được. Không thì nó chẳng có dại – bắn những bốn phát súng vào giữa đêm hôm khuya khoắt! Họa có mà điên. Dĩ nhiên, các ông có thể nói rằng chắc nó điên. Mới đi làm cái trò đó chứ. Nhưng ý tôi thì đứa làm cái đó chắc phải tính hoàn hảo đến cùng mọi sự cả rồi. Nó đã biết. Và có một điều tôi cũng biết. Tôi và bà nhà tôi, chúng tôi đã ngủ đêm cuối cùng ở đây. Chúng tôi sẽ dọn đến cái nhà ở dọc xa lộ.”

Đám người làm việc từ trưa tới chiều tối. Đến lúc đốt các thứ nhặt nhạnh được, họ chất chúng lên một chiếc xe tải nhỏ, rồi với Stoecklein cầm lái, họ đi sâu vào dải đồng ở phía Bắc khu trại, một chỗ bằng phẳng đầy màu sắc, tuy chỉ thuần một màu vàng hung hơi óng ánh của những cuống rạ lúa mì vào chập tháng Mười một. Đến đấy, họ dỡ xuống những gối của Nancy, đệm, khăn trải giường, đi văng ở phòng giải trí, làm thành một cái tháp; Stoecklein rảy xăng vào rồi đánh diêm.

Trong những người có mặt, không ai thân với nhà Clutter bằng Andy Erhart. Dịu dàng, quyền cao chức trọng song ân cần, một người thông thái với đôi tay lao động đầy chai và cái cổ sạm nắng, ông là bạn cùng lớp với Herb ở Đại học Bang Kansas. “Chúng tôi là bạn của nhau đã ba chục năm,” sau đó ít lâu ông nói, và trong những thập niên đó Erhart đã chứng kiến người bạn mình từ kỹ sư nông nghiệp ăn lương còm ở hạt tiến lên thành một trong những chủ trại được kính trọng khắp xa gần và được biết tiếng nhất ở vùng này: “Mọi cái Herb có là do tự kiếm ra và nhờ Chúa giúp đỡ. Herb là người khiêm tốn nhưng kiêu hãnh, và ông ấy có quyền kiêu hãnh như thế. Ông ấy đã gây dựng được một gia đình tốt đẹp. Ông ấy đã làm được cho đời mình một số điều.” Nhưng cuộc đời ấy, và những cái ông ấy làm nên cho cuộc đời ấy – làm sao mà lại hóa ra như thế, Erhart thầm nghĩ trong khi nhìn đống lửa cháy lem lém. Làm sao mà nghĩ được rằng chỉ trong một đêm, cố gắng kia, đức hạnh chân chất kia đã bị rút gọn thành làn khói này, làn khói cứ mảnh dần đi khi nó cất lên cao rồi được bầu trời lớn rộng làm tiêu tán mọi sự đón nhận lấy?

Cục Điều tra bang Kansas, một tổ chức cấp bang, sở chỉ huy đóng ở Topeka, có biên chế mười chín thám tử giàu kinh nghiệm phân bố rải rác khắp bang; khi nào có vụ gì xem vẻ vượt khỏi thẩm quyền của nhà chức trách sở tại thì người ta cậy đến những con người này. Người đại diện của Cục tại Garden City, chịu trách nhiệm về một phần đáng kể vùng Tây Kansas, là một người ở bang Kansas thuộc thê hệ thứ tư, bốn mươi bảy tuổi, người dong dỏng đẹp trai, tên gọi là Alvin Adams Dewey. Không thể tránh được việc Earl Robinson, cảnh sát trưởng hạt Finney, đã yêu cầu Al Dewey gánh lấy vụ án Clutter. Không tránh được và thích đáng. Vì Dewey, bản thân nguyên là cảnh sát trưởng hạt Finney (từ năm 1947 đến 1955) và, trước đó là đặc vụ của F.B.I. (giữa năm 1940 và 1945, ông đã phục vụ ở New Orleans, San Antonio, Denver, Miami và San Francisco), về nghiệp vụ là đủ tư cách đối phó với một vụ án nom ngoài thì không có động cơ và không có đầu mối, lắm rắc rối như vụ giết nhà Clutter. Hơn nữa, thái độ của ông với vụ án đã làm cho nó thành ra, như sau này ông nói, “một kiến nghị của cá nhân”. Ông luôn nói ông và vợ ông “thật sự yêu mến Herb và Bonnie”, “gặp nhau mỗi Chủ nhật ở nhà thờ, năng lui tới thăm nhau”, và nói thêm, “Nhưng cho dù tôi không biết gia đình đó và mến họ đến thế, tôi cũng không cảm thấy có gì khác cả. Vì tôi đã thấy một số việc xấu xa, tôi chắc chắn là đã thấy. Nhưng không có cái nào táng tận lương tâm như vụ này. Dù vụ này có sẽ kéo dài đến mấy, có thể là suốt những năm tháng cuối đời tôi, tôi vẫn sẽ biết chuyện gì đã xảy ra ở nhà này: kẻ nào làm và tại sao.”

Cuối cùng, tổng cộng mười tám người đã được giao chuyên trách vụ này, trong đó ba điều tra viên có năng lực nhất của K.B.I. (tức Cục Điều tra bang Kansas) – các đặc vụ Harold Nye, Roy Church và Clarence Duntz. Với bộ ba này đến Garden City, Dewey thỏa mãn là đã tập hợp được “một ê kíp mạnh”. “Tốt hơn hết, ai đó hãy coi chừng!” ông nói.

Văn phòng cảnh sát trưởng ở tầng bốn của tòa án hạt Finney, tòa nhà bằng đá và xi măng tọa lạc tại trung tâm một quảng trường đầy cây mà giá không có tòa nhà thì có khi lại hấp dẫn. Garden City xưa vốn là một thị trấn biên giới khá ầm ĩ song nay khá tĩnh lặng. Nhìn chung, cảnh sát trưởng không có mấy việc để làm, văn phòng của ông, ba gian phòng bày biện thưa thớt, thông thường là một nơi im ắng chỉ có dân rảnh việc la cà mới biết đến; bà Edna Richardson, thư ký đon đả của ông, thường có một bình cà phê nhâm nhi suốt và nhiều thì giờ để “buôn dưa lê”. Cho đến khi, như bà phàn nàn, “xảy vụ Clutter” thì nó đã đem tới “tất cả các dân tứ chiếng, tất cả đám báo chí nhặng xị ồn ào kia”. Vụ án lúc đó khiến các tít bài bay xa đến Chicago ở đằng Tây, tận Denver đằng Đông, đúng là đã dụ đến Garden City cả một đoàn báo chí đáng nể.

Trưa thứ Hai, Dewey tổ chức họp báo ở văn phòng cảnh sát trưởng. “Tôi sẽ nói sự việc chứ không nói giả thuyết,” ông thông báo với các nhà báo tụ tập ở đó.“Bây giờ, việc lớn ở đây, cái phải nhớ là, chúng ta đang phải giải quyết không chỉ một vụ án mạng mà là bốn. Và chúng ta không biết ai trong bốn người là mục tiêu chính. Nạn nhân số một. Đó có thể là Nancy hoặc Kenyon, hoặc ông bố hay bà mẹ. Một vài người nói, đúng, chắc phải là ông Clutter, vì ông ấy bị cắt cổ; ông ấy bị hành hạ nhiều nhất. Nhưng đó là giả thuyết, không phải sự việc. Nếu chúng ta biết gia đình này đã bị giết theo trật tự gì thì cũng sẽ giúp được cho chúng ta nhưng người giám định pháp y lại không thể nói rõ điều đó; ông ấy chỉ biết các vụ giết người đã xảy ra vào một lúc nào đó giữa mười một giờ đêm thứ Bảy và hai giờ sáng Chủ nhật.” Rồi, trả lời câu hỏi, Dewey nói không có, không người đàn bà nào bị “làm nhục về xác thịt” và, không, như hiện tình chúng tôi được biết thì không có gì bị lấy trộm, vâng, ông nghĩ, trong vòng tám tiếng trước khi chết, ông Clutter đã nộp bốn chục nghìn đô la tiền bảo hiểm với mức bồi thường gấp đôi, đấy chỉ là việc “thuần túy ngẫu nhiên”. Nhưng Dewey “chắc như đinh đóng cột” rằng việc này với vụ án không liên quan; làm sao có liên quan được khi mà những người duy nhất hưởng lợi về tài chính là hai người con còn sống của Clutter, người con gái cả, bà Donald Jarchow và cô Berverly Clutter? Vâng, ông bảo các phóng viên, ông cũng có ý kiến của ông về chuyện vụ án mạng này là do một hay nhiều người làm, nhưng lúc này ông không muốn lộ ra.

Đúng là lúc này, về vấn đề này, Dewey còn lưỡng lự. Ông vẫn giữ hai ý – hay để dùng từ của ông, hai “quan niệm” – và trong khi tái dựng vụ án, ông đã phát triển cả “quan niệm sát nhân đơn” lẫn “quan niệm sát nhân kép”. Trong quan niệm thứ nhất, kẻ sát nhân được coi là một người bạn của gia đình, hoặc dù thế nào thì cũng là một người có hiểu biết nhiều hơn mức qua loa về ngôi nhà và những người sống trong đó – một người biết rằng các cửa rất ít khi khóa, rằng ông Clutter ngủ một mình trong phòng ngủ ở tầng trệt, rằng bà Clutter và các con ngủ ở các phòng riêng trên tầng ba. Kẻ này, Dewey tưởng tượng như thế, đi bộ đến ngôi nhà, chắc vào khoảng nửa đêm. Cửa sổ tối om, nhà Clutter ngủ yên, còn về con Teddy, con chó giữ nhà thì, đúng, Teddy nổi tiếng là sợ súng mà. Trông thấy vũ khí của bọn đột nhập, chắc nó đã co rúm lại, rên rỉ bỏ đi. Vào trong nhà, tên sát nhân sờ trước tiên đến điện thoại – một ở trong phòng làm việc của ông Clutter, một ở trong bếp – rồi sau khi cắt đứt dây điện, hắn đã vào phòng ngủ ông Clutter đánh thức ông dậy. Trong tay người khách lạ có súng, ông Clutter buộc phải nghe theo – buộc phải đi với hắn lên tầng ba, tại đó họ đánh thức cả nhà dậy. Rồi, bằng dây thừng và băng dính do tên sát nhân đưa cho, ông Clutter đã trói và dán miệng vợ mình lại, trói con gái lại (cô không bị dán miệng, điều không thể giải thích được) rồi trói họ vào giường của họ. Sau đó, bố và con trai bị giải xuống tầng hầm, ở đấy ông Clutter bị buộc phải dán miệng rồi trói Kenyon vào đi văng ở phòng giải trí. Rồi ông Clutter bị dẫn đến phòng lò sưởi, bị đánh vào đầu, dán miệng rồi bị trói gô cả chân lẫn tay. Bây giờ thả cửa làm gì tùy thích, tên sát nhân đã giết họ lần lượt từng người, lần nào cũng cẩn thận nhặt lại vỏ đạn. Khi làm xong việc, hắn tắt hết đèn rồi bỏ đi.

Có thể chuyện đã xảy ra theo cách đó; chỉ là có thể. Nhưng Dewey có những ngờ vực: “Nếu Herb nghĩ gia đình mình lâm nguy, nguy đến tính mạng, thì ông ấy đã chiến đấu như một con cọp rồi. Và Herb không yếu – một người khỏe vào loại hàng đầu. Kenyon cũng vậy – cao lớn như bố, một cậu trai vai to bè. Khó lòng hiểu làm thế nào mà một người, có vũ khí hay không, lại khống chế nổi được hai bố con nhà ấy.” Hơn nữa, có lý do để giả định rằng cả bốn đều bị một người trói: trong cả bốn ca đều một kiểu nút buộc như nhau, nút đơn.

Dewey – và đa số đồng nghiệp của ông cũng thế – thiên về giả thiết thứ hai, giả thiết này, ở nhiều mặt chủ yếu đi theo giả thiết thứ nhất, điểm khác quan trọng là tên sát nhân không chỉ hành động một mình mà có một tên tòng phạm giúp hắn khống chế gia đình này, dán băng miệng và trói họ lại. Nhưng, là một giả thuyết, nó cũng có khiếm khuyết. Chẳng hạn, Dewey thấy khó mà hiểu “Làm thế nào hai cá nhân lại có thể cùng đạt tới trình độ điên rồ như nhau, loại điên rồ tâm thần bệnh hoạn cần phải có để gây ra được một tội ác như thế này.” Ông tiếp tục giải thích: “Cứ cho rằng tên sát nhân là người biết gia đình này, một thành viên của cộng đồng này; cứ cho rằng hắn là người bình thường, bình thường trừ phi hắn có một cái gì đặc biệt, một mối ác cảm điên rồ chống lại nhà Clutter hay với một người nhà Clutter – nhưng hắn tìm đâu ra một người cùng làm, một ai đó đủ điên rồ để giúp hắn? Giả thiết này không vững. Nó vô lý. Nhưng tiếp cận tắp lự vào vấn đề thì cũng lại chẳng cái gì là có lý cả.”

Sau cuộc họp báo, Dewey về văn phòng, một gian buồng mà ông cảnh sát trưởng cho ông mượn tạm. Một bàn giấy và hai ghế dựa thẳng. Bàn giấy ngổn ngang những thư mà Dewey hy vọng một ngày nào đó sẽ được đem ra làm tang vật ở tòa án: băng dính cùng những thước dây cởi ở người các nạn nhân ra lúc này đựng trong những túi bằng chất dẻo niêm phong (là tang vật thì chẳng thứ nào có vẻ hứa hẹn vì tất cả đều là những mặt hàng phổ biến, ở Mỹ mua đâu cũng có), và các tấm ảnh một nhiếp ảnh viên cảnh sát chụp hiện trường vụ án – hai mươi tư tấm phóng to, nước ảnh láng bóng chụp cái đầu vỡ toác của ông Clutter, khuôn mặt bị hủy hoại của con trai ông, đôi tay bị trói của Nancy, đôi mắt vẫn mở trừng trừng, dại đi vì cái chết của mẹ cô, vân vân. Những ngày tới đây, Dewey phải xem xét những tấm ảnh này hàng giờ, hy vọng mình có thể “thình lình nhòm ra được một cái gì”, từ đó một chi tiết có ý nghĩa tự nó sẽ cung khai ra: “Giống như các trò ghép hình kia thôi. Những loại câu hỏi, ‘Bạn tìm ra được bao nhiêu giống vật trong bức vẽ này?’ Theo cách nào đó, chính đấy là điều tôi đang cố làm đây. Tìm ra những con vật ẩn núp. Tôi cảm thấy chúng ở đấy – giá như mà tôi nhìn ra chúng.” Như một sự thật hiển nhiên, một trong những tấm ảnh, một bức chụp cận cảnh ông Clutter và cái thùng đựng đệm mà ông nằm đè lên, đã hé ra một điều ngạc nhiên có giá trị: những vết chân, những vết giày bụi bặm đế có khía hình kim cương. Những vết này, không để ý thấy được bằng mắt thường, đã được ghi lại lên trên phim nhựa; quả thật, ánh chớp của đèn chụp để làm nổi bật đường nét đã làm lộ ra chính xác tuyệt vời sự có mặt của chúng. Những vết chân đó, cùng với một vết chân khác tìm thấy cũng ở trên nắp hộp các tông – một dấu hằn rõ ràng, thấm máu của một nửa đế giày Móng Mèo – là những “đầu mối quan trọng” duy nhất mà các điều tra viên có thể công bố. Không phải họ đang công bố; Dewey và đội của ông đã quyết định giữ bí mật bằng chứng này.

Trong nhiều thứ khác trên bàn làm việc của Dewey có cuốn nhật ký của Nancy Clutter. Ông đã liếc qua, không nhiều hơn, và nay ông đang ngồi xuống để đọc kỹ từng ghi chép hằng ngày, bắt đầu từ sinh nhật lần thứ mười ba của cô và chấm dứt hai tháng sớm hơn sinh nhật thứ mười bảy; những dòng tâm sự không giật gân gì cả của một cô gái thông minh yêu loài vật, thích đọc sách, nấu nướng, khâu vá, khiêu vũ, cưỡi ngựa – một cô gái trinh bạch, xinh đẹp, được nhiều người yêu mến, từng nghĩ “con trai con gái tán tỉnh nhau thì ngộ đấy” nhưng dù sao cũng “chỉ thật sự và thật lòng yêu có Bobby thôi”. Dewey đọc dòng ghi cuối cùng trước. Gồm ba dòng, viết trước khi cô chết một hay hai giờ: “Jolene K. đến và tôi đã chỉ em cách làm bánh anh đào. Tập nhạc với Roxie. Bobby ở đây, chúng tôi xem ti vi. Về lúc mười một giờ.”

Cậu Rupp non trẻ, được biết là người cuối cùng nhìn thấy cả gia đình họ còn sống, phải qua một cuộc thẩm vấn dài lê thê, và tuy cậu thẳng thắn kể lại là mình đã qua “đúng một buổi tối bình thường” với nhà Clutter, cậu được báo trước có cuộc hỏi cung thứ hai, lần này người ta sẽ cho kiểm tra cậu bằng máy dò nói dối. Rõ ràng là cảnh sát chưa sẵn sàng loại cậu ra khỏi danh sách những người bị tình nghi. Bản thân Dewey không tin cậu con trai này “có dính dáng tí nào vào đó”; nhưng ở bước đầu cuộc điều tra thì Bobby đúng là người duy nhất có thể bị gán cho một động cơ, dù nhỏ nhặt. Đây đó trong nhật ký, Nancy nhắc tới tình hình mà người ta giả định là đã tạo nên động cơ: ông bố đòi cô và Bobby “cắt đứt”, đừng “gặp nhau quá nhiều”, ông phản đối vì nhà Clutter theo dòng đạo Giám lý còn nhà Rupp thì Cơ đốc giáo – một hoàn cảnh mà theo con mắt ông đã loại bỏ bất cứ hy vọng nào về chuyện cưới xin của cặp trai gái. Nhưng ghi chép trong nhật ký làm cho Dewey phân vân nhất lại không liên quan đến cái ngõ cụt Clutter-Rupp, Giám lý – Cơ đốc. Đúng hơn là nó liên quan tới một con mèo, cái chết bí ẩn của Boobs, con mèo Nancy cưng, con mèo mà, theo như ghi chép trước khi cô chết hai tuần, cô đã tìm thấy “nằm trong nhà kho”, nạn nhân, hay là cô nghĩ thế (mà không nói lý do) của một kẻ đánh bả: “Boobs tội nghiệp, Tôi đã chôn nó tại một nơi đặc biệt.” Đọc tới đây, Dewey cảm thấy đây có thể là “rất quan trọng”. Nếu con mèo dính bả, thì cái việc đánh bả đó có thể là một dạo đầu nho nhỏ, ma quái cho các vụ án mạng hay không? Ông quyết định phải tìm ra “cái chỗ đặc biệt” Nancy chôn con mèo yêu, cho dù có phải cày xới cả cái vùng Trại Lũng Sông rộng rãi này lên.

Trong khi Dewey bận bịu với cuốn nhật ký, những trợ lý chính của ông, các đặc vụ Church, Dunzt, Nye lại đang đảo dọc đảo ngang cả vùng quê, nói chuyện, như Dunzt nói, “với bất cứ ai có thể nói cho chúng tôi bất cứ cái gì”: bộ phận giáo viên của Trường Holcomb, nơi cả Nancy lẫn Kenyon đều là học sinh hạng A, được bằng khen danh dự; những người làm mướn cho Trại Lũng Sông (vào mùa xuân và mùa hè đôi khi lên tới mười tám người nhưng trong lúc nông nhàn hiện nay thì chỉ có Gerald Van Vleet và ba người nữa, trong đó có bà Helm); bạn bè của các nạn nhân, hàng xóm láng giềng; và, rất đặc biệt, họ hàng của họ. Xa gần khắp nơi khoảng hai chục người họ hàng đến dự tang lễ tổ chức và sáng ngày thứ Tư đã có mặt.

Người trẻ nhất trong nhóm K.B.I., Harold Nye, một người ba mươi tư tuổi, nhỏ bé, hăng hái, với đôi mắt ngờ vực không lúc nào yên và cái mũi, cái cằm, đầu óc sắc nhọn, đã được giao cho cái việc ông gọi là “tế nhị chết rấp” – phỏng vấn họ hàng nhà Clutter: “Việc đó thật khổ tâm cho ta và khổ tâm cho cả họ. Khi đã là chuyện án mạng thì ta không thể kính trọng nỗi đau buồn. Hay sự riêng tư thầm kín. Hay tình cảm cá nhân. Ta phải đặt ra những câu hỏi. Và một số câu bập vào tới ruột gan.” Nhưng không người nào anh thẩm vấn, không câu hỏi nào anh đặt ra (“Tôi đang khám phá bối cảnh tình cảm. Tôi nghĩ câu trả lời có thể là một người phụ nữ khác – một cuộc tình tay ba. Vâng, hãy xem: ông Clutter vẫn còn khá trẻ, rất khỏe mạnh, nhưng vợ ông lại bị nửa tàn phế, bà ngủ riêng…”) đã cho ra thông tin có ích; ngay hai cô con gái sống sót cũng không thể gợi ra một lý do cho vụ án. Tóm lại, Nye chỉ biết thế này: “Trong số mọi người ở khắp thế giới này, gia đình Clutter xem ra là ít có khả năng bị giết nhất.”

Cuối ngày, khi ba nhân viên được triệu tập tới văn phòng của Dewey, tình hình hóa ra là Dunzt và Church đã may mắn hơn Nye – chú Nye, như người khác gọi anh. (Người của K.B.I. thịnh dùng biệt hiệu; Dunzt được gọi là Ông Già – không công bằng, vì ông chưa đầy năm chục tuổi, một người lực lưỡng mau chân lẹ tay với bộ mặt to bản của mèo đực, và Church, trạc sáu chục hay hơn, da hồng đỏ nom dáng chuyên nghiệp nhưng “dữ dằn” theo như lời các đồng nghiệp, và “người rút súng nhanh nhất bang Kansas”, thì được gọi là Quăn, bởi lẽ đầu ông bị hói một phần). Cả hai trong quá trình thẩm vấn đã nhặt được “những đầu mối hứa hẹn”.

Chuyện của Dunzt liên quan đến một người bố và một người con trai, những người sẽ được biết đến ở đây với tên John Già và John Trẻ. Mấy năm trước John Già đã có một vụ làm ăn nhỏ với ông Clutter, kết quả là John Già phát bực vì cảm thấy Clutter đã vứt “tiền giả” cho mình. Bây giờ cả John Già lẫn John Trẻ đều “nhậu nhẹt túy lúy”; quả thật, John Trẻ là một gã bợm nhậu hay bị bắt giam. Một ngày không may nọ, bố con nhà John, đầy dũng khí whiskey, đã xuất hiện ở nhà Clutter với ý định “thanh toán cái nợ đó với Herb”. Dịp may của hai người này đã bị khước từ vì ông Clutter, một người kiêng khem chống lại gay gắt việc uống rượu và những kẻ say bét nhè, đã cầm lấy một khẩu súng mà điệu hai bố con ra khỏi địa phận nhà mình. Sự bất nhã này bố con John không tha thứ được; mới một tháng trước đây, John Già đã bảo một người quen: “Mỗi lần nghĩ tới thằng chó đẻ ấy, bàn tay tôi lại bắt đầu giật lên đùng đùng. Tôi đang muốn choảng nó đây.”

Đầu mối của Church về bản chất cũng tương tự. Cũng thế, ông đã nghe nói đến một người được thừa nhận là thù địch với ông Clutter: một ông Smith nào đấy (tuy đây không phải là tên thật của ông ta), tin rằng chủ nhân của Trại Lũng Sông đã bắn chết con chó săn của mình. Church đã kiểm tra trại của Smith và tìm thấy ở đấy, treo trên một cái rui nhà kho, một đoạn dây thừng có kiểu nút giống như nút đã được dùng để trói bốn người nhà Clutter.

Dewey nói, “Một trong những người đó có thể là đầu mối của chúng ta đấy. Một chuyện cá nhân – một mối ác cảm không kiềm chế nổi.”

“Trừ phi đây là một vụ cướp,” Nye nói, tuy động cơ cướp của đã được thảo luận kha khá và ít nhiều đã bị gạt đi. Các luận điểm chống lại nó đều hợp lý, cái mạnh nhất là việc ông Clutter ghét trả tiền mặt đã thành chuyện đầu lưỡi ở tỉnh này; ông ấy không có két sắt và không bao giờ mang những khoản tiền lớn theo mình. Cũng thế, nếu giải thích là cướp của thì tại sao kẻ cướp lại không tháo đi nữ trang bà Clutter đeo trên người – một lắc cưới và một nhẫn kim cương? Nhưng Nye chưa chịu khuất phục: “Kiểu bố trí này sặc mùi ăn trộm, về cái ví của Clutter thì thế nào? Một người nào đó để nó mở phanh rỗng không ở trên giường Clutter – tôi nghĩ không phải người chủ cái ví. Và cái túi tay của Nancy nữa? Cái túi đó nằm trên sàn nhà. Sao nó lại ở đấy? Đúng, và chẳng còn lấy một đồng một chữ nào ở trong nhà. À – hai đô la, được. Chúng ta tìm thấy hai đô la trong một cái phong bì đặt trên bàn học của Nancy. Và chúng ta biết Clutter đã trả một tấm séc sáu chục đô la trước đó một hôm. Chúng ta tính có lẽ còn ít nhất năm chục nữa trong nhà. Cho nên một vài người mới nói, ‘Chẳng ai lại đi giết bốn nhân mạng vì năm chục đô la.’ Và nói, ‘Đúng thôi, có thể tên giết người đã lấy tiền đi – nhưng chính là để cố đánh lừa chúng ta, làm cho chúng ta nghĩ lý do là ăn cướp,’ tôi nghĩ như vậy.”

Trời đã tối, Dewey ngừng cuộc hội ý để gọi điện về nhà cho vợ ông, Marie, báo rằng ông sẽ không về ăn tối. Bà nói, “Vâng. Được thôi, Alvin,” nhưng ông để ý thấy trong giọng bà có vẻ lo lắng không quen thuộc. Vợ chồng Dewey, bố mẹ của hai đứa con trai, cưới nhau mười bảy năm nay, và Marie người quê bang Louisiana, nguyên tốc ký viên của F.B.I., người mà ông đã gặp khi đóng ở New Orleans, đồng cảm với những gian nan của nghề nghiệp ông – giờ giấc quái gở, những cú điện thoại triệu tập ông thình lình đến những vùng xa xôi của bang.

Ông nói, “Có sao không?”

“Không sao cả,” bà làm ông yên lòng. “Có điều, đêm nay khi anh về, anh sẽ phải bấm chuông đấy nhé. Em cho thay hết khóa rồi đấy.”

Bấy giờ ông đã hiểu, liền nói, “Chớ lo, em cưng. Cứ khóa hết cửa nẻo lại và bật đèn cổng.”

Sau khi ông đặt máy xuống, một đồng nghiệp hỏi, “Có gì lôi thôi không? Marie sợ à?”

“Con khỉ, ừ,” Dewey nói. “Cô ấy, và tất cả mọi người.”

Không phải tất cả. Chắc chắn không phải bà quả phụ chánh bưu điện Holcomb, bà Myrtle Clare gan dạ từng chế giễu đám dân cùng thị trấn với bà là “một lũ thỏ đế run rẩy trong đôi ủng, sợ đến nhắm cả mắt mũi lại”, và nói về bản thân, “Còn gái già này, nó vẫn cứ ngủ nghê tốt như thường. Ai muốn giở trò bịp với tôi thì cứ thử xem.” (Mười một tháng sau, chiếu theo đúng tuyên bố của bà, một toán cướp cầm súng đeo mặt nạ ập vào văn phòng bưu điện, nẫng mất của bà chín trăm năm chục đô la). Như thường lệ, khái niệm của bà Clare trùng với khái niệm của rất ít người. Theo ông chủ một cửa hàng ngũ kim ở Garden City thì, “Quanh đây, khóa và chốt cài là mặt hàng chạy nhất. Người ta mua bất cần nhãn hiệu; chỉ cốt sao chắc là được.” Dĩ nhiên, óc tưởng tượng có thể mở được bất cứ cửa nào – vặn khóa và để cho nỗi kinh hoàng bước thẳng vào nhà. Thứ Ba, lúc sáng sớm, một xe đầy nhóc dân săn trĩ từ Colorado đến – những dân lạ lẫm, không biết đến tai họa của địa phương – đã sửng sốt bởi điều họ trông thấy khi băng ngang các đồng cỏ hay đi qua Holcomb: cửa sổ chói chang, gần như mọi cửa sổ của mọi nhà, và trong các gian phòng đèn sáng quăng quắc đầy những người, thậm chí toàn gia, ăn mặc đủ lệ áo quần, ngồi suốt đêm thức trắng, theo dõi, nghe ngóng. Họ sợ cái gì thế? Nó “có thể lại xảy ra.” Đó là câu trả lời quen thuộc, với đôi chút khác nhau. Nhưng một phụ nữ, một cô giáo, đã nhận xét, “Cảm giác ấy lẽ ra không lên cao bằng được một nửa thế này nếu chuyện kia xảy ra với bất kỳ ai, trừ nhà Clutter. Ai đó ít được ngưỡng mộ hơn. Giàu có. An toàn. Nhưng nhà đó tiêu biểu cho một cái gì mà người quanh đây thật sự đánh giá cao và kính trọng, và một điều như thế rất có thể cũng xảy ra với họ – chậc, chả khác gì nghe nói là không có Chúa vậy. Nó làm cho cuộc đời có vẻ như vô vị. Tôi nghĩ cái chính không phải là người ta sợ quá mà cái chính là suy sụp quá.”

