Cái Xó
Vẻ trang nghiêm nhà nước và nét gia đình xởi lởi cùng tồn tại trên tầng năm của Tòa án hạt Finney. Trại giam của hạt ở đây cho ra chất lượng hàng đầu, còn Dinh Cảnh sát trưởng, một tòa nhà trông thích mắt nằm tách biệt với nhà tù bởi những cánh cổng sắt và một hành lang ngắn thì cho chất lượng thứ nhì.
Tháng Giêng năm 1960, người cư ngụ trong Dinh Cảnh sát trưởng trên thực tế lại không phải cảnh sát trưởng, Earl Robinson, mà là phó cảnh sát trưởng cùng vợ, Wendle và Josephine (“Josie”) Meier. Vợ chồng Meier lấy nhau đã hơn hai chục năm, rất giống nhau: vóc người cao lớn, dư thừa cân nặng và sức lực, bàn tay rộng bè, khuôn mặt hiền lành, vuông vức và bình tĩnh – điều sau này đúng với bà Meier hơn, một phụ nữ trực tính và thực tế tuy vậy hình như lại được một niềm thanh thoát bí ẩn nào đó thắp sáng ở bên trong. Với tư cách bạn đời của phó cảnh sát trưởng giờ giấc của bà rất là dài; giữa khoảng từ năm giờ sáng, khi bà bắt đầu một ngày bằng việc đọc một chương Kinh Thánh cho đến mười giờ tối, giờ đi ngủ, bà nấu ăn, khâu vá cho tù, mạng, giặt giũ quần áo cho tù, chăm sóc ông chồng hết mức, và dọn dẹp căn hộ năm phòng đầy những cái đệm tú ụ xen lẫn với những cái ghế xếp cùng những tấm rèm cửa sổ bằng đăng ten màu kem. Nhà Meier có một con gái, con một, lấy chồng và sống ở Kansas City cho nên hai vợ chồng sống một mình hoặc, như bà Meier sửa lại một cách chính xác, “Một mình, trừ phi có ai vào ngồi ở trong xà lim phụ nữ.”
Trại giam có sáu buồng: buồng thứ sáu dành cho nữ tù, thực tế là một đơn vị riêng biệt nằm ở trong Dinh Cảnh sát trưởng – trên thực tế là nó áp sát với bếp nhà Meier. “Nhưng,” bà Josie Meir nói “không hề gì với tôi. Tôi lại thích có người ở bên. Có người để mà trò chuyện trong khi làm bếp. Hầu hết các bà các cô ở đấy, mình rồi cũng đến lúc thấy tiếc cho họ. Dĩ nhiên Hickock và Smith thì khác. Như tôi biết đến nay thì Perry Smith là người đàn ông đầu tiên đến ở trong xà lim nữ tù. Lý do là họ muốn giữ hắn và Hickock cách ly nhau cho tới khi xét xử. Buổi chiều họ đưa hắn tới, tôi làm sáu cái bánh táo, nướng mấy ổ bánh mì và suốt thời gian đó cứ theo dõi mọi sự diễn ra trên quảng trường dưới kia. Cửa sổ bếp tôi mở nhìn xuống quảng trường, không đâu ông có thể nhìn được rõ hơn đấy. Tôi không đánh giá được lượng đám đông nhưng tôi đồ phải đến mấy trăm con người chờ xem những đứa giết cả nhà Clutter. Bản thân tôi chưa gặp người nào của nhà này, nhưng nghe chuyện về họ thì họ chắc phải là người tử tế lắm. Việc xảy ra với họ khó lòng mà tha thứ được, tôi biết nhà tôi lo không rõ đám đông có thể làm gì khi trông thấy mặt mấy tên kia. Ông ấy sợ có ai đó lại có sức len vào chỗ chúng. Cho nên tôi hết cả hồn vía khi thấy xe hơi đến, thấy các phóng viên, cả đám nhà báo vừa chạy vừa xô đẩy, nhưng lúc đó đã tối, đã quá sáu giờ, rét căm căm – quá nửa đám đông đã chịu thua mà bỏ về nhà. Những ai còn lại thì chẳng la ó gì đâu. Chỉ xem thôi.
Sau đó, khi họ đưa đám kia lên gác rồi, người đầu tiên tôi trông thấy là Hickock. Hắn mặc quần mỏng và chỉ có một cái sơ mi vải cũ kỹ. Thật ngạc nhiên là sao hắn lại không bị viêm phổi, trời thì lạnh thế kia. Nhưng nom hắn ốm đau ra mặt. Nhợt như con ma. Chà, hắn đã phải trải qua một điều kinh khủng còn gì – bị cả một đám người lạ mặt nhìn ngó, phải đi lẫn vào trong người ta, mà người ta lại biết mình là ai, mình đã làm gì. Rồi họ đưa Smith lên. Tôi đã chuẩn bị bữa tối sẵn sàng cho họ ăn trong xà lim rồi, xúp nóng, cà phê và bánh kẹp thịt, bánh táo. Bình thường chúng tôi cho ăn đúng có hai bữa một ngày. Điểm tâm lúc bảy rưỡi, bốn rưỡi chiều thì bữa chính. Nhưng tôi không muốn những tay này đi ngủ bụng lép kẹp; không có chuyện đó thì hình như họ cũng đã kiệt quệ lắm rồi. Nhưng khi tôi đem bữa tối lên cho Smith, hắn lại bảo không đói. Hắn đang nhìn qua cửa sổ xà lim nữ. Đứng quay lưng vào tôi. Cửa sổ ấy nhìn ra cũng quang cảnh như nhìn từ cửa sổ bếp nhà tôi: cây cối, quảng trường và các mái nhà. Tôi bảo hắn, ‘Hãy ăn lấy một ít xúp, nấu với rau mà, không phải đồ hộp đâu. Tôi nấu đấy. Cả bánh táo cũng vậy.’ Khoảng giờ sau, tôi trở lại khay thì hắn chẳng đụng đến một tí tẹo nào. Vẫn đứng bên cửa sổ. Từ ban nãy tới giờ. Trời tuyết và tôi nhớ là đã nói tuyết đầu mùa đấy, mãi mới đây thôi ta hãy còn có một mùa thu thật đẹp thật dài. Và giờ thì tuyết đã đến. Rồi tôi hỏi có món nào hắn thích ăn không; nếu hắn thích thì hôm sau tôi sẽ làm cho hắn. Hắn quay lại nhìn tôi. Ngờ vực, tuồng như tôi đang giễu hắn không bằng. Rồi hắn nói gì đến một bộ phim – hắn có cái lối nói nhẹ nhàng, gần như thì thào vậy. Muốn biết tôi đã xem bộ phim chưa. Tôi quên tên nhưng đằng nào thì tôi cũng chưa xem: không thích xi nê lắm. Hắn nói bộ phim ấy kể chuyện thời Kinh Thánh, trong đó có cảnh một người đàn ông bị ném từ ban công xuống, quẳng cho một đám đàn ông đàn bà xé anh ta ra từng mảnh. Hắn nói khi thấy đám đông trên quảng trường hắn đã nhớ lại chuyện đó. Người đàn ông bị xé ra từng mảnh. Và cái ý nghĩ là họ có thể làm như thế với hắn. Nói hắn sợ đến nỗi bụng bây giờ vẫn còn đau, cho nên hắn không ăn được. Dĩ nhiên hắn sai, tôi đã bảo hắn như vậy – không ai định hành hạ hắn đâu, bất kể hắn đã làm cái gì; người ở quanh đây không giống như ở trong phim.
Chúng tôi nói chuyện qua loa, hắn rất ngượng nghịu, nhưng một lúc sau hắn nói, ‘Có một thứ tôi thật sự thích là cơm Tây Ban Nha.’ Thế là tôi hứa làm cho hắn một ít và hắn cười, kiểu như là cười, và tôi dám chắc rằng hắn không phải là người xấu xa nhất mà tôi từng gặp. Đêm đó, khi đi ngủ, tôi đã nói như thế với nhà tôi. Nhưng Wendle cười hô hố. Nhà tôi là một trong những người đầu tiên có mặt ở hiện trường sau khi phát hiện ra vụ án mạng. Ông ấy nói giá mà tôi có ở đấy lúc họ tìm thấy mấy cái xác nhà Clutter. Chừng đó có thể tôi tự đánh giá lấy là ông Smith nhẹ nhàng lịch thiệp như thế nào. Hắn ta và bạn hắn, Hickock ấy. Nhà tôi nói bọn hắn có thể moi cả tim của bà ra mà không hề chớp mắt tí nào đâu. Cái ấy thì chẳng phủ nhận được rồi – làm sao phủ nhận được, bốn người bị chết cơ mà. Và tôi nằm đó trằn trọc, nghĩ liệu có đứa nào trong bọn hắn day dứt về việc đó không nhỉ – khi họ nghĩ đến bốn nấm mồ ấy.”
