Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Một Linh Hồn, Nhiều Thể Xác

Chương 5. Hugh và Chitra: Lòng thương cảm

Tác giả: Brian L. Weiss
Thể loại: Văn Hóa - Tôn Giáo

Đồng cảm và thương cảm thường đuợc dùng như từ đồng nghĩa, nhưng thật ra hai thành tố này khác nhau trong tâm trí con người. Một cách chính xác, khi bạn hiểu được những tâm tư tình cảm của người khác như của chính bạn và bạn có thể tự đặt mình vào hoàn cảnh của họ, thì như vậy, rõ ràng bạn có lòng thương cảm với người đó. Tuy nhiên bạn có thể thương cảm mà không hề đồng cảm. Bạn cũng có thể thương cảm một người nào đó hoặc kể cả những sinh vật, thú vật ngay khi bạn không cảm nhận được những xúc cảm của họ.

Trong triết lý Phật giáo thường chỉ dẫn chúng ta lòng từ bi đối với vạn vật bởi vì tất cả chúng sinh đều có linh hồn. Quả đúng như vậy, muôn thú có thể đã từng là con người trong những kiếp quá khứ và cũng có thể sẽ lại làm người trong những kiếp tương lai. Mặc dù điều này không tìm thấy trong sách của tôi, nhưng nó không có nghĩa là khái niệm này không đúng. Có thể rằng con người không hề nhớ được những kiếp sống của họ như một loài giống khác. Vì vậy, bạn dễ thương cảm một con bọ cánh hay một con gấu mà không cần phải đồng cảm với chúng, không cần đặt bạn vào tình huống của chúng.

Lòng thương cảm toát ra từ trong trái tim, và nó được biểu thị bằng cử chỉ ân cần và tấm lòng nhân ái đối với muôn loài chúng sinh. Chúa Giê-Su có một tấm lòng từ bi cao ngất, và chúng ta cũng biết là Thánh Gandi cũng vậy. Nếu trái tim của bạn hướng đến người khác thì bạn là người có lòng thương cảm. Hành động ngẫu nhiên của lòng tốt như nhường cho người khác bước lên xếp hàng trước bạn, nhường ghế cho một phụ nữ mang thai, cứu trợ cho những người vô gia cư, là phẩm chất của cách cư xử có lòng thương cảm. Tuy nhiên, chỉ khi nào hành động tốt đó xuất phát từ sự bất giác đích thực chứ không phải vì bạn có chủ ý để làm một việc tốt, hoặc bạn làm vì mục đích để nhận lại những phước báu trên thiên đường.

Lòng thương cảm thuộc về bản năng nhiều hơn, còn sự đồng cảm thì lại dựa trên trí tuệ, xuất phát từ hai điểm khác nhau. Nếu cha bạn là một người thô bạo, bạn đâu cần thiết phải thương cảm với ông. Có lẽ bạn nhận ra rằng: “Ồ, ông nội đã từng đối xử với cha như vậy, và cha đã bị thấm những hành động xấu xa đó. Giờ đây ông lại muốn truyền những hành động đó cho mình. Mình đồng cảm với những gì cha đã bị xúc phạm vì mình hiểu những cảm xúc của ông, nhưng mình sẽ không lập lại cách cư xử thô bạo như vậy vì mình đã thấm nhuần bài học tốt đẹp hơn.”

Đó là bài thực hành trí tuệ. Tuy nhiên, nói một cách lý tưởng hơn, ngay khi trong trường hợp cực đoan như người cha thô bạo, khi bạn có thể đồng cảm với cha bạn thì

bạn cũng sẽ bắt đầu thương cảm cho ông. Có lẽ điều này cũng rất khó. Có thể ông lại vẫn cứ thô bạo với bạn như trước.

Nhưng ông cũng chỉ là một con người bị tổn thương như chính bạn mà thôi, và khi bạn hiểu thấu đáo thì trái tim và cả trí tuệ của bạn sẽ có câu trả lời như nhau. Nếu bạn trả lời, nếu bạn có khả năng vượt khỏi những tổn thương của bạn, bạn sẽ thấy rõ đồng cảm và thương cảm hòa nhập với nhau. Cả hai sẽ đưa bạn đến một điểm cuối cùng của tất cả những bài học trên một quãng đường đi đến sự bất diệt: tình yêu tinh thần, tình yêu không điều kiện, tình yêu đó rất trong sáng và vĩnh cửu.

***

Tôi đã biết ông rất nổi tiếng về điều trị bệnh nhân bằng cách đưa họ trở về quá khứ, có đúng không?

Người đàn ông điện thoại đến cho tôi tên là Hugh, và nếu tôi nổi tiếng trong lãnh vực của tôi thì ông cũng nổi tiếng trong lãnh vực của ông. Ông là một người có năng lực siêu nhiên, chương trình của ông trên truyền hình địa phương thu hút hàng ngàn khán giả,

phần lớn họ muốn liên lạc với những người thân đã chết. Bản thân tôi không phải là một nhà ngoại cảm, không kể đến phạm vi siêu nhiên mà tất cả chúng ta đôi khi cũng có. “Linh cảm” dẫn đến một quyết định kinh doanh chính xác. “Vật bảo đảm” khiến chúng ta chọn con đường đời này trước con đường khác. Nhưng tôi biết điều này có thực. Tôi khâm phục những người giống như John Edward và James Van Praagh, họ dường như sở hữu nó và dùng nó để chữa lành bệnh, và tôi đã có kinh nghiệm từ lâu là không gièm pha những điều mà tôi không hiểu.

Tôi xác nhận với ông ta:

Vâng, đã có vài thành công với bệnh nhân. Có phải cuộc điện thoại này liên quan đến phép trị liệu?

Ông ta cười với một âm vực cao, đầy hồi hộp:

Vâng. Của tôi đó. Năng lực siêu linh, chữa lành cho chính ông? Dường như tôi không thể chữa cho riêng mình.