Một lý do khác, lý do đơn giản nhất, lý do xấu nhất, là sự kết đoàn yên bình của những hàng xóm láng giềng và bầu bạn lâu ngày từ xưa đến nay bất thình lình phải chịu đựng cái chuyện chưa từng có này: mất tin tưởng ở nhau, âu cũng có thể hiểu được, họ tin rằng kẻ giết người là ai đó trong số họ và ai ai cũng tán thành ý kiến do Arthur Clutter, một người anh em của người quá cố đưa ra trong khi chuyện trò với cánh báo chí ở gian sảnh của khách sạn Garden City hôm 17 tháng Mười một, “Cứ để chuyện này sáng tỏ rồi xem, tôi xin cược rằng bất kỳ ai mà làm chuyện đó hẳn phải là người sống ở cách chỗ chúng ta đang đứng đây có mười dặm.”

Khoảng bốn trăm dặm về phía Đông nơi Arthur Clutter đứng lúc đó, hai gã trẻ tuổi đang ngồi chung trong một cái khoang nhỏ của Nhà Chim Ó, một quán ăn rẻ tiền tại Kansas City. Một gã – mặt hẹp, tay phải xăm một con mèo màu lam – đã ngốn sạch nhiều chiếc bánh kẹp gà quay xà lách và bây giờ thì liếc vào phần của bạn đường: một bánh tròn kẹp pa tê còn nguyên vẹn và một cốc bia không cồn có khuấy ba viên aspirin.

“Perry, cưng,” Dick nói, “cậu không muốn cái bánh này chứ gì. Tớ ăn nha.”

Perry đẩy cái đĩa sang. “Chúa ơi! Cậu không để tớ tập trung nghĩ ngợi được à?”

“Cậu chẳng việc gì phải đọc đến những năm chục lượt như thế.”

Một bài báo in trên trang nhất tờ Ngôi sao ở Kansas City ra ngày 17 tháng Mười một. Đầu đề: Ít manh mối trong vụ thảm sát bốn người, bài báo là bài tiếp theo mẩu tin sơ bộ hôm trước về vụ giết bốn người, kết thúc bằng một đoạn tóm lược như sau:

Đội điều tra phải đối mặt với cuộc tìm kiếm một tên sát nhân hay những tên sát nhân mà sự khéo léo là thật rõ ràng trong khi động cơ của hắn (hay của chúng) lại không. Vì tên giết người này hay những tên giết người: * Đã cẩn thận cắt dây hai chiếc điện thoại trong nhà. * Thành thạo trói và dán miệng các nạn nhân, với bằng chứng hiển nhiên là không hề có sự vật lộn giữa hai bên. * Không để lại một cái gì ở trong nhà, không để lại dấu vết là chúng đã tìm kiếm cái gì, ngoại trừ có thể là cái ví [của ông Clutter]. * Bắn bốn người tại bốn nơi khác nhau trong nhà, bình thản thu nhặt vỏ đạn. * Đến và đi, chắc có mang theo vũ khí, mà không hề bị trông thấy. * Hành động không có một động cơ nào, nếu như ta không tính đến một mưu toan ăn trộm bị thất bại, điều mà các điều tra viên vốn dĩ đã quen.

“Sai rồi đây này. Ngữ pháp ấy. Phải là ‘Vì tên giết người hay những tên giết người này’ mới đúng.” Perry đọc to lên. Nhâm nhi chỗ bia pha aspirin, hắn nói tiếp, “Dù gì tớ cũng không tin. Cả cậu cũng không. Thú thật đi, Dick. Hãy thật thà. Cậu không tin cái trò không có dấu vết này chứ?”

Hôm qua, sau khi nghiên cứu báo chí, Perry cũng đã đặt ra câu hỏi này, và Dick nghĩ là hắn quả quyết như thế (“Kìa. Nếu bọn cao bồi ấy tìm ra tí ti liên quan nào thì chúng ta đã nghe thấy tiếng vó ngựa từ xa cả trăm dặm rồi!”), nên nghe đã phát ngán. Quá ngán đến độ chẳng buồn phản đối khi Perry lại theo đuổi vấn đề này: “Tớ luôn luôn đặt cược vào linh cảm,” Dick nói. “Vì thế tớ còn sống đến hôm nay. Cậu biết Willie-Jay chứ? Hắn nói tớ là một ‘thầy đồng trời cho’, hắn hiểu những chuyện như vậy, hắn quan tâm. Hắn nói tớ có trình độ ‘ngoại cảm’ cao. Kiểu như có một máy ra đa lắp trong người vậy – mắt chưa nhìn thấy, cậu đã thấy trước rồi. Thấy đường nét những sự kiện sẽ tới. Thí dụ như anh tớ và vợ hắn. Jimmy và mụ vợ. Mê nhau như điếu đổ ấy, nhưng hắn lại ghen quá xá, làm mụ vợ hết chịu nổi, ghen rồi luôn luôn nghĩ là vợ lăng nhăng sau lưng mình đến nỗi mụ vợ tự bắn mình tự sát, hôm sau Jimmy cũng tự cho một viên đạn xuyên qua đầu. Khi chuyện đó xảy ra – năm 1949, tớ đang ở Alaska với bố tớ tận trên vùng Circle City – tớ bảo ông già, ‘Jimmy chết rồi.’ Tuần sau nhận được tin. Chúa báo sự thật cho mà. Một lần khác nữa, ở Nhật Bản, tớ giúp chất hàng xuống một con tàu và đang ngồi nghỉ tay. Thình lình trong người tớ có một tiếng nói: ‘Nhảy!’ Tớ nhảy liền, từ trên cao chắc phải ba mét, vừa đúng lúc một tấn hàng rơi đánh sầm xuống ngay tại chỗ tớ ngồi. Tớ có thể cho cậu hàng trăm thí dụ như thế. Tớ chẳng cần biết cậu tin hay không. Chẳng hạn, ngay trước khi bị tai nạn xe máy, tớ đã thấy toàn bộ cái vở đó diễn ra: nhìn thấy ở trong đầu tớ – trời mưa, trượt bánh, tớ nằm đó máu me, chân gãy rời. Như bây giờ tớ vẫn như thế ấy. Điềm báo trước. Một cái gì đó bảo tớ rằng đây là một cái bẫy.” Hắn đập tay vào tờ báo.“Một lô những lời nói lảng quanh co.”

Dick gọi một bánh kẹp pa tê nữa. Trong ít ngày qua, hắn bị một cơn đói mà chẳng cái gì – ba bít tết liền tù tì, một tá bánh đũa, nửa ký kẹo hồng – cắt nối được cơn. Về phần mình, Perry lại chẳng thiết ăn; hắn sống bằng bia, aspirin và thuốc lá. “Thảo nào cậu tính khí thất thường,” Dick bảo hắn. “Ồ, nào cưng. Đừng có sôi máu lên làm gì. Chúng ta vào cầu. Hoàn hảo mà.”

“Tớ ngạc nhiên thấy cậu mà lại nói như thế,” Perry nói. Giọng hắn bình thản làm nổi lên nét ác ý ở câu trả lời của hắn. Nhưng Dick chịu, thậm chí còn mỉm cười – và nụ cười của hắn là một đề nghị khôn khéo. Nó nói rằng tớ đây, đang nở nụ cười con trẻ đây, là một nhân vật rất có cá tính, một đứa rất đáng yêu, niềm nở, minh bạch mà ai cũng có thể tin cẩn. “O.K.,” Dick nói. “Có lẽ tớ đã có vài thông tin sai.”

“Đội ơn Chúa.”

“Nhưng nhìn chung thì hoàn hảo. Chúng ta đánh quả banh ra ngoài bãi. Nó mất tăm. Và nó cứ mất tăm như vậy thôi. Không có lấy một liên quan gì đặc biệt cả.”

“Tớ nghĩ có thể có một.”

Perry đã đi quá xa. Hắn còn đi xa hơn: “Floyd – có phải tên thế không nhỉ?” Một cú chơi xỏ, nhưng lúc này Dick đáng bị thế, tâm sự của hắn cứ như cái diều đang cần phải cuộn dây lại. Dẫu sao, Perry cũng hơi sờ sợ khi thấy những triệu chứng thịnh nộ đang bày biện lại vẻ mặt Dick: quai hàm, môi, cả khuôn mặt chùng lại; nước bọt hiện ra ở khóe miệng. Được, nếu chuyện đó xảy ra thì Perry có thể tự vệ được. Hắn thấp, thấp hơn Dick bảy tám phân và đôi cẳng khẳng khiu tàn tật của hắn là không thể trông cậy vào được, nhưng hắn nặng cân hơn bạn hắn, dày mình hơn, có hai cánh tay đủ sức ghì nghẹt thở một con gấu. Tuy nhiên, chứng minh chuyện đó – phải có đánh nhau, một trận ngã ngũ thật sự – thì không nên tí nào. Dù thích Dick hay không (và hắn không ghét Dick, tuy đã có lúc hắn thích gã nhiều hơn, kính trọng gã nhiều hơn), song nay rõ ràng là chúng không thể chia lìa nhau mà an toàn được. Chúng giống nhau ở điểm này, vì Dick từng nói, “Nếu chúng ta bị tóm thì nên là bị tóm cả hai. Lúc đó chúng ta có thể nâng đỡ nhau lên. Khi mà chúng bắt đầu giở trò thú nhận linh tinh, bảo là cậu nói thế này tớ nói thế kia.” Hơn nữa, nếu hắn cắt đứt với Dick thì có nghĩa là mục tiêu của các dự án vẫn cứ hấp dẫn Perry, và mặc dù những thận trọng ý tứ giữ gìn gần đây, nó vẫn được cả hai cho là khả thi – một cuộc đời trần truồng, lặn tìm kho báu sống với nhau ở giữa những hòn đảo hay dọc các bờ biển phía Nam biên giới.

Dick nói, “Ông Wells!” Hắn nhặt một cái nĩa lên. “Nó lẽ ra đáng cái này. Tựa như là tớ bị tóm về tội chống lại việc kiểm tra ấy. Nó lẽ ra đáng cái này. Chỉ là để quay lại vào đây.” Chiếc nĩa vút xuống đâm phập vào bàn. “Xuyên thấu hết tim, cưng ơi.”

“Tớ không nói là lão ta nên bị thế,” Perry nói, bây giờ đang muốn nhân nhượng khi mà cơn thịnh nộ của Dick đã dâng cao ở sát cạnh hắn và đánh vào chỗ khác. “Lão đã hãi quá.”

“Chắc rồi,” Dick nói. “Chắc chứ. Sợ quá chứ.” Thật kỳ diệu, đúng thế, cái sự dễ dàng đến lạ lùng khi Dick chuyển từ tính khí này sang tính khí kia; trong nháy mắt mọi dấu vết độc ác, bộ dạng sưng sỉa liền tan biến hết. Hắn nói, “Về cái món điềm báo trước kia. Nói tớ nghe cái này: nếu cậu cầm chắc sẽ bị gãy giò thì sao không cầu hòa với nó đi? Nếu cậu không dính vào cái xe máy thì đã không xảy chuyên gãy giò, đúng không?”

Đó là một bài đố mà Perry cứ loay hoay nghĩ. Hắn cảm thấy đã giải được, nhưng tuy đơn giản, lời giải vẫn cứ mù mờ thế nào đó: “Không. Vì khi mà một cái gì được định là sẽ xảy ra cho cậu rồi thì cậu chỉ còn mỗi cách là hy vọng nó đừng xảy ra. Hoặc tùy trời. Ngày nào cậu còn sống thì luôn có cái rình rập cậu, mà dù nó xấu thật, và cậu biết rõ nó xấu đi nữa thì cậu làm được gì? Cậu có ngừng sống được đâu? Giống như giấc mơ của tớ. Từ lúc còn chíp hôi, tớ vẫn chỉ có giấc mơ ấy. Tại cái chỗ tớ sống ở châu Phi. Một khu rừng. Tớ đi len giữa các cây cối đến cái cây đứng trơ trọi một mình. Chúa ơi, mùi nó mới thối chứ, cái cây ấy; nó thối kiểu gì mà làm cho tớ phát ốm lên được. Có điều, nhìn nó thì đẹp, lá xanh và đầy kim cương treo lủng liểng. Kim cương cứ như cam vậy. Vì thế tớ ở đó – nhặt mấy thúng kim cương. Nhưng tớ biết là ngay lúc tớ thử nhặt, lúc tớ vươn tay tới là một con rắn sẽ rơi vào tớ. Con rắn canh cái cây mà. Cái con chó đẻ béo quay ấy nó sống trên các cành. Tớ thấy trước cái đó chứ, thấy không? Và Chúa ơi, tớ không biết cách đánh nhau với rắn. Nhưng tớ hình dung ra được, tớ sẽ thử vận may của tớ. Cái rắc rối là tớ lại muốn kim cương hơn cả sợ rắn. Thế nên tớ nhặt lấy một viên, tớ có kim cương ở trong tay rồi, tớ kéo nó thì con rắn sà ngay vào đỉnh đầu tớ. Chúng tớ vật nhau nhưng nó là một con chó đẻ trơn nhẫy, tớ không sao túm được, nó quấn tớ lại, nó siết, cậu nghe được thấy cả chân tớ kêu răng rắc. Bây giờ đến cái đoạn mà nghĩ lại tớ còn toát hết mồ hôi. Xem xem, nó bắt đầu nuốt tớ. Nuốt chân trước. Như tụt vào chỗ cát lún vậy.” Perry ngập ngừng. Hắn không thể không thấy Dick đang bận nạy móng tay bằng cái răng nĩa, không để ý gì tới giấc mơ của hắn.

Dick nói, “Rồi sao? Con rắn nuốt cậu? Hay cái gì?”

“Chẳng sao. Không quan trọng.” (Nhưng nó quan trọng chứ! Cái kết rất là quan trọng, một nguồn vui riêng. Hắn đã có lần nói với gã bạn Willie-Jay của hắn; hắn đã tả cho gã bạn về con chim dữ tợn, “cái giống vẹt” màu vàng ấy. Dĩ nhiên, Willie-Jay thì khác – đầu óc tế nhị, “một bậc thánh.” Gã hiểu. Còn Dick? Gã lại có thể cười. Và điều đó thì Perry không cho phép: chế giễu con vẹt, con vẹt bay đầu tiên vào những giấc mơ của hắn khi hắn mới lên bảy, một đứa trẻ lai bị ghét bỏ và ghét bỏ mọi thứ, sống trong một trại trẻ mồ côi tại California do các nữ tu cai quản – những viên quản giáo giấu mặt quất roi vào người hắn vì hắn đái dầm. Chính là sau một trận đòn như thế, trận hắn không bao giờ quên được (“Mẹ ấy đánh thức tớ dậy. Mẹ ấy có chiếc đèn pin, mẹ ấy đánh tớ bằng cái đèn ấy. Đánh, đánh hoài. Khi cái đèn vỡ, mẹ ấy vẫn cứ đánh tớ tiếp trong bóng tối”), chính sau trận đó con vẹt đã xuất hiện, đến trong lúc hắn đang ngủ, một con chim “cao hơn Giê-su, vàng như hoa hướng dương”, một thiên thần-chiến binh mổ mù mắt đám tu sĩ, moi mắt chúng, giết chết chúng trong khi chúng lạy van “xin tha tội”, rồi rất nhẹ nhàng con chim nâng hắn lên, ủ bọc hắn, vỗ cánh đưa hắn lên “thiên đường”.

Năm tháng trôi đi, những cực hình mà con chim cứu hắn thoát ra kia đã thay đổi; những kẻ khác – đám trẻ con lớn hơn, bố hắn, một cô gái chẳng chút lòng tin, một sĩ quan hắn biết trong quân đội – thay vào chỗ các nữ tu sĩ, nhưng con vẹt thì vẫn nguyên vẹn, một người phục thù luôn bay quanh bên hắn. Thế là con rắn, kẻ canh giữ cây kim cương, chẳng bao giờ thôi nuốt hắn nhưng chính con rắn cũng lại luôn luôn bị nuốt. Rồi sau đó là một cuộc lên trời đầy ân sủng! Cuộc lên thiên đường mà trong dị bản này của Kinh Thánh chỉ là “một cảm giác”, một cảm thức về quyền uy, về sự ưu việt không gì công phá nổi mà trong một dị bản khác chúng lại được chuyển dịch tới “Một nơi đích thực. Như từ trong một cuốn phim mà ra vậy. Vì có lẽ đó chính là nơi tớ đã thấy nó – nhớ lại nó từ một cuốn phim. Bởi tớ còn có thể thấy ở đâu khác một cái vườn như thế chứ? Với những bậc tam cấp cẩm thạch trắng toát? Những vòi phun nước? Và tít bên dưới cùng kia, nếu cậu đi tới cuối khu vườn, cậu có thể nhìn thấy đại dương. Tuyệt vời! Hệt như ở quanh vùng Carmel, California vậy. Tuy cái hay nhất – đúng, là cái bàn ăn dài, dài ơi là dài. Cậu không tưởng tượng được lắm thức ăn đến thế đâu. Sò huyết. Gà tây. Bánh kẹp xúc xích. Hoa quả thì cậu có thể đựng được vào hàng triệu cái đĩa bồn ấy chứ. Và nghe này – cái gì cũng tha hồ. Ý tớ nói là tớ có thể đụng vào đấy mà chẳng phải sợ cái gì. Ăn được bao nhiêu tùy thích mà chẳng tốn một xu. Cái đó cho tớ biết là tớ đang ở đâu.”)

Dick nói, “Tớ là người bình thường. Chỉ mê thấy gái tóc vàng. Ấy, nói đến chuyện này, cậu có nghe đến cơn ác mộng của thằng dê già bao giờ chưa?” Dick là như thế đấy – về bất cứ vấn đề gì hắn luôn luôn có sẵn một câu chuyện tục. Nhưng món ấy hắn kể hay, và Perry, tuy là người trong chừng mực nào đó nghiêm túc, vẫn không nín được cười, như thường lệ.

Nhắc đến tình bạn với Nancy Clutter, Susan Kidwell nói, “Chúng cháu như chị em. Ít nhất là cháu cảm thấy như thế với bạn ấy – tựa như bạn ấy là chị cháu. Cháu không thể đi học được – không phải mấy ngày ban đầu kia đâu. Cháu không đến trường mãi cho đến sau tang lễ. Bobby Rupp cũng thế. Một dạo Bobby và cháu luôn ở bên nhau. Cậu ấy hay lắm – cậu ấy tốt bụng – nhưng trước đó chưa hề có cái gì ghê gớm như thế xảy đến với cậu ấy. Như mất đi một người cậu ấy yêu quý. Rồi trên hết nữa, lại còn bị kiểm tra bằng máy dò nói dối. Cháu không nói là cậu ấy cay đắng về chuyện ấy, cậu ấy hiểu là cảnh sát làm những cái họ cần làm. Một vài điều gay go, hai hay ba gì đó đã xảy ra với cháu, nhưng với cậu ấy thì không, cho nên khi nhận ra cuộc đời có lẽ không phải là một cuộc chơi bóng rổ dài dài thì cậu ấy bị choáng. Phần lớn thời gian chúng cháu lái chiếc Ford cũ của cậu ấy đi loanh quanh. Lên rồi xuống xa lộ. Ra sân bay rồi quay về. Hay chúng cháu tới Cree-Mee – quán ăn phục vụ tận xe – ngồi trong xe, gọi một lon Coke, nghe rađiô. Rađiô cứ mở miết, chúng cháu chả có gì để nói về mình. Trừ mọi lần Bobby nói cậu ấy yêu Nancy biết bao và vì sao cậu ấy không thể chú ý đến những đứa con gái khác. Vâng, cháu chắc là Nancy không muốn như thế và cháu bảo cậu ấy như thế. Cháu nhớ – cháu nghĩ hôm đấy thứ Hai – chúng cháu lái xe ra sông. Chúng cháu đỗ xe trên cầu. Ở đấy có thể nhìn thấy căn nhà – nhà Clutter. Và một phần đất – vườn cây của ông Clutter và đồng lúa mì trải dài ra. Ở một thửa đồng có đống lửa đang cháy; họ đang đốt đồ dùng của nhà Nancy. Nhìn vào đâu cũng gợi cho ta nhớ lại cái gì đó. Những người mang sào và lưới đang câu dọc bờ sông, nhưng không phải để lấy cá. Bobby nói họ đang tìm vũ khí. Con dao. Khẩu súng.

Nancy yêu con sông. Những đêm hè, chúng cháu quen cưỡi chung trên con ngựa của Nancy – Babe – con ngựa già và béo ấy. Đi thẳng ra sông rồi thẳng luôn xuống nước. Rồi Babe lội đến một chỗ nông trong khi chúng cháu thổi sáo và hát. Bị cảm lạnh. Cháu vẫn nhớ, trời, bạn ấy, con Babe ấy, nay ra sao? Một bà ở Garden City lấy con chó của Kenyon. Lấy con Teddy. Nó bỏ chạy – tìm được đường về Holcomb. Nhưng bà ta lại đến đem nó đi. Và cháu thì có con mèo của Nancy – Evinrude. Nhưng còn Babe. Cháu cho là họ đã bán nó đi rồi. Liệu Nancy có ghét thế không? Liệu Nancy có giận điên lên với việc ấy không? Một hôm khác, hôm trước tang lễ, Bobby và cháu ngồi bên đường sắt xe lửa. Nhìn các chuyến tàu đi qua. Ngốc thật. Như con cừu trong bão tuyết. Thình lình Bobby sực tỉnh nói, ‘Chúng ta phải ở với bạn ấy. Chúng ta phải ở bên Nancy.’ Thế là chúng cháu lại đến Garden City – đi đến Nhà Tang lễ Phillip, ở trên Phố Chính. Hình như có cậu em của Bobby đi cùng với chúng cháu. Đúng, chắc chắn là có cậu ta. Vì cháu nhớ chúng cháu vẫn đến trường đón cậu ta mà. Và cháu nhớ cậu ta nói mai trường cho trẻ con ở Holcomb nghỉ học đi dự tang lễ. Và cậu ta không ngừng nói đám trẻ con nghĩ gì. Cậu ta nói chúng tin chắc việc này là do một ‘kẻ giết mướn’ làm. Cháu không muốn nghe mấy thứ ấy. Toàn đồn đại và chuyện phiếm – những thứ mà Nancy ghét. Dù gì cháu cũng không quan tâm kẻ nào làm chuyện đó. Không hiểu sao cháu thấy chuyện đó chẳng có ích lợi gì. Bạn cháu đã chết. Biết kẻ giết bạn ấy cũng không đem được bạn ấy trở về. Có gì khác quan trọng hơn nữa? Họ không để chúng cháu vào. Cháu muốn nói là ở phòng chờ tang lễ ấy. Họ nói không ai được ‘nhìn gia đình’. Trừ họ hàng. Bobby năn nỉ và cuối cùng ông làm dịch vụ tang lễ – ông ta biết Bobby, và cháu đoán ông ấy thấy thương hại cho cậu ấy – nói được, hãy giữ im lặng, cứ vào đi. Bây giờ cháu lại mong giá chúng cháu đừng vào.”

Bốn cỗ áo quan, để chật phòng tang lễ nho nhỏ đầy những vòng hoa, đã được đóng kín để tiến hành nghi lễ – rất dễ hiểu, vì dù người ta đã bỏ công sửa sang cho bề ngoài các nạn nhân, song hiệu quả khi thực hiện xong vẫn làm ta ngao ngán. Nancy mặc bộ váy nhung màu đỏ anh đào, Kenyon một sơ mi vải Ê-cốt; bố mẹ thì ăn mặc đơn giản hơn, ông Clutter với bộ bằng len flanen xanh dương, vợ ông trong bộ váy bằng crép xanh dương; và – và đặc biệt, chính điều này đã đem lại cho quang cảnh một không khí đáng sợ – đầu cả hai đều bọc kín bông gòn, một con kén sưng phồng to gấp hai lần một quả bóng hơi, và do được phun một chất bóng thành thử bông gòn lấp lánh y như tuyết cây Nôen.

Susan lập tức lui lại. “Cháu ra chờ ở ngoài xe,” cô nhớ lại. “Bên kia đường một người đang quét lá. Cháu cứ nhìn ông ấy. Vì cháu không muốn nhắm mắt. Cháu nghĩ, nếu nhắm mắt là cháu ngất. Cho nên cháu cứ nhìn người ấy quét và đốt lá. Nhìn nhưng thật ra không thấy ông ta. Vì tất cả những gì cháu thấy chỉ là bộ váy. Cháu biết nó quá rõ. Cháu giúp Nancy chọn chất liệu mà. Nancy tự thiết kế và may nó. Cháu nhớ bạn ấy hoan hỉ như thế nào khi lần đầu mặc nó. Ở một buổi liên hoan. Cháu chỉ còn nhìn thấy bộ nhung đỏ thắm của Nancy. Đang khiêu vũ.”

Tờ Ngôi sao ở Kansas City đăng một bài tường thuật dài về đám tang nhà Clutter, nhưng khi Perry, nằm ườn trên giường trong phòng khách sạn đọc tới thì tờ báo đã cũ mất hai ngày. Cho dù thế hắn cũng chỉ lướt qua, nhảy cóc các đoạn như: “Một nghìn người, đám đông lớn nhất trong lịch sử năm năm của Nhà thờ Giám lý Thứ nhất, đã dự lễ tang bốn nạn nhân ngày hôm nay… Nhiều bạn của Nancy ở Trường cấp III Holcomb đã khóc khi Đức Cha Leonard Cowan nói: ‘Chúa ban cho chúng ta lòng dũng cảm, tình yêu và hy vọng cho dù chúng ta đang đi xuyên qua bóng tối âm u của thung lũng chết chóc. Tôi tin rằng Chúa đã ở bên họ trong những giờ phút cuối cùng. Giê-su không bao giờ hứa hẹn với chúng ta là chúng ta sẽ không phải đau đớn và buồn phiền nhưng Chúa luôn luôn nói Chúa sẽ ở đó giúp chúng ta mang nỗi buồn và nỗi đau… Vào một cái ngày ấm áp trái mùa, khoảng sáu trăm con người đã đến nghĩa trang Cảnh Lũng ở đầu phía Bắc thành phố này. Ở đó, tại buổi lễ bên những nấm mồ, họ đọc kinh câu nguyện Đức Chúa cha. Giọng họ hợp lại thành một tiếng thầm thì trầm thấp đâu cũng nghe thấy được ở trong khắp nghĩa trang.”

Một nghìn người! Perry ngạc nhiên. Hắn tự hỏi không biết đám tang tốn mất bao nhiêu tiền. Tiền choán chỗ lớn trong đầu óc hắn, tuy không còn riết ròng như một ngày trước – cái ngày hắn đã bắt đầu “không phải trả giá cho tiếng meo meo của một con mèo”. Tình hình đã được cải thiện từ đây; nhờ Dick, hắn và Dick bây giờ đã có “một khoản vốn kha khá” – đủ để đưa chúng tới Mexico.

Dick! Êm ru. Lắm mánh. Đúng, vụ này phải giao cho hắn đi. Lạy Chúa, không thể tin được làm sao hắn lại “úm được một gã đực rựa” như thế chứ. Như gã bán hàng ở cửa hàng may mặc tại Kansas City, Missouri, chỗ đầu tiên Dick quyết định “ra đòn”. Còn như Perry, hắn không bao giờ thử “để qua kiểm tra” cả. Hắn hay bồn chồn, nhưng Dick đã bảo hắn, “Tớ chỉ cần cậu đứng đó. Cấm cười, cấm ngạc nhiên với bất cứ điều gì tớ nói ra. Cậu phải chơi các cái trò này bằng tai.” Hình như với cái nhiệm vụ đề ra này, Dick ở hàng tổ sư. Hắn vào nhẹ như gió, giới thiệu Perry đến là nhẹ tênh với người bán hàng, “bạn tôi đây sắp cưới vợ,” rồi tiếp tục, “Tôi là người thân nhất của anh ấy. Giúp anh ấy đại khái mua sắm loanh quanh các thứ áo quần. Ha ha, cái thứ ha ha – ông có thể nói là bộ mồi của chú rể ấy mà.” Người bán hàng “cắn câu ngay”, và Perry lập tức tụt chiếc quần jeans ra, thử một bộ sáng bóng mà người bán hàng coi là thứ “lý tưởng cho một lễ hội không nghi thức”. Sau khi bình luận cái thân hình có tỷ lệ kỳ dị của ông khách – phần trên quá cỡ, phần dưới hụt cỡ – ông ta nói thêm, “Tôi sợ rằng chúng tôi không có thứ gì thích hợp mà không cần phải sửa.” “Ồ,” Dick nói, “Cứ O.K. đi, chúng tôi nhiều thì giờ – đám cưới mãi ‘tuần sau cơ mà’.” Thỏa thuận xong, chúng liền chọn một bộ lòe loẹt được xem là thích hợp với cái Dick gọi là một tuần trăng mật ở Florida. “Ông biết Hòn Địa đàng không?” Dick nói với người bán hàng. “Ở bãi biển Miami ấy? Anh chị ấy đặt trước phòng ở đó rồi. Quà bố mẹ vợ tặng – hai tuần, mỗi ngày bốn chục đô. Anh bảo sao đây hả? Một gã cà nhắc xấu xí như anh ta, chả hiểu tán ngon tán ngọt thế nào chị chàng không chỉ chịu đổ mà còn sẵn lòng cống đủ thứ đồ cho nữa. Trong khi như ông và tôi, ngon lành tốt mã thế này…” Người bán hàng đưa hóa đơn. Dick cho tay vào túi sau, cau mày, búng ngón tay đánh tách một cái nói, “Chui cha! Quên ví mất rồi.” Điều này với Perry xem ra là một mánh quá yếu không “lừa nổi một thằng mọi mới một ngày tuổi”. Nhưng rõ ràng người bán hàng không tán thành ý kiến này vì anh ta chìa ra một ngân phiếu khống, rồi khi Dick ghi vào đó dôi ra đến tám chục đô so với tiền hóa đơn cộng lại thì anh ta bèn lập tức trả chỗ chênh bằng tiền mặt.

Ra ngoài Dick nói, “Vậy là tuần sau cậu lấy vợ hả? Được, cậu cần một cái nhẫn.” Ít lâu sau, ngồi trong chiếc Chevrolet cũ kỹ của Dick, chúng đến một cửa hàng tên gọi Kim hoàn Thượng hạng. Sau khi mua ở đây chiếc nhẫn đính hôn và dây kim cương cổ tay dùng cho đám cưới, chúng đến một nhà cầm đồ dể cho đi mấy khoản này. Perry buồn vì phải thấy chúng ra đi. Hắn đã bắt đầu tin một nửa vào cô dâu vờ, tuy hình dung của hắn về cô ta có trái với quan niệm của Dick, cô ta không giàu không đẹp, nhưng mà cô ta biết trang điểm xinh xắn, nói năng dịu dàng, được coi là “tốt nghiệp cao đẳng”, muốn gì thì cũng là “một nàng rất trí thức” – loại gái hắn luôn mong gặp gỡ nhưng trên thực tế thì chưa bao giờ.