Một tháng đã trôi qua, và một tháng nữa, gần như ngày nào cũng có tuyết rơi vào lúc nào đó. Tuyết phủ trắng xóa cánh đồng lúa mì hung hung đỏ, chất đống trên đường phố và làm cho chúng im lìm.
Những cành cao nhất của một cây du nặng trĩu tuyết quệt vào cửa sổ xà lim nữ. Sóc sống ở trên cây du này, và sau nhiều tuần mua chuộc chúng bằng những thứ thừa của bữa điểm tâm, Perry đã dụ được một con ra khỏi cành cây mà đi lên bậu cửa sổ, vào lọt qua chấn song. Đó là một con sóc đực có bộ lông màu nâu pha chút tim tím. Perry gọi nó là Đỏ, và Đỏ mau chóng an cư, rõ ràng bằng lòng chia sẻ cảnh bị giam cầm với người bạn. Perry dạy nó nhiều trò: chơi với một quả bóng bằng giấy vo tròn, đứng trên hai chân sau xin ăn, vắt vẻo trên vai Perry. Tất cả những cái đó giúp hắn qua ngày, nhưng vẫn còn nhiều giờ dài dằng dặc người tù cần phải cho tiêu đi. Hắn không được phép đọc báo còn những tạp chí bà Meier cho mượn, những tờ cũ rích, Làm nội trợ tốt và McCall’s thì hắn ngán. Nhưng hắn tìm ra việc để làm: giũa móng tay bằng một miếng giấy ráp, đánh móng tay thành màu hồng bóng có ánh bạc; chải đi chải lại bộ tóc rảy nước hoa thơm lừng; đánh răng ba bốn lần một ngày; cạo râu và tắm vòi sen gần như thường xuyên. Hắn giữ cho căn xà lim – gồm một góc vệ sinh, một chỗ tắm vòi sen, một cái giường nho nhỏ, một cái ghế, một cái bàn cũng sạch sẽ gọn gàng như người hắn. Hắn tự hào về một câu bà Meier khen hắn. “Xem này!” bà nói, tay chỉ vào giường ngủ của hắn. “Xem cái chăn này! Anh có thể đánh đáo được đấy.” Nhưng phần lớn những lúc thức hắn toàn ngồi ở bàn; hắn ăn ở đó, chính ở đó hắn ngồi ký họa bức chân dung con Đỏ, vẽ những bông hoa, mặt Giê-su và mặt, thân những người đàn bà tưởng tượng; và chính ở đó, trên những tờ giấy kẻ ngang rẻ tiền, hắn đã ghi, như ghi nhật ký, những việc xảy ra hằng ngày.
Thứ Năm, mồng 7 tháng Giêng. Dewey ở đây. Mang một tút thuốc lá đến. Cả những bản sao đánh máy lời khai của tôi để cho tôi ký. Tôi từ chối.
“Lời khai,” một tài liệu bảy mươi tám trang mà hắn đã đọc cho nhân viên tốc ký của Tòa án hạt Finney ghi, thuật lại những lời tự thú của hắn với Alwin Dewey và Clarence Duntz. Nói về việc gặp Perry Smith vào cái ngày đặc biệt ấy, Dewey nhớ lại rằng ông rất ngạc nhiên thấy Perry từ chối ký vào lời khai. “Cái đó không quan trọng: tôi vẫn có thể chứng thực với tòa về lời thú tội bằng miệng của hắn với Duntz và tôi. Dĩ nhiên Hickock đã cho chúng tôi một bản thú tội có ký tên khi chúng tôi còn ở Las Vegas – bản khai trong đó lên án Smith đã giết cả bốn người. Nhưng tôi thắc mắc. Tôi đã hỏi Perry tại sao hắn lại đổi ý. Hắn nói, ‘Mọi điều trong lời khai của tôi đều chính xác, trừ hai chi tiết. Nếu ông cho tôi chữa lại hai chỗ đó thì tôi sẽ ký.’ Được, tôi có thể đoán được hai chỗ mà hắn nói. Vì chỗ khác nhau nghiêm trọng giữa lời khai của hắn và của Hickock là hắn phủ nhận chuyện một mình hắn hạ sát cả nhà Clutter. Cho tới nay hắn vẫn thề rằng Hickock đã giết Nancy và mẹ cô.
Và tôi đoán đúng – hắn muốn sửa chính là sửa chỗ đó: thừa nhận rằng Hickock đã nói sự thật và hắn, Perry Smith, chính là kẻ đã bắn và giết cả nhà Clutter. Hắn bảo hắn nói dối chuyện đó là vì, theo lời hắn, ‘Tôi muốn trả đũa Dick vì nó là một đứa nhát gan đến thế. Nôn tóe hết ruột gan lên cái sàn nhà khốn khiếp.’ Còn lý do để bây giờ hắn quyết định chữa lại cho đúng lời khai không phải là vì hắn thình lình cảm thấy tử tế với Dick hơn. Hắn làm thế là vì cái tình của hắn đối với bố mẹ Dick – hắn nói hắn buồn cho mẹ Dick. Hắn bảo ‘Bà ấy thực sự là người hiền hậu dịu dàng. Bà ấy sẽ dễ chịu hơn nếu biết Dick không hề bóp cò súng. Không có hắn thì toàn bộ vụ này đã không xảy ra, theo nghĩa nào đó thì phần lớn là lỗi của hắn nhưng sự thật vẫn cứ là chính tôi đã giết họ.’ Nhưng tôi không chắc là mình lại đi tin điều này. Không tin đến độ cho hắn sửa lời khai. Như tôi nói, chúng ta không thể chỉ lệ thuộc vào một lời khai chính thức của Smith để chứng minh cho bất cứ phần nào của vụ án này. Có hay không có lời khai ấy, những gì chúng tôi đã có trong tay cũng đã đủ cho hai đứa nó bị treo cổ mười lần rồi.”
Việc thu hồi cái rađiô và cặp ống nhòm mà hai kẻ giết người đã ăn cắp ở nhà Clutter sau đó đem đi cầm ở Mexico City (ở đó, nhân viên K.B.I là Harold Nye, bay đến chỉ nhằm mục đích này, đã dò ra được chúng tại một hiệu cầm đồ) là hai trong các yếu tố góp phần vào niềm tin của Dewey. Hơn nữa, trong khi đọc lời khai cho người ta tốc ký, Smith đã để lộ ra sự thật về các bằng chứng có hiệu lực khác. “Chúng tôi lên xa lộ và đi về phía Tây,” hắn nói, trong quá trình tả lại những việc Hickock và hắn đã làm sau khi tẩu thoát khỏi nơi diễn ra vụ án. “Lái xe như điên, Dick lái. Tôi nghĩ cả hai đứa lúc đó đều rất bốc. Tôi bốc. Cực bốc. Mà đồng thời cũng rất thư thái. Cười hoài mãi không thôi, cả hai thằng; thình lình mọi chuyện xem ra lại rất vui – tôi chẳng hiểu tại sao, vui là vui thế thôi. Nhưng khẩu súng đang rỏ máu, áo quần tôi vấy máu, có cả máu trên tóc tôi. Cho nên chúng tôi quẹo vào một con đường quê, lái đi chừng trăm dặm cho đến khi ra đến đồng cỏ. Có thể nghe thấy tiếng chồn hoang. Chúng tôi hút thuốc, và Dick pha trò về mấy chuyện đã xảy ra ở chỗ kia. Tôi xuống xe, bơm một ít nước ở trong phuy nước ra để rửa sạch máu trên nòng súng. Rồi tôi đào một cái hố ở dưới đất bằng con dao săn của Dick, con dao tôi đã dùng với ông Clutter, rồi chôn mấy vỏ đạn rỗng vào trong đó cùng với chỗ băng dính và dây ni lông còn lại. Sau đó chúng tôi lái đi đến quốc lộ 83, đi về phía Đông tới Kansas City và Olathe. Khoảng rạng sáng Dick dừng lại ở một nơi dành cho người ta đi picnic: cái mà họ gọi là chỗ nghỉ ngơi – ở đó có chỗ cho mình đốt lửa. Chúng tôi gầy một đống lửa rồi đốt các thứ. Mấy đôi găng tay đã đi và áo sơ mi của tôi. Dick nói hắn ước gì có một con bò để quay ăn, hắn nói chưa bao giờ đói thế này. Chúng tôi đến Olathe thì trời gần trưa. Dick thả tôi xuống khách sạn rồi về nhà ăn bữa tối với gia đình. Vâng, hắn mang con dao theo. Cả khẩu súng nữa.”