Chúng tôi hẹn gặp vào tuần tới, và tôi rất hồ hởi chờ đợi. Tôi đã từng chữa trị cho nhiều bệnh nhân có năng lực ngoại cảm, và thấy họ đều thích thú. Độ nhạy cảm của

họ rất cao và sự thẳng thắn của họ đối với khái niệm về những kiếp quá khứ khiến họ đặc biệt thích hợp với phép trị liệu theo cách quay về quá khứ.

Hugh là người đàn ông mảnh khảnh, hơi thấp và ốm nhom, không còn vẻ oai vệ như tôi đã nhìn thấy ông một lần trong chương trình truyền hình đầy sức hút. Gương mặt ông ta hơi hồng vì còn phấn trang điểm, quần áo có vẻ hơi quá khổ. Rõ ràng là ông đang hồi hộp bởi con mắt liếc đảo nhanh khắp phòng như con đom đóm, và phải thường xuyên hắng giọng trước khi nói, tuy vậy, khi bắt đầu ông ta rất hùng hồn.

Tôi hỏi:

Chuyện gì vậy?

Tôi quá đuối sức. Xương cốt rã rời. Không phải về thể chất, mặc dù tôi ít tập thể dục, mà về tinh thần. Tôi có cảm giác như thể mọi người trên thế giới đeo bám tôi, muốn tôi đưa họ gặp người thân đã chết. Vì họ cần quá, năn nỉ quá, xứng đáng quá, thèm khát chính đáng quá nên khi tôi từ chối tôi cảm thấy có tội, một cái tội to lớn cân nặng hàng triệu pao mà tôi không thể vứt bỏ.

Bất kể người nào đang ở trong phố hoặc trên đường đều muốn nhờ ông lý giải hoặc thông báo hoặc phán truyền dùm họ từ một cảnh giới xa xăm, nhưng đâu phải lúc nào cũng làm được như vậy. Ông không thể gọi một người bà con của ai đó, nhảy xổ vào cõi xa xăm, và cung cấp một lời nhắn gởi như họ mong đợi. Công việc của ông mất rất nhiều năng lượng, sức mạnh và thời gian, và ông đã mất hết sinh khí. Tôi đồng cảm với ông. Trong phạm vi nào đó, tôi đã từng bị tấn công theo một dạng giống như vậy. Tôi cũng bị chặn lại trong nhà hàng hoặc ngay buổi nghỉ giải lao trong những cuộc hội thảo. Nếu như người ta biết việc quay về là một quá trình tốn nhiều thời gian, nhưng hiểu biết mà thiếu sự cay đắng thì tôi không thể giúp đỡ cho họ. Người ta dường như nghĩ rằng Hugh có thể lấy thông tin cho họ trong lúc ông đang ăn tối. Ông muốn giúp họ – ồ, ông ao ước làm sao mà ông có thể giúp tất cả mọi người! Giá mà ông không tự cảm thấy vô dụng, và mỗi khi từ chối một lời thỉnh cầu nỗi lo lắng của ông lại tăng lên.

Ông kể cho tôi nghe rằng ông có khả năng nhìn thấy những sự kiện sẽ xảy ra ở một thời điểm tương lai, hoặc những tồn tại mà mắt thường không thể nhìn thấy, và ông cũng có thể nghe những lời nhắn nhủ chỉ nói với riêng ông. Hầu hết những nhà ngoại cảm tự biểu hiện khả năng này rất sớm, ví dụ như nhiều đứa trẻ có bạn bè trong trí tưởng tượng, đơn giản chỉ vì chúng rất cô đơn và khao khát tình bạn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp bạn bè cũng không phải trong trí tưởng tượng. Trong một cuốn sách

khác tôi có kể về một bé gái mà mẹ của bé không thể hiểu tại sao cô bé không hề tỏ ra đau buồn trước cái chết của bà ngoại. Cô bé nói với mẹ rằng “Tại sao con phải buồn chứ? Con vừa nói chuyện với bà đây mà. Bà ngồi trong phòng con đó mẹ.” Bà ngoại đã kể cho cô bé nghe về những bí mật trong thời thơ ấu của mẹ cô, những bí mật mà một mình cô không thể khám ra được, điều đó đã tạo nên một giá trị vững chắc cho câu chuyện. Những đứa trẻ khác thì có thể nhìn thấy trước tai nạn hoặc nghe được những thông điệp và những sự việc đó đều thật sự xảy ra, đây là những bằng chứng của hiện tượng siêu nhiên.

Thường thường, năng lực siêu nhiên của đứa trẻ biến mất trước khi nó lên 6 tuổi. Tuy vậy, thỉnh thoảng năng lực siêu nhiên này không chỉ vẫn tồn tại trong con người mà còn phát triển mạnh hơn nữa. Đây là trường hợp của Hugh. Ông ta nói:

Hồi còn nhỏ, mấy đứa trẻ khác nói tôi là phù thủy. Chúng nói tôi là “đồ điên” khi tôi kể lại rằng tôi nhận được thông điệp của một người chết đang cố cảnh báo chúng. Gia đình chúng cấm chúng chơi với tôi. Họ khiến tôi cảm thấy mình bị điên. Nhưng điều đó không ngăn được những cảnh tượng hoặc những thông điệp. Vì vậy tôi giữ những điều đó cho riêng mình, không cho ai biết. Hồi đó tôi rất khác lạ.

Ông ngừng lại một chút để tằng hắng.

– Và bây giờ tôi vẫn cứ khác lạ.