Trừ phi nếu tính đến Cookie, cô y tá hắn quen khi bị tai nạn xe máy phải nằm bệnh viện. Một cô bé dịu dàng, Cookie ấy, và cô đã thích hắn, thương hắn, cưng hắn, gợi hứng cho hắn đọc “văn chương nghiêm chỉnh” – Cuốn theo chiều gió, Đây là người yêu dấu của em. Những chương hồi ăn nằm mang tính kỳ lạ và vụng trộm đã xảy ra, tình yêu đã được nhắc đến, cả hôn nhân nữa, nhưng cuối cùng, khi các vết thương lành, hắn chào từ biệt và tặng cô, thay cho lời giải thích, một bài thơ hắn nói là tự sáng tác:

Có một giống người không hợp với đời,

Một giống người không thể ngồi yên;

Cho nên họ làm cho bè bạn

Và họ hàng tan nát con tim;

Họ phỉ chí dọc ngang trần thế

Đi khắp các cánh đồng, lang thang

Khắp các triền sông

Và leo lên đỉnh núi cao;

Lời nguyền của họ là lời nguyền của dòng máu Gipxi[5]

Và họ không biết thế nào là nghỉ.

Nếu cứ thẳng tắp đi thì có thể họ sẽ đi xa;

Họ khỏe, họ can trường và họ thật;

Nhưng họ luôn mệt với những cái đang là thực tại,

Và họ mong cái mới cùng cái lạ.

Hắn không gặp lại cô nữa, không nghe cô hay người khác nói đến cô, nhưng nhiều năm sau hắn xăm tên cô lên cánh tay mình, và một lần, khi Dick hỏi là “Cookie” ai, hắn nói, “Không ai cả. Một cô gái tớ gần như đã lấy.” (Việc Dick đã hai lần lấy vợ và làm bố của ba đứa con là một điều hắn thèm muốn. Một người vợ, những đứa con – đó là kinh lịch mà “một người đàn ông phải trải”, dẫu là, với Dick, nó không hề “làm cho hắn được hạnh phúc hay lợi lộc gì”).

Mấy cái nhẫn cầm được một trăm năm chục đô la. Chúng lại vào một tiệm kim hoàn khác, tiệm Goldman, và lừng khừng ra khỏi đó với một chiếc đồng hồ vàng của đàn ông. Lần đỗ lại sau, ở một cửa hàng Camera Elko, nơi chúng “mua” một camera quay phim hiện đại. “Camera là khoản đầu tư tốt nhất của cậu đấy,” Dick bảo với Perry. “Món dễ cầm dễ bán nhất. Camera hay ti vi.” Chúng quyết định lấy nhiều ti vi, và khi đã hoàn thành sứ mạng, chúng liền đi tiếp, đánh tiếp vào một số thương xá bán quần áo nữa – Sheperd & Fosters, Rothschild’s, Thiên đường của Người mua sắm. Vào khoảng mặt trời lặn, khi các cửa hàng đã đóng cửa, túi chúng đầy ắp tiền mặt và xe thì chất đầy các mặt hàng cầm được bán được. Đưa mắt duyệt qua vụ thu hoạch những áo sơ mi và bật lửa, những máy móc đắt tiền và những khuy măng sét rẻ tiền, Perry cảm thấy mình cao lớn một cách vung vinh – giờ thì, nào, Mexico, một cơ may mới, một cuộc sống “thật sự là sống”. Nhưng Dick hình như lại suy sụp. Hắn rũ phắt những lời ca tụng của Perry (“Ý tớ là thế này, Dick. Cậu thật đáng kinh ngạc. Một nửa thời gian là tớ tin cậu.”) – Perry bối rối; hắn không thể hiểu tại làm sao Dick, bình thường tự mãn là thế, song khi có có hay ho để phét lác thì tự dưng hắn lại đâm ra nhu mì, nom ỉu xìu và buồn xo vậy. Perry nói, “Tớ sẽ bao cậu một chầu uống.”

Chúng dừng ở một quán bar. Dick uống ba Mùa Cam Rộ. Sau cốc thứ ba, hắn hỏi độp, “Về ông bố tớ cậu nghĩ sao? Ôi Giê-su, tớ cảm thấy ông ấy là một ông già tốt ơi là tốt. Và mẹ tớ – chà, cậu gặp bà ấy rồi đấy. Cậu nghĩ gì về hai người? Tớ ấy à, tớ sẽ phới đi Mexico. Hay bất cứ đâu. Nhưng hai cụ thì vẫn cứ ở đây khi những tấm séc kia bắt đầu bị trả về. Tớ hiểu bố tớ. Ông muốn mọi thứ đều tốt cả. Như ông từng cố trước nay. Cố mà không được – ông già, ông ốm, ông chẳng được một cái gì.”

“Tớ thông cảm chuyện đó,” Perry nói thật lòng. Dù không tử tế nhưng hắn đa sầu đa cảm, và tình yêu của Dick với bố mẹ, mối lo lắng cho bố mẹ mà Dick thổ lộ quả đã làm cho Perry xúc động. “Nhưng mà, mẹ kiếp, Dick. Rất đơn giản,” Perry nói. “Chúng ta có thể làm cho mấy tấm séc kia phải hóa ra tiền. Một khi chúng ta tới Mexico, một khi chúng ta bắt tay ở đó thì sẽ hái ra tiền. Nhiều nhiều tiền.”

“Bằng cách nào?”

“Bằng cách nào ấy à?” – Dick muốn nói gì thế nhỉ? Câu hỏi làm cho Perry sửng sốt. Muốn gì thì cũng đã thảo luận với nhau về các khoản làm ăn phong phú đến thế rồi mà! Tìm vàng, lặn tìm kho vàng đắm – đó mới là hai dự án Perry hăng hái đề nghị. Còn những cái khác nữa. Chẳng hạn con tàu. Chúng thường nói đến một con tàu đánh cá ngoài khơi, cái tàu chúng sẽ mua, tự mình làm thủy thủ cho mình và cho bọn người nghỉ hè thuê – khoản này vẫn có, mặc dù cả hai chưa từng chèo xuồng hay câu nổi một con cá ranh. Rồi còn vụ kiếm tiền nhanh bằng cách lái xe ăn cắp qua các biên giới Nam Mỹ nữa. (“Cậu được trả mỗi chuyến một trăm đô” hay đại khái thế, Perry đã đọc ở đâu đó). Nhưng trong nhiều câu trả lời mà có thể hắn đã đưa ra, hắn chọn nhắc Dick nhớ đến cái kho báu đang chờ chúng ở đảo Cocos, một doi đất ngoài bờ biển Costa Rica. “Không đùa đâu, Dick,” Perry nói. “Đích thực thế đấy. Tớ đã xoay được một tấm bản đồ. Tớ đã biết hết tất cả câu chuyện. Nó được chôn ở đó từ năm 1821 – vàng thoi, tư trang Pêru. Sáu chục triệu đô la – họ nói giá trị của nó là như vậy đó. Dù ta không tìm ra được tất cả, dù ta tìm ra chỉ một phần thì, nào Dick, cậu có đi với tớ không đây?” Cho tới hôm nay, Dick vẫn luôn cổ vũ khuyến khích hắn, chăm chú nghe hắn nói đến các bản đồ, các chuyện kho vàng, nhưng bây giờ – và điều này trước đây chưa hề xảy ra – hắn đang nghĩ có phải thời gian qua Dick chỉ toàn giả bộ không, đùa hắn hay không.

Ý nghĩ này đau nhói nhưng chỉ lướt qua, bởi vì, nháy mắt và tát yêu một cái xong, Dick nói, “Chắc chắn chứ bồ. Tớ sẽ đi với cậu. Đi cho đến hết đường.”

Ba giờ sáng, chuông điện thoại lại réo. Nào có quan trọng gì cái giờ gọi. Muốn gì thì Al Dewey cũng đã tỉnh hẳn, cả Marie lẫn hai đứa con trai của họ, Paul chín tuổi và Alvin Adams Dewey, Jr., mười hai tuổi. Ai mà ngủ nổi trong một ngôi nhà mà đêm nào cũng cứ vài phút lại có chuông điện thoại réo kia chứ? Khi xuống giường Dewey hứa với vợ, “Lần này anh để ống nghe ra ngoài giá.” Nhưng đây không phải là lời hứa ông dám giữ. Thật thế, nhiều cuộc gọi là của các nhà báo săn tin, của những người sẵn bụng đùa hay của những nhà giả thuyết học. (“Al hả? Nghe này, anh bạn. Tôi đã hình dung ra vụ này. Đây là tự sát và án mạng. Tình cờ tôi biết Herb đang trong cảnh gay go về tài chính. Tiền dàn ra khá nhiều. Vậy ông ta làm gì? Ông ta lấy ra món bảo hiểm lớn này, bắn vợ và bọn trẻ rồi tự sát bằng bom. Một quả lựu đạn nhồi đạn ghém.”) hay những người vô danh có đầu óc tống tiền (“Có biết bọn họ không? Người nước ngoài à? Không ăn thua ư? Làm liên hoan? Tiệc cốc tai? Tiền ở đâu ra? Nếu tiền là gốc của vụ rắc rối Clutter thì tớ chẳng có ngạc nhiên tí nào đâu nhá.”), hoặc các bà hay căng thẳng bị những lời đồn đại lan truyền làm cho hốt hoảng, những đồn đại không biết đâu là gốc ngọn nữa (“Alvin này, tôi biết anh từ lúc anh còn bé. Tôi muốn anh bảo thẳng tôi liệu có phải là thế không. Tôi yêu và kính trọng, ông Clutter và tôi không tin rằng con người ấy, người Cơ đốc ấy – tôi không tin ông ta lại lùng đàn bà…”).

Nhưng phần lớn người gọi đến là những công dân có tinh thần trách nhiệm muốn được giúp gì đó (“Không biết ông đã hỏi Susan Kidwell, bạn của Nancy chưa? Tôi đã nói chuyện với cô bé, cô ấy nói một điều làm tôi giật mình. Cô ấy nói lần cuối cùng trò chuyện với Nancy, Nancy bảo ông Clutter đang thật sự không vui. Đã thế suốt ba tuần qua rồi. Rằng cô ấy nghĩ ông Clutter đang rất lo phiền chuyện gì đó, lo phiền đến nỗi đâm ra hút thuốc lá đấy…”). Hoặc người gọi là những người chính thức có liên quan – viên chức pháp luật và cảnh sát trưởng ở các nơi khác trong bang (“Đây có thể là một cái gì mà cũng có thể không, nhưng một chủ quán bar ở đây nói ông ta đã nghe lỏm được hai người bàn đến vụ kia mà nghe như là bọn họ rất có liên quan…”). Và tuy không một câu chuyện nào trên điện thoại làm được gì hơn ngoài chuyện tăng thêm việc làm ngoài giờ của các điều tra viên, song vẫn luôn có khả năng là câu chuyện kế tiếp sẽ làm được một cái gì, như Dewey nói, “Giờ giải lao, màn hạ.”

Lần gọi này Dewey lập tức nghe đầu kia nói, “Tôi muốn thú tội.”

Ông nói, “Tôi đang nói với ai đấy, xin cho hay?”

Người gọi, một người đàn ông, nhắc lại lời thú nhận độc đáo của mình và thêm, “Tôi đã làm. Tôi đã giết tất cả họ.”

“Vâng,” Dewey nói. “Bây giờ nếu tôi được biết tên và địa chỉ của ông…”

“À không, ông đừng,” người đàn ông nói, giọng lè nhè đầy những bực dọc có hơi rượu. “Tôi sẽ không nói với ông cái gì hết. Không, tới khi nào tôi nhận được tiền thưởng ông gửi đến thì tôi mới bảo ông tôi là ai. Xong.”

Dewey quay về giường. “Cưng à, không,” ông nói. “Không có gì quan trọng. Lại một thằng say.”

“Hắn muốn gì vậy anh.”

“Muốn thú tội. Đòi ta đưa tiền thưởng trước đã.” (Một tờ báo ở Kansas, tờ Tin tức Hutchinson, đã hứa biếu một nghìn đô la cho thông tin nào dẫn đến lời giải cho vụ án).

“Alvin, anh lại đang châm điếu khác đấy phải không? Nói thật, Alvin, anh không thể cố mà ngủ đi được ư?”

Ông căng đầu quá không ngủ được, cho dù có thể để cho điện thoại im đi – quá bực bội và quá thất vọng. Chả có “manh mối” nào dẫn đến đâu, trừ có lẽ xuống một lối mù tới những bức tường đen ngòm nhất. Bobby Rupp ư? Thì máy dò nói dối đã loại cậu ta ra rồi. Và ông Smith, người chủ trại buộc nút dây thừng giống với những cái nút tên giết người đã buộc – ông ta cũng là một người tình nghi được loại ra, có bằng chứng rằng đêm án mạng ông ta ở “tít tận Oklahoma”. Như vậy còn lại hai bố con nhà John, nhưng họ cũng đã đưa ra bằng chứng vắng mặt hôm đó, có thể xác minh được. “Vậy là, tất cả cộng lại thành một con số không tuyệt đẹp. Zero,” trích lời Harold Nye. Cả việc săn tìm cái mộ con mèo của Nancy cũng không đưa đến đâu.

Nhưng đã có một hai phát hiện có ý nghĩa. Thứ nhất, trong khi xếp lại quần áo Nancy, bà Elaine Selsor, dì cô, đã tìm thấy trong mũi một chiếc giày có nhét một chiếc đồng hồ đeo tay bằng vàng. Thứ hai, có một nhân viên K.B.I. đi cùng, bà Helm đã lục soát tất cả các gian phòng trong Trại Lũng Sông, đảo khắp ngôi nhà, hy vọng có thể nhận thấy cái gì trái khoáy hay vắng thiếu; và bà đã tìm ra. Cái đó xảy ra ở phòng Kenyon. Bà Helm xem đi xem lại, đi ngang đi dọc gian phòng, môi mím lại, sờ cái này, mó cái kia – chiếc găng chơi bóng chày của Kenyon, đôi ủng lao động lấm bùn của Kenyon, đôi kính gợi buồn của cậu bị bỏ lại. Suốt thời gian đó bà cứ thì thầm, “Chỗ này có cái gì không phải, tôi cảm thấy nó, tôi biết nó, nhưng tôi không biết nó là cái gì.” Và rồi bà biết. “Đó là chiếc rađiô! Chiếc rađiô tí tẹo của Kenyon đâu?”

Gộp lại với nhau, các phát hiện này buộc Dewey phải xét lại khả năng “ăn trộm đơn thuần” là một động cơ. Chắc chắn chiếc đồng hồ kia không phải tình cờ mà lại rúc vào trong giày của Nancy? Cô phải nghe thấy những tiếng động – những bước chân, có lẽ cả những giọng nói – khiến cô cho rằng kẻ trộm đang ở trong nhà, và tin như vậy cô mới phải vội vàng giấu chiếc đồng hồ, một tặng vật của bố mà cô nâng niu. Còn chiếc rađiô, chiếc xách tay màu xám của hãng Zenith – thì đúng hẳn hoi rồi, nó đã bị lấy đi. Nhưng, Dewey vẫn không thể chấp nhận cái lý thuyết cho rằng gia đình này bị thảm sát là vì một món lợi bèo – “một ít đô la với cái rađiô”. Chấp nhận nó thì sẽ xóa sạch hình ảnh của ông về tên giết người – hay đúng hơn, những tên giết người. Ông và những người cộng sự đã quyết định dứt khoát dùng cái từ này ở số nhiều. Trình độ gây án thành thạo đủ là bằng chứng rằng ít nhất một trong hai kẻ giết người đã hành động với mức độ lì lợm quá đỗi – và chắc nó phải là một đại cao thủ mới có thể làm một việc như thế mà chẳng có động có suy tính trước. Dewey cũng bắt đầu nhận ra nhiều điểm đặc biệt củng cố niềm tin của ông là ít nhất một tên trong đám giết người đã có vướng gợn về cảm xúc với các nạn nhân, đã cảm thấy đôi chút trìu mến leo lét nào đó đối với họ, thậm chí dù hắn sẽ hủy diệt họ. Cái thùng đựng đệm kia thì giải thích khác đi thế nào được đây?

Cái thùng đựng đệm là điểm làm cho Dewey bối rối nhất. Tại sao bọn giết người lại bỏ công dịch cái thùng từ đằng cuối tầng hầm vào trước cái lò trên sàn nhà, nếu không phải là định làm cho ông Clutter được dễ chịu hơn – tạo ra cho ông một chỗ nằm đỡ cứng hơn nền xi măng trong khi ông nhìn lưỡi dao đến gần? Và nghiên cứu các tấm ảnh chụp các cảnh chết chóc, Dewey đã phân biệt ra những chi tiết khác xem chừng ủng hộ cho quan điểm của ông về một tên giết người thỉnh thoảng lại bị thúc đẩy bởi những xung động bảo hắn hãy ý tứ với nạn nhân. “Hay” – ông không bao giờ tìm ra cái chữ ông mong có – “một cái gì cầu kỳ. Và mềm dịu. Những tấm vải phủ giường kia. Chậc, loại người nào lại đi làm như vậy – trói gô hai người đàn bà lại, kiểu Bonnie và cô gái đã bị trói, rồi kéo chăn lên, bọc họ vào trong, giống như chúc cho mộng đẹp và ngủ ngon? Hay cái gối kê dưới đầu Kenyon. Thoạt tiên tôi tưởng cái gối được đặt ở đó làm cho đầu của cậu ta thành một cái đích nổi rõ hơn. Bây giờ tôi nghĩ là không, lý do tên sát nhân làm việc đó cũng giống như lý do nó trải cái thùng đựng đệm lên sàn – để nạn nhân dễ chịu hơn.”

Nhưng đây chỉ là những suy đoán; tuy cuốn hút tâm trí Dewey, chúng vẫn không làm cho ông hài lòng hay cho ông cảm tưởng đã “đạt được một cái gì”. Một vụ án ít khi được giải quyết bằng những “giả thuyết tưởng tượng”; ông đặt niềm tin vào sự việc cụ thể – “đổ mồ hôi vì chúng và quyết lấy được chúng”, số lượng sự việc cần tìm và sàng lọc, lịch đặt ra để có được chúng đã hứa hẹn phải đổ rất nhiều mồ hôi, đã đòi hỏi phải dõi lùng, “tìm hiểu” hàng trăm con người, gồm tất cả những người làm mướn trước đây cho Trại Lũng Sông, bạn bè và gia đình, bất cứ ai mà ông Clutter đã hoặc ít hoặc nhiều làm ăn cùng – một con rùa bò ngược vào quá khứ. Vì như Dewey đã báo với kíp của ông, “Chúng ta cứ đi cho tới khi nào chúng ta hiểu nhà Clutter rõ hơn cả chính bản thân họ. Cho tới khi chúng ta nhìn ra chỗ giằng níu nhau giữa cái mà chúng, ta tìm thấy sáng Chủ nhật trước và một cái gì có thể đã xảy ra từ năm năm rồi. Sợi dây liên hệ. Phải có một sợi dây liên hệ. Phải có.”

Bà vợ Dewey chập chờn, nhưng liền thức hẳn khi cảm thấy ông đã rời khỏi giường, nghe ông trả lời điện thoại một lần nữa, và nghe thấy trong buồng bên cạnh, nơi ba con bà ngủ, tiếng nức nở. Một đứa bé trai khóc. “Paul?” Thông thường Paul không hay bị quấy – cũng chẳng hay quấy. Nó mải đào hầm ở sân sau nhà hay tập để trở thành “người chạy nhanh nhất hạt Finncy”. Nhưng sáng nay lúc ăn điểm tâm, nó đã òa khóc. Người mẹ không cần hỏi tại sao, bà cũng hiểu rằng dù sao nó cũng đã biết tuy chỉ lờ mờ những lý do gây nên xáo động quanh nó, nó cũng cảm thấy bị đe dọa – bởi những cú điện thoại mệt người, những người lạ mặt ở cửa, đôi mắt ngơ ngác và lý do ưu phiền của bố. Bà sang an ủi con. Anh nó, lớn hơn nó ba tuổi, giúp bà. “Paul,” thằng anh nói, “em nín đi, rồi ngày mai anh dạy em đánh poker.”

Dewey ở trong bếp; Marie đi tìm và thấy ông ở đó, chờ cà phê đang pha, những tấm ảnh hiện trường vụ án la liệt trước mặt ông – trên bàn bếp – những vệt mờ nhạt làm ố mất mặt vải dầu vẽ hình hoa quả đẹp đẽ của cái bàn. (Có lần ông bảo bà xem một tấm ảnh. Bà từ chối. Bà nói, “Em muốn nhớ về Bonnie như Bonnie vốn dĩ là thế – cả họ cũng vậy.”) Ông nói, “Có lẽ bọn nhỏ phải đến ở với mẹ.” Mẹ ông, một cụ góa, song không xa lắm, trong một ngôi nhà cụ cho là quá rộng và quá im lìm; các cháu nội cụ luôn luôn được hoan nghênh.

“Chỉ ít ngày thôi. Cho tới khi – được, cho tới…”

“Alvin này, anh có nghĩ là rồi chúng ta sẽ trở lại với cuộc sống bình thường được không?” bà Dewey hỏi.

Cuộc sống bình thường của họ là như thế này: cả hai đi làm, bà Dewey là thư ký văn phòng và họ chia nhau công chuyện nội trợ, luân phiên làm bếp và rửa bát. (“Khi Alvin là cảnh sát trưởng, tôi biết có vài đứa trẻ trêu đùa anh ấy. Hay nói, ‘Xem kìa chuyện hay! Cảnh sát trưởng Dewey đang đến! Người đàn ông dữ dằn! Đeo một khẩu sáu viên! Nhưng một khi ông ấy về nhà, khẩu súng liền rời và thượng tạp dề lên’!”) Lúc đó, họ đang dành dụm để xây nhà ở cái trại Dewey mua năm 1951 – hai trăm bốn chục mẫu Anh cách Garden City vài dặm về phía Bắc. Nếu thời tiết tốt, đặc biệt những ngày nóng và lúa mì mọc cao đã chín, ông thích lái xe ra đây tập rút súng nhanh – bắn quạ, hộp thiếc – hay tưởng tượng ra mình đang loăng quăng trong ngôi nhà ông hy vọng sẽ có, qua khu vườn ông có ý trồng trọt, và dưới các cây vẫn chưa tra hạt. Ông rất tin là một ngày nào đó, ốc đảo sồi và du của ông sẽ sừng sững ở trên những bình nguyên không bóng cây này: “Một ngày nào đó. Chúa đang muốn.”

Đức tin ở Chúa và những nghi thức bao quanh đức tin đó – lễ nhà thờ mọi Chủ nhật, tạ ơn trước bữa ăn, đọc kinh trước khi ngủ – là một phần quan trọng trong đời sống nhà Dewey. “Tôi không hiểu làm sao lại có người ngồi xuống ăn mà không tạ ơn Chúa,” bà Dewey có lần đã nói. “Đôi khi, lúc đi làm về, khá là mệt mỏi. Nhưng bao giờ cũng có cà phê trên lò và đôi khi một miếng bít tết trong ngăn đá. Bọn trẻ châm bếp rán bít tết và chúng tôi trò chuyện, kể cho nhau ngày làm việc của mình, và lúc bữa tối đã làm xong, tôi biết chúng tôi có lý do chính đáng để vui mừng và biết ơn. Cho nên tôi nói, “Tạ ơn Chúa. Không chỉ vì con nên tạ ơn mà là con muốn tạ ơn.”

Bây giờ bà Dewey nói, “Alvin, trả lời em nào. Anh có nghĩ là chúng ta sẽ lại có một cuộc sống bình thường như trước hay không đấy?”

Ông định trả lời, nhưng chuông điện thoại đã làm cho ông ngừng lại.

Chiếc Chevrolet cũ rời Kansas City đêm thứ Bảy, 21 tháng Mười một. Hành lý được buộc ở cái chắn bùn và cột trên mui xe; cái rương bị nhét đầy phè không đậy lại được; bên trong xe, ở hàng ghế sau, hai chiếc ti vi đặt chồng lên nhau. Người trên xe chịu ngồi chật: Dick lái, còn Perry ôm cây ghi ta Gibson cũ của hắn, vật sở hữu hắn yêu nhất. Còn các đồ dùng khác của Perry – một va li các tông, một rađiô xách tay Zenith màu xám, một can bia không cồn làm bằng rễ cây (hắn sợ thứ nước uống hắn thích này không có ở Mexico) và hai thùng lớn đựng sách, bản thảo, quyển sổ ghi các sự kiện yêu dấu đáng ghi nhớ (và Dick chả đã nổi cơn điên sao! Chửi rủa, đá hộp đá thùng, gọi chúng là “đồ lợn hai tạ rưỡi cứt!”) – mấy cái này cũng là một phần trong mớ nội thất bề bộn của chiếc xe.

Khoảng nửa đêm, chúng vượt biên giới vào bang Oklahoma. Vui vì ra khỏi bang Kansas, Perry cuối cùng cũng nhẹ người. Bây giờ thì đúng thật rồi – chúng đang bon bon trên con đường của chúng. Con đường của chúng, và không bao giờ còn quay lại – không hề luyến tiếc, về phần hắn vì chẳng để cái gì lại ở đằng sau, và chẳng ai có thể nghĩ sâu xa đến việc hắn bị cuốn quay cuồng vào trong bầu không khí mỏng manh nào. Với Dick thì không thể nói thế. Có những cái Dick tuyên bố là yêu: ba đứa con trai, bà mẹ, ông bố, người anh – những người hắn không dám thổ lộ các dự án của hắn hay chào từ biệt, tuy hắn không bao giờ chờ mong gặp lại họ – trong cuộc đời này của hắn thì không.

LỄ KẾT HÔN CỦA CLUTTER VÀ ENGLISH ĐƯỢC TỔ CHỨC VÀO THỨ BẢY: tiêu đề này xuất hiện trên trang xã hội của tờ Điện tín Garden City ngày 23 tháng Mười một làm nhiều người đọc ngạc nhiên. Hình như Beverly, cô con gái thứ hai sống sót của ông Clutter đã cưới anh Vere Edward English, cậu sinh viên khoa Sinh học mà cô đã đính ước từ lâu. Cô Clutter mặc đồ trắng và đám cưới đầy đủ nghi thức (“Bà Leonard Cowan đơn ca và bà Howard Blanchard chơi đàn organ”) đã được “tiến hành trọng thể tại Nhà thờ Giám lý Thứ nhất” – nhà thờ mà, tại đó ba hôm trước, cô dâu đã chính thức đưa tang bố mẹ, em trai và em gái mình. Tuy vậy, theo tường thuật của tờ Điện tín thì “Vere và Beverly lẽ ra dự định cưới nhau vào dịp lễ Giáng sinh. Giấy mời đã in, bố cô đã đặt trước ngày giờ với nhà thờ. Do tấn thảm kịch không ngờ tới và vì nhiều họ hàng từ các nơi xa đang ở đây, nên cặp trẻ tuổi đã quyết định làm lễ cưới vào thứ Bảy này.”

Lễ cưới kết thúc, họ hàng Clutter tản mát đi. Ngày thứ Hai, người cuối cùng trong đám họ rời Garden City, tờ Điện tín đăng ở trang nhất bức thư do ông Howard Fox ở Oregon, bang Illinois, anh trai của bà Bonnie Clutter viết. Sau khi ngỏ lời cảm tạ dân thị trấn đã rộng mở “trái tim và mái nhà” cho gia đình bị tổn thất, bức thư đã thành một lời xin khoan dung. “Có nhiều oán giận trong cộng đồng này (tức là Garden City),” ông Fox viết. “Tôi đã hơn một lần nghe nói rằng kẻ đó, một khi bị tìm ra, sẽ bị treo lên cái cây gần nhất. Xin đừng nghĩ như vậy. Việc kia đã làm rồi, lấy đi một mạng sống khác thì cũng chẳng thay đổi được gì. Thay vì vậy, chúng ta hãy tha thứ như Chúa sẽ bảo chúng ta. Giữ trong tim chúng ta mối oán thù là không phải. Kẻ làm việc kia sẽ thấy thật sự khó lòng mà sống với bản thân. Hắn chỉ được bình tâm tĩnh trí chừng nào hắn đến cầu xin lượng khoan hồng tha thứ của Chúa. Chúng ta chớ cản đường, thay vì vậy chúng ta hãy cầu nguyện cho hắn tìm được sự bằng an.”

Chiếc xe đỗ ở trên một mô đất cao, nơi Perry và Dick dừng lại ăn picnic. Đang trưa. Dick đưa ống nhòm nhìn quét một vùng xung quanh. Núi. Những con ó lượn trền vòm trời trắng. Một con đường bụi bặm uốn khúc vào rồi ra khỏi một ngôi làng trắng và bụi bặm. Hôm nay là ngày thứ hai hắn ở Mexico, và cho đến nay hắn yêu xứ này – kể cả thức ăn. (Lúc này hắn đang ăn một cái bánh ngô lạnh nhờn dầu). Chúng đi qua biên giới ở Laredo, Texas, sáng 23 tháng Mười một, qua đêm đầu tiên ở một nhà thổ tại San Luis Potosí. Chúng hiện đang cách Mexico City, nơi sắp tới của chúng, hai trăm dặm về phía Bắc.

“Biết tớ nghĩ gì không?” Perry nói. “Tớ nghĩ đã có một cái gì đó không hay với chúng ta. Làm cái việc chúng ta làm.”

“Làm cái gì?”

“Đi ra đây.”

Dick ném ống nhòm vào trong túi da, một cái hộp sang trọng mang mấy chữ đầu tên H. W.C. Hắn bực. Bực lắm. Cái chó gì mà Perry nó không câm mồm đi chứ nhỉ? Lạy Chúa, cứ kéo rê cái của nợ ấy đi theo thì được cái chó gì? Thật đáng bực. Đặc biệt từ khi đã nhất trí không nói tới cái của nợ đó nữa. Quên nó đi.