Các nhân viên K.B.I. được tung đến nhà Hickock đã tìm thấy con dao trong một hộp đựng đồ nghề câu cá còn khẩu súng săn vẫn dựa thoải mái lên tường bếp. (Bố Hickock, ông không chịu tin rằng “thằng bé” nhà ông lại dính vào một “vụ giết người khủng khiếp” như thế, nhấn mạnh rằng khẩu súng chưa từng ra khỏi nhà từ tuần đầu tháng Mười một, do đó không thể là vũ khí gây án), về các vỏ đạn rỗng, dây thừng và băng dán thì đều đã lấy lại được nhờ sự giúp đỡ của Virgil Pietz, một nhân viên của sở Giao thông Công chánh hạt, tại khu vực mà Perry Smith đã chỉ ra anh này dùng một máy san đường chuyên dụng để rà cạo mặt đất từng ly một cho tới khi moi ra được các món đã bị chôn vùi kia. Vậy là tấm lưới đã hoàn toàn khép kín; nay K.B.I. đã thu thập được bằng chứng về một vụ án rõ như ban ngày, vì các xét nghiệm đã xác định rằng vỏ đạn đều được bắn ra từ khẩu súng săn của Hickock, chỗ dây thừng và băng dính là cùng một gốc với vật liệu đã dùng để trói và làm im miệng các nạn nhân.
Thứ Hai, 11 tháng Giêng. Có một luật sư. Ông Fleming. Ông già thắt cà vạt đỏ.
Được các bị cáo cho hay họ không có tiền thuê luật sư theo luật định cho nên tòa án, do Thẩm phán Roland H. Tate làm đại diện, đã chỉ định hai luật sư sở tại, ông Arthur Fleming và ông Harrison Smith bào chữa cho hai gã. Fleming bảy mươi mốt tuổi, nguyên thị trưởng Garden City, một người thấp lùn đeo những cái cà vạt khá lạ mắt làm cho bề ngoài vô vị của ông trở nên sinh động hẳn lên, thì cưỡng lại việc chỉ định này. “Tôi không muốn cãi cho tụi đó,” ông nói với thẩm phán. “Nhưng nếu tòa thấy tôi hợp với việc đó thì dĩ nhiên tôi không còn lựa chọn nào.” Luật sư đại diện cho Hickock, Harrison Smith, bốn mươi lăm, cao trên thước tám, chơi golf, nhận nhiệm vụ với thái độ cam chịu: “Đằng nào cũng phải có người làm việc đó, tôi sẽ cố hết sức mình. Nhưng tôi e việc này sẽ khiến cho dân quanh đây chẳng ưa gì tôi đâu.”
Thứ Sáu, 15 tháng Giêng. Bà Meier đang chơi piano trong bếp nhà bà và tôi nghe nói chưởng lý của hạt sẽ cố vận động án tử hình. “Người giàu đi với người giàu. Thằng nghèo thì cứ thằng nghèo mà chơi.”
Khi trả lời báo giới, chưởng lý của hạt, Duane West, một thanh niên hai tám tuổi nhưng nom như bốn mấy hay thậm chí ngoài năm chục, đẫy đà và tham vọng, đã nói, “Nếu đưa vụ án ra trước bồi thẩm đoàn mà tìm ra được chúng là thủ phạm, tôi sẽ yêu cầu tuyên án tử hình. Nếu bên bị khước từ thẳng bồi thẩm đoàn mà tự thú nhận mình có tội trước chánh án, tôi sẽ yêu cầu chánh án ban phán quyết tử hình. Đây là một vấn đề mà tôi biết mình có nghĩa vụ quyết định, và tôi đã không hề khinh suất khi quyết định. Tôi cảm thấy, xét tính chất tàn bạo của vụ án và sự độc ác hoàn toàn không có chút lòng nhân, cho các bị cáo này hưởng án tử hình chính là cách duy nhất để bảo vệ dân chúng một cách trọn vẹn, tuyệt đối. Điều này đặc biệt đúng vì ở Kansas những kẻ nào không có khả năng giữ lời hứa không tái phạm thì không có tư cách hưởng cái món tù chung thân. Những người bị kết án tù chung thân trên thực tế thảy đều chịu án bình quân chưa tới mười lăm năm.”
Thứ Tư, 20 tháng Giêng. Được yêu cầu giám định qua máy dò nói dối liên quan đến cái vụ Walker.
Một vụ án như vụ Clutter, tội ác ở tầm cỡ to lớn như thế, đã khơi dậy sự quan tâm của giới pháp luật ở khắp mọi nơi, đặc biệt là các điều tra viên đã từng gánh vác các vụ án tương tự mà chưa được phá, bởi vì luôn có khả năng là giải được một bí mật thì cũng sẽ giải luôn được một bí mật khác. Trong số nhiều sĩ quan thắc mắc về các sự kiện ở Garden City có cảnh sát trưởng của hạt Sarasota, Florida, Osprey thuộc hạt này, một cơ ngơi đánh cá không xa Tampa, nơi mà cảnh bốn người ở một trại chăn nuôi hẻo lánh bị tàn sát đã được Smith đọc thấy trên một tờ báo của Miami vào ngày lễ Nôen, sau tấn thảm kịch nhà Clutter hơn một tháng chút ít. Các nạn nhân cũng lại là bốn thành viên của một gia đình: một cặp vợ chồng trẻ, ông bà Clifford Walker cùng hai đứa con, một trai một gái, tất cả đều bị bắn vào đầu bằng súng. Mặc dù vào đêm 19 tháng Mười hai năm ấy hai tên giết nhà Clutter đang qua đêm ở khách sạn Tallahassee, song do không có bất kỳ một đầu mối nào nên cũng dễ hiểu là cảnh sát trưởng Osprey đành phải thẩm vấn hai gã và cho tiến hành kiểm tra bằng máy dò nói dối. Hickock bằng lòng cho kiểm tra và Smith cũng vậy, Smith bảo nhà chức trách ở Kansas, “Lúc đấy tôi đã để ý và bảo Dick, tớ đánh cuộc là cái làm trò này chắc hẳn đã đọc báo về chuyện Kansas. Đúng là đồ ngu.” Kết quả kiểm tra là phủ định hoàn toàn, này làm nhụt chí cảnh sát trưởng Osprey cũng như Al Dewey, người vốn không tin vào những sự trùng hợp đặc biệt. Kẻ giết gia đình Walker cho đến nay vẫn không thể biết là ai.
Chủ nhật, 31 tháng Giêng. Bố Dick đang ở đây thăm nom Dick. Chào khi thấy ông đi qua [cửa xà lim] nhưng ông cứ đi. Có thể ông không nghe thấy tôi. Qua bà [Meier] biết rằng bà [Hickock] không đến vì bà thấy khổ quá. Tuyết rơi giống như con nhà thổ. Đêm qua mơ thấy lên Alaska với bố – tỉnh dậy trong một vũng nước đái lạnh ngắt.