Lúc nhỏ ông phát huy lòng tự trọng rất ít, cho đến lớn vẫn như vậy. Chúng tôi đã có nhiều buổi làm việc và thấy rằng vấn đề đó và những cái khác liên kết với nhau. Nhưng tôi đã biết rằng chúng tôi phải đi sâu hơn chứ không chỉ ở tính nhạy cảm của thời thơ ấu. Tôi đề nghị một chuyến đi về quá khứ. Ông cười, nói:

– Đó là lý do tôi có mặt ở đây.

Hugh rất dễ dàng đi vào trạng thái thôi miên. Vì hồi nhỏ ông ta đã thực hành theo một cách nào đó. Ông bắt đầu:

Tôi nhìn thấy nhiều chiếc xe đang bay. Không giống máy bay lắm, giống xe hơi hơn, ồ xe hơi có thể bay, vận hành bằng năng lượng sạch. Chúng lượn lòng vòng trên những tòa nhà chọc trời sang trọng làm bằng kính. Bên trong tòa nhà nhân viên đang làm việc với công nghệ tiên tiến. Tôi là người trong số họ, một trong những nhà khoa học quan trọng và giỏi nhất ở đó. Mục đích là tạo ra mọi thứ có tác động mạnh hơn để chúng tôi có thể thay thế tất cả các hình thái vật chất, tất cả vất chật trên trái đất, và điều khiển nó, điều khiển hoạt động của những cái khác, điều khiển thiên nhiên.

Nhưng không phải làm vì điều tốt đẹp, mà cho mục đích thống trị. Những nhà khoa học chúng tôi đang làm việc để thống trị thế giới.

– Thích thật. Ông vừa đi đến thời gian của tương lai.

Tôi bắt đầu liệu pháp tâm lý với Hugh cũng như tôi thường bắt đầu tiến hành với các bệnh nhân, và dường ông đã vượt trước một tương lai của nhiều thiên niên kỷ tới mà không hề có sự thúc đẩy nào.

Ông trả lời làm tôi ngạc nhiên:

Đó không phải là tương lai gì cả mà là Atlantis. Atlantis! Một thế giới huyền thoại được hàng tá nhà văn miêu tả, mà câu chuyện nổi tiếng nhất là của nhà văn Edgar Cayce. Nó tồn tại ba mươi hay bốn muơi ngàn năm trước rồi biến mất. Atlantis là nơi mà dân cư đã thống trị một phần của thế giới bởi vì chỉ có họ giữ những điều bí mật của tất cả vật chất và mọi sinh vật. Hugh không hề đi đến tương lai, ông đã ở trong một thế giới đã biến mất từ lâu trước khi được lịch sử ghi lại.

Công việc của tôi là thay đổi mức độ ý thức của mình và học hỏi những kỹ thuật điều khiển năng lượng để chuyển hóa vật chất.

Ông thở rất gấp và rõ ràng là đang bị kích động vì vai trò của mình trong một xã hội lạ lùng.

Tìm kiếm một sự sáng tỏ, tôi hỏi tiếp:

Chuyển hóa vật chất bằng năng lực siêu nhiên?

Đúng vậy. Thông qua năng lực của trí óc. Ông do dự giây lát:

Hoặc có lẽ chúng tôi dùng các tinh thể. Năng lượng xuyên qua các tinh thể. Tôi không chắc lắm. Nó không phải là năng lượng của dòng điện, nó là cái gì đó tiên tiến hơn nhiều.

Và ông là một nhà khoa học có tầm quan trọng?

Chính xác là vậy. Đó là những gì mà tôi đã được đào tạo để làm việc.

Ông trở nên buồn bã:

– Tôi muốn đạt được một sức mạnh cá nhân. Có nghĩa là phải giữ kín lại phần tâm

linh, nhưng đó là cái giá tôi phải trả. Có lẽ tôi có thể thay đổi mức độ ý thức riêng để đến một cường độ dao động cao hơn. Theo cách này, tôi sẽ phát triển mặt tâm linh để đến một nơi vượt khỏi vật chất, vượt khỏi thời gian. Nhưng tôi không bận tâm về điều đó. Những điều mà tôi và các bạn đồng nghiệp đang làm là rất tồi tệ. Mục đích của chúng tôi là điều khiển các nền văn minh chung quanh, chúng tôi đã thành công. Chúng tôi đã đạt được mục đích.

Tôi có thể đoán trước việc ông sẽ kiểm nghiệm lại cuộc đời mình. Ông hối tiếc những hành động và nhận ra ông đã chọn lầm đường. Giá như ông dùng năng lực của trí óc để làm việc tốt và thực hiện những mục đích cao thượng, chứ không phải vì sức mạnh hay vì nâng cao địa vị bản thân, thì có lẽ ông đã có một cuộc sống tốt hơn, hạnh phúc hơn. Ông đã phí đi sự thông thái, phí đi sức mạnh, và phí cả cuộc đời.

Sau khi ông về, tôi ghi lại 2 đoạn:

Thứ nhất, chuyện mà Hugh trở về kiếp trước tại Atlantis không chứng minh được gì về sự tồn tại của Atlantis hoặc chuyện mà tôi tin là có. Đây chỉ là sự trải nghiệm của ông, xét cho cùng, có lẽ ông đã nhìn thấy tương lai. Đó có thể là viễn tưởng, cũng có thể là sự thật. Điều quan trọng là ông đã biết hối tiếc, ông đã không đem cái sức mạnh siêu nhiên cho những mục đích cao cả. Có vẻ như đó là niềm hối tiếc của ngày nay.

Thứ hai là dường như trong thời gian đó có một mức độ công nghệ cao hơn những cái mà chúng ta đang sở hữu. Có lẽ nhiều người lúc đó đã đầu thai lại kiếp này bởi vì, một lần nữa, công nghệ của chúng ta đang tiến đến mức độ đã tồn tại từ thời xa xưa. Như vậy chúng ta nên nhìn lại những gì chúng ta đã học hỏi. Đó là một sự xung đột giữa thói quen yêu thương và thói quen ích kỷ của chúng ta với năng lực tiên tiến. Lần trước chúng ta gần như phá hủy cả hành tinh. Vậy giờ đây chúng ta sẽ lựa chọn điều gì?