“Sẽ xảy chuyện không hay với những ai đã làm một việc như thế,” Perry nói.

“Loại tớ ra đấy nhé, bồ,” Dick nói. “Tớ là người bình thường.” Dick nói vậy, và quả thực ý hắn muốn nói vậy. Hắn nghĩ hắn là một kẻ đầu óc cân bằng, lành mạnh như bất kỳ ai – có thể thông minh hơn lũ trung bình một chút, đấy, thế thôi. Nhưng còn Perry – theo Dick thì có, có “một cái gì không hay” ở Perry Bé Bỏng. Ít nhất là thế. Mùa xuân năm ngoái, khi hai đứa chung xà lim ở Nhà tù Bang Kansas, hắn đã biết được phần lớn những cái quái đản ít tệ hại hơn của Perry. Perry có thể là “một thằng nhỏ như thế”, luôn đái ướt cả giường và kêu khóc khi ngủ (“Bố ơi, con tìm khắp nơi, bố ở đâu, bố ơi?”), và Dick thường thấy hắn “ngồi hàng giờ mút ngón tay cái ngâm cứu mấy quyển sách hướng dẫn chết bầm về các kho báu rởm”. Đó là một mặt; còn các mặt khác nữa. Ở một vài chỗ nào đó thằng cha Perry lại “kinh bỏ bố”. Lấy thí dụ, tính khí của hắn. Hắn có thể chợt trở nên cuồng điên “nhanh hơn cả mười thằng da đỏ say rượu”. Nhưng bạn còn chưa biết cái này. “Hắn có thể sẵn sàng giết bạn, nhưng bạn chẳng bao giờ biết đâu nhá, chớ nhìn chớ nghe,” Dick đã có lần nói thế. Bởi tuy cơn khùng ở bên trong có cực kỳ đến thế nào thì ở bên ngoài Perry vẫn cứ là một tay dữ dằn trẻ tuổi, lì lì, với con mắt bình thản và ngái ngủ. Đã có thời Dick nghĩ có thể kiểm soát, có thể điều chỉnh được nhiệt độ các cơn sốt lạnh bất thần đang hun đốt và làm run rẩy thằng bạn hắn. Hắn đã lầm, và kết quả của phát hiện này là hắn ngày càng thấy không thể đặt niềm tin vào Perry, không thể nắm chắc được hoàn toàn điều Perry nghĩ – trừ việc cảm thấy nên sợ Perry, và thầm nghĩ tại sao mình lại chưa thật sự sợ.

“Sâu ở bên trong tớ,” Perry nói tiếp, “sâu tới tận củ tỉ tớ, tớ không bao giờ nghĩ tớ lại có thể làm được như thế. Một cái việc như thế.”

“Về thằng mọi thì sao?” Dick hỏi. Im lặng. Dick nhận ra Perry đang nhìn mình chằm chằm. Tuần trước, ở Kansas City, Perry đã mua một cặp kính đen – cặp kính ngổ ngáo với hai cái gọng mạ bạc và tròng mắt thì phản chiếu như gương. Dick ghét cái cặp kính đó; hắn đã bảo Perry là hắn xấu hổ khi để người ta thấy hắn đi cùng với “một người đeo cái loại cổ quái này”. Thật ra, cái làm hắn khó chịu là đôi tròng kính; thật chả thú vị chút nào khi đôi mắt Perry giấu đằng sau cái khoảnh kín bưng mấy bề mặt nhuộm màu chiếu ngược lại mặt mình kia.

“Nhưng một thằng mọi,” Perry nói. “Thằng mọi thì khác.”

Lời bình đó, cái giọng miễn cưỡng dùng để thốt lời bình đó, khiến Dick hỏi, “Hay cậu giết theo kiểu đó? Giết theo kiểu cậu nói ấy?” Đây là một câu hỏi có ý nghĩa, vì mối quan tâm lúc đầu hắn dành cho Perry và đánh giá của hắn về tính cách cùng bản lĩnh ngầm của Perry là dựa trên câu chuyện Perry đánh một người da màu đến chết mà Perry có lần kể hắn nghe.

“Thì đúng thế. Có điều đấy là một thằng mọi. Không giống người khác.” Rồi Perry nói, “Cái gì thật sự làm tớ quạu, cậu biết không? Về chuyện kia á? Chỉ là vì tớ không tin chuyện đó – rằng bất cứ ai cũng có thể làm việc ấy mà rồi thoát được. Vì tớ không hiểu làm sao lại có thể vậy được. Làm cái việc chúng ta đã làm ấy. Rồi thì thoát êm trong khi cửa cho mình chỉ là một phần trăm. Tớ muốn nói điều đó làm cho tớ quạu – tớ không tài nào xua được khỏi đầu cái ý nghĩ là có chuyện gì đó sắp xảy ra.”

Tuy hồi bé có đi lễ nhà thờ, Dick vẫn không bao giờ “gần” được với đức tin nơi Chúa; hắn cũng chẳng bị phiền nhiễu vì những thứ mê tín dị đoan. Khác Perry, hắn không tin rằng gương vỡ có nghĩa là bảy năm bất hạnh, hay trăng non thoáng thấy trên kính cửa sổ là điềm báo có cái gì hung hiểm bên trong. Nhưng với linh giác sắc nhạy và ba vạ của mình, Perry đã đánh vào mối ngờ vực lâu bền của Dick. Cũng thế, Dick đã chịu đựng những lúc mà câu hỏi kia cứ quay đảo trong đầu hắn: liệu hai đứa chúng nó, “trung thực với Chúa, sẽ có thể thoát được sau khi đã làm những việc như thế không?” Thình lình, hắn bảo Perry, “Thôi, bây giờ thì nín đi nhá.” Đoạn hắn rồ máy lui xe ra khỏi mô đất. Đằng trước hắn, trên con đường ngập bụi, hắn nhìn thấy một con chó chạy thủng thẳng trong ánh mặt trời nóng ấm.

Núi non. Những con ó lượn tròn trên vòm trời trắng.

Khi Perry hỏi Dick, “Biết tớ nghĩ gì không?” hắn biết mình đang bắt đầu một cuộc trò chuyện sẽ làm Dick khó chịu, một cuộc trò chuyện mà vì lẽ đó hắn cũng nên tránh sớm. Hắn đồng ý với Dick. Sao cứ nói hoài chuyện đó? Nhưng hắn không thể lúc nào cũng chặn bản thân mình được. Những cơn suy sụp bại hoại vì tuyệt vọng xảy ra, những lúc hắn “nhớ lại mọi thứ” – cái ánh sáng màu xanh lơ nổ lòe trong một gian phòng tối, hai con mắt thủy tinh của một con gấu đồ chơi to tướng – và khi những tiếng nói, một ít lời lẽ đặc biệt bắt đầu giày vò tâm trí hắn: “Ôi, không! Ôi, làm ơn! Không! Không! Không! Không! Đừng! Ôi, xin đừng, làm ơn!” Cùng một vài âm thanh cứ vẳng trở lại – một đồng đô la bằng bạc lăn trên sàn nhà, bước chân đi ủng trên các bậc thang bằng gỗ rắn, và tiếng thở, tiếng hổn hển, tiếng hít vào điên rồ của một người bị cắt mất cuống họng.

Khi nói “Tớ nghĩ ắt sẽ có sự không hay với bọn mình,” Perry đang phải thừa nhận một điều mà hắn “ghét”. Dẫu gì thì cũng thật “đau đớn” khi nghĩ rằng mình có thể “không hẳn đúng” – nhất là nếu như dù có gì trục trặc đi chăng nữa thì cũng không phải lỗi tại mình mà do “mình sinh ra đã như thế rồi”. Nhìn gia đình hắn xem! Nhìn xem đã xảy ra những gì ở đó! Mẹ hắn, một bà nát rượu, đã bị chết ngạt trong đống nôn mửa của chính mình. Trong các con của bà, hai trai, hai gái, chỉ có đứa em gái, Barbara, là bước vào bình thường, lấy chồng, bắt tay gây dựng một gia đình. Fern, đứa chị, nhảy lầu từ cửa sổ một khách sạn ở San Francisco. (Perry từ đó cứ “cố tin là chị ấy trượt chân” vì hắn yêu Fern. Fern, “một người đáng yêu như thế,” “nghệ sĩ” như thế, một dân nhảy giỏi “kinh khủng” mà lại biết cả hát nữa. “Nếu chị ấy được chút may mắn thì với cái mẽ người và mọi thứ của mình, chị ấy đã có thể đến nơi nào đó, làm một ai đó.” Cứ nghĩ tới chuyện chị ấy đã leo lên thành cửa sổ rồi từ mười lăm tầng gác buông mình xuống thì thật là buồn.) Lại còn Jimmy, thằng con trai cả – một hôm đã khiến vợ phải đến nước tự sát rồi sau đó cũng tự giết mình luôn.

Rồi hắn nghe thấy Dick nói, “Loại tớ ra ngoài nhá, bồ. Tớ là thằng bình thường.” Có phải nghe cứ như đấm vào tai không? Nhưng không chấp, cho qua. “Sâu ở bên trong tớ,” Perry nói tiếp, “sâu tới tận củ tỉ tớ, tớ không bao giờ nghĩ tớ lại có thể làm nổi như thế. Một cái việc như thế.” Và ngay lập tức hắn biết mình đã hố: dĩ nhiên là Dick có thể trả lời hắn bằng cách hỏi, “Còn thằng mọi thì sao?” Khi hắn kể cho Dick nghe chuyện này, đấy là vì hắn đang muốn kết bạn với Dick, muốn Dick “kính trọng” mình, nghĩ hắn là một “tay cừ”, cũng “đàn ông ra trò” như kiểu hắn đã coi Dick là thế. Cho nên một hôm sau khi xem và tán một bài báo của Reader’s Digest có đầu đề “Bạn là một thám tử tính cách giỏi đến bậc nào?” (“Trong khi chờ trong phòng của nha sĩ hay nhà ga, bạn hãy thử nghiên cứu các dấu hiệu mà những người xung quanh để lộ ra. Chẳng hạn, xem cách họ đi. Kiểu đi chân cứng đờ có thể cho thấy một bản ngã cứng nhắc, không thỏa hiệp; kiểu đi lệt xệt thì là của người thiếu quyết tâm”). Perry đã nói, “Tớ luôn luôn là một thám tử dò tính cách thuộc hàng xuất sắc đấy, không thế thì hôm nay tớ chẳng còn đây. Giống như tớ không sao biết chắc khi nào mình có thể tin ai đó vậy. Cậu không nên tin nhiều. Nhưng tớ thì tớ đã đến chỗ tin cậu rồi đấy, Dick. Cậu sẽ thấy là tớ tin, vì tớ sắp trao cái thân tớ cho cậu chỉ huy. Tớ sẽ kể cho cậu những cái tớ chưa nói với ai bao giờ. Với Willie-Jay cũng không. Chuyện cái ngày tớ sửa một thằng.” Trong khi nói, Perry nhận thấy Dick chú ý; hắn đang lắng nghe thật. “Vụ đó cách đây hai mùa hè. Ở ngoài Vegas. Dạo đó tớ sống ở một nhà trọ cũ rích – nó vốn là ổ điếm cho người ta vui vầy tí tỉnh. Nhưng tất cả những sự vui vầy nhộn nhạo đã biến mất. Nơi này lẽ ra họ phải phá sập từ cả chục năm rồi; kiểu gì thì nó cũng sắp tự sụp xuống rồi. Những phòng rẻ nhất – sát mái, tớ sống ở trên đó. Thằng mọi cũng vậy. Tên nó là King; nó ở ngắn hạn thôi. Ở tít trên đó chỉ hai đứa tớ – hai chúng tớ và một triệu con cucaracha tức là gián ấy. King, thằng mọi không trẻ lắm, nhưng nó từng làm cầu đường và các thứ việc ở ngoài trời – nó đô con. Nó đeo kính và đọc nhiều. Không bao giờ nó đóng cửa. Lần nào đi qua, tớ cũng thấy nó nằm ngửa, trần như nhộng. Nó không có việc, bảo là nhờ làm ở cái chỗ sau cùng nó đã dành dụm được ít đô, bây giờ muốn nằm nghỉ ngơi ít bữa, đọc sách, tự quạt mát và uống bia. Các thứ nó đọc đều là đồ nhảm – truyện tranh và truyện cao bồi ba xu. Nó O.K. lắm. Thỉnh thoảng bọn tớ uống bia với nhau và có lần nó cho tớ vay mười đô la. Tớ chẳng có cớ gì để phạm đến nó. Nhưng một đêm, chúng tớ đang ngồi trên gác mái, trời nóng quá cóc ngủ được cho nên tớ mới nói, ‘Đi nào King, lên xe dông một lúc nào.’ Tớ có một cái xe đã lột bỏ hết mọi thứ, doa lại píttông cho chạy nhanh hơn rồi đem sơn màu bạc – Bóng Ma Bạc mà lại, tớ gọi nó vậy. Chúng tớ đi một đoạn dài. Ra tận ngoài sa mạc. Ngoài đó mát. Chúng tớ đỗ xe lại và uống thêm ít bia. King xuống xe và tớ cũng xuống theo nó. Nó không trông thấy tớ nhặt sợi dây xích lên. Chiếc xích xe đạp tớ vẫn cất ở dưới gầm ghế. Đến lúc đó, cho đến khi tớ làm, tớ thực sự chẳng hề nghĩ là tớ sẽ làm thế. Tớ quật ngang giữa mặt nó thế này. Kính nó vỡ tan, và cứ thế tớ đánh. Sau đó tớ chẳng cảm thấy gì nữa. Tớ để nó ở lại đó, và chẳng còn bao giờ nghe nói một lời nào đến nó. Có lẽ người ta không tìm ra nó. Chim cắt chúng nó ăn mất rồi cũng nên.”

Có một vài điều thật trong câu chuyện này. Như Perry nói, trong hoàn cảnh đúng như hắn kể, quả là hắn có biết một gã da đen tên King. Nhưng nếu gã ấy bây giờ mà chết thì đâu có phải do Perry; hắn chẳng hề giơ tay lên đánh một cái nào hết. Tất cả những điều hắn biết có lẽ là King hiện vẫn còn nằm trên giường tại một nơi nào đó, vừa tự quạt mát vừa uống bia.

“Hay là cậu đã giết? Giết như kiểu cậu nói với tớ ấy?” Dick hỏi.

Perry không phải là thằng nói dối có khiếu hay thằng bẻm mép; nhưng một khi hắn đã kể ra chuyện gì hư cấu rồi thì hắn thường lại hay bị mắc vào đó. “Tớ giết là cái chắc. Nhưng có điều đấy là một thằng mọi. Không giống nhau.” Và bây giờ thì hắn nói, “Cái gì thật sự làm tớ quạu biết không? Không, cái chuyện kia cơ? Chính là tớ không tin điều đó – tin rằng mình lại có thể thoát được sau khi làm cái trò kia.” Và hắn ngờ rằng cả Dick cũng chẳng tin. Vì ít nhất thì Dick phần nào cũng đã bị những lo âu thần bí về luân lý của Perry ám mất rồi. Vây nên mới nói: “Bây giờ thôi nha, bặt cái miệng đi.”

Cỗ xe lại đi. Ba chục mét ở đằng trước, một con chó chạy thủng thẳng dọc đường. Dick lạng vút xe tới. Đó là một con chó lai, già, dở chết, xương xẩu ọp ẹp và cóc cáy. Cú đập, khi con chó va vào xe, còn nhỏ hơn một cánh chim gây nên. Nhưng Dick hể hả. “Ôi cha cu cậu!” đó là câu hắn nói mỗi lần cho xe chẹt chết một con chó, một việc hễ có dịp thì hắn nhất định làm. “Ôi cha cu cậu! Chắc chắn là bọn mình đã cho nó nát bét rồi!”

Lễ Tạ ơn đã qua, mùa trĩ đã đến kỳ ngừng bắn, nhưng mùa hè da đỏ tươi đẹp với dòng lũ những ngày quang đãng, trong veo của nó thì chẳng ngừng. Nhà báo cuối cùng không phải dân thị trấn đã rời Garden City, tin chắc vụ án chẳng bao giờ giải được. Nhưng với người hạt Finney thì không có lẽ nào vụ án lại kết thúc, ít ra thì đó là ý nghĩ của những người làm chủ cái nơi tụ hội được ưa thích ở Holcomb, quán cà phê Hartman.

“Từ ngày xảy ra cơ sự kia, chúng tôi đã làm hết thảy những gì làm được,” bà Hartman nói, liếc nhìn quanh cái lãnh địa gọn gàng xinh xắn của bà, mỗi một mẩu của nó đều có các chủ trại, thợ làm mướn ở trại và người chăn gia súc sặc mùi thuốc lá, đứng hay ngồi hay dựa vào tường mà uống cà phê. “Đúng là một lũ mụ già,” người chị em họ với bà Hartman, bà chánh bưu điện Clare lúc đó tình cờ có mặt, nói. “Nếu là mùa xuân và thời vụ đã xong thì họ chẳng còn ở đây đâu. Nhưng mùa đông, mùa của lúa mì đang đến, họ chẳng có việc gì làm ngoài việc tụm lại ở đây mà dọa dẫm nhau. Bà biết Bill Brown không, ở tờ Điện tín tận dưới ấy đấy? Xem xã luận hắn ta viết chưa? Cái bài hắn gọi là ‘Một tội ác khác nữa’ ấy? Viết, ‘Đã đến lúc mọi người nên cuốn cái lưỡi dài thòng lại, ngừng đồn nhảm đi.’ Bởi vì nói dối cũng là một tội ác. Nhưng bà trông chờ cái gì nào? Nhìn xung quanh xem. Rặt rắn đuôi chuông. Toàn đầu gấu. Những dân đồn thổi. Có thấy cái gì khác không nào? Ha! Chỉ được cái ra vẻ.”

Bắt nguồn từ quán cà phê Hartman, một lời đồn đại đã dính tới Taylor Jones, một chủ trại chăn nuôi mà cơ ngơi liền kề với Trại Lũng Sông. Theo ý phần lớn đám khách của quán, ông Jones và gia đình mới là nạn nhân bọn giết người nhằm vào, chứ không phải nhà Clutter. “Thế thì mới khó cãi hơn chứ,” một người giữ quan điểm này lập luận. “Taylor Jones, ông ta là người giàu hơn Herb Clutter xưa nay. Cứ coi như kẻ làm cái việc kia không phải là người ở quanh đây. Cứ coi như nó được thuê giết, tất cả những gì nó cần chỉ là mách lối cho nó vào nhà như thế nào. Chà, nhầm dễ như chơi ấy chứ – rẽ sai một cái là xong – và kết cục lại là Herb thay vì Taylor.” “Giả thuyết Jones” này được nhắc đến nhiều – đặc biệt là nhắc cho nhà Taylor, một gia đình được kính trọng và nhạy cảm nhưng họ không chịu để cho ai làm mình xáo xác vì chuyện đó.

Một quầy ăn trưa, mấy cái bàn, một gian “chuôi vồ” chứa một lò quay thịt, một tủ lạnh và một chiếc rađiô – quán cà phê Hartman có ngần ấy thứ thôi. “Nhưng khách của chúng tôi thích như thế,” bà Hartman nói. “Thích đến đây. Còn chỗ nào khác nữa mà đi.” Trừ phi phải lái xe một đằng bảy dặm và một đằng khác mười lăm dặm. Muốn gì, chúng tôi cũng đã mở ra được một chỗ hữu nghị thân tình mà cà phê thì ngon, từ khi Mabel đến làm ở đây.” – Mabel tức là bà Helm. “Sau thảm kịch kia, tôi nói, ‘Mabel à, bây giờ bà không có việc, tại sao không đến đỡ tôi một tay ở quán cà phê nhỉ. Trông nom tí bếp nước. Phục vụ ở ngoài quầy.’ Mới thành ra như hiện giờ đây – cái duy nhất không hay là ai đến cũng hỏi dồn hỏi dập bà ấy. Về cái thảm kịch kia. Nhưng Mabel đâu có như bà chị họ Myrt. Hay như tôi. Bà ấy nhát. Rồi lại chẳng biết cái gì đặc biệt cả. Chả hơn gì người khác đâu.” Nhưng dần dà cái hội Hartman kia cứ nghi tiếp rằng Mabel Helm có biết một hai điều nhưng bà giữ kín. Và đúng, quả có thế thật. Dewey trò chuyện với bà vài lần, đã yêu cầu giữ bí mật tất cả những gì hai người đã nói với nhau. Đặc biệt là không được hé răng về chiếc rađiô bị mất hay chiếc đồng hồ tìm thấy trong giày của Nancy. Cho nên bà đã nói với bà Archibald William Warren-Browne, “Ai đọc báo thì biết cũng như tôi thế thôi. Còn hơn ấy chứ. Vì tôi không đọc báo mà.”

Vuông phè, béo lùn, mới ngoài bốn chục, người đàn bà Anh này được trời phú cho giọng nói gần như là của tầng lớp trên, bà Archibald William Warren-Browne không giống chút nào với đám khách quen của quán cà phê, và, trong khung cảnh ấy, bà có vẻ như con công bị kẹt vào giữa một bãi thả gà tây. Một lần, giải thích với một người quen tại sao bà và chồng bà lại bỏ “nhà cửa đất đai của gia đình ở miền Bắc nước Anh,” đổi ngôi nhà thừa kế – “cái tu viện xinh nhất, ôi, xinh nhất” – lấy một nhà trại cũ rích chẳng đẹp đẽ gì ở trên bình nguyên miền Tây Kansas, bà Warren-Browne đã nói: “Thuế mà, bà bạn thân yêu ơi. Thuế chuyển vốn đi. Những khoản thuế đánh vào vốn chuyển đi thật là ghê gớm, giết người. Đó là điều đã đưa chúng tôi ra khỏi nước Anh. Vâng, chúng tôi ra đi năm ngoái. Chẳng hối tiếc gì. Không hề. Chúng tôi yêu nơi đây. Say mê mảnh đất này. Dĩ nhiên là rất khác với cuộc sống kia của chúng tôi. Cái cuộc sống mà chúng tôi quen thuộc ấy. Paris. Rome. Monte. London. Tôi có – thỉnh thoảng – nghĩ tới London. Ô, không, tôi không hẳn là nhớ đâu mà – cái nơi điên rồ ấy, không bao giờ có được một chiếc taxi, chỉ luôn lo xem mình nom mẽ thế nào. về mặt tích cực thì không có đâu. Chúng tôi yêu nơi đây. Tôi cho là có một vài người – những ai biết quá khứ chúng tôi, cuộc sống chúng tôi đã có trước đây – nghĩ rằng chúng tôi phải chăng đã có một chút chút nào cô đơn, lẻ loi ở ngoài kia trong vùng đồng lúa mì. Tít ngoài miền Tây là nơi chúng tôi có ý đến an cư lạc nghiệp. Wyoming hay Nevada – la vraie chose, đích thị cái chỗ ấy. Chúng tôi hy vọng là khi đến đó chúng tôi sẽ có thể dò ra được một ít dầu lửa. Nhưng trên đường chúng tôi dừng lại thăm viếng bạn bè ở Garden City – bạn của bạn tôi, đúng ra là thế. Nhưng họ tốt quá, không ai trên đời có thể tốt hơn. Nài chúng tôi nấn ná lại. Và chúng tôi nghĩ, chà, tại sao lại không nhỉ? Tại sao không thuê một ít đất và bắt tay vào chăn nuôi? Hay làm trại canh tác. Một quyết định chúng tôi vẫn chưa ngã ngũ – chăn nuôi hay trồng trọt. Bác sĩ Austin hỏi liệu chúng tôi có thấy nó yên tĩnh quá không. Thật sự không. Chúng tôi thật sự chưa biết một cảnh hỗn loạn nào như thế bao giờ. Nó ầm hơn một trận máy bay ném bom. Còi xe lửa. Sói đồng cỏ. Những con quái vật cứ rền hú ghê rợn suốt đêm. Cảnh tượng hỗn độn khủng khiếp. Và từ sau vụ án kia, cái đó hình như lại càng làm tôi ưu phiền hơn. Nhiều việc cũng làm mình ưu phiền như vậy. Nhà chúng tôi – sao mà ngôi nhà cũ kỹ này nó lại kêu răng rắc như thế chứ! Bà lưu ý cho, tôi không ca cẩm phàn nàn đâu nhé. Thật mà, đó là một ngôi nhà hoàn toàn được việc – có đủ cả cái hiện đại lẫn cái chắc chắn – nhưng, ôi, sao mà nó ho hen và cẳn nhẳn thế cơ chứ! Và khi trời tối, khi gió bắt đầu thổi, cái gió đồng cỏ đáng ghét ấy, thì người ta nghe thấy những tiếng rên rỉ rợn người. Tôi muốn nói là nếu như yếu thần kinh một chút thì người ta không thể không tưởng tượng ra những điều vớ vẩn đâu. Chúa lòng lành! Cái gia đình đáng thương ấy! Không ạ, chúng tôi chưa gặp họ bao giờ. Tôi có một lần đã nhìn thấy ông Clutter. Ở Tòa nhà Liên bang.”

Đầu tháng Mười hai, chỉ trong một buổi chiều, hai người khách kiên định nhất của quán cà phê đã thông báo dự án cuốn gói rời bỏ không chỉ hạt Finney mà cả bang Kansas nữa. Người thứ nhất là một nông dân thuê đất làm việc cho Lester McCoy, một chủ đất Tây Kansas và là nhà kinh doanh nổi tiếng. Ông ta nói, “Bản thân tôi đã có một cuộc chuyện trò với ông McCoy. Cố làm cho ông ấy hiểu cái gì đang diễn ra ở ngoài kia tại Holcomb và quanh đây. Người ta không thể ngủ được ra sao. Vợ tôi không ngủ được và bà ấy không cho tôi ngủ. Cho nên tôi bảo ông McCoy là tôi thích chỗ của ông ấy lắm chứ chả phải không, nhưng tốt hơn ông ấy nên tìm người khác. Tôi tính chuyển đi. Xuống mạn Đông Colorado. Có lẽ chừng đó tôi mới có được chút nào yên tĩnh.”

Lời tuyên bố thứ hai là của bà Hideo Ashida, bà dừng chân ở quán cà phê cùng với ba trong bốn đứa con má đỏ của bà. Bà bảo chúng xếp hàng ở quầy rồi nói với bà Hartman, “Cho Bruce một hộp bích quy Jack. Bobby muốn một lon Coca. Thế nào Bonnie Jean? Cả nhà biết con cảm thấy thế nào rồi, Bonnie Jean, nhưng thôi nào, ăn uống gì đi.” Bonnie Jean lắc đầu, và bà Ashida nói, “Con bé này kiểu như là nó chán đây mà. Nó không muốn rời khỏi đây. Trường học ở đây. Tất cả bạn bè ở đây.”

“Nào, nói đi cháu,” bà Hartman nói, mỉm cười với Bonnie Jean. “Chẳng việc gì phải buồn. Chuyển từ Holcomb đến Trường Cao đẳng Garden City. Bọn con trai nhiều hơn…”

Bonnie Jean nói, “Bà không hiểu. Bố đem chúng cháu đi tuột. Đến Nebraska cơ.”

Bess Hartman nhìn mẹ nó, vẻ như chờ bà cải chính cái lý con bé viện ra.

“Đúng đấy Bess à,” bà Ashida nói.

“Tôi chẳng biết nói thế nào nữa,” bà Hartman nói, giọng sửng sốt có lẫn bất bình và ngán ngẩm. Nhà Ashida là một phần của cộng đồng Holcomb mà ai cũng mến – một gia đình dũng cảm, dễ thương, hay lam hay làm, thân thiện với láng giềng hàng xóm và hào hiệp, tuy họ chẳng có gì nhiều để mà hào hiệp.

Bà Asida nói, “Chúng tôi đã bàn chuyện đó lâu rồi. Hideo, ông ấy nghĩ là ở một chỗ nào khác chúng tôi sẽ khá hơn.”

“Ông bà định bao giờ đi?”

“Bán xong các thứ là đi luôn. Nhưng muốn gì cũng không thể trước Nôen. Vì chúng tôi còn phải làm một việc với ông nha sĩ. Về món quà Nôen của Hideo ấy mà. Tôi và lũ trẻ, chúng tôi biếu ông ấy ba cái răng vàng. Cho Nôen.”

Bà Hartman thở dài. “Tôi chẳng biết nói thế nào cả. Trừ việc bảo bà đừng. Cứ ra đi mà bỏ chúng tôi sao.” Lại thở dài. “Vẻ như chúng tôi đang mất hết mọi người. Mỗi người một nẻo.”

“Chậc, bà nghĩ tôi muốn bỏ đi sao?” bà Ashida nói. “Đi bao nơi rồi, đây là chỗ đẹp nhất chúng tôi từng sống. Song Hideo, ông ấy là người quyết tất, ông ấy nói chúng tôi có thể có một cái trại tốt hơn ở Nebraska. Để tôi nói với bà cái này, Bess. Bà Ashida toan nhăn mặt, nhưng bộ mặt nhẵn mịn, béo tròn, phúng phính của bà không sao xoay xở để nhăn nổi được. “Chúng tôi đâm quen cãi nhau về việc ấy. Rồi một đêm tôi bảo, ‘O.K., ông là chủ, được, chúng ta đi.’ Sau cái vụ xảy ra với Herb và gia đình ông ấy, tôi cảm thấy một cái gì quanh đấy đã đi tới khúc kết. Tôi muốn nói cá nhân tôi. Cho tôi. Thế là tôi thôi bàn cãi. Tôi bảo O.K.” Bà vọc tay vào hộp bích quy Jack của Bruce. “Trời, tôi không ngờ được. Tôi không dứt được diều đó ra khỏi đầu. Tôi ưa Herb. Bà có biết tôi là người cuối cùng trông thấy ông ấy còn sống không? Tôi và lũ trẻ. Mẹ con tôi đến họp 4-H ở Garden City và ông ấy đã chở mẹ con tôi về nhà. Điều cuối cùng tôi nói với Herb, tôi bảo ông ấy là tôi không làm sao tưởng tượng ra được ông ấy lại biết sợ. Tình hình bất kể thế nào, ông ấy chỉ cần nói thôi là cứ thế thoát ra.” Đăm chiêu, bà nhấm nhấm cái nhân bích quy Jack, tợp một ngụm Coca của Bobby rồi nói, “Lạ, nhưng bà biết đấy, Bess, tôi dám đánh cuộc là lúc ấy ông ấy không sợ. Ý tôi là, tuy nó đã xảy ra rồi, nhưng tôi vẫn cứ vét túi đánh cuộc rằng lúc ấy ông ấy không tin là nó sẽ xảy ra. Vì không thể xảy ra. Không thể xảy ra được với ông ấy.”