Ông Hickock ở lại ba tiếng với con trai. Sau đó ông băng qua tuyết đi bộ thẳng đến ga Garden City, một ông già mòn mỏi vì làm lụng, gù còng xuống và gầy quắt lại vì bệnh ung thư sẽ giết ông trong vài tháng nữa. Ở ga, trong khi chờ chuyến tàu hồi hương, ông nói với một phóng viên: “Ừ thì tôi đã gặp Dick. Hai bố con nói chuyện nhiều. Và tôi có thể bảo đảm với ông là chuyện không như thiên hạ nói đâu. Hay như là đã đem bày lên mặt báo, chả có gì giống như vậy hết. Mấy đứa này không đến cái nhà đó với ý định làm càn. Con trai tôi thì không. Nó có thể có vài ba mặt xấu nhưng không thể nào tồi tệ đến thế cả. Smitty mới là đứa như thế. Dick bảo là khi Smitty đánh người đó [ông Clutter] và cắt cổ ông ta thì nó còn không biết cơ mà. Dick lúc ấy thậm chí không phải ở cùng một buồng với Smitty. Nó chỉ chạy vào khi nghe thấy tiếng họ vật lộn. Dick đang cầm súng săn và nó tả cho tôi nghe thế này: ‘Smitty giằng súng của con mà bắn bể đầu ông đó.’ Rồi nó bảo, ‘Bố ạ, lẽ ra con phải giằng lấy súng mà bắn chết thằng Smitty đi cơ. Giết nó đi trước khi nó giết mấy người còn lại. Nếu con làm thế thì con đã ở vào thế tốt hơn bây giờ.’ Tôi cũng nghĩ vậy. Cứ như thế này, cứ cái kiểu người ta cảm thấy như thế này thì nó chẳng có cơ may nào. Ho sẽ treo cổ cả hai thôi. Và,” ông già nói thêm, mệt mỏi và tuyệt vọng lóe lên trong mắt, “có đứa con trai bị treo cổ, biết nó sắp bị tới nơi rồi, chẳng có gì tồi tệ hơn có thể xảy ra với một con người.”
Cả bố lẫn chị Perry Smith đều không thư từ hay thăm nom gì hắn. Tex John Smith thì viện cớ đang bận tìm vàng đâu đó ở Alaska! Tuy các nhà chức trách mặc dù rất cố gắng nhưng không làm sao biết được nơi ông ta đang ở. Bà chị nói với các điều tra viên rằng bà sợ đứa em trai, và xin họ chớ cho nó biết địa chỉ hiện tại của bà. (Khi được báo tin này, Smith nhếch mép cười nói, ‘Tôi ước gì bà ấy có mặt ở cái nhà đó ngày hôm ấy. Cảnh tượng ngọt ngào phải biết!’)
Trừ con sóc, trừ ông bà Meier và Fleming, ông luật sư thảng hoặc đến gặp để tư vấn cho hắn, Perry rất cô đơn. Hắn nhớ Dick. Hay nghĩ đến Dick, một hôm hắn viết trong quyển nhật ký tự làm lấy như vậy. Từ khi chúng bị bắt, chúng không được phép giao lưu với nhau, và ngoài tự do ra thì điều hắn khao khát nhất là nói chuyện với Dick, lại ở với Dick. Dick không phải là “tảng đá rắn câng” như từng có dạo hắn nghĩ về bạn hắn: “thực tế”, “nam tính”, “một chàng trai gan lì thực sự”; nay thì Dick đã tự chứng tỏ là “khá yếu đuối và nông cạn”, “một thằng nhát cáy”. Nhưng lúc này, trong tất cả mọi người ở thế gian này, đó là người thân nhất của hắn, vì ít ra chúng cùng thuộc về một kiểu, những anh em cùng nòi nhà Cain; tách khỏi Dick, Perry cảm thấy mình “hoàn toàn cô độc. Giống như ai đó tràn ngập đau buồn. Một ai đó mà chỉ thằng nào ngu lắm nó mới dính vào.”
Nhưng rồi một buổi sáng giữa tháng Hai, Perry nhận được một bức thư. Đóng dấu bưu điện bang Massachusetts. Thư viết:
“Perry thân mến, tôi rất buồn khi nghe nói về tình cảnh rắc rối anh đang lâm phải nên tôi quyết định viết thư để cho anh biết rằng tôi nhớ anh và muốn giúp anh bằng bất cứ cách nào có thể. Phòng khi anh không nhớ tên tôi, Don Cullivan, tôi kèm theo đây một bức ảnh chụp từ hồi chúng ta mới gặp nhau. Khi thoạt nghe tin về anh ở trên báo mới đây, tôi sửng sốt lắm nhưng rồi tôi bắt đầu ngồi nghĩ lại những ngày tôi biết anh. Tuy chúng ta chưa bao giờ là bạn riêng gần gũi, song tôi vẫn nhớ anh rõ hơn nhiều so với phần lớn các bạn tôi đã gặp trong quân đội. Chắc là vào khoảng mùa thu năm 1951 khi anh được đưa về Đại đội Thiết bị nhẹ Công binh số 761 ở Fort Lewis, Washington. Anh thấp (tôi cũng chẳng cao hơn mấy), vạm vỡ, nước da ngăm ngăm với mớ tóc đen dày nặng và một nụ cười gần như suốt ngày ở trên mặt. Do anh đã sống ở Alaska, một số ít bạn bè quen gọi anh là “Etxkimô”. Một trong những điều đầu tiên tôi nhớ lại về anh là ở một buổi kiểm tra của đại đội trong đó tất cả tủ cá nhân ở chân giường đều phải mở cho kiểm tra. Như tôi nhớ thì tất cả các tủ này đều ngăn nắp, kể cả của anh, trừ có chuyện tủ anh thì dán đầy những ảnh con gái hở hang ở mặt trong. Bọn tôi đã yên trí là anh bị khiển trách rồi. Nhưng sĩ quan kiểm tra lại lơ đi mà rảo bước qua và khi tất cả xong xuôi rồi, ông sĩ quan không nhắc tới chuyện đó thì tôi nghĩ tất cả chúng tôi đều cảm thấy anh là một cha lì lợm. Tôi nhớ anh là một tay chơi đánh pun giỏi và tôi có thể hình dung anh hoàn toàn rõ ràng tại bàn đánh pun ở trong phòng sinh hoạt chung của đại đội. Anh là một trong những lái xe tài giỏi nhất trong bọn. Anh có nhớ các chuyến hành quân dã ngoại của đại đội mà chúng ta vẫn hay được giao đi đó không? Trong một chuyến vào mùa đông tôi nhớ là mỗi chúng ta được giao một xe trong suốt cuộc hành quân. Ở đại đội chúng ta, xe quân đội không có lò sưởi nên trong ca bin thường bị rét. Tôi nhớ anh đã khoét dưới sàn xe một cái lỗ để cho hơi nóng của động cơ vào được trong ca bin. Lý do khiến tôi nhớ kỹ như thế là cái ấn tượng mà chuyện đó gây ra cho tôi, bởi vì “làm tổn hại” tài sản của quân đội là một tội khiến anh có thể bị nghiêm trị. Dĩ nhiên tôi chỉ là lính mới tò te trong quân đội nên rất sợ đụng chạm đến các quy định dù chỉ một tí thôi nhưng tôi nhớ là anh ngoạc miệng cười về chuyện đó (nên đã giữ được ấm) trong khi tôi thì lo sợ (thế là bị cóng đơ). Tôi nhớ anh đã mua một chiếc xe máy, và nhớ láng máng là anh có gặp rắc rối gì đấy với nó – bị cảnh sát đuổi? Hỏng? Muốn gì thì đấy cũng là lần đầu tôi thấy ra cái nét bạt đời ở anh. Một vài điều nhớ lại của tôi có thể là sai; đã hơn tám năm về trước rồi mà tôi chỉ biết anh trong thời gian khoảng tám tháng. Nhưng qua những gì nhớ được thì tôi ở với anh rất vui vẻ và tôi khá là mến anh. Anh hình như lúc nào cũng hào hứng và coi mọi cái là thường, anh làm tốt việc binh và tôi không nhớ là anh bị quản chặt nhiều. Dĩ nhiên, anh rõ ràng là rất bạt đời nhưng về cái đó tôi chưa thấy nó quá đáng bao giờ. Thế mà bây giờ anh lại đang gặp rắc rối thật sự. Tôi cố tưởng tượng ra anh bây giờ như thế nào. Anh nghĩ sao về chuyện đó. Lần đầu tiên khi đọc về anh, tôi bàng hoàng. Thật sự bàng hoàng. Tôi bèn đặt tờ báo xuống và quay sang chuyện khác. Nhưng ý nghĩ về anh cứ trở lại. Tôi không nguôi yên mà quên đi được. Tôi trước nay vẫn là, hoặc thường cố được là người sùng đạo (Cơ đốc giáo). Nhưng không phải là tôi luôn luôn tin được thế. Tôi đã quen buông trôi theo cái ý nghĩ mơ hồ về điều duy nhất quan trọng trên đời. Tôi không bao giờ nghĩ tới cái chết hay khả năng về một kiếp sau. Tôi đang sống lù lù đây: xe, đại học, bạn gái v.v… Nhưng em trai tôi nó chết vì bệnh máu trắng khi vừa tròn 17 tuổi. Nó biết mình chết và sau này tôi hay đoán xem nó đã nghĩ gì lúc đó. Bây giờ thì tôi nghĩ đến anh, đoán xem anh nghĩ về chuyện đó thế nào. Tôi không biết nói gì với em tôi trong những tuần cuối cùng trước khi nó chết. Nhưng bây giờ thì tôi biết nói gì rồi. Và do đó tôi viết thư cho anh, vì Chúa đã tạo ra anh cũng như đã tạo ra tôi và Chúa yêu anh cũng như Chúa yêu tôi, và theo cái chỗ ít ỏi mà chúng ta biết về ý của Chúa thì điều đã xảy ra với anh cũng có thể xảy ra với tôi. Bạn anh, Don Cullivan.”