Chuyến trở về kế tiếp Hugh thấy mình đang ở Châu Âu trong thời Trung Cổ, ông không chắc là nước nào.

Tôi là một người đàn ông to lớn, vạm vỡ. Tôi mặc áo dài thắt ngang lưng, đầu tóc rối bù. Tôi đang nói chuyện trước cuộc họp của một nhóm người trong thành phố. Đôi mắt tôi sắc lạnh, hoang dại, và mãnh liệt khác thường. Tôi nói với mọi người là họ không cần đi nhà thờ hoặc nghe lời cha xứ mà tìm Chúa. “Chúa ở trong bản thân các bạn, ở trong mỗi con người các bạn. Các bạn không cần những tên đạo đức giả đó chỉ đường tìm đến Chúa. Mỗi người đều sở hữu một trí tuệ siêu phàm. Tôi sẽ chỉ cho các bạn một cách rất đơn giản, và các bạn sẽ không còn lệ thuộc vào nhà thờ hay những

tên thầy tu hách dịch trong đó. Chúng sẽ mất hết quyền năng mà các bạn sẽ giành lại cho chính mình”.

Ngay sau đó, Hugh bị Giáo hội bắt giam và bị tra tấn để rút lại lời tuyên bố trước kia. Nhưng ông không rút lời cho dù ông bị cực hình dã man đến mức nào. Với cảm giác kinh hoàng ông kể với tôi rằng cuối cùng ông bị xé rời ra từng mảnh bằng một dụng cụ tra tấn đặt ngay quảng trường của thành phố, một phần là do cơn giận dữ điên cuồng của các giáo sĩ và cũng do họ muốn dùng ông để cảnh báo người dân trong thành phố đừng theo những tư tưởng nguy hiểm đó nữa.

Trong buổi ngắn ngủi kiểm nghiệm lại kiếp sống đó, ông đã tạo mối liên kết lại với một kiếp ở Atlantis mà tôi đã rút gọn trong phần ghi chú sau:

“Một sự đền bù quá mức! Hugh hướng đến tâm linh thay cho lòng ích kỷ trong sự phản kháng đối với kiếp sống ở Atlantis. Sự thông thái về khả năng của mức độ ý thức cao hơn đã đưa Hugh trở nên quá công khai, và không để ý đến quyền lực của Giáo hội Ky-tô giáo ở thời điểm đó, cũng như sự hăng hái của họ để loại bỏ những kẻ dị giáo hay bất cứ người nào đụng chạm đến quyền lực của nhà thờ, thậm chí ngay những mức độ thấp nhất.”

Hugh cần tạo những mối liên quan với kiếp hiện tại. Ông nói với tôi về những năng lực siêu nhiên của sức nhìn, nghe, và trí óc:

Năng lực tôi đã phát triển tại Atlantis. Ở đó tôi học được những kỹ năng ngoại cảm và tiên đoán.

Tôi hỏi:

Còn những lời nhắn nhủ thì sao? Ông trả lời nhanh:

Cái đó thì khác, chúng đến từ những linh hồn.

Linh hồn? Ý ông là sao? Ông tằng hắng:

Linh hồn. Những linh hồn lìa khỏi xác. Chắc chắn. Họ đã ban cho tôi sự thông thái, và nói với tôi về một chân lý.

Một chủ đề tương tự, nhiều bệnh nhân khác cũng đã nói về linh hồn, nhưng tôi khám phá ra một sự khác biệt. Khi ông ta về rồi, tôi ghi lại như sau:

“Nguồn gốc thông thái của Hugh đối với người khác được lộ ra, cho thấy Hugh đang cố gắng phù phép để ngăn chận sự cố gắng phá hủy thể chất len lỏi vào thân thể ông ở kiếp sống vào thời Trung Cổ. Một cách khác ông nói rằng:

‘Không phải tôi. Tôi chỉ nghe được từ những người khác, cho dù là những linh hồn’. Quả là một kế hoạch an toàn, vì có năng lực siêu nhiên rất nguy hiểm. Nhưng trong một mức độ nào đó các linh hồn cũng ngăn chặn ông đạt được cấp độ cao hơn của ý thức đa dạng.”

Tôi nghĩ có lẽ ông sẽ đạt được cấp độ cao hơn như vậy nếu tôi đưa ông đi đến tương lai. Ông quả là một nhà ngoại cảm tài năng. Biết đâu ông sẽ giỏi hơn và cẩn thận hơn những người khác nếu ông có thể nắm giữ những gì sẽ đến? Ông sẽ không cần đến phép trị liệu. Ông đã hiểu được nguyên nhân của nỗi lo lắng, và đạt được một thỏa thuận của năng lực siêu nhiên. Nhưng tôi vẫn cứ tò mò về những điều ông khám phá.

Không biết ông có thích đi đến tương lai và cho tôi đi theo? Hầu như ông không thể đợi được nữa.

Có lẽ Hugh đã đi quá sâu. Dường như ông đang trải nghiệm hai cuộc hành trình cùng một lúc, một đi đến tương lai, và một đi đến mức độ ý thức càng lúc càng cao hơn, đến những thế giới khác, những cảnh giới khác ở trên và vượt qua thế giới này. Ông kể lại giọng đầy kính sợ:

Một cấp độ kế tiếp vuợt qua cấp độ của chúng ta, không dày đặc như chúng ta biết. Có một vấn đề rắc rối ở đó. Dù con đường gian nan đầy hiểm nguy, nhưng khi chúng tôi đến thì trí tuệ nhiều hơn, thể chất giảm bớt. Mọi người đều có khả năng ngoại cảm. Có một dao động cao hơn. Thân thể chúng tôi nhẹ nhàng, di chuyển dễ dàng hơn.