Mặt trời chói lọi. Một chiếc tàu nho nhỏ đang thả neo bập bềnh trên mặt biển êm: chiếc Estrellita, với bốn người ở trên – Dick, Perry, một thanh niên Mexico, và Otto, một người Đức trung niên giàu có.

“Xin hát lại nào,” Otto nói, và Perry búng cây ghi ta, hát bài Nước non hoa khói, bằng giọng khàn, dịu:

Trong cái thế gian ta sống hôm nay

Đời người có thể nói những điều tồi tệ nhất về ta,

Nhưng khi ta đã qua đời nằm trong cỗ áo quan,

Họ lại luôn lùa vào tay ta vài bông huệ.

Khi chúng tôi sống thì hoa sao các người lại chẳng cho…

Một tuần ở Mexico City, rồi hắn và Dick lại đi xuống phía Nam – Cuernavaca, Taxco, Acapulco. Và chính ở Acapulco, trong một “quán nhậu có máy hát ầm ầm”, chúng đã gặp gã Otto chân đầy lông và tấm lòng nồng nhiệt. Dick đã “chài được hắn”. Nhưng con người lịch sự hào hoa này, một luật sư người Hamburg đi nghỉ hè “đã có bạn rồi” – một người Acapulco bản địa trẻ tuổi tự xưng là Cao bồi. “Nó xem ra tin được đấy,” Perry có lần nói về Cao bồi như vậy. “Bỉ ổi như Judas, ở một số mặt nào đó, nhưng ồ, bạn à, một thằng trẻ ngộ đấy, một thằng nài ngựa thật sự là lanh lẹ. Dick cũng thích gã. Chúng ta tiến bộ lớn đây.”

Cao bồi tìm cho những người lang thang xăm mình này một gian phòng trong ngôi nhà của một ông chú, bỏ công nâng cao tiếng Tây Ban Nha cho Perry, chia sẻ những món lời từ mối quan hệ với gã người Hamburg đi hưởng kỳ nghỉ hè, kẻ đã chi tiền để cho chúng ăn nhậu và chơi gái. Lão chủ xem bộ nghĩ rằng những đồng peso của gã đang được tiêu đúng chỗ đúng nơi, dù chỉ vì lão khoái những chuyện đùa của Dick. Ngày ngày Otto thuê chiếc Estrellita, một tàu đánh cá xa khơi, rồi bốn người bạn đi loanh quanh dọc bờ biển. Cao bồi chèo; Otto ký họa và câu; Perry móc mồi câu nghĩ vẩn nghĩ vơ, hát rồi thỉnh thoảng cũng câu; Dick không làm gì – chỉ rên rỉ, phàn nàn cái cuộc lênh phênh, nằm uống rượu phơi nắng, uể oải như con thằn lằn ngủ trưa vậy. Nhưng Perry lại bảo, “Cuối cùng là như thế này đây. Phải là cái kiểu thế này đây.” Hắn vẫn biết không thể cứ để việc này tiếp tục mãi – biết rằng chính hôm nay đây cái trò này phải chấm dứt. Ngay sau hôm Otto về Đức là hắn và Dick sẽ lái xe về lại Mexico City – theo lời Dick van nài. “Chắc chắn rồi, bồ à,” Dick nói khi chúng bàn đến việc này. “Cứ vui chơi thỏa thích vân vân đi nhé. Có mặt trời chiếu vào lưng. Nhưng xin đội nón theo nhau đi, đi, đi. Nào, sau khi bán cái xe rồi thì chúng ta còn lại những gì?”

Còn rất ít, câu trả lời là như vậy, vì đến nay chúng đã xài hết phần lớn những thứ chúng lấy được cái hôm tiêu séc giả thả giàn ở Kansas City – camera, khuy măng sét, ti vi. Chúng cũng đã bán cho một tay cảnh sát mà Dick làm quen ở Mexico City cả cái ống nhòm lẫn chiếc rađiô xách tay Zenith màu xám. “Chúng ta sẽ về Mexico City, bán cái xe rồi có thể tớ sẽ kiếm được việc làm ở gara ô tô nào đó. Muốn gì thì ở trên ấy vẫn tốt hơn đây. Có nhiều cơ hội hơn. Lạy Chúa, tớ lại có thể dùng con Inez kia nhiều nữa rồi đấy.” Inez là một ả gái điếm đã gạ gẫm Dick trên các bậc tam cấp Lâu đài Mỹ thuật ở Mexico City (chuyến tham quan là một phần của tua đi quanh xem thành phố cho vui lòng Perry). Ả điếm mười tám tuổi và Dick đã hứa lấy ả. Nhưng hắn cũng đã hứa lấy Maria, một mụ năm mươi tuổi, vợ góa của một “chủ ngân hàng nổi tiếng người Mexico”. Hai người gặp nhau trong một quán bar và sáng hôm sau mụ đã trả cho Dick tương đương bảy đô la. “Vậy việc đó mày nghĩ sao?” Dick hỏi Perry. “Sẽ bán cái xe. Tìm việc làm. Dành dụm xiền. Rồi xem cái gì sẽ tới.” Làm như Perry không thể dự báo chính xác được cái gì sẽ xảy tới ấy. Giả sử chúng kiếm được hai ba trăm nhờ bán cái xe Chevrolet. Dick, nếu như hắn biết Dick, mà đúng là hắn có biết – nay thì biết rồi – Dick sẽ lập tức tiêu hết ngay vào Vodka và gái cả thôi.

Trong khi Perry hát, Otto ký họa hắn. Khá giống, người nghệ sĩ đã nhận ra được một nét không lộ rõ lắm của bản chất cái người đang ngồi cho mình vẽ – sự ác hiểm, một nét tinh quái con nít, ngộ nghĩnh gợi đến một thần Cupid không tốt lành gì đang giương ngắm những mũi tên tẩm độc. Hắn để trần thân trên. (Perry “xấu hổ” phải cởi quần, “xấu hổ” phải mặc quần bơi, vì hắn sợ hình ảnh đôi chân tàn tật của hắn sẽ “làm người ta kinh”, cho nên, bất chấp những điều hắn mơ tưởng dưới nước, tất cả những chuyện nói về bơi lặn, hắn chưa hề một lần nào xuống nước). Otto ghi lại một số hình xăm trang điểm bộ ngực, đôi cánh tay quá cỡ cơ bắp và đôi bàn tay nhỏ nhắn nom như con gái nhưng lại đầy chai của Perry. Quyển ký họa mà Otto cho Perry như một món quà chia tay gồm có nhiều bức vẽ Dick – “bài tập vẽ khỏa thân”.

Otto gập quyển ký họa lại, Perry đặt cây ghi ta xuống, và Cao bồi kéo neo, nổ máy. Đã đến giờ phải đi. Chúng ở ngoài biển mười dặm và mặt nước đang tối lại.

Perry giục Dick câu. “Chúng ta có thể chẳng còn dịp may nào khác nữa đâu,” hắn nói.

“Dịp may nào?”

“Vớ được con cá bự.”

“Giê-su, tớ đang bị phải cái đồ chó chết đây,” Dick nói. “Tớ bệnh.” Dick thường hay bị đau nửa đầu rất dữ – “cái đồ chó chết.” Hắn nghĩ đó là hậu quả lần đâm xe hơi. “Cưng à, xin hãy yên tĩnh, thật yên tĩnh nào.”

Lát sau, Dick đã quên hết cơn đau. Hắn đứng lên, hét hò phấn khích. Otto và Cao bồi cũng hò hét. Perry đã “câu được một con bự”. Một con một mét vọt lên rồi chìm nghỉm xuống, nó nhảy, uốn cong lại như cánh cung, lặn, ngụp sâu xuống, kéo dây căng tưởng đứt được, nhô lên, tung cao, rơi, nhô lên. Một giờ trôi đi, rồi một phần của một giờ khác nữa, trước khi những nhà thể thao mồ hôi đầm đìa cuộn dây câu kéo con cá vào.

Có một ông già với một máy ảnh cổ lỗ bằng gỗ bám quanh bến cảng Acapulco; khi chiếc Estrellita cập bến, Otto bảo ông lão làm cho sáu bức chân dung Perry đứng cạnh con cá. về mặt kỹ thuật, công việc của ông lão hóa ra xoàng – ảnh nâu và nham nhở bẩn. Nhưng chúng vẫn là những bức ảnh đáng kể, cái làm cho chúng đáng kể là vẻ mặt Perry, cái thần thái của hắn khi đã làm tròn một cái gì không sai sót, sự xuất thần tựa như, cuối cùng, một con chim lớn màu vàng đang cắp hắn bay bổng vào trời xanh, như ở trong giấc mơ của hắn.

Một buổi chiều tháng Mười hai, Paul Helm sửa lại luống hoa mọc so le cho đều, luống hoa đã cho Bonnie Clutter có tư cách làm thành viên của Câu lạc bộ Vườn Garden City. Đây là một việc buồn, vì nó khiến ông nhớ lại một buổi chiều khác nữa ông cũng làm cái việc lặt vặt này. Hôm ấy Kenyon đã đỡ ông một tay, và đó là lần cuối cùng ông nhìn thấy Kenyon, hay Nancy, hay bất cứ người nào trong gia đình nhà Clutter còn sống. Các tuần sau đó thật nặng nề với ông. Ông đang sức khỏe tồi (tồi hơn trước nay; ông chỉ còn sống chưa đến bốn tháng nữa), và ông đang lo nhiều thứ. Công việc, là một chuyện. Ông ngờ rằng ông sẽ chẳng còn ở lại đây lâu. Hình như chẳng ai thật sự biết, nhưng ông hiểu rằng “hai cô gái”, Beverly và Eveanna, đang có ý bán dinh cơ này – tuy rằng, như ông đã nghe một người phục vụ ở quán cà phê nhận xét, “chẳng ai đi mua cái vùng đất dài như câu chuyện đầy bí ẩn ấy đâu”. Cứ nghĩ đến chuyện những người lạ đến thu hoạch trên đất “nhà ta” là ông cứ thấy “làm sao đó”. Ông Helm quan tâm – quan tâm vì lợi ích của Herb. Ông nói, đây là một nơi “cần được giữ trọn trong gia đình của một người”. Một lần Herb đã nói với ông, “Tôi hy vọng luôn luôn có một Clutter ở đây, và cả một Helm nữa.” Herb nói câu đó mới chỉ một năm trước. Trời, ông sẽ làm gì nếu khu trại bị bán? Ông cảm thấy mình “quá già rồi khó mà thích nghi được với chỗ nào khác ngoài chỗ này”.

Nhưng ông vẫn phải làm việc, và ông muốn thế. Ông nói ông không phải loại người đá tung giày đi để vào ngồi bên lò sưởi. Nhưng đúng là giờ đây khu trại đang làm ông khổ sở: ngôi nhà khóa kín, con ngựa của Nancy vò võ chờ một mình ở giữa cánh đồng, mùi táo rụng chua loét dưới các gốc táo, và vắng những tiếng Kenyon gọi Nancy là có điện thoại, Herb huýt sáo, giọng vui vẻ nói “Chào buổi sáng, Paul.” Ông và Herb đã “cùng lớn lên với nhau” – không một lời qua tiếng lại giữa hai người. Vậy tại sao những người ở văn phòng cảnh sát trưởng lại cứ tiếp tục hạch hỏi ông? Trừ phi họ nghĩ ông có một cái gì giấu giếm chăng? Có lẽ lúc ấy ông không nên nói đến những người Mexico. Ông đã báo với Al Dewey rằng khoảng bốn giờ ngày thứ Bảy, 14 tháng Mười một, ngày xảy ra vụ án, một cặp người Mexico, một để ria và một rỗ hoa, đã xuất hiện ở Trại Lũng Sông. Ông Helm đã trông thấy họ gõ cửa “bàn giấy”, thấy Herb đi ra ngoài nói chuyện với họ trên bãi cỏ và có thể là mười phút sau thì hai người lạ mặt “nom hờn dỗi” bỏ đi. Ông Helm cho là họ đến xin việc và được trả lời là không. Không may, tuy ông đã được gọi lên nhiều lần để kể lại những sự kiện trong ngày hôm đó, ông đã không nói đến chuyện này cho mãi tới hai tuần sau vụ án, bởi vì, như ông giải thích với Dewey, “Tôi thình lình nhớ ra.” Nhưng Dewey và vài điều tra viên khác hình như không tin chuyện ông kể, họ cho là ông đặt ra để đánh lạc hướng họ. Họ tin Bob Johnson hơn, nhân viên Sở Bảo hiểm, người đã ngồi cả buổi chiều thứ Bảy với ông Clutter bên bàn giấy, người “khẳng định tuyệt đối” rằng từ hai đến sáu giờ mười ông ta là người khách duy nhất của Herb. Ông Helm cũng quả quyết: là người Mexico, một có ria, một rỗ hoa, bốn giờ. Giá là Herb thì ông ấy sẽ bảo họ rằng Paul Helm nói thật, thuyết phục họ rằng ông, Paul Helm, là một người “đọc kinh và tự kiếm lấy miếng ăn” chứ có phải như ai đâu. Nhưng Herb đã chết rồi.

Chết rồi. Cả Bonnie nữa. Cửa sổ phòng ngủ của bà nhìn xuống mảnh vườn và thỉnh thoảng, thường thường lúc bà “lên cơn cớ,” ông Helm vẫn thấy bà đứng hàng giờ nhìn trừng trừng xuống vườn, tựa hồ, cái mà bà trông thấy, nó đang làm cho bà sung sướng vô cùng vậy. (“Khi tôi còn là con gái,” có lần bà nói với một người bạn, “tôi tin ghê gớm rằng cây và hoa chúng cũng y như chim và người vậy. Chúng nghĩ cái này cái nọ và nói chuyện với nhau. Và chúng ta có thể nghe được chúng nếu chúng ta cố gắng thật sự. Chỉ cần làm cho đầu óc chúng ta sạch mọi âm thanh khác mà thôi. Phải rất yên lặng và nghe cho thật kỹ. Đôi khi tôi vẫn còn tin như vậy đấy. Nhưng ta không bao giờ có thể đủ yên tĩnh được…”)

Nhớ đến cảnh Bonnie đứng bên cửa sổ, ông Helm nhìn lên, tựa hồ chờ đợi trông thấy bà, một bóng ma sau lần kính. Nếu ông có nhìn thấy, nó cũng không làm ông kinh ngạc hơn cái mà hiện lúc này ông đang nhận ra – một bàn tay kéo tấm rèm lại và hai con mắt. “Nhưng,” như sau này ông tả lại, “mặt trời đang rọi vào phía ấy của ngôi nhà” – nó làm cho mặt kính cửa sổ rung rinh, cái vật treo ở đằng sau đó khẽ đung đưa – và trong thời gian ông Helm che mắt đi rồi nhìn lại thì tấm rèm đã buông kín, cửa sổ chẳng còn gì. “Mắt tôi không còn tốt lắm, nên tôi nghĩ hay là nó cho tôi một cú lừa,” ông nhớ lại. “Nhưng tôi chắc chắn mười mươi rằng mắt tôi không lừa tôi. Và cũng chắc chắn mười mươi là không phải ma miếc gì hết. Vì tôi không tin là có ma. Vậy thì đó có thể là ai đây? Ai mà đi lén vào trong đó, nơi chẳng ai được phép vào, trừ những người nắm pháp luật. Và vào bằng cách nào? Khi mọi cái đều khóa chặt vì rađiô đã báo trước sẽ có lốc xoáy. Tôi tự hỏi vậy. Nhưng tôi không mong tìm ra – ai chứ tôi thì không. Tôi bỏ việc đang làm dở, đi tắt cánh đồng đến Holcomb. Vừa đến, tôi gọi điện cho cảnh sát trưởng Robinson ngay. Giải thích rằng có ai đó đang lẩn quẩn bên trong nhà Clutter. Chà, hiếm khi họ đến ngay như thế nhá. Cảnh vệ bang. Cảnh sát quận, cả lũ. Người của K.B.I. Al Dewey. Vừa lúc họ dàn hàng ngang vây quanh, kiểu như sẵn sàng hành động ấy, thì cửa chính mở.” Một người chưa ai từng nhìn thấy – một người khoảng giữa tam tuần, mắt đờ đẫn, tóc bù xù, đeo ngang hông một cái bao đựng một khẩu súng lục cỡ 38 – bước ra. “Tôi nghĩ tất cả bọn tôi có mặt lúc đó đều có một ý nghĩ giống nhau – đây là hắn, cái kẻ đã đến giết nhà Clutter,” ông Helm kể tiếp. “Hắn ta chẳng nhúc chẳng nhích. Cứ đứng trơ ra, kiểu như ngây như dại. Họ lấy khẩu súng đi và bắt đầu thẩm vấn hắn.” Tên người đàn ông là Adrian – Jonathan Daniel Adrian. Anh ta đang trên đường tới New Mexico và hiện không có địa chỉ thường trú. Vì mục đích gì người này đột nhập vào nhà Clutter, và thế nào mà tình cờ anh ta lại vào được trong nhà? Anh ta diễn cho họ xem. (Anh ta nhấc một cái nắp giếng nước lên rồi bò trườn theo một đường ống dẫn vào trong tầng hầm). Còn tại sao ư, anh ta đã đọc báo về vụ này, tò mò chỉ muốn xem cái địa điểm gây án nó ra thế nào. “Lúc đó,” theo như ông Helm nhớ lại đoạn này, “một ai đó hỏi anh ta có phải là đi nhờ xe dọc đường không? Đi nhờ xe dọc đường đến New Mexico ấy à? Không, anh ta nói, anh ta lái xe riêng. Đỗ xe dưới con đường vào nhà, cách đây một quãng. Thế là mọi người đi ra xem cái xe. Khi họ tìm ra cái thứ để ở trong xe, một người trong đám họ – có lẽ là Al Dewey – đã bảo anh kia, cái tay Jonathan Daniel Adrian ấy. ‘Được, thưa ông, hình như chúng ta đã có được một cái gì để bàn rồi đây.’ Vì bên trong xe, cái họ tìm ra là một khẩu súng cỡ nòng 12 ly. Và một con dao săn.”

Một phòng trong khách sạn tại Mexico City. Trong phòng là một bàn giấy kiểu mới xấu xí với một tấm gương màu tím nhạt, gài ở trước tấm gương là một tờ giấy in của Ban Giám đốc nhắc nhở:

SU DÍA TERMINA A LAS 2 P.M.

NGÀY THUÊ CHẤM DỨT LÚC 2 GIỜ CHIỀU

Nói cách khác, khách phải ra khỏi phòng vào giờ đã định không thì bị tính thêm một ngày trọ nữa – một sự xa xỉ mà những kẻ hiện đang trọ đây không dự tính đến. Chúng chỉ băn khoăn không biết liệu có thể thanh toán nổi cái khoản tiền đã nợ không mà thôi. Vì mọi sự đã tiến triển đúng như Perry tiên báo: Dick đã bán cái xe và ba ngày sau, món tiền, dưới hai trăm đô la chút ít, liền bốc hơi luôn. Ngày thứ tư Dick đi tìm một việc làm lương thiện, và đêm ấy hắn bảo với Perry, “Bọn nghệt! Cậu biết chúng nó trả thế nào không? Lương là bao nhiêu? Cho một chuyên viên cơ khí? Hai đô một ngày. Mexico đấy! Cưng à, tớ ngán quá rồi. Chúng ta phải chuồn thôi. Quay trở về Mỹ. Không, bây giờ thì không. Tớ không nghe đâu. Kim cương này. Kho tàng chôn này. Tỉnh đi, cậu bé. Chẳng có hòm vàng nào hết. Chẳng tàu đắm tàu chìm gì hết. Mà cho dù có nữa đi thì – chó thật, cậu cũng không biết bơi cơ mà.” Và hôm sau, vay tiền của cô vợ chưa cưới giàu hơn trong hai cô, tức mụ vợ góa ông chủ ngân hàng, Dick mua luôn hai vé xe buýt đưa chúng đến tít tận Barstow, California, qua ngả San Diego. “Sau đó thì ta đi bộ,” hắn nói.

Dĩ nhiên, Perry có thể làm theo cách riêng của mình, ở lại Mexico, mặc cho Dick đi tới chỗ quái quỷ nào hắn thích. Tại sao lại không? Perry chẳng phải luôn là một tên “ăn mảnh”, không hề có “bạn đích thực” nào (trừ gã Willie-Jay tóc muối tiêu, mắt xám và “siêu”) đó ư? Nhưng hắn sợ bỏ Dick; chỉ nghĩ đến việc đó hắn đã cảm thấy “kiểu như muốn bệnh”, tựa hồ đang cố quyết “nhảy khỏi một đoàn tàu đang phóng chín chục dặm một giờ” vậy. Nền tảng nỗi sợ này, hay tự hắn hình như tin thế, là một niềm tin chắc mới nảy nòi gần đây mang tính dị đoan rằng chừng nào Dick và hắn còn “gắn bó với nhau” thì “bất cứ cái gì phải xảy ra sẽ không xảy ra”. Rồi, bài lên lớp “thức tỉnh” nghiêm khắc của Dick, việc Dick hung hãn tuyên bố ra cái ý kiến xưa nay Dick vẫn giấu về những ước mơ hy vọng của Perry – tất cả, dù có quá quắt thế nào, vẫn hấp dẫn Perry, làm hắn đau và sốc nhưng mê hoặc hắn, gần như làm sống lại trong hắn cái lòng tin trước đây đối với tên Dick “thật sự đàn ông”, cứng rắn, thực tiễn, dứt khoát mà hắn đã có thời cho phép làm chủ hắn. Cho nên, từ cái lúc tang tảng một buổi sáng giá lạnh đầu tháng Mười hai ở Mexico City, Perry đã mò mẫm khắp gian phòng khách sạn không được sưởi, nhặt nhạnh gói ghém đồ dùng của hắn lại – len lén, sợ đánh thức hai cái thân người đang ngủ dài trên một cái giường con của gian phòng: Dick và Inez, người vợ chưa cưới trẻ hơn của hắn.

Có một đồ vật không còn cần hắn bận tâm đến nữa. Trong cái đêm cuối cùng ở Acapulco, một thằng trộm đã thó mất cây đàn ghi ta Gibson, rồi trốn đi từ một quán cà phê ven sông, nơi hắn, Otto, Dick và Cao bồi đang gửi cho nhau lời chào từ biệt sặc mùi rượu. Perry cay đắng về việc đó. Hắn cảm thấy, như sau này hắn nói, “thật sự khốn khổ, thấp kém”, và giải thích, “Anh có một cây ghi ta đủ lâu ngày, nhu tôi có cây này đây, đánh xi, lau bóng, lồng khớp tiếng nói của anh vào nó, coi nó như đứa con gái mà anh đã dùng qua – đúng, nó đã thành ra như một thứ thiêng liêng vậy.” Nhưng trong khi cây ghi ta bị mất cắp không được coi là vấn đề sở hữu, thì các thứ còn lại của hắn lại là như vậy. Do hắn và Dick từ nay sẽ đi bằng chân hay ngón tay cái xin đi nhờ xe, rõ ràng là chúng không thể mang theo nhiều hơn mấy cái sơ mi và bít tất. Số quần áo còn lại sẽ phải đi bằng tàu thủy – và đúng thế, Perry đã nhét vào một thùng các tông (đặt vào trong đó – cùng với một ít áo quần chưa giặt – hai đôi ủng, một đôi có đế đã để lại dấu Chân Mèo, đôi kia có đế hình kim cương) và gửi tới địa chỉ của chính hắn, qua Công ty Giao hàng Tổng hợp ở Las Vegas, Nevada.

Nhưng vấn đề lớn và là nguồn gây ra nhức nhối con tim là làm gì với đống kỷ niệm rất mực yêu dấu của hắn đây – hai thùng bự nặng trịch những sách, những bản đồ, những bức thư vàng ố, những cuốn lời bài hát, thơ cùng các vật lưu niệm khác thường (nịt đeo quần và thắt lưng làm bằng da những con rắn đuôi chuông hắn tự tay giết ở Nevada; một cái tượng netsuke đầy gợi dục mua ở Kyoto; một cây cảnh quắt lại hóa đá, cũng mua ở Nhật Bản; chân một con gấu Alaska). Chắc giải pháp tốt nhất – ít ra là giải pháp tốt nhất Perry tìm thấy được – là để chúng lại với “Giê-su”. “Giê-su” mà hắn nghĩ tới ở đây là cái tay trông coi quán bar đối diện bên kia đường với khách sạn và muy simpatico – rất dễ mến, Perry nghĩ như vậy, dứt khoát là một người hắn có thể tin rằng sẽ trả lại những cái thùng nọ cho hắn khi hắn yêu cầu. (Hắn định khi có một “địa chỉ thường trú” thì sẽ đòi lại).

Vẫn còn một vài thứ quá quý giá không thể để có nguy cơ bị mất đi, cho nên trong khi cặp tình nhân ngủ lờ phờ và thời gian cà rịch cà tang lê dịch tới hai giờ chiều thì Perry xem lại các bức thư, các tấm ảnh, các mẩu báo cắt cũ, lựa ra từ đấy những món kỷ vật mà hắn định mang theo. Trong đó có một bài viết mang đề “Tự thuật về đời trai trẻ của tôi” đánh máy lèm nhèm. Tác giả của bản thảo này là bố của Perry, cố giúp thằng con trai mình được tha khỏi Nhà tù Bang Kansas với lời hứa không tái phạm, cho nên ông đã viết nó vào tháng Mười hai trước rồi gửi tới Tòa án Tạm tha Bang Kansas. Perry đã đọc tư liệu này ít nhất một trăm lần, không lần nào đọc mà lại bàng quan:

THIẾU THỜI – Vui mừng được nói với ông, theo như con mắt tôi nhìn thì có cả tốt lẫn xấu. Vâng, Perry ra đời bình thường. Khỏe mạnh – vâng. Vâng, tôi có thể tự trông nom cháu tử tế cho tới khi bà vợ tôi quay ra nghiện ngập khốn khổ khốn nạn vào lúc mà các con tôi đến tuổi đi học. Tính tình vui vẻ – vừa có vừa không, rất nghiêm túc, nếu bị ngược đãi thì cháu không bao giờ quên được. Tôi cũng giữ lời hứa và làm cho cháu nó học theo. Vợ tôi lại khác. Chúng tôi sống ở nông thôn. Thật sự là dân sống ngoài trời. Tôi dạy cho bọn trẻ Quy tắc Vàng. Sống và để người ta sống, trong nhiều trường hợp các con tôi sẽ kể với nhau khi làm chuyện gì sai và đứa nào làm sai thì đều nhận lỗi, tiến lên phía trước, tự nguyện nhận lấy cái đét vào mông. Và đều hứa hẹn sẽ ngoan, luôn luôn làm bài vở mau lẹ, sẵn sàng làm thế là để được tự do vui chơi. Luôn luôn tự rửa ráy lấy trước tiên mỗi buổi sáng, mặc quần áo sạch sẽ, tôi rất nghiêm về chuyện này, về cả chuyện làm bậy với người khác nữa, nếu những trẻ khác làm bậy với chúng thì tôi bảo chúng thôi chơi với bọn kia. Khi còn sống chung thì các con tôi không gây ra rắc rối gì cho bố mẹ cả. Tất cả bắt đầu khi vợ tôi muốn đến City sống một cuộc đời phóng túng – và bỏ đi để sống như thế thật. Tôi để bà ấy đi và chào từ biệt bà ấy khi bà ấy lên xe bỏ tôi lại (chuyện này xảy ra hồi khủng hoảng kinh tế). Các con tôi khóc hết cả hơi. Bà ấy chỉ chửi rủa chúng, nói là chúng cứ hẵng đi cái đã nhưng rồi sau này lại có thể đến với tôi. Bà ấy nổi điên lên, bảo sẽ làm cho bọn trẻ ghét tôi, và bà ấy làm thế thật, trừ có Perry. Vì yêu con, nhiều tháng sau tôi đi tìm chúng, tìm ra chúng ở San Francisco, vợ tôi không biết là tôi đến. Tôi thử đến trường tìm chúng. Vợ tôi đã yêu cầu thầy giáo không được để chúng gặp tôi. Nhưng tôi đã xoay xở gặp được chúng đang chơi ở sân trường và tôi giật mình khi chúng nói với tôi, “Mẹ bảo không được nói chuyện với bố.” Trừ Perry không nói như vậy. Cháu nó khác. Cháu ôm lấy tôi và muốn bỏ đi lập tức với tôi. Tôi bảo cháu: Không. Nhưng ngay khi tan học, cháu nó chạy đến văn phòng luật sư của tôi, ông Rinso Turco. Tôi đem thằng bé về lại với mẹ nó rồi rời City. Sau này Perry bảo tôi là mẹ nó đã bảo nó tìm một nhà mới. Khi các con tôi ở với mẹ, chúng tha hồ được lêu lổng, tôi hiểu là Perry đang gặp lôi thôi. Tôi muốn ly dị bà ấy, phải đâu như một năm sau bà ấy mới chịu. Bà ấy nghiện ngập, bà ấy phóng đãng, bà ấy sống với một gã trẻ tuổi. Tôi nêu tội bà ấy và giành được quyền chăm nom con cái. Tôi đem Perry về sống với tôi. Những đứa khác thì đưa vào nhà trẻ vô thừa nhận vì tôi không thể thu xếp cho chúng về ở cả với tôi được và vì chúng phần nào lai da đỏ, được trợ cấp nuôi như tôi đã yêu cầu.