Cái tên không nói được gì, nhưng Perry lập tức nhận ra ngay trong ảnh bộ mặt của một anh lính trẻ với mái tóc húi gần trọc và đôi mắt tròn đầy nhiệt huyết. Hắn đọc bức thư nhiều lần; tuy hắn thấy những gợi ý tôn giáo không có sức thuyết phục (“Tôi đã cố tin nhưng không được, tôi không thể tin, mà có vờ là tin thì cũng chẳng được tích sự gì”) nhưng hắn run lên vì nó. Đây là một người chìa tay ra giúp đỡ, một người lành mạnh và đáng trọng từng có lúc biết đến và yêu mến hắn, một người tự ký tên là bạn. Dào dạt biết ơn, hắn vội vội vàng vàng viết một bức thư trả lời:
“Don thân mến. Trời đất ơi, đúng, tôi nhớ Don Cullivan…”
Xà lim của Hickock không có cửa sổ; hắn đối mặt với một hành lang trống không và mặt tiền của các xà lim khác. Nhưng hắn không cô độc, hắn có người trò chuyện, một đống những dân say, làm của giả, oánh vợ và dân Mễ thất thểu lang bạt quay vòng ra tù vào khám; và hắn, với mồm mép liến thoắng tênh tênh “lừa người” bằng những tâm tình, những chuyện chơi gái và cờ bạc bịp, đã thành ra nổi tiếng trong đám bạn tù (nhưng có một người hắn không lợi dụng được dù có thế nào – một ông già cứ la ó hắn: “Thằng giết người! Thằng giết người!” và từng có lần hắt vào hắn cả một xô nước rửa ráy bẩn thỉu).
Bề ngoài trước mặt mọi người, Dick nom như một gã thanh niên ung dung điềm tĩnh khác thường. Khi không chuyện trò bù khú với ai hay không ngủ, hắn nằm dài trên đệm hút thuốc, nhai kẹo cao su hay đọc tạp chí thể thao, sách trinh thám bìa mềm. Hắn thường nằm khoèo huýt sáo các bài ưa thích ngày xưa (“Em lẽ ra phải là một cưng xinh đẹp”, “Hãy lê gót tới Buffalo”) và nhìn đăm đăm vào một cái bóng đèn không chao ở trên trần xà lim bật sáng suốt đêm ngày. Hắn ghét sự giám sát đơn điệu của cái bóng đèn; nó phá rối giấc ngủ của hắn và, nói cho rõ hơn, gây nguy hại đến kết quả một dự đồ riêng tư – vượt ngục. Vì gã tù này chẳng phải là dửng dưng hay nhẫn nhịn như hắn tỏ ra, mà có ý thực hiện từng bước sao cho thoát được “chuyến đi tới cái Lủng Lẳng Lớn”. Đinh ninh rằng lễ hội đó sẽ là kết quả của bất cứ phán quyết nào của tòa – chắc chắn là của bất kỳ phiên tòa nào tiến hành ở bang Kansas – hắn đã quyết định “phá tung nhà tù. Tóm lấy một chiếc xe và cho tung bụi.” Nhưng trước hết hắn phải có vũ khí; thế là trong hàng mấy tuần hắn tự làm lấy một con “lá liễu”, một dụng cụ rất giống với cái dùi chọc băng đá – một cái gì đó hợp với việc gây mê nhẹ nhàng vào chỗ hõm giữa hai xương bả vai của phó cảnh sát trưởng Meier. Các bộ phận làm nên món vũ khí này, một miếng gỗ và một đoạn dây thép dài, vốn là một phần của cái bàn chải cọ toa lét mà hắn nẫng được, tháo ra rồi giấu dưới đệm nằm. Đêm khuya, khi âm thanh chỉ còn là tiếng ngáy, tiếng ho và tiếng rú còi ai oán của các đoàn tàu Santa Fe rầm rầm chạy qua cái thị trấn tối tăm, hắn giũa dây thép vào nền xi măng xà lim. Và trong khi giũa, hắn lên kế hoạch.
Có lần, một mùa đông sau khi hắn học xong trung học phổ thông, Hickock đã đi nhờ xe qua Kansas và Colorado: “Lúc đó tôi đang tìm việc làm. Thế là, tôi đi trên một xe tải, tài xế và tôi cãi nhau, thật sự là chả có lý do gì, thế mà hắn nện ngay tôi. Ném tôi ra ngoài, vất ở đấy. Tít trên tận dãy Rockies. Tuyết rơi như gì ấy, và tôi cuốc bộ hàng dặm, máu mũi chảy như mười lăm con lợn bị chọc tiết vậy. Rồi tôi đến một khóm mấy túp lều gỗ ở một sườn dốc đầy cây. Đang mùa hè, các lều đều khóa và chả có ai. Tôi phá cửa vào một lều. Có củi có đồ hộp, cả tí uýt ki nữa. Tôi nằm khoèo ở đó cả một tuần, đó là khoảng thời gian đẹp nhất đời tôi. Mặc dù sự thực là mặt mũi tôi bị thương như thế và mắt tôi xanh xanh vàng vàng. Khi trời ngừng tuyết thì mặt trời hiện ra. Trời xanh như thể ông chưa thấy bao giờ đâu. Y như Mexico ấy chứ. Nếu Mexico ở miền hàn đới. Tôi lục khắp các lều khác và tìm thấy một ít giăm bông hun khói, một rađiô và khẩu súng. Nhất rồi nhá. Cả ngày cầm súng lang thang ngoài trời. Và nắng chiếu vào mặt. Tôi thấy dễ chịu. Tôi thấy mình như Tarzan. Đêm đêm tôi ăn đậu, giăm bông rán rồi cuốn mình vào trong chăn gần đống lửa, nghe nhạc trên rađiô rồi ngủ. Chả ai bén mảng đến đây. Cá là tôi ở lại đấy đến mùa xuân cũng được.” Nếu vượt ngục mà thoát, đó là con đường mà Dick đã định – đi đến dãy núi ở Colorado, tìm một túp lều nơi hắn có thể ẩn náu cho tới mùa xuân (một mình, dĩ nhiên; tương lai của Perry hắn không màng đến.) Triển vọng về một chuyển tiếp mê ly như thế, cộng với sự lén lút đầy hưng phấn của việc giũa sợi dây thép, đã khiến cho hắn giũa được thành một con dao lá liễu khá là đẹp đẽ.
Thứ Ba, mồng 10 tháng Ba. Cảnh sát trưởng lục soát. Tìm kỹ khắp các xà lim và tìm thấy con dao nhét ở dưới đệm của D. Mình tự hỏi không biết nó nghĩ gì ở trong đầu (mỉm cười).
Không phải Perry coi đó là chuyện đáng cười thật, vì Dick làm ra một loại vũ khí nguy hiểm có thể sẽ đóng một vai trò quyết định trong các kế hoạch mà hắn đang cho hình thành. Tuần này sang tuần khác, hắn đã quen với cuộc sống ở Quảng trường Tòa án, với các cư dân quen thuộc và những thói quen của họ. Chẳng hạn, những con mèo, hai con đực màu xám, cứ chiều chiều lại ló ra quẩn đi quanh trên quảng trường, dừng lại xem xét các chiếc xe đỗ ở rìa ngoài – cái kiểu này của hai con mèo làm hắn thấy khó hiểu cho đến khi bà Meier giải thích rằng chúng đang tìm những con chim chết giắt vào lưới che động cơ ở mũi xe. Sau đó, hễ thấy cảnh mèo tìm chim, hắn lại đau lòng. “Vì cả đời tôi phần lớn cũng đều làm như các con mèo ấy. Như nhau cả.”