Trong một phạm vi nào đó nó giống như ở Atlantis mà ông đã mô tả trong lần đầu tiên trở về quá khứ. Nhưng ở đây còn hơn nữa.

Tôi đang đi lên, lên mãi. Tại những cấp độ khác nhau có nhiều sự thay đổi về chất lượng ánh sáng. Tôi không thể miêu tả được. Nó sáng hơn, mềm mại hơn, không màu sắc, hoặc có tất cả các màu. Nó đưa đến nhiều cõi ngoài ánh sáng và vượt qua nơi mà tư tưởng có thể chạm đến. Đây là cấp độ mà trí tuệ con người không thể hiểu được. Tôi vẫn tiếp tục đi. Không có điểm kết thúc. Tôi vượt qua không gian vô tận và, nếu có thể, thậm chí qua khỏi cả nơi đó.

Cả hai chúng tôi đều có cảm giác rằng đây là những nơi đích thực rất bình yên và tuyệt đẹp, tuy vậy từ tuyệt đẹp thì quá đơn điệu. Hugh miêu tả bằng dáng điệu nhiều

hơn là lời nói. Sự kiện mà ông vẽ ra nằm ngoài ngôn từ mà ông có. Đó là nét đẹp thanh thản trên gương mặt ông, gương mặt dùng để hùng biện giờ đây đã không còn nhăn nhúm nữa. Ông diễn tả một đời sống tương lai không phải của riêng ông mà là một tương lai chung.

Sau này khi tôi bắt đầu đưa những người trong cuộc hội thảo hay trong buổi hợp nhóm đến tương lai, thì thường cũng có trường hợp đó, tôi sẽ nói đến vào chương cuối.

Hugh nói:

Chuyến đi này giống như máy bay đang cất cánh trong cơn bão sấm sét. Khi chúng tôi lên đến tầng mây thì trời tối dần. Có nhiều hỗn loạn, sợ hãi, lo lắng. Nhưng rồi chúng tôi cũng xuyên qua lớp mây và vượt ra một phía khác đi vào bầu trời sáng chói, vầng thái dương rực sáng chiếu qua nhiều bóng râm. Phải mất nhiều năm, nhiều thế kỷ để vượt qua những đám mây đó, thời gian trôi qua những đám mây đó càng ngày càng đáng sợ. Những đám mây của nghịch cảnh và tai ương sẽ đe dọa nền văn minh của chúng ta. Nhưng rồi khoảng tám trăm hoặc một ngàn năm, có thể hơn nữa, những đám mây đó sẽ biến mất, sự hỗn loạn sẽ biến mất, và sẽ có cảm giác bình yên, kính sợ và an toàn.

Ông cúi về phía trước, giãi bày với tôi trong tình trạng bị thôi miên.

Con người ở bên phía khác của cơn bão có khả năng tinh thần và khả năng siêu nhiên mạnh hơn là tôi đang có. Họ là nhà ngoại cảm.

Giọng nói ông hầu như thầm thì:

– Họ có thể thâu tóm mọi hiểu biết. Họ có quyền năng tuyệt đối về tinh thần.

Có lẽ Hugh đang miêu tả khái niệm của Carl Jung về hệ vô thức chung, hoặc khái niệm mà tôn giáo Phương Đông gọi là Tạng Thức[12]. Tạng thức giống như một bộ hồ sơ: mỗi hành động dù là nhỏ nhất, mỗi ý niệm dù không đáng kể của nhân loại từ thời mới sơ khai đều được lưu giữ. Tôi cho rằng có lẽ các nhà ngoại cảm đã sao chép lại từ đó để tìm hiểu những ý niệm, những giấc mơ của người khác. Đó là những điều ông kể về dân ở thành phố Trung Cổ. Trong hình ảnh về tương lai ông đã thông thạo những điều mà người Atlantis đã tìm kiếm. Họ có thể chuyển đổi vật chất thành năng lượng và năng lượng thành vật chất. Họ còn có thể thay đổi những mẫu nhỏ cơ bản thành từng cái khác bằng cách sử dụng sức mạnh của ý thức. Vào thời Atlantis sức

mạnh này được sử dụng cho tội ác. Vào thời Trung Cổ, dù Hugh không nói rõ, các nhà nghiên cứu thuật chế kim đã cố gắng chế biến khoáng sản thành vàng. Trong tương lai mà Hugh nhìn thấy, mỗi người đều là nhà chế kim, họ đang sử dụng sức mạnh vào mục đích tốt đẹp. Họ đã vượt qua khỏi những đám mây xám xịt và đi vào vùng trời xanh thẳm có ánh sáng vàng rực.

Tôi nghĩ rằng cuộc truy lùng của Hugh là một ẩn dụ để thay đổi bản thân chúng ta từ phần vật chất đến phần tâm linh, và có vẻ như ông đã đạt được kết quả này trong một thời tương lai xa hơn nữa. Có lẽ tất cả chúng ta, những người đã bỏ lại những nghịch cảnh và tai ương, đều sẽ đạt được như vậy. Những điều mà ông đem về từ tương lai có thể hiểu rằng: Trong lúc ông đang dự kiến thì thân thể vật chất có thể đã thay đổi. Con người có thể tùy ý đi ra đi vào thể xác. Họ có thể lìa khỏi xác bất cứ lúc nào họ muốn. Kể cả người chết cũng vậy. Không còn bệnh tật nữa, bệnh tật về tinh thần hoặc thể xác đều biến mất bởi vì con người đã biết làm thế nào để hiệu chỉnh lại sự hỗn loạn năng lực mà đã gây ra bệnh tật cho thể chất.