Chuyện này xảy ra hồi kinh tế khủng hoảng. Dạo ấy tôi đang làm ở Sở Dự án Lao động với đồng lương còm cõi. Tôi có ít của cải và một căn nhà nhỏ. Perry và tôi sống với nhau hòa thuận. Tôi đau lòng lắm vì tôi cũng yêu những đứa con kia nữa. Thành thử tôi mới nghĩ đến chuyện đi lang thang để cho quên tất. Tôi kiếm sống. Tôi bán nhà và chúng tôi sống trong một cái “nhà xe hơi”. Perry đi học được đến bao nhiêu thì đi. Cháu nó không thích học lắm. Cháu học nhanh và không bao giờ xảy chuyện rắc rối gì với trẻ con khác. Chỉ cho đến khi thằng Bully Kid chọc ghẹo nó. Perry là một đứa mới đến trường, thấp và vuông bè, cho nên bọn trẻ định bắt nạt nó. Chúng thấy cháu thích đấu tranh cho quyền lợi của cháu. Tôi dạy các cháu theo cách đó mà. Tôi luôn bảo các con không gây lộn trước, nếu chúng mày như thế, tao mà biết thì tao cho nhừ đòn. Nhưng nếu là bọn trẻ khác gây ra thì chúng mày phải hết sức mình mà chống lại. Một lần, một thằng tuổi nhiều gấp đôi nó chạy đến đánh nó, thằng này ngạc nhiên thấy Perry quật ngã mình rồi cho một trận nên thân. Tôi có mách cháu vài mẹo vật. Vì có dạo tôi quen chơi Quyền Anh & Vật mà. Bà hiệu trưởng và tất cả đám trẻ đều xem trận đánh nhau. Bà hiệu trưởng yêu thằng lớn. Thấy nó bị thằng Perry nhóc tì của tôi nện, bà ấy còn đau hơn cả chính bà bị vậy. Sau đó Perry thành Vua Nhóc ở trường. Nếu có đứa lớn nào định bắt nạt đứa bé, Perry sẽ dàn xếp xong lập tức. Bây giờ ngay thằng Bully Kid cũng sợ thằng Perry và phải tử tế. Nhưng cái đó xúc phạm bà hiệu trưởng thế là bà tìm tôi phàn nàn rằng Perry đánh nhau ở trường. Tôi bảo bà là tôi biết hết tất cả và tôi không có ý định để con tôi bị một đứa lớn gấp hai nó đánh. Tôi cũng hỏi bà ấy tại sao lại để thằng Bully Kid đánh các trẻ khác. Tôi bảo bà ấy là Perry có quyền tự vệ. Perry không gây chuyện bao giờ và tôi sẽ chịu trách nhiệm về chuyện này. Tôi bảo bà ấy con trai tôi được hàng xóm và con cái họ mến lắm. Tôi cũng bảo bà ấy tôi sẽ sớm đưa Perry ra khỏi trường bà ấy thật, đi tới một bang khác. Và tôi đã làm. Perry không phải là thiên thần, cháu nó đã làm quấy nhiễu như rất nhiều trẻ khác đã làm. Đúng là đúng và sai là sai. Tôi không bao giờ bao che cho cái sai của cháu. Nó phải trả giá đắt khi nó làm sai; Ông chủ mà bây giờ nó biết đến chính là pháp luật.

THỜI THANH NIÊN – Perry gia nhập đội tàu buôn trong Đại chiến thứ hai. Tôi đến Alaska, nó đến sau rồi gặp tôi ở đó. Tôi bẫy thú lấy lông còn Perry thì mùa đông đầu tiên làm cho sở cầu đường Alaska, rồi nó làm ở đường sắt trong một thời gian. Nó không tìm được việc nó thích. Vâng – nó thảng hoặc cho tôi đô, khi có. Nó cũng gửi cho tôi 30 đô một tháng trong thời gian chiến tranh ở Triều Tiên, nó ở đó suốt từ đầu cho tới cuối cuộc chiến và được phục viên ở Seattle, bang Washington. Như tôi biết thì đáng vinh dự đấy. Nó có thiên hướng về cơ khí. Máy ủi, máy đào rãnh, máy xới, xe tải làm việc nặng các kiểu là những cái nó mong muốn. Với những kinh nghiệm đã có, nó thật sự là tốt. Có phần hiếu động và mê tốc độ, mê xe máy và xe hơi nhẹ. Nhưng bởi nó đã nắm rõ mùi những gì tốc độ gây ra cho mình, và từ khi cả hai chân bị gãy cùng thương tật ở hông thì bây giờ nó đã tà tà lại rồi, tôi tin chắc như vậy.

GIẢI TRÍ – SỞ THÍCH. Vâng, nó có nhiều bạn gái, vừa bị một cô nào xử tệ hay coi thường là nó thôi đánh rụp liền. Như tôi được biết thì nó chưa lấy vợ bao giờ. Những chuyện rắc rối của tôi với mẹ nó phần nào làm nó sợ cưới vợ. Tôi là người tỉnh táo và như tôi được biết thì Perry cũng là người không thích rượu. Perry giống tôi nhiều. Nó thích kết bồ với những người tử tế – dân sống ở ngoài trời, giống tôi, nó thích tự lập và cũng thích nhất là được làm việc cho mình. Như tôi vậy. Tôi nghề gì cũng đều làm một ít, có thể nói vậy, tức là nắm được một ít và Perry cũng vậy. Tôi đã chỉ cho nó cách kiếm sống cho bản thân như thế nào, đại khái như săn bắn thú, thăm dò địa chất, thợ mộc, thợ rừng, ngựa nghẽo, vân vân. Tôi biết nấu nướng và nó cũng biết, không phải đầu bếp chuyên nghiệp mà chỉ là ở trình độ nấu cho bản thân thôi. Làm bánh mì… đi săn, câu cá, bẫy thú, làm được phần lớn bất cứ việc nào khác. Như tôi đã nói trên đây, Perry thích làm ông chủ của mình & nếu nó có cơ may làm cái việc nó thích, thì ông cứ bảo nó ông muốn làm thế nào rồi mặc nó là nó sẽ rất tự hào làm việc đó cho ông. Nếu nó thấy Ông chủ tán thưởng, nó sẽ hết mình với ông chủ. Nhưng đừng có rắng với nó. Cứ vui vẻ bảo nó làm cái mình muốn làm. Nó rất hay độn lòng, dễ tự ái, tôi cũng vậy. Tôi đã bỏ nhiều việc làm & Perry cũng thế vì những Ông chủ Ba bị. Perry không được học hành nhiều, tôi cũng chỉ đến lớp Hai. Nhưng đừng vì thế mà nghĩ rằng chúng tôi không sắc. Tôi là người tự học & Perry cũng vậy. Việc Bàn Giấy không phải là để cho Perry hay tôi. Nhưng việc ngoài trời thì chúng tôi thạo – nếu có thể thì cứ bảo nó hay tôi cách làm & chỉ vài ngày là chúng tôi nắm được việc hay cái máy đó liền. Sách thì loại. Kinh nghiệm thực tế mà chúng tôi bắt được liềng, nếu chúng tôi đã thích làm. Trước hết là chúng tôi phải thích việc ấy cái đã. Nhưng bây giờ nó là dân Tàn tật và gần như trung niên rồi. Perry biết bây giờ các Nhà thầu không thích thuê nó nữa, người tàn tật rất khó được nhận việc dùng máy móc nặng các thứ trừ phi nó phải là chỗ rất quen biết của Nhà thầu. Nó bắt đầu hiểu ra điều này, nó bắt đầu nghĩ đến một cách nào dễ hơn đặng lo cho bản thân và hợp với cuộc sống của tôi. Tôi chắc chắn là tôi đúng. Tôi cũng nghĩ tốc độ không còn là niềm ham muốn của nó nữa rồi. Tôi ghi nhận được tất cả các cái này qua những bức thư nó viết cho tôi. Nó nói “Cẩn thận nhá bố. Chớ lái khi thấy buồn ngủ, tốt hơn là dừng lại nghỉ ở rìa đường.” Đó là những câu tôi quen nói với nó. Bây giờ nó lại đang nói với tôi. Nó đã học được một bài học.

Như tôi thấy – Perry đã học được một bài học nó sẽ chẳng bao giờ quên. Tự do có nghĩa là tất cả với nó thành thử ông sẽ không bao giờ còn đưa nó trở lại vào sau chấn song nhà tù được nữa đâu. Tôi hoàn toàn tin rằng tôi đún. Tôi nhận thấy trong cách nói năng của nó có sự thay đổi lớn. Nó hối hận sâu sắc về lỗi lầm của mình, nó bảo tôi thế. Tôi cũng biết nó xấu hổ khi gặp những ai nó biết thành thử nó không bảo với họ là nó ở tù. Nó nhờ tôi đừng báo cho bạn bè nó là nó đang ở đâu. Khi nó viết & bảo tôi nó ở tù, tôi bảo nó hãy xem đó là một bài học – bảo rằng tôi mừng là chuyện lại xảy ra theo cách đó chứ lẽ ra còn tệ hại hơn kia. Một ai đó có thể đã bắn nó chết. Tôi cũng bảo nó hãy ở hết hạn tù với một nụ cười mình làm mình chịu, kêu ai. Mình lẽ ra phải biết điều hơn. Tao không dạy mày ăn cắp của người cho nên chớ phàn nàn với tao ở trong tù cựt thế nào. Hãy là một thằng tử tế trong tù & nó đã hứa sẽ là thằng tử tế. Tôi hy vọng nó là một phạm nhân tử tế. Tôi chắc chắn rằng không ai còn bảo nó ăn cắp được nữa. Pháp luật là ông chủ, nó biết như vậy. Nó yêu Tự do của nó.

Tôi biết rõ rằng nếu ông xử tốt với Perry thì nó sẽ có thiện tâm. Xử tệ với nó là ông có ngay một cái cưa máy mà ông phải chống. Ông có thể tin cậy nó với bất cứ khoản tiền nào nếu ông là bạn nó. Khi ông bảo nó đừng ăn cắp một xu của một người bạn hay một người nào khác thì nó sẽ không ăn cắp. Trước khi chuyện kia xảy ra. Và tôi thật lòng hy vọng nó sẽ sống phần đời còn lại của nó như một con người lương thiện. Nó có ăn cắp một cái gì đó cùng với những đứa khác khi nó còn nhỏ. Cứ hỏi Perry xem tôi có là một ông bố tốt với nó không, hỏi nó xem mẹ nó có tốt với nó hồi còn ở Frisco không. Perry biết cái gì tốt với nó. Ông đã cho nó một trận nhớ đời. Nó biết khi nào nó sẽ bị đánh. Nó không phải là thằng ngu. Nó biết cuộc đời là quá ngắn để mà hưởng vị ngon ngọt, tội gì lại đem bỏ đời vào đằng sau chấn song nhà tù một lần nữa.

HỌ HÀNG. Một chị gái, Bobo đã có chồng, và tôi, bố nó là tất cả những gì còn sống đối với Perry. Bobo & chồng tự lo lấy cuộc sống. Có nhà riêng của chúng nó & tôi cũng có khả năng & tự làm được để trông nom lấy bản thân tôi. Tôi đã bán cái lều của tôi ở Alaska hai năm trước. Tôi có ý tìm một nơi nho nhỏ khác của riêng mình năm tới đây. Tôi mò ra được nhiều chỗ có quặng & hy vọng kiếm được cái gì ở đấy. Ngoài ra, tôi chưa bỏ việc thăm dò. Người ta cũng bảo tôi viết một quyển sách về khắc gỗ nghệ thuật và cái Lều Người săn thú tôi dựng lên ở Alaska mà đã có thời là cơ ngơi của tôi và được tất cả những người du lịch tới Anchorage bằng xe hơi biết đến và có lẽ tôi sẽ viết. Tôi sẽ chia sẻ với Perry tất cả những gì tôi có. Lúc nào tôi có cái ăn thì nó có cái ăn. Chừng nào tôi còn sống đó & khi tôi chết tôi sẽ có bảo hiểm nhân thọ trả cho nó để nó có thể bắt đầu cuộc SỐNG Mới toanh khi nó được trở lại với tự do. Phòng trường hợp tôi không còn sống lúc đó.

Bản tự thuật này luôn luôn thả cho cả một bầy những cảm xúc tha hồ tung vó – dẫn đầu là sự thương thân, yêu và ghét lúc đầu cùng chạy ngang bằng, nhưng cuối cùng thế nào rồi cái sau cũng bứt vượt lên. Và phần lớn kỷ niệm mà nó cho tháo cũi sổ lồng đều là ngoài mong muốn, tuy không phải là tất cả. Thật ra, đoạn đầu của đời mình mà Perry còn nhớ lại được là quý báu lắm – một mẩu được tạo nên bởi tiếng hoan hô và ánh sáng huy hoàng. Có lẽ hồi ấy hắn lên ba, ngồi với các chị và thằng anh lớn trên khán đài chính của một bãi biểu diễn cưỡi ngựa lộ thiên; trong bãi, một cô gái da đỏ Cherokee mảnh dẻ cưỡi một con ngựa hoang, một “con quỷ nhảy hất tung cả bốn vó”, mớ tóc buông xõa của cô quất đi quất lại, bay phấp phới tựa như tóc vũ công Aamenco vậy. Tên cô là Flo Buckskin, cô là một diễn viên nhà nghề biểu diễn tài kỵ mã, một “nhà vô địch cưỡi ngựa bất kham”. Chồng cô, Tex John Smith cũng vậy; cô gái da đỏ xinh đẹp và chàng cao bồi người Ái Nhĩ Lan đẹp trai thô kệch trong một chuyến lưu diễn miền Tây biểu diễn cưỡi ngựa đã gặp, lấy nhau và có bốn đứa con ngồi ở trên khán đài chính. (Và Perry có thể nhớ lại nhiều tiết mục cưỡi ngựa ngoạn mục khác nữa – vẫn còn thấy lại bố hắn nhảy chồm chồm trong những vòng dây thòng lọng quay tít quanh người, hoặc mẹ hắn, với các vòng bạc và lam ngọc tuyết nhảy nhót trên cổ tay, cưỡi ngựa như thần với tốc độ cảm tử khiến đứa con út của mình sợ bắn lên còn đám đông ở các thị trấn từ Texas tới Oregon đến “thảy đều đứng dậy vỗ tay”).

Cho tới khi Perry lên năm, ê kíp “Tex & Flo” vẫn tiếp tục làm trò kỵ mã. Đã là một cách sống thì nó không phải “một thứ ngon xơi”, Perry có lần kể lại: “Sáu chúng tôi ngồi trên một chiếc xe tải cũ kỹ, đôi khi ngủ cả ở trên đó nữa, sống bằng cháo ngô, kẹo bi Hershey và sữa đặc. Sữa nhãn Con Ó, sữa đặc được gọi như vậy, vì vậy nó làm cho tôi bị suy thận – trong đó có đường – đó là lý do tại sao tôi cứ đái đầm.” Nhưng đó cũng không phải là một cuộc sống không hạnh phúc, đặc biệt đối với một thằng nhỏ tự hào về bố mẹ, ngưỡng mộ tài biểu diễn và lòng dũng cảm của họ – một cuộc sống chắc chắn hạnh phúc hơn cái cuộc sống sau này. Vì Tex và Flo, cả hai buộc phải thôi nghề do ốm đau, đã đến định cư ở gần Reno, Nevada. Họ đánh lộn, và Flo “xài whiskey”, rồi thì, khi Perry lên sáu, bà đi San Francisco, mang lũ trẻ theo. Đúng như ông già viết: “Tôi để bà ấy đi và chào từ biệt bà ấy khi bà ấy lên xe để tôi lại (chuyện này xảy ra trong thời kinh tế khủng hoảng). Các con tôi khóc khản cả giọng. Bà ấy chỉ chửi rủa chúng, nói là chúng cứ hẵng đi nhưng rồi sau này lại có thể đến với tôi.” Đúng thế thật, trong vòng ba năm sau Perry đã nhiều lần bỏ trốn, lên đường tìm người bố mất tăm, vì nó cũng đã mất luôn cả người mẹ, nó học được cách “xem thường” mẹ; rượu đã làm nhòe nhoẹt diện mạo, sưng húp thân hình một cô gái Cherokee từng có thời gian gân guốc, mềm mại, rượu đã “làm chua loét tâm hồn bà”, đã rèn cái lưỡi của bà đến mức độc địa nhất trần đời, đã hủy hoại lòng tự trọng của bà quá đến nỗi bà chẳng thiết hỏi cả tên đám công nhân bốc dỡ, đám tài xế xe buýt điện và những người đại loại thế, họ nhận lấy cái bà cho họ mà chẳng phải chi trả cái gì (trừ việc bà đòi họ phải uống với bà trước và nhảy theo điệu nhạc của chiếc máy hát lỏng dây cót).

Hậu quả là, như Perry nhớ lại, “Tôi luôn nghĩ tới bố, hy vọng ông đến đem tôi đi và tôi nhớ, y như vừa mới đây thôi, cái lúc tôi lại nhìn thấy bố. Đứng trong sân trường. Giống hệt như khi quả bóng quăng đánh ịch một cái vào chày, chắc nịch. Kiểu Di Maggio[6]. Có điều bố đã không cứu tôi. Bảo tôi ngoan và ôm tôi, rồi đi. Sau đó không lâu mẹ tôi đem tôi đến một nhà trẻ mồ côi của nhà thờ Cơ đốc. Cái nơi mà lũ Góa Đen luôn luôn hành hạ tôi. Đánh tôi. Vì đái dầm ra giường. Đó là một lý do khiến tôi ác cảm với nữ tu sĩ. Và Chúa. Và tôn giáo. Nhưng sau đó tôi thấy còn có những người ác độc hơn. Vì sau hai tháng họ quăng tôi ra khỏi nhà trẻ mồ côi, và bà ấy [mẹ hắn] cho tôi vào một vài nơi còn tệ hại hơn nữa. Một nhà nuôi trẻ do Quân đoàn Cứu rỗi trông nom. Họ cũng thù ghét tôi. Vì đái dầm ra giường. Và vì lai da đỏ. Có một cô nữ tu nọ, cô ta quen gọi tôi là ‘thằng mọi’ và nói giữa mọi với da đỏ thì chẳng có gì khác nhau. Ôi, Giê-su, cô nữ tu này là một con Chó đẻ Ma quỷ! Đồ Chó đẻ hóa thân ra. Cái mụ ta quen làm là đổ đầy nước lạnh buốt vào trong một cái chậu to, bỏ tôi vào trong đó rồi dìm cho tới khi tôi tím ngắt cả người lại. Một ly nữa thôi là chết ngạt. Thế nhưng cái con đĩ ấy, mụ đã bị lộ. Vì tôi bị viêm phổi. Tôi suýt nữa thì toi. Tôi nằm nhà thương hai tháng. Chính trong lúc tôi đang ốm này bố tôi trở lại. Khi tôi khỏi, bố đưa tôi đi.”

Trong gần một năm hai bố con sống với nhau ở một căn nhà gần Reno, và Perry đi học. “Tôi học hết lớp Ba” Perry kể lại. “Là lớp cuối cùng. Tôi không bao giờ quay lại nhà trường nữa. Vì mùa hè đó bố tôi làm một thứ xe moóc thô sơ, ông gọi nó là ‘nhà xe’. Nó có hai cái giường và một cái bếp nấu nhỏ. Lò rất tốt. Có thể nấu nướng gì cũng được. Hai bố con tự nướng lấy bánh mì. Tôi thường hay làm lấy đồ hộp – táo dầm, mứt táo dại. Dẫu sao trong sáu năm sau đó chúng tôi đi khắp. Không ở lại đâu quá lâu. Khi chúng tôi ở lại đâu quá lâu, người ta sẽ bắt đầu nhìn bố, cư xử tựa như bố là một con người quái dị và tôi ghét như thế, nó xúc phạm tôi. Vì lúc đó tôi yêu bố. Cho dù bố có thể dữ với tôi. Áp chế kinh khủng khiếp. Nhưng lúc đó tôi yêu bố. Cho nên tôi luôn luôn vui khi chúng tôi di chuyển.” Di chuyển – tới Wyoming, Idaho, Oregon, cuối cùng là Alaska. Ở Alaska, Tex dạy con mơ tưởng đến vàng, săn tìm vàng ở trong lòng cát những con suối có nước tuyết tan, và cũng ở đó, Perry học dùng súng, lột da gấu, lùng vết sói và hươu sừng tấm.

“Lạy Chúa, rét,” Perry nhớ lại. “Bố và tôi ôm nhau mà ngủ, rúc vào trong mấy cái chăn và da gấu. Buổi sáng, trước khi tỏ mặt người, tôi lật đật làm bữa ăn sáng, bánh bích quy và xi rô, thịt rán, rồi chúng tôi ra ngoài kiếm cái sinh nhai. Sẽ là OK đấy giá như tôi đừng có lớn lên; càng lớn lên tôi càng không thể thích bố được. Ông ấy biết mọi thứ theo cách này nhưng theo cách khác thì lại chẳng biết một cái gì hết. Toàn bộ các ngóc ngách của tôi, bố chẳng biết gì. Chẳng hiểu lấy một ly. Như tôi có thể chơi được kèn harmonica ngay từ lúc đầu tiên nhặt được một cái ghi ta cũng vậy. Tôi có khiếu âm nhạc. Mà bố không thừa nhận. Không chú ý tới. Tôi cũng thích đọc. Cứ nâng cao dần vốn từ của tôi lên. Làm bài hát. Và tôi vẽ được. Nhưng chẳng bao giờ tôi được lời khuyến khích – của bố hay của bất cứ ai. Đêm đêm tôi đã quen nằm thức – một phần là cố khống chế cái thận, một phần vì tôi không sao ngừng suy nghĩ được. Khi trời lạnh, quá khó thở, tôi luôn luôn nghĩ đến Hawaii. Đến một cuốn phim tôi đã xem. Dorothy Lamour[7] đóng. Tôi muốn đến đó. Nơi có mặt trời. Và tất cả những gì ta mặc trên người toàn là cỏ là hoa.”

Mặc nhiều hơn thế rất nhiều, Perry, một buổi tối thơm ngát trong thời gian chiến tranh 1945, đã thấy mình ngồi trong một tiệm xăm mình ở Honolulu với hình mẫu một con rắn và một con dao găm dán trên bắp tay trái. Hắn đã đến đây bằng đường sau: một cuộc cãi cọ với bố, một chuyến đi từ Anchorage, đến Seattle bằng cách nhờ xe, một cuộc đến thăm văn phòng tuyển quân của hạm tàu chở hàng. “Nhưng tôi sẽ chẳng bao giờ vào đó nếu như tôi biết tôi đang đi chống lại cái gì,” có một lần Perry nói thế. “Tôi chẳng bận tâm đến công việc bao giờ, tôi thích làm thủy thủ – thích hải cảng và mọi thứ tương tự. Nhưng các bà hoàng trên tàu không để tôi yên. Một thằng nhỏ mười sáu tuổi, bé con. Tôi có thể tự mình lo cái thân mình, chắc chắn vậy. Nhưng có nhiều bà hoàng chả liễu yếu đào tơ tí nào. Chó chết, tôi biết có những bà hoàng có thể quăng một cái bàn bi da ra ngoài cửa sổ. Sau đó là tới đàn piano. Loại con gái này chúng có thể làm ông khốn khổ khốn nạn, đặc biệt khi có một cặp những con mẹ ấy về bè với nhau đè mình ra, mà ông lại chỉ là một thằng nhỏ. Cái đó có thể làm cho ông muốn tự sát quách cho xong. Những năm sau, khi tôi đã vào quân đội – khi tôi đóng ở Triều Tiên – vấn đề như thế lại diễn ra. Tôi có thành tích trong quân đội, tốt như mọi người thôi; họ cho tôi huân chương Sao Đồng. Nhưng tôi chẳng bao giờ được đề bạt. Sau bốn năm, đánh nhau suốt trong tất cả cuộc chiến tranh Triều Tiên mẹ kiếp ấy, cuối cùng tôi được cho làm cai, tiểu đội trưởng. Nhưng còn lâu tôi mới làm. Biết sao không? Vì cái thằng trung sĩ chỗ bọn tôi nó hắc lắm. Vì tôi không muốn đăng lính lại nữa. Giê-su ơi, tôi ghét cái trò này. Tôi không chịu được. Mặc dù – tôi không biết. Tôi có thích thật sự một vài đứa đồng tính. Chừng nào chúng chưa thử giở một trò gì. Người bạn đáng tin cậy nhất mà tôi có được, thật sự đa cảm và thông minh, thế nào lại quay ra là thằng đồng tính.”

Trong khoảng thời gian giữa lúc bỏ hạm tàu chở hàng và vào quân đội, Perry đã làm lành với bố, khi đứa con trai chia tay ông, ông đã dọn xuống Nevada rồi quay về lại Alaska. Năm 1952, năm Perry mãn hạn lính, ông già đương khi thực hiện dở chừng các dự án nhằm chấm dứt hẳn sự xê dịch của mình. “Bố đang ốm,” Perry kể lại. “Viết thư cho tôi nói là đã mua được một ít đất trên xa lộ ngoài Anchorage. Bảo là sắp có một cái lều cho người đi săn, một địa điểm phục vụ khách du lịch. ‘Lều người bẫy thú’ – tên nó là vậy. Và yêu cầu tôi lên gấp trên đó giúp ông xây dựng. Ông chắc chắn chúng tôi sẽ trúng to. Được, trong khi còn ở quân đội, đóng tại Fort Lewis, Washington, tôi đã mua một chiếc mô tô (mô tô giết người, phải gọi chúng nó như vậy cơ đấy)[8], và ngay sau khi phục viên tôi lên thẳng Alaska. Xa tới tận Bellingham. Lên phía biên giới. Trời mưa. Mô tô tôi bị trượt.”

Chuyện xe đổ đã làm hắn gặp bố chậm mất một năm. Mổ và nằm bệnh viện mất sáu tháng trong năm đó; sáu tháng kia hắn nằm dưỡng bệnh trong một căn nhà gần Bellingham, của một thanh niên da đỏ đốn gỗ và câu cá. “Joe James. Anh ta và vợ kết bạn với tôi. Chúng tôi chênh nhau có hai ba tuổi gì đấy, nhưng họ mang tôi về nhà đối xử tựa như tôi là một trong mấy đứa con của họ vậy. O.K. thôi. Vì họ bận túi bụi với đám trẻ và họ yêu chúng nó. Lúc đó họ có bốn đứa; con số cuối cùng lên tới bảy. Họ rất tốt với tôi, Joe và gia đình anh ta ấy. Tôi đi nạng, tôi chẳng đỡ đần được họ cái gì. Chỉ ngồi quanh. Cho nên tôi kiếm một cái gì để làm, cố làm cho mình có ích, tôi đã mở một cái sau này thành một cái kiểu như trường học. Học trò là đám con Joe, cùng vài đứa bạn của chúng, và chúng tôi học trong phòng khách. Tôi dạy harmonica và ghi ta. Vẽ. Viết. Ai cũng nhận thấy tôi viết chữ đẹp. Tôi viết đẹp thật, là vì có dạo tôi mua một quyển sách dạy viết chữ đẹp rồi tập cho tới khi tới viết đúng y như trong sách. Chúng tôi cũng hay đọc truyện – bọn trẻ con kể lần lượt, từng đứa một, chúng kể đến đâu tôi chữa cho chúng đến đấy. Vui. Tôi thích trẻ con. Những đứa nhóc. Quãng thời gian đấy thật hay. Nhưng rồi mùa xuân tới. Đi bộ còn đau nhưng tôi đi được. Mà bố thì vẫn đang chờ tôi.”

Chờ, nhưng không phải ngồi không. Lúc Perry đến được địa điểm túp lều săn tương lai thì bố hắn, chỉ một mình, đã làm xong những việc nặng nhọc nhất – dọn quang đất, đốn chặt các cây gỗ cần dùng, chuyển đi hàng toa sỏi đá. “Nhưng tới lúc tôi đến ông mới bắt đầu xây dựng. Chúng tôi tự làm lấy từng bộ phận khốn kiếp của nó. Thi thoảng mới có một người da đỏ phụ một tay. Bố như người tâm thần. Bất kể trời đất làm sao – bão tuyết, bão nước, gió chẻ đôi cây – chúng tôi vẫn cứ ôm lấy việc. Hôm lợp xong mái, bố nhảy lên trên đó, hét và cười, làm hẳn một điệu jig chính cống. Chà, nó hóa ra là một chỗ đỉnh thế cơ chứ. Chứa được hai chục người ngủ. Có một lò sưởi củi lớn trong phòng ăn. Và có một phòng uống cốc tai. Tên là Phòng Cốc tai Vật tổ Vùng cực. Nơi tôi phải cho khách hàng tiêu khiển. Hát hỏng vân vân. Chúng tôi bắt đầu kinh doanh vào cuối năm 1953.”