Và có một người mà Perry đặc biệt biết rõ, một người đàn ông lịch sự khỏe mạnh, tóc giống như một cái mũ bịt kín đầu màu muối tiêu; mặt ông ta bạnh, quai hàm kiên nghị, có phần nào nghiệt ngã khi thư giãn, miệng chảy trễ, mắt sụp xuống tựa như đang âu sầu mơ màng – một bức tranh về sự lạnh lùng tàn nhẫn. Nhưng ít ra đó cũng là một ấn tượng thiên vị không chính xác, là bởi đôi hồi gã tù lại liếc ông ta trong khi ông ta ngừng lại để chuyện trò với những người khác, cười đùa với họ và có vẻ thoải mái, vui vẻ, rộng lượng: “Loại người có thể nhìn thấy cái khía cạnh con người,” một thái độ quan trọng, bởi con người này là Roland H. Tate, thẩm phán của Khu vực pháp lý thứ 32, luật gia sẽ chủ trì phiên tòa của Kansas chống lại Smith và Hickock. Như Smith mau chóng được biết, Tate là một cái họ lâu đời và đáng sợ ở miền Tây Kansas. Ông thẩm phán giàu, nuôi ngựa, sở hữu nhiều đất và vợ ông ta nghe nói rất đẹp. Ông ta là bố của hai đứa con trai nhưng đứa em đã chết, tấn bi kịch ảnh hưởng to lớn đến bố mẹ và dẫn tới chỗ họ nhận nuôi một thằng bé bị người ta vứt bỏ không nhà không cửa. “Ông ta dường như có mềm lòng với tôi,” Perry có lần bảo bà Meier, “có khi ông ấy lại cho chúng tôi trắng án.”
Nhưng đó không phải là chuyện Perry tin thật tình; hắn tin cái điều hắn đã viết cho Don Sullivan, người mà nay hắn thư từ đều đặn: tội ác của hắn là “không thể tha thứ” và hắn thiết tha mong chờ được “leo lên mười ba bậc thang kia”. Nhưng không phải hắn không có chút ít nào hy vọng, vì hắn đã lập mưu trốn thoát kia mà. Chuyện đó cậy vào hai thanh niên mà hắn thấy thường hay quan sát hắn. Một người tóc đỏ, một người tóc đen. Đôi khi, đứng trên quảng trường dưới cái cây chạm vào cửa sổ xà lim, hai anh mỉm cười và ra hiệu với hắn – hay là hắn tưởng tượng ra thế. Chưa nói năng gì cả, và sau chừng một phút là hai người lại dạt đi.
Nhưng gã tù tự thuyết phục mình rằng hai anh thanh niên kia có lẽ bị thúc đẩy bởi một ham muốn mạo hiểm, nghĩa là giúp hắn vượt ngục. Theo đấy, hắn vẽ một bản đồ quảng trường, chỉ rõ các điểm mà “một xe hơi phải chạy” có thể đỗ sao cho có lợi thế nhất. Dưới bản đồ hắn viết: ‘Tôi cần một lưỡi cưa sắt. Chỉ thế thôi. Nhưng các anh có nhận ra rằng nếu bị bắt thì hậu quả sẽ thế nào không (nếu nhận ra thì các anh gật đầu cho một cái)? Sẽ nằm khám lâu đấy. Hay là mất mạng. Chỉ vì một người mà các anh không quen biết. Tốt hơn là các anh nên nghĩ thật kỹ. Nghĩ nghiêm chỉnh! Ngoài ra, làm sao tôi biết là có thể tin các anh chứ? Làm sao tôi biết đây không phải là mánh lừa tôi ra rồi bắn chết tôi? Hickock thì sao? Mọi chuẩn bị đều phải tính cả hắn đấy nhá.’
Perry để tài liệu này trên bàn của hắn, gói lại bằng vải rồi định khi nào hai thanh niên kia có mặt thì ném ra ngoài cửa sổ. Nhưng hắn không bao giờ ném; hắn không bao giờ còn thấy lại họ. Cuối cùng, hắn nghĩ có thể là hắn đã tưởng tượng ra họ (khái niệm này gợi ý rằng hắn “có khi chập cheng, có khi quẫn trí”, vì “ngay từ khi tôi còn bé các chị tôi đã hay cười chế tôi vì tôi thích ánh trăng. Thích nấp trong bóng tối chờ trăng sáng.”) Họ có phải là ma hay không thì hắn cũng đã thôi không nghĩ đến họ nữa. Một cách trốn khác, tự sát, đã thay thế họ trong những lúc trầm tưởng của hắn; và mặc dù đám coi tù đã rất thận trọng (trong xà lim không có gương soi, không thắt lưng, không cà vạt, không dây giày), nhưng hắn vẫn bày ra được cách để làm chuyện đó. Vì hắn vẫn được cung cấp cái bóng đèn cứ thế chiếu sáng vĩnh cửu, nhưng không như Hickock, hắn có một cái chổi trong xà lim, ấn chổi vào bóng đèn là hắn có thể làm cho cái bóng đèn trật ra. Một đêm hắn mơ mình đã tháo được cái bóng đèn, đập vỡ nó rồi lấy mảnh bóng đèn cắt cổ tay cổ chân. “Tôi cảm thấy hơi thở mình yếu ớt và ánh sáng đang lìa bỏ tôi,” hắn nói, trong lời giải thích sau đó về cảm tưởng của hắn. “Các bức tường xà lim sụp đổ tan tành, bầu trời sà xuống và tôi trông thấy một con chim lớn màu vàng.”
Suốt đời mình – hồi nhỏ, nghèo túng, bị đối xử bạc bẽo, thời thanh niên lêu lổng, rồi một gã trưởng thành nằm trong ngục – con chim vàng đó, thật lớn, có bộ mặt như vẹt, đã thường xuyên vút bay qua những giấc mơ của Perry, một thiên thần báo hận đã từng cứu những kẻ thù của hắn, hoặc là, như bây giờ, cứu hắn trong thời điểm cực khốn cho sinh mạng hắn: “Con chim nhấc tôi lên, tôi thấy mình nhẹ như con chuột, chim và tôi cứ lên cao, cao mãi, tôi thấy quảng trường bên dưới, người ta chạy tới chạy lui la hét, cảnh sát trưởng quát gọi chúng tôi, ai cũng tức tối khủng khiếp vì tôi tự do, tôi đang bay, tôi tốt hơn bất cứ ai trong bọn họ.”
Phiên tòa được định mở vào ngày 27 tháng Ba năm 1960. Trước ngày này mấy tuần, các luật sư của bên bị thường tham khảo ý kiến của các bị cáo. Họ đã thảo luận về lời khuyên yêu cầu thay đổi chỗ xử và tòa án, nhưng ông Fleming cao tuổi nhắc nhở thân chủ của mình rằng. “Tòa xử bất cứ ở đâu tại Kansas cũng đều không quan trọng. Khắp bang này, tình cảm người ta đâu cũng như nhau thôi. Chúng ta ở Garden City có khi còn tốt hơn. Đấy là một cộng đồng tôn giáo. Mười một nghìn dân, hai mươi hai nhà thờ. Phần lớn các vị linh mục đều phản đối án tử hình, nói là nó phi luân lý, phi Cơ đốc giáo; ngay cả Đức Cha Cowan, linh mục của chính nhà Clutter và người bạn gần gũi thân thiết của gia đình, ngài cũng kêu gọi chống lại án tử trong chính vụ này. Nên nhớ, mọi sự chúng ta hy vọng là làm sao cứu lấy cái mạng các anh. Tôi nghĩ ở đấy chúng ta có cơ may tốt hơn ở bất cứ đâu.”
Ngay sau việc buộc tội ban đầu Smith và Hickock, các luật sư của chúng đã ra mắt trước Thẩm phán Tate để tranh luận về một đề nghị xin cho các bị cáo được giám định tâm thần toàn diện. Đặc biệt là kiến nghị tòa án cho phép bệnh viện của bang ở Larned, Kansas, một cơ sở tâm thần có các thiết bị an toàn tối đa, được canh giữ các người tù nhằm mục đích xác nhận xem liệu một trong hai hay cả hai người có “mất trí, đần hay trì độn, không có khả năng hiểu được tình thế của họ và việc người ta giúp bào chữa cho họ không.”