Tôi đã hiểu ra tại sao những chuyến du hành đến tương lai ông đều đi đường kép. Có lúc bị dày vò đau khổ, rồi có lúc lại là thiên đường. Cuối cùng thì tương lai đó hình thành đường cong càng lúc càng cao hơn, trở nên siêu phàm hơn cho đến khi nó liên kết với quá trình tiến triển đến cấp độ cao hơn của ý thức, những cảnh giới hay thế giới cao hơn mà Hugh đã nhìn thấy trong cuộc hành trình đi tới. Nói một cách khác, cho dù ông đang đi hai hướng, thì đích đến cũng giống nhau. Trong cuộc hành trình đầu tiên ông đi thẳng đến các cấp độ cao hơn của ý thức. Lần thứ hai ông đến những kiếp tương lai ở đây trên hành tinh này. Cả hai kiếp tương lai đều đạt đến cảnh giới cao nhất, và có lúc gặp tại một điểm nào đó trên đường. Hugh nói về tương lai của chúng ta giống như những nhánh đường sắt, luôn luôn dẫn đến một sân ga chính. Bất kể con đường nào chúng ta đi đều đưa chúng ta đến cùng một nơi, và nơi đó có một niềm hân hoan vượt qua tất cả những cảnh giới và tất cả sự hiểu biết của con người.

Bây giờ sống trong kiếp hiện tại Hugh không còn cảm thấy khác biệt vì ông biết được tài năng của ông bị chi phối bởi tất cả chúng ta, cho dù những tài năng đó hầu như đang tiềm ẩn. Ông cảm thấy mình tốt hơn và có đặc ân được phép lướt qua những cảnh giới cao hơn. Ông nhận thức công việc mình rõ ràng hơn, và giờ đây dường như ông nhận được thông tin từ những cấp độ cao hơn. Ông không còn cho rằng sự thông thái của mình là những linh hồn bên ngoài riêng rẽ do nỗi sợ hãi mang theo từ thời Trung Cổ. Ông biết sức mạnh nằm bên trong con người ông. Ông hạnh phúc hơn, và đó là phương tiện tốt nhất của chuyến du hành. Sự rõ ràng trong cách lý giải của ông làm sáng tỏ ý định ông giúp đỡ người khác, làm sáng tỏ ý chí thay đổi nỗi tuyệt vọng thành niềm hy vọng, và làm sáng tỏ cuộc đời ông. Ông trở thành nhà chế kim mà ông

đã dự định từ nhiều thiên niên kỷ trước.

Tôi đưa câu chuyện của ông vào cuộc thảo luận về lòng thương cảm không phải vì ông cần học hỏi điều đó trên con đường ông đi đến sự bất diệt, mà bởi vì điều ông có được quá mức thừa thãi. Ông cảm thấy đau khổ và thương yêu cho tất cả những người đến với ông, trong cách làm như vậy ông đã từ bỏ bản thân quá nhiều. Không có lòng thương cảm, con người không thể đạt đến trình độ phát triển cao hơn trong những kiếp tới.

Cũng như những đức hạnh đã thảo luận trong cuốn sách này, lòng thương cảm là một phần của toàn thể. Con người nên biết thương cảm cho người khác và cho cả chính mình.

***

Chitra, ba mươi lăm tuổi, cũng là người ban phát lòng thương cảm mà không cần báo ơn. Một nhà sinh vật học chuyên nghiên cứu về phân tử. Cô dành cả ban ngày trong phòng thí nghiệm, và ban đêm cô dành thời gian chăm sóc người mẹ hay ốm đau và khắt khe. Cô đã chăm sóc bà mười năm rồi. Cô không có thời gian giao tiếp với xã hội, thật ra, không còn một chút gì cho riêng cô.

Cô là con gái út trong gia đình người Ấn Độ di cư qua Mỹ. Lúc qua Mỹ cô vẫn còn nhỏ và luôn được giáo dục theo truyền thống đạo Hindu. Cô được giao phó chăm sóc bà mẹ. Vợ chồng người anh trai thì không muốn lo và cả người chị gái đã có chồng và hai con cũng vậy.

Chitra đã lập gia đình với một người chồng già hơn cô rất nhiều, một cuộc hôn nhân do gia đình lựa chọn, chồng cô giờ đã chết mà cô chưa có con. Do đó cô phải gánh vác việc chăm sóc mẹ.

Khi đến chỗ tôi, cô than phiền rằng mẹ cô dựa dẫm và bảo hộ cô quá đáng làm cô nghẹt thở. Thật sự cô thở rất nặng nhọc, và khi nói cũng khó thành lời. Tiếng Hindu là tiếng mẹ đẻ nhưng cô nói tiếng Anh rất lưu loát và mẹ cô cũng vậy. Cô chỉ mặc xari, ngoại trừ khi đi làm thì cô mặc quần jean áo thun và khoác áo đồng phục trong phòng thí nghiệm. Cô là một sự pha trộn vừa khác lạ vừa thích thú của hai nền văn hóa, tuy vậy tôi không tin rằng rằng cô đang hạnh phúc. Chính nền văn hóa cũ đã kìm hãm thú vui của cô ở tuổi thanh xuân.

Người Hindu thường tin vào sự đầu thai, nhưng họ tin vì đó là niềm tin tín ngưỡng. Để sử dụng như một công cụ trị liệu thì họ hoàn toàn không biết. Chitra có thể hoặc

không thể tin vào những kiếp quá khứ. Cô trầm lặng khi tôi bắt đầu thảo luận về vấn đề đó. Tuy nhiên cô sẵn sàng đồng ý một cuộc trở về quá khứ. Sau hai tuần thực hành thư giãn và phương pháp thôi miên, cô có thể bước vào một tình trạng bị thôi miên vừa phải. Những biểu hiện của cô khá mơ hồ và lời nói thì ngập ngừng.