Nhưng những người đi săn mà họ trông đợi đã không hiện ra thành xương thịt, và tuy những người du lịch bình thường – số ít người nhỏ giọt dọc xa lộ – thỉnh thoảng có dừng lại để chụp ảnh cái vẻ thô sơ khó lòng tin nổi của Trapper’s Den Lodge, song họ hiếm khi ngủ qua đêm. “Chúng tôi đã huyễn nhau trong một thời gian. Cứ nghĩ là nó sẽ bắt được khách. Bố cố trổ thêm mánh mung cho cái địa điểm này. Làm một Vườn Ký ức. Với một Giếng cầu mong. Đặt biển quảng cáo trên dưới xa lộ. Nhưng chẳng cái nào đem lại thêm một đồng xu. Khi bố nhận ra điều đó – thấy nó vô dụng, chỉ là tự lãng phí mình cùng tất cả tiền bạc – ông bắt đầu trút cả lên đầu tôi. Sai tôi chạy khắp. Hằn học. Bảo tôi đã không góp phần vào công việc. Đó không phải là lỗi của ông, đó còn là lỗi của tôi. Một tình cảnh như thế, tiền bạc không, ăn uống thì ngày một kém dần, chúng tôi không thể không cà khịa lẫn nhau. Đỉnh điểm đến khi chúng tôi đói thật sự. Đó là điều khiến hai bố con xung đột. Cớ bề ngoài thôi. Một cái bánh bích quy. Bố giằng cái bánh bích quy ở tay tôi ra, nói tôi ăn quá nhiều, tôi là một thằng chó chết ích kỷ, tham lam, tại sao tôi không cút đi, ông không muốn tôi ở lại thêm nữa. Ông cứ rủa mãi cho tới khi tôi không nhịn được nữa. Tay tôi chộp lấy cổ ông ấy. Tay của tôi – nhưng tôi không kiểm soát được chúng nữa. Chúng muốn bóp ông cho chết. Tuy thế, bố tôi, ông lại rứt ra được, một đô vật khôn ngoan đấy. Ông gỡ được ra và chạy đi lấy súng. Trở lại chĩa vào tôi. Ông nói, ‘Perry, mày nhìn tao đây. Tao là cái đứa sống sót cuối cùng mày thấy trên đời.’ Tôi chỉ đứng đực ra. Nhưng rồi ông thấy súng không nạp đạn, thế là ông bắt đầu khóc. Ngồi xuống gào tu tu như một đứa bé con. Lúc đó tôi nghĩ tôi sẽ không giận ông ấy làm gì nữa. Tôi buồn cho ông ấy. Cho cả hai bố con. Nhưng nó cũng chẳng được cái tích sự gì – tôi chẳng nói được gì hết. Tôi ra ngoài. Đang tháng Tư, nhưng rừng cây còn ngập sâu trong tuyết. Tôi đi cho tới lúc gần tối mịt. Khi tôi trở về, túp lều tối om, tất cả cửa nẻo đều khóa. Và mọi thứ của tôi nằm ở ngoài tuyết. Nơi bố đã vất chúng ra. Sách vở. Quần áo. Mọi thứ. Tôi cứ để nằm cả đấy. Trừ cây ghi ta của tôi. Tôi nhặt cây ghi ta lên và bắt đầu đi xuôi xuống xa lộ. Không một đô la trong túi. Khoảng nửa đêm một xe tải đỗ lại cho tôi đi nhờ. Người lái hỏi tôi đi đâu. Tôi bảo, ‘Ông đi tới đâu thì tôi tới đó’.”

Nhiều tuần sau, sau khi lại đến náu ở nhà James, Perry quyết định chỗ đến cuối cùng – Worcester, Massachusetts, thị trấn quê hương của một “bằng hữu trong quân đội” mà hắn nghĩ sẽ vui vẻ chào đón hắn và giúp hắn tìm ra “một việc lương kha khá”. Nhiều chuyện vòng vèo kéo dài chuyến đi sang miền Đông; hắn rửa bát trong một quán ăn ở Omaha, bơm xăng ở một gara tại Oklahoma, làm một tháng trong một trại chăn nuôi ở Texas. Tháng Bảy năm 1955, trên đường đi tới Worcester, hắn đã đến Phillipsburg, một thị trấn nhỏ thuộc Kansas, và ở đó, “số phận” dưới dạng “tên bạn đường xấu xa” đã tự khẳng định mình. “Tên hắn là Smith,” Perry nói. “Giống như tôi. Ngay đến tên riêng của hắn tôi còn không nhớ. Hắn chẳng qua là một kẻ tôi nhặt được ở chỗ nào đó, hắn có một chiếc xe và hắn nói cho tôi đi một cuốc xa tới tận Chicago. Dẫu sao thì qua Kansas chúng tôi đã tới cái chỗ Phillipsburg nhỏ bé này và đỗ lại xem bản đồ. Hình như hôm đó là Chủ nhật. Cửa hàng đóng. Phố xá im lìm. Bạn tôi đó, cầu phúc cho lòng dạ nó, nhìn quanh rồi gợi ý.” Gợi ý đó là cướp một ngôi nhà cao tầng gần đấy, Công ty Tiêu thụ Chandler. Perry tán thành, và chúng đột nhập vào những gian nhà vắng quạnh, lấy đi một số thiết bị văn phòng (máy chữ, máy tính). Chuyện lẽ ra là đã ổn, giá như vài ngày sau hai tên ăn cắp không bỏ qua một cột đèn giao thông ở thành phố Saint Joseph, Missouri. “Các của đồng nát còn ở cả trong xe. Viên cảnh sát ngăn xe chúng tôi lại muốn biết chúng tôi lấy các cái đó ở đâu. Họ kiểm tra một chút và rồi, như họ nói, chúng tôi ‘được trả về lại’ Phillipsburg, Kansas. Chỗ này họ có một nhà giam thật sự đẹp. Nếu như ông thích nhà giam.” Trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ, Perry và tên bạn đường đã phát hiện ra một cửa sổ để ngỏ, bèn leo ra khỏi đó, ăn cắp một chiếc xe rồi lái lên Tây Bắc, tới McCook, Nebraska. “Rất nhanh sau đó hai đứa rời nhau, tôi và ông Smith. Tôi không biết rồi hắn ra sao. Cả hai đều trong danh sách truy nã của F.B.I. Nhưng như tôi biết thì họ vẫn chưa tóm được hắn bao giờ.”

Một buổi chiều tháng Mười một tiếp đó, một chiếc xe buýt Greyhound đặt Perry xuống Worcester, thị trấn toàn cơ xưởng của Massachusetts đầy những đường phố dốc lên dốc xuống dựng đứng đến nỗi ngay lúc thời tiết đẹp nhất hình như cũng chẳng vui tươi gì và lại còn thù nghịch. “Tôi tìm được nhà của một người bạn. Bạn lính ở Triều Tiên. Nhưng người ta nói hắn đã đi khỏi đây sáu tháng rồi và họ không hiểu hắn đi đâu. Tệ hại quá, thất vọng lớn, tận cùng của thế gian, tất cả. Thế là tôi tìm một tiệm rượu, mua một nửa gallon rượu vang đỏ của Ý đem ra trạm xe buýt ngồi đó uống và sưởi cho ấm lên tí chút. Tôi đang thật sự khoan khoái thì một người đến bắt tôi vì tôi lang thang cầu bơ cầu bất.” Cảnh sát đăng ký tên hắn là “Bob Turner” – một cái tên hắn tự đặt ra vì tên hắn đã có trong danh sách của F.B.I. Hắn ở trong nhà giam mười bốn ngày, bị phạt mười đô la, và từ Worcester lên đường vào một buổi chiều ấm ướt khác nữa của tháng Mười một. “Tôi xuống New York và thuê một phòng ở khách sạn tại Đại lộ số Tám,” Perry nói. “Gần đường Bốn mươi Hai. Cuối cùng tôi tìm được một việc làm đêm. Làm những trò kỳ cục quanh đoạn đường có mái vòm mạt hạng. Thẳng từ đó ra đường Bốn mươi Hai, gần trạm bán hàng tự động. Đây là nơi tôi ăn – khi mà tôi ăn. Trong hơn ba tháng tôi đúng là không bao giờ rời khỏi vùng Broadway. Vì một lẽ, tôi không có quần áo phù hợp. Toàn quần áo miền Tây – jeans với ủng. Nhưng ở đây, trên đường Bốn mươi Hai thì chẳng ai bận tâm, mặc thế nào cũng được – bất kỳ cái gì luôn. Cả đời tôi chưa bao giờ gặp nhiều cảnh dị thường đến thế.”

Hắn sống qua mùa đông trong cái môi trường xấu tệ thắp đèn neon, với cái không khí sặc mùi ngô rang, xúc xích luộc liu riu và rượu cam. Nhưng rồi, một buổi sáng tháng Ba tươi tắn đầu xuân, như hắn nhớ được, “Hai tên chó chết F.B.I đánh thức tôi dậy. Bắt tôi tại khách sạn. Xình! – Tôi bị trục xuất về Kansas. Tới Phillipsburg. Vẫn cái nhà tù xinh xẻo ấy. Họ đóng đinh câu rút tôi – ăn cắp, vượt ngục, trộm xe. Tôi bị tù năm đến mười năm. Ở Lansing. Vào đó được ít lâu, tôi viết cho bố. Cho ông biết tin. Và viết cho Barbara, chị gái tôi. Qua bao năm tháng, lúc đó họ là tất cả những gì còn lại với tôi. Jimmy tự sát. Fern nhảy cửa sổ. Mẹ tôi chết. Chết đã tám năm. Mọi người ra đi cả, trừ bố và Barbara.” Một bức thư của Barbara nằm trong mớ đồ chọn lọc mà Perry không thích để lại đằng sau tại một phòng khách sạn ở Mexico City. Viết bằng một kiểu chữ vui vui dễ đọc, bức thư đề ngày 28 tháng Tư năm 1958, vào lúc đó người nhận đã ở tù được khoảng hai năm.

Em Perry thân yêu,

Anh chị đã nhận được bức thư thứ hai của em hôm nay & tha lỗi cho chị không viết được sớm hơn. Thời tiết ở đây đã ấm lên, chỗ em cũng thế nhỉ, & có lẽ chị bị cúm xuân nhưng chị đang gắng cho khỏi. Bức thư thứ nhất của em làm chị xáo động, chị chắc em đã ngờ là nó sẽ như thế nhưng đó không phải là lý do khiến chị chưa viết – quả là đám trẻ con làm chị bận & khó lòng mà tìm ra được thì giờ ngồi tập trung vào một lá thư như chị đã mong viết cho em bấy lâu nay. Donnie đã học mở được cửa và trèo lên ghế & các đồ đạc khác & nó khiến chị lúc nào cũng lo nó ngã.

Thỉnh thoảng chị cũng để cho trẻ con chúng nó chơi quanh sân, nhưng phải luôn luôn ở bên vì chúng có thể bị thương nếu như chị không chú ý tới. Nhưng chẳng cái gì mãi mãi được & chị biết chị sẽ buồn khi chúng bắt đầu chạy lung tung khắp khối nhà này mà chị chẳng biết là chúng ở đâu. Đây là một vài con số thống kê nếu như em quan tâm:

Chiều cao

Cân nặng

Cỡ giày

Freddie

91 cm 2

13 ký 2

Số 7-1/2 hẹp

Baby

92 cm 5

19 ký 5

Số 8 hẹp

Donnie

85 cm

13 ký

Số 6-1/2 rộng

Em có thể thấy Donnie là một thằng cu xinh xắn mới có 15 tháng mà đã khá to với 16 cái răng và tính cách chan hòa của nó thì người ta không thể nào mà không yêu nó được. Nó mặc cùng cỡ áo quần với Baby và Freddie có điều quần quá dài thôi.

Chị đang cố viết cho cái thư này dài nên có lẽ nhiều khi sẽ bị ngắt ngang ví dụ như bây giờ là phải cho Donnie tắm – Baby & Freddie thì đã tắm hồi sáng rồi tại vì hôm nay khá lạnh nên chị cho chúng ở trong nhà. Sẽ quay lại ngay…

Về việc đánh máy chữ của chị – trước nhất – chị không thể nói dối! Chị không phải là dân đánh máy chữ. Chị dùng từ một đến năm ngón & mặc dù chị có thể xoay xở giúp Fred Bự làm công việc buôn bán của anh ấy, nhưng mà việc chị phải mất một giờ để đánh, nếu là người có kỹ thuật thì sẽ chỉ mất – chừng mười lăm phút. Nói nghiêm túc ra, chị đã không có thì giờ lẫn ý chí để học thành nghề. Nhưng chị nghĩ em mà lại duyên nợ với nó rồi trở thành người đánh máy chữ giỏi như thế thì thật là tuyệt vời. Chị tin rằng tất cả chúng ta (Jimmy, Fern, chị và em) đều rất dễ thích nghi & nhờ trời chúng ta đều được phú cho sự nhạy là cái cơ bản đối với người nghệ sĩ – cùng với những cái khác nữa. Ngay mẹ và bố cũng đều là nghệ sĩ kia mà.

Chị thành thật cảm thấy chẳng ai trong chúng ta có thể quở trách bất cứ ai về bất cứ cái gì chúng ta đã làm với cuộc đời của riêng mình. Người ta đã chứng minh rằng ở tuổi lên bảy phần lớn chúng ta đã đạt tới cái tuổi lý trí – nghĩa là ở tuổi đó chúng ta thực sự hiểu & biết chỗ khác nhau giữa đúng & sai. Dĩ nhiên – môi trường đóng một vai trò quan trọng ghê gớm trong cuộc đời ta như Nhà tu trong trường hợp chị & trong trường hợp chị, chị biết ơn cái ảnh hưởng đó. Về trường hợp Jimmy – anh ấy là người mạnh mẽ nhất trong tất cả chúng ta. Chị nhớ anh ấy đã làm việc & đi học như thế nào khi chẳng còn ai bảo ban anh ấy & đó là Ý CHÍ của chính anh ấy muốn làm cho anh ấy trở thành một cái gì đó. Chúng ta chẳng bao giờ biết được tại sao việc kia lại xảy ra, tại sao anh ấy làm cái mà anh ấy đã làm, nhưng nghĩ đến chị vẫn cứ đau lòng. Thật uổng phí quá chừng. Nhưng chúng ta kiểm soát được rất ít những điểm yếu về mặt con người của chúng ta, & điều đó cũng áp dụng vào Fern & hàng trăm nghìn những người khác bao gồm cả bản thân chúng ta – vì tất cả chúng ta đều có những điểm yếu hết. Trong trường hợp của em – chị không biết chỗ yếu của em là gì nhưng chị cảm thấy – ĐÓ LÀ CÓ CÁI MẶT BẨN MÀ KHÔNG BIẾT XẤU HỔ – NẾU MẶT BẨN MÀ CỨ ĐỂ THẾ THÌ XẤU HỔ SẼ TỰ NÓ ĐẾN.

Với tất cả lòng thành thật & tình yêu đối với em, Perry, vì em là đứa em trai duy nhất còn sống của chị là cậu của các con chị, chị không thể nói hay cảm thấy thái độ của em với bố chúng ta, hay việc em bị tù là ĐÚNG hay lành mạnh được. Nếu em đang cáu thì tốt nhất là em nén nó đi vì chị nhận thấy chúng ta chẳng có ai lại vui vẻ nghe lời phê bình cả & cảm thấy chút ít khó chịu với cái người đang phê mình âu cũng là điều tự nhiên thôi cho nên chị đã chuẩn bị sẵn hai cái sau đây – a) không còn nghe được tin tức gì của em nữa, hay b) một bức thư nói rõ em nghĩ thật về chị như thế nào.

Chị mong là chị sai & chị chân thành mong em suy nghĩ nhiều về bức thư này & cố xem xem – người khác cảm thấy như thế nào về mình. Xin hiểu cho là chị biết chị không phải là người có thẩm quyền & chị cũng chẳng khoe khoang thông minh nhiều hay học lắm nhưng chị tin chị là một con người bình thường có năng lực suy xét cơ bản & ý chí sống cuộc đời của mình theo như các luật lệ của Chúa & Con người. Đúng là chị đôi khi đã “ngã”, sự thường tình thôi – vì như chị đã nói chị là người & do đó chị cũng có những chỗ yếu của con người; nhưng lại một lần nữa, vấn đề là ở chỗ không xấu hổ khi mặt bẩn – mình sẽ xấu hổ nếu như mình cứ để cho mặt mình bẩn. Không ai hiểu các thiếu sót và lầm lỗi của chị bằng chính chị cho nên chị chẳng làm em bực mình nữa làm gì.

Bây giờ, trước hết & quan trọng nhất – bố không chịu trách nhiệm về những việc làm sai hay những việc làm tốt của em. Cái em làm, dù đúng dù sai, là việc riêng của em. Theo như bản thân chị biết thì em đã sống cuộc đời của em đúng như em thích, không hề tính đến hoàn cảnh hay những người yêu mến em – những người có thể bị đau đớn. Hoặc em nhận thấy hoặc là không – việc em hiện đang bị tù làm chị cũng như bố bận lòng – không phải vì việc em đã làm mà vì sự thật là em không cho chị thấy bất cứ dấu hiệu nào về sự ân hận THÀNH KHẨN và hình như còn cho thấy chẳng hề kính trọng đối với pháp luật, con người hay một cái gì sất cả. Thư em ngụ ý lỗi của tất cả các vấn đề của em là lỗi của ai khác, chứ không bao giờ là của em hết. Chị thừa nhận là em thông minh và vốn từ của em rất khá & chị cảm thấy em có thể làm bất cứ cái gì em quyết tâm làm & làm tốt nhưng chính xác ra thì em muốn làm cái gì đây & em có đang muốn lao động & có một cố gắng trung thực để đạt tới một cái gì mà em chọn làm không? Không cái tốt nào mà lại dễ cả và chị chắc em đã nghe điều này nhiều lần rồi nhưng nói thêm một lần nữa cũng chẳng hại gì.

Còn nếu em muốn biết sự thật về bố – lòng bố tan nát vì em đấy. Cụ sẽ hiến bất cứ cái gì để đưa được em ra, để cho con trai cụ lại về với cụ – nhưng chị e rằng nếu như em có thể thì em lại làm cho cụ đau đớn dữ hơn nữa mà thôi. Bố không khỏe và đang già đi &, như người ta vẫn nói đấy, bố chẳng thể “Có sức nặng” như thời xưa nữa. Bố đã có những phen sai lầm & bố nhận ra nhưng bất cứ cái gì bố có và bất cứ chỗ nào bố đến ông đều chia sẻ cuộc đời & của cải của ông với em trong khi chẳng làm với ai khác như thế cả. Chị không nói là em phải chịu ơn bố vĩnh viễn hay nợ bố cuộc đời em mà chị chỉ nói em còn nợ bố LÒNG KÍNH TRỌNG và ĐẠO LÝ THÔNG THƯỜNG. Bản thân chị, chị tự hào về bố. Chị yêu bố, kính trọng bố & chị chỉ buồn vì bố đã chọn làm Con Sói Độc với đứa con trai của mình, trong khi lẽ ra bố có thể sống với anh chị, hưởng tình yêu thương của anh chị thay vì cứ lủi thủi trong cái xe moóc tí tẹo & mong mỏi, đợi chờ & cô quạnh vì em, thằng con trai của bố. Chị lo cho bố & khi chị nói chị là muốn nói cho cả anh ấy vì chồng chị kính trọng bố. Vì bố là một CON NGƯỜI. Đúng là bố không được học nhiều nhưng khi đi học chúng ta chỉ học biết nhận mặt chữ rồi đánh vần nhưng còn vận dụng chúng vào đời thực lại là việc khác, cái đó chỉ CUỘC ĐỜI & SỰ SỐNG mới có thể ban cho chúng ta được. Bố đã sống & em đã tỏ ra ngu dốt khi gọi bố là vô học & không có khả năng hiểu được “ý nghĩa khoa học vân vân” của các vấn đề trong cuộc đời. Một người mẹ vẫn cứ là người duy nhất có thể hôn một thằng con quậy phá và làm cho nó hoàn toàn sung sướng – em giải thích thế nào cho khoa học cái đó đi.

Chị xin lỗi là đã để em đọc một cái thư viết nặng nề thế này nhưng chị cảm thấy chị phải nói hết ý mình. Chị ân hận là bức thư này chắc đã bị kiểm duyệt [bởi những vị quản ngục], & chị thành thật hy vọng lá thư này không có hại cho khả năng thả em nhưng chị cảm thấy em nên biết & nhận ra nỗi đau kinh khủng mà em đã gây nên. Bố là người quan trọng nhất bởi chị là người hiến trọn mình cho gia đình nhưng em mới là người duy nhất bố yêu – tóm lại, em là “gia đình” của bố. Bố biết chị yêu bố, dĩ nhiên, nhưng sự thân thiết lại không ở đấy, em biết mà.

Việc em ở tù chẳng có gì đáng tự hào & em sẽ phải sống với nó, cố sống cho trọn nó & có thể sống tới khi mãn hạn nhưng không phải với thái độ như kiểu em cứ có cảm tưởng ai cũng ngu, cũng vô học & không có khả năng thông cảm. Em là một con người có ý chí tự do. Nó làm cho em ở bên trên hàng con vật. Nhưng nếu em sống cuộc đời em mà không cảm xúc và thương xót cho đồng loại thì em chẳng khác gì một con vật – “ăn miếng trả miếng” nhau – sống như vậy thì không có được hạnh phúc & bằng an trong tim đâu.

Đến chừng dính đến trách nhiệm thì chẳng ai thật sự muốn cả – nhưng tất cả chúng ta đều phải chịu trách nhiệm với cái cộng đồng chúng ta sống ở trong đó & với pháp luật của nó. Khi nào đến lúc gánh lấy trách nhiệm của một ngôi nhà và con cái hay công việc làm ăn, thì đó là sự gieo trồng những đứa trẻ từ Con người – vì chắc em có thể nhận thấy rằng thế giới sẽ hỗn loạn như thế nào nếu như ai trong đó cũng nói, “Tôi muốn là một cá nhân, không trách nhiệm, & có thể nói thả cửa ý tôi & làm những cái mình tôi muốn.” Chúng ta tất cả đều tự do nói & làm như cá nhân mình muốn – với điều kiện là cái “tự do” Nói & Làm này không gây thiệt hại cho đồng loại của mình.

Nghĩ về cái đó đi, Perry. Về độ thông minh, em ở trên mức trung bình, nhưng lập luận của em cứ có phần nào sai lệch. Có thể do ở tù căng thẳng. Muốn là cái gì chăng nữa – cũng hãy nhớ lấy – em & chỉ có em chịu trách nhiệm và đó là việc của em, chỉ riêng có mình em vượt qua cái tao đoạn này của đời em. Hy vọng sớm được tin em.

Yêu & cầu nguyện,

Chị em & A. rể

Barbara & Frederic & gia đình

Giữ cái thư này, lưu nó lại trong bộ sưu tập những vật báu đặc biệt của hắn, chẳng phải Perry làm vậy là theo tình cảm. Còn khuya. Hắn “thù ghét” Barbara, mới hôm nọ hắn đã bảo Dick, “Nỗi ân hận duy nhất và thật sự mà tớ có là tớ từng mong mụ chị chó chết này sống trong cái nhà đó.” (Dick cười lớn, và thú thật ra một nguyện vọng tương tự: “Tớ cứ nghĩ giá như mụ vợ hai của tớ ở đây thì ngộ đến thế nào. Mụ, và cả cái gia đình khốn kiếp của mụ.”) Không, hắn coi trọng bức thư chỉ là vì người bạn tù, tay Willie-Jay “siêu thông minh”, đã viết cho hắn một bài phân tích “rất sắc sảo” về bức thư đó, kín hai trang đánh máy với hàng cách một, đầu đề ở trên cùng là “Những cảm tưởng tôi tâm đắc từ Bức thư”:

NHỮNG CẢM TƯỞNG TÔI TM ĐẮC TỪ BỨC THƯ

1. Khi bà ta bắt đầu viết lá thư này, bà ta có ý làm cho nó thành một biểu thị thương cảm của các nguyên tắc Cơ đốc giáo. Nghĩa là đáp lại bức thư của anh gửi bà ta, bức thư mà rõ ràng đã làm cho bà ta bực dọc, thì đến lượt bà ta trả miếng, hy vọng bằng cách này khích anh phải hối hận về cái thư trước của anh đồng thời đặt anh vào thế tự vệ trong bức thư sắp tới của anh.

Nhưng ít ai có thể diễn đạt thành công một nguyên tắc trong đạo đức học thông thường khi mà sự suy tính của người ấy lại đầy rẫy chủ nghĩa xúc cảm. Bà chị anh đã chứng minh thất bại đó vì bức thư bà ấy càng viết nhiều thì sự phán xét của bà ấy lại càng nhường đường cho cảm tính – ý nghĩ của bà ấy tốt, sắc sảo, sản phẩm của trí thông minh, nhưng hiện giờ nó không phải là một trí thông minh vô ngã, phi khuynh hướng. Nó là một tâm trí bị thúc đẩy bởi đáp ứng cảm xúc đối với hồi ức và thất vọng; do đó, dù những lời quở trách của bà ấy có thông thái đến thế nào chăng nữa, chúng cũng không thể khêu dậy được cách giải, trừ phi cách giải đó là trả đũa lại bằng cách làm đau bà ấy trong lá thư sau của anh. Như vậy bắt đầu một chu trình chỉ có thể đẩy đi xa nữa lòng giận dữ và nỗi đau đớn.

2. Đây là một lá thư rồ dại, nhưng được đẻ ra từ sự thất bại của con người.

Thư của anh cho bà ta, và thư bà ta trả lời anh, đều đã thất bại với mục tiêu của chúng. Thư của anh là một mưu toan giải thích quan điểm của anh đối với cuộc đời, như anh đã bị nó tất yếu tác động. Phận của nó là phải bị hiểu sai đi, hay hiểu quá nông cạn theo mặt chữ vì rằng ý tưởng của anh là đối lập với chả nghĩa công thức. Cái gì có thể công thức hơn được một bà nội trợ với ba mụn con, người đã “hiến trọn mình” cho gia đình???? Bà ta có ác cảm với một người không công thức, điều này còn có gì tự nhiên hơn được cơ chứ.

Trong chủ nghĩa công thức có sự đạo đức giả ghê gớm. Bất cứ người nào có suy nghĩ cũng đều nhận thấy cái nghịch lý này; nhưng trong giao thiệp với người công thức mà ta đối xử với họ làm như họ không hề đạo đức giả thì ta có lợi. Đây không phải là vấn đề lòng tin đối với các quan niệm của chính anh; đây là vấn đề thỏa hiệp để anh vẫn được là một cá nhân mà không phải chịu những sức ép thường trực của chủ nghĩa công thức. Thư của bà ta thất bại vì bà ta không thể quan niệm được chiều sâu vấn đề của anh – bà ta không thể lường được sự sâu sắc trong vấn đề của anh, không thể dò hiểu được những sức ép mà anh phải gánh chịu bởi môi trường, nỗi thất vọng trí tuệ và một xu hướng ngày càng phát triển hướng tới chủ nghĩa biệt lập.

3. Bà ta thấy rằng:

a) Anh đang ngả quá nhiều sang tự thương thân.

b) Anh đang quá tính toán.

c) Anh thật sự không xứng đáng với bức thư tám trang giấy viết giữa những sự vụ của người mẹ.

4. Ở trang ba bà ta viết: “Chị thật sự cảm thấy chẳng ai trong chúng ta có thể trách móc bất cứ ai, v.v…” Thế là bào chữa cho những người đã phát huy ảnh hưởng trong những năm khôn lớn của bà ta. Nhưng đó có phải toàn bộ sự thật không? Bà ta là người vợ và người mẹ. Đáng kính và ít nhiều yên ổn. Chẳng khó không để tâm đến mưa nếu như ta có áo mưa. Nhưng bà ta sẽ cảm thấy ra sao nếu như bà ta bị buộc phải tất tả kiếm ăn trên đường phố? Bà ta liệu có còn tha thứ hoàn toàn cho những người – trong quá khứ của bà ta không? Tuyệt đối là không rồi. Không gì bình thường hơn chuyện cảm thấy người khác có phần dính líu của họ trong thất bại của ta, chẳng khác nào quên những người từng dự phần vào thành công của ta là một phản ứng bình thường vậy.

5. Bà chị anh kính trọng ông bố. Bà ta cũng khó chịu việc anh đã được bố thích hơn. Lòng ghen tị của bà ta mang một hình thức tinh vi trong bức thư này. Xen vào giữa các dòng bà ta gài vào một câu hỏi: “Chị yêu bố và đã cố sống để bố tự hào về chị với tư cách là con gái bố. Nhưng chị đã phải tự bằng lòng với những mẩu lụn vụn của tình thương yêu của bố. Vì rằng bố yêu em, và tại sao lại như thế?”

Rõ ràng qua nhiều năm tháng bố anh đã lợi dụng được bản chất đa cảm của bà chị anh qua thư từ. Vẽ ra một bức tranh biện bạch cho ý nghĩ của bà ta về ông bố – một kẻ thua thiệt bị một đứa con vô ơn làm nhục, đứa con mà ông ta đã tỏ rõ tình yêu và mối quan hoài, chỉ để rồi đối lại việc bị đứa con ấy đầy đọa một cách bỉ ổi.

Ở trang bảy, bà ta nói bà ta buồn vì lá thư của mình chắc đã bị kiểm duyệt. Nhưng thật ra bà ta chẳng buồn tí nào đâu. Bà ta mừng là nó được qua kiểm duyệt. Trong vô thức bà ta đã viết nó với một kiểm duyệt viên ở trong đầu, mong muốn cho toát lên được cái – rằng gia đình nhà Smith thật sự là một đơn vị rất có trật tự: “Xin chớ lấy Perry ra mà phán xét tất cả chúng tôi.”

Về người mẹ hôn cho đứa con thôi quậy. Đây là một hình thức châm biếm của đàn bà.

6. Anh viết cho bà chị vì:

a) Anh yêu bà ta tàm tạm.

b) Anh cảm thấy cần có sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài.

c) Anh có thể lợi dụng được bà ta.

Dự đoán: Thư từ giữa anh và bà chị chẳng giúp được cái tích sự gì ngoài chức năng xã hội thuần túy. Hãy giới hạn chủ đề các bức thư của anh trong phạm vi hiểu của bà ta. Chớ vứt bỏ các kết luận riêng tư của anh. Đừng đặt bà ta vào thế tự vệ và đừng cho bà ta đặt anh vào thế tự vệ. Kính trọng những hạn chế của bà ta trong việc hiểu các mục tiêu của anh, và nhớ rằng bà ta dễ bị động chạm trước những lời anh phê bình ông bố. Hãy nhất quán trong thái độ đối với bà ta và chớ đưa thêm một cái gì vào cảm tưởng bà ta hiện có về anh rằng anh yếu đuối, cái này không phải vì anh cần đến thiện cảm của bà ta mà vì anh có thể chờ đợi nhiều thư còn hơn thế này nữa, và chúng chỉ có thể dùng để làm tăng lên thêm nữa bản năng chống xã hội vốn đã nguy hiểm của anh mà thôi.