Larned ở về phía Đông cách Garden City một trăm dặm; Harrison Smith, luật sư của Hickock báo với tòa rằng hôm trước ông đã lái xe tới đó và bàn với một số người của ban lãnh đạo bệnh viện: “Chúng ta không có các bác sĩ tâm thần đủ tiêu chuẩn trong cộng đồng của mình. Đúng vậy, Larned là nơi duy nhất trong vòng bán kính hai trăm hăm lăm dặm có thể tìm ra những người như thế – những bác sĩ được đào tạo để thực hiện những đánh giá nghiêm túc về tâm thần. Như vậy sẽ mất thì giờ. Bốn đến tám tuần. Song những người mà tôi đã cùng thảo luận nói rằng họ sẵn sàng vào việc ngay lập tức; và dĩ nhiên vì đó là một cơ quan nhà nước cho nên sẽ chẳng mất xu nào.”
Kế hoạch này bị trợ lý đặc biệt của ủy viên công có là Logan Green phản đối; ông tin chắc rằng “chứng mất trí tạm thời” là lý do bào chữa mà các đối thủ của ông sẽ viện tới trong phiên tòa tới đây, ông sợ rằng kết quả cuối cùng của đề xuất này sẽ là, như ông đã tiên đoán khi trò chuyện riêng tư, trên ghế nhân chứng sẽ xuất hiện cả một lũ “những anh chữa đầu chữa óc” có thiện cảm với các bị cáo (“Những cái tay này họ luôn luôn than khóc cho các tên sát nhân. Không bao giờ nghĩ đến nạn nhân cả”). Vóc thấp, thích cà khịa, là dân Kentucky chính cống, Green bèn bắt đầu chỉ ra với tòa rằng, về vấn đề trí óc lành mạnh, luật của Kansas trung thành với điều luật M’Naghten, một điều luật xa xưa của nước Anh du nhập vào Mỹ có nội dung là nếu bị cáo biết được bản chất hành vi của mình và biết nó là sai, thì đương sự là lành mạnh về tâm thần và phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Hơn thế nữa, Green nói, trong các đạo luật của bang Kansas không có gì cho thấy rằng các bác sĩ được chọn ra để xác định tình trạng tâm thần của một bị cáo lại bắt buộc phải có bất cứ một tư cách đặc biệt nào: “Cứ bác sĩ là được. Bác sĩ đa khoa đang hành nghề nói chung. Luật đời có thế thôi. Ở hạt đây năm nào chúng tôi cũng có nghe nói đến xét nghiệm tâm thần chỉ vì mục đích chuyển giao người đến bệnh viện này. Chúng tôi không bao giờ gọi ai ở Larned hay ở các cơ sở tâm thần khác đến sất cả. Các bác sĩ sở tại chúng tôi sẽ đảm nhận vụ việc. Tìm xem một người có mất trí hay trì độn hay đần không, đó nào phải công việc to tát gì cơ chứ… Hoàn toàn không cần thiết phải đưa các bị cáo tới Larned, làm thế chỉ mất thì giờ mà thôi.”
Để phản pháo, luật sư của Smith gợi ý rằng tình trạng hiện nay “nghiêm trọng hơn nhiều so với một cuộc xét nghiệm tâm thần ở trong phiên tòa xác chứng. Hai mạng người đang bị đe dọa. Bất kể tội của họ là gì, những người này vẫn có tư cách được xét nghiệm bởi những người đã được đào tạo và có kinh nghiệm. Tâm thần học,” ông nói thêm, cãi thẳng thừng với ông thẩm phán, “đã trưởng thành nhanh chóng trong hai chục năm qua. Các tòa án liên bang đang bắt đầu phối hợp với ngành khoa học này khi vụ việc liên quan tới những người bị kết tội gây án mạng. Tôi thấy hình như chính chúng ta đang có cơ hội bằng vàng để nghênh đón những khái niệm mới trong lĩnh vực này.”
Đó là một cơ hội mà ông thẩm phán thích cự tuyệt hơn, là vì, như một luật gia đã có lần nhận xét, “Tate là loại mà ta có thể gọi là luật sư sách vở, ông ta không bao giờ thực nghiệm, ông ta cứ theo y như văn bài”; nhưng cũng chính người phê bình đó lại nói, “Nếu tôi vô tội thì ông ta là người đầu tiên tôi muốn thấy ngồi ghế quan tòa, còn nếu tôi có tội thì tôi hoàn toàn không muốn ông ngồi ghế quan tòa.” Thẩm phán Tate không hoàn toàn phủ nhận lời đề nghị; đúng hơn, ông đã làm đúng theo pháp luật yêu cầu bằng việc chỉ định ra một ủy ban ba bác sĩ Garden City và chỉ thị cho họ đưa ra một biên bản kết luận năng lực tâm thần của các tù nhân. (Đúng như quy trình, bộ ba bác sĩ đã gặp hai bị cáo và, sau một giờ hay hơn một giờ dò xét bằng cách chuyện trò, đã tuyên bố không ai bị rối loạn về tâm thần. Khi được cho biết về chẩn đoán của họ, Perry Smith nói, “Làm sao họ biết được? Họ chỉ muốn tiêu khiển thôi. Nghe tất cả các chi tiết bệnh hoạn từ chính đôi môi kinh khủng của kẻ giết người. Ôi, mắt họ nó mới sáng lên làm sao chứ.” Luật sư của Hickock cũng bực; ông đến bệnh viện Larned hơn một lần, tại đây ông đã kêu gọi được một bác sĩ tâm thần tự nguyện đến Garden City phỏng vấn không lấy thù lao hai bị cáo. Người tình nguyện này, bác sĩ W. Mitchell Jones, là người đặc biệt giỏi; chưa đến ba mươi tuổi, một chuyên gia xuất sắc về tâm lý tội phạm và về những kẻ tâm thần gây tội ác, từng làm việc và nghiên cứu ở châu Âu và Mỹ, ông bằng lòng khám cho Smith và Hickock, và nếu những phát hiện của ông bảo đảm được cho vụ này thì ông sẽ làm chứng cho hai người).
Sáng ngày 14 tháng Ba các luật sư của bên bị lại ra đứng trước Thẩm phán Tate, lần này thì biện hộ cho một đề nghị hoãn phiên tòa tới, trong khi lẽ ra chỉ còn có tám ngày nữa thôi là xử. Hai lý do được viện ra, thứ nhất là “bằng chứng xác đáng nhất”, bố Hickock, hiện đang ốm quá không ra làm chứng được. Lý do thứ hai là một vấn đề tế nhị hơn. Trong tuần qua một quảng cáo viết rất đậm đã bắt đầu xuất hiện ở cửa kính các tiệm, ngân hàng, nhà ăn và nhà ga xe lửa của thị trấn; quảng cáo ghi: BÁN ĐẤU GIÁ ĐẤT ĐAI DINH CƠ H.W. CLUTTER – 21 THÁNG BA 1960 – TẠI NHÀ CLUTTER. “Bây giờ,” Harrison Smith nói với tòa, “tôi hiểu là gần như không thể chứng minh được sự thành kiến. Nhưng việc bán này, đấu giá đất đai tài sản của nạn nhân, thì một tuần nữa sẽ tiến hành rồi – nói cách khác vào đúng trước hôm mở tòa. Liệu điều đó có làm thiệt cho các bị cáo không, tôi không đủ sức khẳng định. Nhưng những quảng cáo đó, cộng với các quảng cáo trên báo đài, sẽ thường xuyên nhắc nhở mọi công dân của cộng đồng này nhớ đến vụ án, và trong số công dân đó thì một trăm năm chục người có triển vọng được gọi làm bồi thẩm.”
Thẩm phán Tate không nao núng. Ông bác lời đề nghị mà chẳng bình luận một lời nào.