Tôi sống tại Ấn Độ… một cô gái làng chơi nhưng không thật vậy… tôi đi khắp nơi cùng với quân đội đang chiến đấu với kẻ thù… tôi không biết năm nào… không xưa lắm… người ta nói tôi cần thiết cho những người lính… họ rất quan trọng… họ là quân đội của tôi, là dân của tôi… họ phải được chăm sóc… tôi cung cấp cho họ… thỏa mãn tình dục cho họ… tôi ghét những việc tôi phải làm… tôi có thể nhìn thấy mình đang chết… tôi vẫn còn rất trẻ… vâng tôi đang chết… chết vì sinh con.

Thì ra là thế. Trong hồi ức về kiếp trước cô nhận ra cô không muốn sống lay lất ở một nơi như vậy. Giúp những người lính Ấn Độ chống lại kẻ thù không có gì cao đẹp cả. Đó là một tục lệ được quy ước bởi lòng ích kỷ và bởi những tên đàn ông dã man, vì là phụ nữ, cô bị mắc kẹt và chịu thua.

Lần trở về kế tiếp cũng rất ngắn.

Tôi là phụ nữ… áo choàng làm lễ hiến tế… Tôi phải chết để bảo đảm trúng mùa gặt hái… Có lẽ cái chết của tôi sẽ bảo vệ người dân thoát khỏi kẻ thù… từ tai họa của thiên nhiên… Người ta nói tôi rất danh dự được chết… Tôi và gia đình sẽ được ân sủng ở kiếp sau… Một thanh gươm trên đầu tôi… nó giáng xuống.

Trong hai lần cô đều khó thở, và lần nào tôi cũng nhanh chóng đem cô trở về. Chitra cần học hỏi từ những đời sống đó, nhưng không được đầy đủ chi tiết lắm. Cô đã trải qua những nỗi bất hạnh, và khi chúng tôi nói về điều đó, cô nhận ra sự bạo động đối nghịch với những khái niệm tâm linh. Những hứa hẹn hão huyền cho những ân huệ về sau là những lời dối trá có tính tư lợi nhân danh những tay tướng lãnh hoặc những trưởng lão, mà quyền lực của họ dựa trên sự ngu dốt, lừa gạt, và sợ hãi.

Chúng tôi khám phá ra một mắt xích trong hai kiếp và mối liên quan của chúng với tình thế của Chitra hiện tại. Cả hai lần trở về cô đều bị bắt buộc hy sinh mạng sống của mình, hy sinh những mục đích riêng, và cả hạnh phúc riêng tư để phục vụ cho sự cao cả. Và thực tế, sự hy sinh đã giết cô lúc đó như nó đang giết cô trong lúc này.

Mẹ của Chitra cũng có một hồi ức về kiếp sống trước, dù bà chưa hề đến văn phòng tôi. Thích thú vì công việc chúng tôi đang làm, Chitra đem những đĩa CD của tôi về nhà để thực hành, giống như tôi thường khuyến khích bệnh nhân. Mẹ cô lắng nghe và

nhìn thấy mình cách đây khoảng ba thế kỷ là một người vợ Ấn Độ còn trẻ. Lúc đó Chitra là người chồng mà bà quá mực yêu thương, mối quan tâm chính trong cuộc sống của bà. Nhưng ông ta chết sớm, có lẽ do nọc độc của rắn cắn. Khi bà quay về hiện tại, bà hiểu rằng bà đã quá bám chặt Chitra, con gái bà, và giải thích với Chitra rằng đó là sự phản ứng bởi sự mất mát cách đây nhiều thế kỷ. Giờ đây Chitra nhận ra sự dựa dẫm và bảo hộ quá đáng của mẹ mình là do nguyên nhân từ kiếp trước, không phải ở kiếp này, và cô dễ dàng tha thứ hơn.

Mẹ cô bắt đầu thay đổi. Bà khắc phục những hủ tục từ từ, bớt bám chặt, bớt bảo hộ. Bà trở nên thoải mái hơn khi dành thời gian cho những đứa con khác, và thậm chí bà còn vui vẻ để Chitra giao du ngoài xã hội, bất kể có khả năng Chitra sẽ đi đến một mối quan hệ khác đụng chạm đến sự dựa dẫm của bà. Sự nối tiếp này giúp Chitra cải thiện quan điểm riêng. Lần đầu tiên cô nhìn xa hơn mà không sợ hãi, và đồng ý để tôi đưa cô đi đến tương lai.

Chitra trải qua ba kiếp tương lai chỉ trong một chuyến du hành. Trong chuyến đầu tiên cô thấy mình là người hộ lý quan trọng cho một đứa trẻ bị teo cơ, gầy trơ xương và yếu thần kinh. Động cơ gia đình đòi hỏi Chitra dành hết thời gian và sức lực cho cô gái nhỏ đó với tiền công ít ỏi.

Chồng cô trong kiếp đó là người ít xúc cảm và thường hơi thô bạo; đơn giản chỉ vì anh ta không thể đối đầu với nghịch cảnh. Với tôi nguồn thương cảm, tình yêu thương, và năng lực dường như chỉ có duy nhất một hướng ra bên ngoài, còn với Chitra thì cho đi mà không bao giờ nhận lại.

Trong chuyến đi thứ hai, thể xác Chitra bị đau đớn vô cùng vì bị thương trong một tai nạn xe cộ. Cô nói rằng:

Không thể gọi là xe hơi. Nó giống như một hình trụ có cửa sổ khổng lồ đang bay. Dù sao thì chương trình của nó cũng bị trục trặc, ồ! rầm, nó đâm vào ngọn cây.

Chitra đờ người và cần được phục hồi tâm lý và co giãn thân thể. Cô nói với giọng hài lòng:

Mức độ kỹ thuật y học rất tiến bộ. Nhưng tôi phải mất hơn một năm trời để hồi phục hệ mô thần kinh của cả bộ não và dây cột sống.