HẾT

Trong khi Perry tiếp tục sắp xếp và chọn lọc, cái chồng tài liệu hắn nghĩ là quá thân yêu khó thể nào chia tay với hắn, dù chỉ tạm thời thôi, đã cao lên ngất ngưởng. Nhưng hắn phải làm sao đây? Không thể liều để mất tấm huân chương Sao Đồng kiếm được trong chiến tranh Triều Tiên, hay tấm bằng tốt nghiệp trung học (do sở Giáo dục hạt Leavenworth cấp, kết quả của việc hắn bắt đầu lại ở trong tù sự học hành từng bị bỏ lâu ngày của hắn). Hắn cũng chẳng dám phó thác cho may rủi cái phong bì ních căng những ảnh là ảnh – chủ yếu của hắn, xếp theo thời gian, từ chân dung một chàng trai nhỏ bé xinh xắn chụp lúc hắn vào làm ở hạm tàu chở hàng (đằng sau bức ảnh hắn viết, “16 tuổi. Trẻ, tin tưởng vào vận may & Ngây thơ”) đến những bức mới chụp ở Acapulco. Và có đến năm chục thứ khác hắn quyết định phải mang theo, trong đó có những tấm bản đồ về các kho tàng, quyển ký họa của Otto, hai tập sổ tay dày, tập dày nhất là cuốn từ điển của riêng hắn, mục từ xếp không theo thứ tự chữ cái mà là một mớ các chữ hắn tin là “đẹp” hay “có ích”, hay ít nhất là “đáng ghi nhớ”. (Chẳng hạn: “Thanatoid = như chết; Omnilingual = có khiếu ngôn ngữ; Amerce = trừng phạt, do tòa định; Nescient = ngu dốt; Facinorous = tinh ma đến tàn nhẫn; Hagiophobia = sợ có tính bệnh hoạn những nơi hay vật thiêng liêng; Lapidicolous = sống ở dưới đá, như một số người mù hẳn; Dyspathy = thiếu cảm tình, thiếu cảm giác bè bạn; Psilopher = một kẻ muốn được coi như triết gia; Omophagia = tiệc ăn thịt sống, ở một số bộ lạc; Depredate = cướp, trộm, rình mò; Aphrodisiac = thuốc hay đại loại kích thích ham muốn tính dục; Megalodactylous = có ngón tay to dị thường; Myrtophobia = sợ đêm và bóng tối.”)

Bìa quyển sổ tay thứ hai, chữ viết trong ấy khiến hắn lấy làm tự hào lắm, một thứ chữ đầy những nét hoa mỹ quăn tít giống như của đàn bà, tuyên bố nội dung là “Nhật ký riêng tư của Perry Edward Smith” – miêu tả thế là sai, vì ít ra nó không phải nhật ký mà đúng hơn là một dạng hợp tuyển gồm các sự việc tối tăm (“Cứ mười lăm năm sao Hỏa lại đến gần hơn. Năm 1958 là năm gần”), các bài thơ và trích dẫn văn học (“Không ai là một hòn đảo cả”, “Toàn vẹn với bản thân”), và những đoạn trích dẫn hoặc diễn ý lại từ báo chí hay sách vở. Thí dụ:

Chỗ quen biết của tôi thì nhiều, bạn bè của tôi thì ít; những người thật sự hiểu tôi lại còn ít hơn.

Nghe nói đến một loại bả chuột mới ở thị trường. Rất mạnh, không mùi vị, hấp thụ hoàn toàn đến nỗi sau khi nuốt vào không thể tìm ra dấu vết trên cơ thể chết.

Nếu được mời lên diễn thuyết: “Tôi không thể nhớ mình sắp nói điều gì đây vì cuộc đời tôi – tôi không nghĩ rằng trước đây trong đời có khi nào tôi có quá nhiều người đến thế từng góp phần trực tiếp vào việc tôi đang vui, rất là vui đến thế này. Đây là một giây phút tuyệt vời, một giây phút hiếm hoi và tôi chắc chắn là hàm ơn. Cảm ơn các vị!”

Đọc bài báo lý thú số tháng Hai về Người với Người: “Tôi đâm chém để mở đường đến Hố Kim Cương.”

“Một người đang được hưởng tự do với tất cả các đặc quyền đặc lợi của nó thì gần như không thể nào nhận thức nổi tự do đó mà bị tước đoạt mất thì sẽ thế nào.” – Erle Stanley Gardner[9] nói.

“Cuộc đời là gì? Nó là ánh sáng của một con đom đóm trong đêm. Nó là hơi thở của một con trâu rừng trong tiết trời đông giá. Nó như là cái bóng râm nho nhỏ chạy trên mặt cỏ rồi mất tiêu đi trong ánh chiều tà.” – Crowfoot, thủ lĩnh da đỏ Blackfoot nói.

Đoạn ghi cuối cùng này bằng mực đỏ và được tô điểm bằng một đường viền những ngôi sao bằng mực xanh lá cây; nhà làm hợp tuyển đã muốn nhấn mạnh “ý nghĩa riêng tư” của nó lên. “Hơi thở của một con trâu rừng trong tiết trời đông giá” – cái đó gợi lên chính xác nhân sinh quan của hắn. Lo phiền làm gì? Có cái gì để mà “đổ mồ hôi sôi nước mắt”? Con người chẳng là cái gì hết, một làn sương mù, một bóng tối bị những bóng tối khác nuốt mất đi.

Nhưng mẹ kiếp, mày phải lo phiền đấy, phải tìm mánh, gặm cụt hết móng tay mày ra và lời nhắc nhở của ban giám đốc khách sạn: “SU DÍA TERMINA A LAS 2 P.M.” (“Ngày thuê kết thúc vào hai giờ chiều.”)

“Dick? Nghe tiếng tớ không?” Perry nói. “Sắp một giờ rồi.”

Dick đã tỉnh ngủ. Còn hơn cả tỉnh nữa; hắn và Inez đang làm tình. Tựa như tụng một bài kinh, Dick thì thào luôn mồm: “Có thích không, cưng? Có thích không?” Nhưng Inez, đang hút một điếu thuốc, cứ im lặng. Nửa đêm hôm trước, khi Dick đưa ả đến phòng và bảo Perry rằng ả sẽ ngủ ở đây, hắn tuy không tán thành song cũng bằng lòng nhưng nếu bọn họ tưởng rằng việc họ làm sẽ kích thích hắn hoặc hình như việc ấy chẳng hề “phiền toái” cho hắn thì bọn họ lầm to. Nói thế thôi, Perry cũng cảm thấy ái ngại cho Inez. Ả là một “con ranh ngu ngốc” – ả tin là Dick muốn lấy ả thật, không hề mảy may ngờ rằng hắn đang dự định rời Mexico ngay chiều hôm đó.

“Có thích không, cưng? Có thích không?”

Perry nói: “Nhân danh Chúa, Dick. Lẹ lẹ mà xong đi chứ, có nghe không đấy? Ngày của chúng ta hết vào lúc hai giờ chiều đấy.”

Thứ Bảy, Nôen đang đến gần, xe cộ lưu thông bò dọc theo Phố Chính. Kẹt trong dòng xe, nhìn lên những tràng hoa giấy mừng lễ giăng trên đường phố – các búi cây hội hè được trang hoàng bằng những quả chuông giấy màu đỏ tía – Dewey chợt nhớ là chưa mua một món quà nào cho vợ hay đứa con trai. Đầu óc ông đã tự động gạt đi những vấn đề không liên quan tới vụ án Clutter. Marie và nhiều bạn bè của họ đã bắt đầu nghĩ ngợi về tình trạng bị dính vào hoàn toàn này của ông.

Một người bạn thân, luật sư trẻ tuổi Clifford R. Hope, Jr., đã nói thẳng ra: “Al, anh có biết cái gì đang xảy ra với anh không đấy? Anh có nhận thấy anh không còn nói tới cái gì khác nữa không?” Dewey đáp, “À, nó là tất cả những gì tôi nghĩ tới bây giờ. Và biết đâu may ra chính trong lúc nói đến nó mà tôi sẽ bập được vào một cái gì trước đó tôi chưa nghĩ ra. Một góc độ mới nào đó. Hay có thể là anh nữa, anh sẽ nghĩ ra. Khốn nạn, Cliff à, anh thử tưởng tượng xem đời tôi nó sẽ ra sao nếu như việc này cứ nằm trong Hồ sơ Mở mãi? Nhiều năm nữa sau này tôi sẽ vẫn cứ lùng tìm các đầu mối, và mỗi khi có một vụ án mạng, một vụ ở bất cứ đâu trong nước dù là hẻo lánh như đây, tôi cũng vẫn sẽ can thiệp, lùng kiếm, xem xem liệu có thể có liên quan gì đó không. Nhưng không chỉ có thế. Thực chất là tôi đã đi tới chỗ cảm thấy mình hiểu Herb và gia đình ông ấy hơn cả nhà ấy hiểu chính họ. Tôi bị họ ám. E là tôi sẽ cứ bị ám như thế mãi. Cho tới khi nào tôi biết cái gì đã xảy ra.”

Việc Dewey vắt kiệt mình vào bài đố hóc búa này đã dẫn tới một trạng thái lú lẫn vốn xưa nay không có. Mới chỉ sáng hôm ấy Marie đã yêu cầu ông, xin, xin anh, xin anh đừng quên nhé… Nhưng ông lại không thể nhớ, hay đã không nhớ, cho tới khi ra khỏi được dòng xe ngày mua sắm Nôen, phóng nhanh dọc đường số Năm mươi đến Holcomb thì ông đã đi qua cơ sở thú y của bác sĩ I. E. Dale. Dĩ nhiên. Vợ ông đã dặn ông nhớ chắc chắn phải đem Tòa án Pete, con mèo của gia đình về. Pete là con mèo đực vằn hổ nặng bảy tám ký, một nhân vật được nhiều người biết ở Garden City, nổi tiếng vì cái tính gây gổ hiếu chiến, và đó chính là nguyên nhân của việc nó phải nằm bệnh viện mới đây; một trận đánh nhau với một con chó ngao đã khiến nó thua đau và bị những vết thương phải khâu nhiều mũi lẫn phải uống thuốc kháng sinh. Được bác sĩ Dale thả cho về, Pete an tọa trên hàng ghế trước xe ông chủ và khẽ gừ gừ suốt trên đường về Holcomb.

Nhà thám tử định đến Trại Lũng Sông, nhưng lại đang muốn một cái gì âm ấm – một tách cà phê nóng – nên liền đỗ lại ở quán cà phê Hartman.

“Hello, chào ông anh điển trai,” bà Hartman nói. “Tôi làm gì được cho ông đây?”

“Thưa bà, cà phê thôi.”

Bà rót một tách. “Tôi có lầm không nhỉ? Hay là ông sút đi mất nhiều cân?”

“Vài cân.” Đúng thế, trong ba tuần qua Dewey sụt mất sáu ký. Bộ áo quần của chính ông mà trông cứ như mượn của một người bạn vạm vỡ hơn, khuôn mặt của ông, vốn hiếm khi để lộ chút gì về nghề nghiệp của ông, bây giờ không còn kín đáo được như thế nữa; nó có thể là khuôn mặt của một người khắc khổ bị hút vào những cuộc đeo đuổi tăm tối.

“Ông cảm thấy sao?”

“Rất tốt.”

“Trông ông dễ sợ quá.”

Không thể chối được. Nhưng cũng không tồi tệ hơn các thành viên khác của K.B.I cùng làm việc với ông – các đặc vụ Duntz, Church và Nye. Chắc chắn là ông còn hơn Harold Nye tuy cúm và sốt nóng rề rề vẫn cứ đi làm đều đặn. Bốn con người mỏi mệt trong đám họ đã “kiểm tra” khoảng bảy trăm đầu mối và tin đồn. Chẳng hạn, Dewey bỏ hai ngày mệt nhoài và công cốc cố tìm ra dấu vết của cặp bóng ma kia, hai người Mexico mà ông Paul Helm thề là đã thấy đến thăm ông Clutter vào hồi chiều trước khi xảy ra các vụ giết người.

“Một tách nữa nhá, Alvin?”

“Cảm ơn bà, tôi không uống nữa.”

Nhưng bà đã cầm bình lên. “Đây là của nhà hàng mời, sếp ạ. Trông ông thế kia thì ông cần uống đấy.”

Ở một bàn trong góc, hai chủ trại chăn nuôi xài rượu uýtky đang chơi cờ vua. Một người đứng lên đi đến cái quầy Dewey ngồi. Ông ta nói, “Những gì chúng tôi nghe thấy có đúng không?”

“Còn tùy.”

“Vê cái gã ông bắt ấy? Lén vào nhà Clutter ấy? Hắn ta là kẻ chịu trách nhiệm duy nhất. Chúng tôi nghe nói thế.”

“Ông già ơi, tôi nghĩ là ông đã nghe lầm. Vâng, thưa ông, tôi nghĩ như thế đấy.”

Tuy trước đây Jonathan Daniel Adrian, từng bị giam ở nhà tù của hạt vì tội mang vũ khí không đăng ký, đã có một thời kỳ bị giữ biệt lập với tư cách bệnh nhân tâm thần ở bệnh viện Topeka của bang, nhưng dữ kiện mà các điều tra viên tập hợp được đã cho thấy trong vụ Clutter thì ông ta chỉ mắc mỗi cái lỗi là tò mò đen đủi mà thôi.

“Chà, nếu không phải hắn ta thì tại cái quái gì ông không thể tìm ra đúng cái đứa ấy? Tôi có cả một nhà toàn đàn bà sợ không dám vào buồng tắm một mình nữa đây này.”

Dewey đã quen với kiểu xúc phạm này; đó là một phần cũ xì trong cuộc sống của ông. Ông uống hết tách cà phê thứ hai, thở dài, mỉm cười.

“Mẹ kiếp, tôi không tán vui đâu. Tôi nói thật đấy. Tại sao ông không bắt ai đó đi? Ông ăn lương để làm cái đó cơ mà.”

“Thôi cái kiểu hèn hạ của ông đi,” bà Hartman nói. “Chúng ta cùng hội cùng thuyền cả. Alvin đang làm hết sức rồi.

Dewey nháy bà. “Thưa bà, bà bảo ông ấy cho. Và rất cảm ơn tách cà phê của bà.”

Người chủ trại chăn nuôi chờ cho con mồi của mình ra đến cổng mới bắn theo một loạt đạn giã từ: “Nếu ông lại ứng cử làm cảnh sát trưởng nữa thì xin cứ quên lá phiếu của tôi đi. Vì ông không có được nó đâu.”

“Thôi cái kiểu hèn hạ của ông đi được rồi đấy,” bà Hartman nói.

Trại Lũng Sông cách quán cà phê Hartman một dặm. Dewey quyết định đi bộ tới đó. Ông thích đi tắt qua cánh đồng lúa mì. Thường thường, ông vẫn một tuần hai lần đi dài dài trên miếng đất của ông, một mảnh đồng cỏ ông rất yêu và luôn hy vọng xây một ngôi nhà, trồng cây trồng cối, để cuối cùng thì sẽ vui đùa với cháu chắt mình ở đó. Đó là giấc mơ, song là giấc mơ mà vợ ông, giờ đây đã cảnh báo rằng bà chẳng còn mơ cùng ông nữa; bà bảo là sẽ chẳng bao giờ tính đến chuyện “ra ở tít ngoài đồng quê ấy” sống trơ một mình. Dewey biết ngay rằng dù cho ngày mai mình có bẫy được những kẻ giết người thì Marie cũng chẳng đổi ý – bởi đã từng có lúc số phận ghê rợn rơi vào những người bạn sống trong một ngôi nhà lẻ loi giữa đồng như thế kia rồi.

Dĩ nhiên, gia đình Clutter không phải là những người đầu tiên bị giết ở hạt Finney, hay ngay cả ở Holcomb. Những thành viên lâu đời của cái cộng đồng nhỏ bé này có thể nhớ lại “một chuyện man rợ” của hơn bốn chục năm trước – vụ Thảm sát Hefner. Bà Sadie Truitt, một người bảy chục tuổi đầu giữ chân thư tín viên của làng, mẹ của bà chánh bưu điện Clare, là chuyên gia về cái vụ có tính truyền thuyết này: “Tháng Tám, đúng, hồi năm 1920. Nóng sao mà nóng. Một tay tên là Tunif làm công ở trại chăn nuôi Finnup. Hắn, Walter Tunif, có một cái xe, thế nào hóa ra lại là của ăn cắp. Thế nào hóa ra hắn lại là một thằng lính ĐÀO NGŨ ở Fort Bliss, tít ngoài Texas kia. Hắn là một thằng đểu, quả nhiên là vậy, nhiều người đã nghi hắn. Thế là một tối, cảnh sát trưởng – ngày ấy là Orlie Hefner, một ca sĩ cừ như thế, các ông bà có biết ông ta ở trong dàn hợp xướng Heavenly không? Thế là một tối ông ấy mới đến trại Finnup để hỏi Tunif vài ba câu thẳng thừng. Ngày mồng 3 tháng Tám. Nóng sao mà nóng. Kết quả là Walter Tunif bắn xuyên tim ông cảnh sát trưởng. Ông Orlie tội nghiệp chết trước khi ngã xuống đất. Con quỷ làm cái việc đó liền tháo luôn một con ngựa của nhà Finnup chạy về phía Đông dọc theo sông. Tin lan đi, người ở hàng dặm quanh vùng liền lập ngay một đội dân vệ. Vào khoảng sáng hôm sau, họ bắt gặp được thằng kia; thằng Walter Tunif già. Nó không kịp có cả cơ may để chào các vị khỏe không. Vì đám dân vệ trai trẻ gần như đã điên hết. Họ cứ thế mà nhả đạn.”

Cuộc tiếp xúc đầu tiên của Dewey với trò quái ở hạt Finney xảy ra vào năm 1947. Câu chuyện được ghi trong hồ sơ của ông như sau: “John Carlyle Polk, người da đỏ Creek 32 tuổi, sống ở Muskogee, bang Oklahoma, đã giết Mary Kay Finley, phụ nữ da trắng, 40 tuổi, làm nghề hầu bàn sống ở Garden City. Polk đâm bà bằng cổ chai bia đập vỡ trong một gian phòng ở khách sạn Copeland, Garden City, bang Kansas, 9-5-47.” Một sự miêu tả ngắn gọn về một vụ án mở rồi đóng lại ngay. Trong ba vụ giết người khác mà Dewey điều tra từ ngày đó, hai vụ cũng đều dễ tìm ra như vậy (một đôi thợ hỏa xa ăn cắp và giết một chủ trại đã già, 1-11-52; một người chồng say rượu đánh và đá vợ đến chết, 17-6-56), nhưng vụ thứ ba, như có lần trong một câu chuyện Dewey kể lại, thì không phải là không có nhiều nét đặc sắc: “Tất cả bắt đầu từ Stevens Park. Nơi có một sân khấu biểu diễn âm nhạc, dưới sân khấu là phòng vệ sinh của đàn ông. Ừ, người đàn ông tên là Mooney ấy đang dạo quanh công viên. Ông ta ở đâu đó trên Bắc Carolina, chỉ là một người lạ mặt qua đường tạt vào thị trấn thế thôi. Đại khái ông ta đi vào nhà vệ sinh và một ai đó đi theo – một thằng thanh niên gần đó, Wilmer Lee Stebbins, hai mươi tuổi. Sau đó Wilmer Lee cứ khai là ông Mooney đã có một lời gợi ý trái tự nhiên với hắn. Và vì thế hắn đã ăn cắp tiền của ông Mooney, đánh ông ngã ra, đập đầu ông vào nền xi măng và rồi, còn sao nữa, khi đã đập đến như thế mà vẫn không kết liễu được mạng ông, hắn bèn ấn đầu ông vào chậu rửa mặt và giữ nước ngập cho đến khi ông chết ngạt. Có thể là thế. Nhưng không gì giải thích được phần sau của cách thức Wilmer Lee đã làm. Trước tiên, hắn chôn cái xác chết cách Garden City hai dặm về phía Đông Bắc. Hôm sau hắn đào lên rồi đem xuôi xuống phía ấy mười bốn dặm. À hà, nó cứ làm mãi như thế, chôn xuống lại đào lên đem đi chôn chỗ khác, cứ thế chôn đi chôn lại. Wilmer Lee hệt như một con chó tha cục xương của nó – hắn không để ông Mooney chết yên thân. Cuối cùng, hắn đào thêm một cái mộ nữa, thế là quá nhiều; có người đã trông thấy.” Xảy ra từ trước vụ bí mật nhà Clutter, bốn vụ trên đây là tổng số kinh nghiệm của Dewey về án mạng, và đem so chúng với cái vụ Dewey đang đối đầu bây giờ thì chúng là những đợt gió đi trước một cơn giông tố.

Dewey tra chìa khóa vào cửa chính của nhà Clutter. Trong nhà ấm, vì lò sưởi chưa vặn tắt và những gian phòng sàn đánh xi bóng nhoáng, thơm mùi chanh của xi, nom hình như chỉ là tạm thời không có người ở; tựa hồ hôm nay Chủ nhật và có thể bất chợt lúc nào đó gia đình xong lễ ở nhà thờ lại về thôi. Hai người kế thừa, bà English và bà Jarchow, đã đem đi một xe áo quần và đồ đạc, nhưng vẫn không làm bớt đi cái không khí vẫn có người ở của ngôi nhà. Trong phòng khách, một bản nhạc, “Đến qua vùng Rye”, để dựng mở trên nắp đàn piano. Trong gian sảnh, một chiếc mũ cao bồi màu xám ố mồ hôi – mũ của Herb – treo trên một cái mắc. Trên gác trong phòng Kenyon, trên cái giá đầu giường, tròng kính của cậu trai đã chết phản chiếu ánh sáng lóe lên.

Nhà thám tử đi từ phòng này sang phòng khác. Ông đã thăm thú khắp ngôi nhà nhiều lần; quả thực ông đến đây hầu như hằng ngày, và, theo nghĩa nào đó, có thể nói là ông đã thấy những dịp viếng thăm này có phần thú vị, vì không giống như nhà ông, hay văn phòng với cái ồn ào nhốn nháo của nó, chỗ này êm ả. Điện thoại, dây còn đứt kia, im lặng. Bầu tĩnh mịch rộng lớn của đồng cỏ xung quanh vây lấy ông. Ông có thể ngồi lên ghế xích đu của Herb ở trong phòng khách, vừa đung đưa rập rình vừa nghĩ. Một ít kết luận của ông không sao mà rũ bỏ đi được: ông tin rằng cái chết của Herb Clutter là mục tiêu chính của bọn sát nhân, động cơ là lòng căm thù bệnh hoạn có tính tâm thần hay có thể là một sự kết hợp giữa căm thù và ăn cướp, và ông cho rằng việc giết mấy người đã là một vụ làm ăn nhàn hạ của bọn sát nhân, với có lẽ khoảng hai đến bốn giờ trôi qua giữa mở đầu, vào nhà, kết thúc và đi ra. (Người khám nghiệm tử thi, bác sĩ Robert Fenton, đã báo cáo một chỗ khác nhau đáng chú ý về thân nhiệt của các nạn nhân, và trên cơ sở đó đã lập luận rằng trật tự giết là như sau: bà Clutter, Nancy, Kenyon, rồi ông Clutter). Dựa vào những điều tin tưởng này, ông quả quyết là gia đình phải biết rõ lắm những kẻ đã hủy diệt họ.

Trong lần thăm này, Dewey đứng nghỉ một lúc ở bên một cửa sổ trên gác, sự chú ý của ông bị hút vào một vật ông nhìn thấy gần đó – một con bù nhìn ở giữa những cuống rạ lúa mì. Con bù nhìn đội cái mũ đi săn của đàn ông và cái váy băng vải calico in hoa đã bạc vì sương gió. (Chắc là một cái váy cũ của bà Bonnie Clutter?) Gió cuốn chiếc váy lên làm cho con bù nhìn lúc lắc, khiến nó trông có vẻ một người đang múa nhảy cô đơn giữa cánh đồng lạnh lẽo tháng Chạp. Và không biết sao, Dewey nhớ đến giấc mơ của Marie. Một sáng gần đây bà cho ông món điểm tâm lạ lùng với trứng tráng đường và cà phê pha muối, rồi đổ lỗi cho “một giấc mơ dớ dẩn” – một giấc mơ mà sáng trời rồi bà vẫn chưa thể xua tan được. “Nó y như thật ấy, anh Alvin,” bà nói. “Thật như cái bếp này. Em đứng ở đây. Ở trong bếp đây. Em đang làm bữa tối thì thình lình Bonnie đi qua cửa vào. Bà ấy mặc một cái áo ba lỗ bằng lông cừu angora màu lam, trông bà ấy thật dịu dàng và đẹp. Em nói, ‘Ô, kìa Bonnie… Bonnie thân yêu… Từ khi xảy ra cái chuyện kinh khủng kia đến giờ tôi chưa được gặp bà.’ Nhưng bà ấy không đáp lại, chỉ nhìn em bằng cái kiểu e dè của bà ấy thôi, và em chẳng biết nên làm thế nào nữa. Trong hoàn cảnh đó. Cho nên em nói, ‘Cưng à, lại xem tôi làm bữa tối cho Alvin sao nhé. Một bình xúp mướp tây. Nấu với tôm và cua biển tươi, sắp được rồi. Nào lại đây cưng, nếm thử xem.’ Nhưng bà ấy không, bà ấy đứng ở cửa nhìn em. Rồi – em không biết nói với anh thế nào cho đúng được nữa – bà ấy nhắm mắt lại, bắt đầu khe khẽ lắc đầu, rất chậm, xoắn hai tay vào nhau, rất chậm, rồi thì thầm hay khóc thút thít, cũng không rõ nữa. Em không hiểu bà ấy nói gì. Nhưng nó làm cho em xé lòng, em chưa cảm thấy buồn cho ai như thế bao giờ nên em liền ôm lấy bà ấy. Em nói, ‘Xin nào, Bonnie! Ô kìa, đừng, bạn thân yêu, đừng mà! Nếu như có ai đó được sẵn sàng đi đến với Chúa thì đó chính là bà, Bonnie.’ Nhưng em không an ủi được bà ấy. Bà ấy lắc đầu, vò siết hai tay lại và lúc đó em mới nghe thấy cái bà ấy nói. Bà ấy nói, ‘Bị giết. Bị giết. Không. Không. Không gì ghê gớm hơn được đâu. Không có gì ghê gớm hơn thế đâu. Không cái gì ghê gớm hơn thế đâu’.”

Giữa trưa và sâu trong sa mạc Mojave. Perry ngồi trên chiếc va li rơm mà thổi kèn mồm. Dick đứng bên xa lộ mặt đường đen nhánh, đường 66, mắt đăm đăm nhìn vào khoảng trống sạch không tì vết tựa hồ sức nhìn thành khẩn của hắn sẽ có thể bắt những người lái xe hơi phải hiện ra thành xương thành thịt vậy. Một ít đã hiện ra song chẳng ai dừng lại với những kẻ xin đi nhờ. Một lái xe tải chạy hướng Needles, California, đã cho đi nhưng Dick từ chối. Đó không phải là loại “quả ngon xơi” mà hắn và Dick muốn. Chúng đang chờ một người đi đường cô đơn nào đó ngồi trong một chiếc xe tươm tươm và có tiền ở trong ví – một người lạ mặt để trấn, bóp cổ rồi quẳng vào trong sa mạc.

Trong sa mạc, tiếng động thường đến trước hình ảnh. Dick nghe thấy tiếng rung ầm ầm của một chiếc xe đang lại gần nhưng chưa nhìn thấy. Perry cũng nghe thấy; hắn cho kèn vào túi, xách chiếc va li lên (cái này, hành lý duy nhất của chúng, căng phồng lên bởi sức nặng những kỷ niệm của Perry, cộng thêm ba cái sơ mi, năm đôi tất trắng, một hộp aspirin, một chai rượu tequila, kéo, một dao cạo râu an toàn và một bộ đồ lề sửa cắt móng tay; tất cả các của cải khác của hắn đã hoặc bị cầm cố hoặc để lại cho người chủ quán bar Mexico hoặc cho tàu thủy chở đến Las Vegas), rồi ra với Dick ở rìa đường. Chúng quan sát. Bây giờ chiếc xe đã hiện ra, to dần thành một xe du lịch Dodge màu lam với một người lái, một người gầy khẳng khiu, hói đầu. Tuyệt. Dick giơ tay lên vẫy. Chiếc Dodge chậm lại, và Dick đãi người lái xe một nụ cười hết cỡ. Chiếc xe gần như đỗ lại, nhưng không hẳn, người lái thò đầu ra ngoài cửa, nhìn chúng từ đầu đến chân. Cái ấn tượng chúng tạo ra cũng đủ làm người ta hết vía, thật sự (sau năm chục giờ ngồi xe buýt từ Mexico City tới Barstow, California, rồi một nửa ngày trời lăn lóc qua sa mạc Mojave, cả hai gã đi boóng xe đều râu ria, bẩn thỉu và trơ trụi). Chiếc xe lồng lên và phóng vội. Dick khum hai tay lại quanh mồm gọi to, “Mày là thằng chó đẻ, may cho mày đấy!” Rồi hắn phá lên cười, hất chiếc va li lên vai. Chẳng cái gì làm hắn tức tối được thực sự bởi vì, như sau này hắn kể lại, hắn “về lại với cái hay ho của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ thật là vui quá.” Dẫu sao, một người khác trong một chiếc xe khác cũng sẽ đến thôi.

Perry lấy kèn trong túi ra (cái mới có hôm qua, lấy cắp của một tiệm tạp hóa ở Barstow) thổi mấy nốt nhạc mở đầu của một cái đã trở thành “nhạc hành khúc” của chúng; một trong những bài hát Perry thích nhất và hắn đã dạy cho Dick hát được cả năm đoạn. Đều bước, vai sát vai, chúng đi dọc xa lộ, hát, “Mắt tôi đã nhìn thấy ánh hào quang của Chúa giáng lâm; Chúa đang giẫm bước lên cái vùng tàng trữ những chùm nho phẫn nộ.” Trong bầu im lặng của sa mạc, giọng trẻ khỏe của chúng ngân vang lên: “Quang vinh! Quang vinh! Lạy Chúa! Quang vinh! Quang vinh! Lạy Chúa!”

Chú thích

* * *

[5] Người Digan.

[6] Tên một cầu thủ bóng chày nổi tiếng của Mỹ.

[7] Nữ diễn viên Mỹ nổi tiếng những năm 1940.

[8] Chơi chữ: mô tô (motorcycle) và giết người (murdercycle) phát âm gần giống nhau.

[9] Nhà văn Mỹ nổi tiếng chuyên viết truyện hình sự.

Bình luận