Dạo đầu năm, Hideo Ashida, ông người Nhật hàng xóm của ông Clutter, đã bán đấu giá trang bị làm nông trại và chuyển đến Nebraska. Vụ mua bán này của nhà Ashida, được coi là thành công, đã thu hút chưa tới một trăm khách hàng. Hơn năm ngàn người dự cuộc bán đấu giá các thứ của nhà Clutter. Cư dân Holcomb chờ đợi một doanh thu khác thường – Câu lạc bộ Quý bà của Cộng đồng Nhà thờ Holcomb đã cải tạo một trong các nhà kho của nhà Holcomb thành một quán cà phê có trữ sẵn hai trăm bánh táo của nhà làm, hơn một tạ hai thịt hamburger và ba chục ký giăm bông xắt lát – nhưng không ai ngờ sẽ có một đám đông dữ đấu giá lớn nhất trong lịch sử miền Tây Kansas. Xe từ một nửa các hạt của bang, cả từ Oklahoma, Colorado, Texas, Nebraska đổ đến. Chúng bám đuôi nhau đi xuôi con đường nhỏ dẫn vào Trại Lũng Sông.
Đây là lần đầu tiên công chúng được phép vào thăm cơ ngơi nhà Clutter từ khi phát hiện ra vụ án mạng, một lý do giải thích tại sao lại có sự tụ tập có lẽ cả một phần ba cái giáo đoàn đông đảo này – họ đến là vì hiếu kỳ. Và dĩ nhiên thời tiết cũng góp phần vào chuyện này, vì đang tiết giữa tháng Ba, tuyết chất đống suốt mùa đông đã tan, đất bên dưới tuy đã rã băng nhưng lại toàn bùn ngập đến cổ chân; một vùng mênh mông từ hécta này sang hécta kia đặc nghẹt toàn bùn; không có nhà nào làm lụng gì được chừng nào đất chưa rắn lại. “Đất quá ướt và bẩn,” bà Bill Ramsey, vợ một chủ trại nói. “Không có cách nào làm đồng được. Chúng tôi nghĩ thôi thì lái xe ra đó xem người ta bán chác vậy.” Đúng là một ngày đẹp. Mùa xuân. Tuy bùn ngập ngụa dưới chân, mặt trời bấy lâu bị mây và tuyết liệm bọc, nay nom như một vật thể vừa được làm ra mới tinh khôi, và bên dưới các cây – vườn cây táo, lê của ông Clutter, các cây du phủ bóng xuống con đường nhỏ – được màu xanh trinh bạch như sương khói hiu hiu che phủ. Các thảm cỏ quanh nhà Clutter cũng nhuộm màu xanh mới mẻ, và khi đi qua đó, các bà lại lo âu ngó một cái vào ngôi nhà không người ở, khom mình qua cỏ nhòm vào cửa sổ tựa như vừa sợ vừa hy vọng nhận ra những bóng hình ẩn hiện trông hung hiểm đằng sau các tấm rèm hoa vui mắt.
Người chủ trì đấu giá hô to, ca tụng các món đồ được đem ra bán – máy kéo, xe tải, xe cút kít, thùng, búa tạ và gỗ không dùng đến, xô vắt sữa, con dấu sắt dùng đánh dấu gia súc, ngựa, móng ngựa, mọi thứ cần thiết để trông nom một trại chăn nuôi, từ thùng chão đến yên cương, cho đến chỗ tắm cho cừu và thừng giặt bằng tôn – chính cái triển vọng mua được mấy thứ này với giá hời đã dụ phần lớn đám đông đến. Nhưng đôi tay những người đấu giá giơ lên vẫn rụt rè – những bàn tay chai sần vì công việc, tần ngần không muốn buông số tiền phải làm lụng nhọc nhằn mới có; thế nhưng chẳng có gì là không được bán, thậm chí có vài người còn háo hức muốn mua một chùm chìa khóa gỉ, và một cậu cao bồi trẻ đeo đôi bốt màu vàng nhạt còn mua “toa xe chồn” của Kenyon Clutter, chiếc xe cà khổ mà cậu trai nay đã chết từng dùng để làm tình làm tội lũ chồn hoang, săn đuổi chúng vào những đêm trăng sáng.
Tổ phụ việc, những người đàn ông mang các món đồ nho nhỏ đi lên đi xuống sàn đấu giá, gồm Paul Helm, Vic Irsik và Alfred Stoecklein, ai cũng từng là một nhân công già của Herbert W. Clutter và đến nay vẫn một mực trung thành dù ông đã chết. Giúp một tay vào buổi bán thanh lý các món sở hữu của ông là việc cuối cùng họ làm được cho ông, bởi hôm nay là ngày cuối cùng họ ở Trại Lũng Sông; cơ ngơi này đã được bán cho một chủ trại ở Oklahoma, và từ nay trở đi những người lạ sẽ sống, sẽ làm ăn ở đó. Trong khi cuộc đấu giá diễn ra, khi mà các món đồ của ông Clutter mỗi lúc một vơi dần, Paul Helm, nhớ lại lúc tang lễ gia đình bị ám sát, nói: “Cứ như là đám tang thứ hai vậy.”
Thứ được rao bán cuối cùng là bầy gia súc, ngựa chiếm phần lớn, kể cả con Babe to béo của Nancy, nay đã qua thời huy hoàng của nó. Chiều muộn, trường đã tan học, mấy bạn học của Nancy cũng ở trong đám người xem khi bắt đầu đấu giá con ngựa; Susan Kidwell cũng ở đó. Đã nhận nuôi một con thú cưng của Nancy nay mồ côi, là con mèo, cô mong muốn mình có thể cho cả Babe một mái ấm vì cô yêu con ngựa già và biết rằng Nancy từng yêu nó biết bao nhiêu. Hai cô gái thường cưỡi trên tấm lưng rộng bản của nó đi rảo qua các đồng lúa mì vào những chiều hè nóng nực, xuống sông, vào hẳn trong nước, con ngựa cái lội ngược dòng cho tới khi, như Sue có lần đã tả, “cả ba đứa cánh ta đều lạnh như cá ấy.” Nhưng Sue không có chỗ nào cho con ngựa cả.
“Tôi nghe năm mươi… sáu lăm… bảy mươi…” cuộc đấu giá diễn ra chậm rãi, chả ai có vẻ thực sự thích con Babe và người mua nó, một chủ trại theo đạo Mennon, nói ông ta có thể dùng nó để cày, đã trả bảy lăm đô la. Khi ông ta dắt nó ra khỏi bãi, Sue Kidwell chạy tới, giơ tay lên như vẫy chào từ biệt, nhưng chả hiểu thế nào lại áp vội tay lên miệng mình.
Tờ Điện tín Garden City cho đăng vào hôm trước ngày mở phiên tòa bài xã luận sau đây: “Một vài người có thể nghĩ rằng cả nước đang để mắt tới Garden City trong phiên tòa xử vụ giết người rùng rợn này. Nhưng đâu phải. Ngay ở Colorado cách đây về phía Tây một trăm dặm thôi mà cũng đã ít người biết đến vụ đó – những người khác thì chỉ nhớ là có mấy người của một gia đình nổi tiếng đã bị giết hại. Đó là một lời bình đáng buồn về tình hình phạm tội ở đất nước ta. Từ khi bốn người trong gia đình Clutter bị giết vào mùa thu năm ngoái, nhiều vụ án mạng khác tương tự đã xảy ra ở các nơi khác trên cả nước. Chỉ trong vài ngày trước phiên tòa này ít nhất ba vụ án mạng tập thể đã bùng lên trên đầu đề các báo. Kết quả là, tội ác và phiên tòa này chỉ là một trong nhiều vụ tương tự mà người ta đọc xong rồi quên…”
Tuy những cặp mắt của cả nước không đặt vào họ, song cách cư xử của những người chủ chốt tham dự vào sự kiện, từ thư ký tòa tới bản thân ông thẩm phán, rõ ràng là đều đầy tự giác vào buổi sáng mở đầu phiên tòa. Cả bốn vị luật sư đều mặc com lê mới; đôi giày mới của ông chưởng lý hạt có cặp chân to cứ mỗi bước đi lại cót két và rin rít kêu. Hickock cũng bảnh bao trong bộ áo quần bố mẹ hắn cấp cho: quần vải xéc màu lơ, sơ mi trắng, cà vạt hẹp màu lơ sẫm. Chỉ riêng Perry Smith không có cả áo vest lẫn cà vạt thì hình như bị lạc lõng trong cách ăn mặc. Mặc sơ mi hở cổ (mượn của ông Meier) và quần jean lam xắn lên tới cổ chân, trông hắn đơn độc và lạc chỗ chẳng khác nào một con hải âu giữa đồng lúa mì.