Chitra mỉm cười:

– Nhân viên bệnh viện rất tuyệt vời, nhưng việc hồi phục rất khó. Nếu không có tình

yêu của gia đình và bạn bè tôi không chắc là mình có thể phục hồi được. Chồng tôi rất đáng yêu, và các con tôi, hai gái một trai. Ồ! Phòng tôi đầy hoa. Người ta gọi phòng bệnh của tôi là vườn Địa Đàng.

Tôi nghĩ đây là điều trái ngược của kiếp trước. Một lần nữa, thương cảm, yêu thương, và năng lực chỉ có duy nhất một hướng đi ra, nhưng lần này chúng tuôn chảy thành dòng.

Trong chuyến đi thứ ba, Chitra là một bác sĩ phẫu thuật, chuyên về thuật chỉnh hình và hệ thần kinh. Khi tôi chỉ ra điều này quá khác thường vì một người mà có hai lãnh vực tinh thông khác nhau như vậy thì cô giải thích:

Tôi làm việc bằng gậy hoặc thạch anh, chúng phát ra ánh sáng, năng lượng để điều trị rất hiệu quả, bất kể là xương hay não. Chúng cũng có năng lượng âm thanh giúp cho việc hồi phục cơ bắp, tứ chi, và dây chằng.

Chitra tìm được niềm vui lớn từ những kết quả của sự thông thái và những kỹ năng. Sự phản hồi tích cực này không phải do bệnh nhân của cô hay gia đình họ, mà do bạn đồng nghiệp của cô có trình độ chuyên môn. Cuộc sống gia đình cô cũng rất hạnh phúc và khỏe mạnh. Trong kiếp sống đó dường như cô đã đạt được một sự cân bằng đích thực của dòng chảy, ra vào đều đặn. Cô dễ dàng yêu thương người khác và cả chính bản thân cô. Chitra kể với tôi rằng cô đã kiểm lại kiếp sống tương lai thứ ba từ một triển vọng cao hơn, nghĩa là cô đã phát triển đến một cấp độ mới. Cô vẫn còn trong trạng thái bị thôi miên khi cô kể chuyện này, nhưng rồi cô bỗng nhiên ngừng lại …

Tôi không biết kiếp sống này sẽ kết thúc như thế nào. Rất hoang mang. Bây giờ tôi phải rời bỏ thôi.

Như thường lệ, cô không phải là người nấn ná lại trong kiếp quá khứ cũng như kiếp tương lai.

Hào hứng và náo nhiệt bởi cuộc hành trình cô chợt quay về hiện tại. Cô giải thích:

Tất cả các kiếp sống từ quá khứ đến hiện tại đều liên hệ với nhau, như kiếp này và kiếp trước mà mẹ tôi đã mô tả. Những gì tôi phải làm là cân bằng lòng thương cảm cũng như tình yêu thương, để được nhận và cho đi.

Quyết tâm của cô quá rõ ràng. Cô nói:

Những mục đích của đời tôi không bao giờ còn là vật hy sinh nữa, không vì những giá trị văn hóa, hoàn cảnh cá nhân, hay tội lỗi.

Cô có thể biểu hiện sự giận dữ, lòng oán hờn đối với mẹ và anh chị cô đã đẩy cô vào vai trò người chăm sóc, bất kể điều cấm kỵ về văn hóa ngăn chặn sự nổi loạn như vậy, và theo cách đó bản thân cô sống tự do.

Chúng tôi quay lại kiếp sống tương lai thứ ba, và lần này cô có thể nhìn thấy đoạn cuối: cô chết lúc tuổi già và do nguyên nhân tự nhiên. Khi kiểm nghiệm lại kiếp sống của cô, những ý nghĩa đã né tránh tôi lại hiện lên rành rành trước mắt cô. Cô giải thích:

Trong ba kiếp tương lai không hề liên tiếp hay đều đặn. Chúng là những biểu thị có thể xảy ra cho những kiếp tới dựa vào những gì tôi làm trong kiếp này.

Về một ý nghĩa nào đó, chúng là những kiếp tương lai song song tuôn chảy cùng một lúc. Một kiếp mà cô đã đi đến đoạn cuối có thể xuất phát từ nội dung của phần còn lại trong kiếp hiện tại. Cô kể rằng:

Thật ra có vô số kiếp tương lai có thể xảy ra, tôi đã chứng kiến tất cả sự thay đổi của ba kiếp. Điều đó không chỉ là ý thức của tôi mà còn là tư tưởng và hành động chung của toàn bộ nhân loại, con người sẽ có một vai trò trong việc nặn hình một người trở thành người thật. Nếu chúng ta ý thức giữ lấy lòng thương cảm, sự đồng cảm, tình yêu thương, sự kiên nhẫn, và lòng tha thứ, thì thế giới sau này sẽ trở nên kỳ diệu hơn là nếu chúng ta không nắm giữ.

Ngôn ngữ của cô thay đổi rõ rệt. Cô không nói từng câu ngắn, đứt đoạn. Tư tưởng và từ ngữ của cô sành điệu hơn cho thấy rằng một mối liên quan đến mức độ cao hơn của ý thức. Người phụ nữ trẻ thông minh này đã dạy tôi rất nhiều điều.

Khi cô ra về tôi ghi lại:

“Chúng ta có rất nhiều năng lực làm ảnh hưởng tích cực đến những kiếp sống tương lai riêng lẻ cũng như tương lai còn lại của kiếp hiện tại, hơn là chúng ta làm ảnh hưởng đến cả hành tinh này hoặc tương lai chung của nhân loại. Tuy nhiên, những tương lai riêng lẻ biểu lộ bản thân chúng vào tương lai chung, và hành động của mỗi người sẽ quyết định vào một tương lai nào trong vô số mà chúng ta sẽ trở về.

Nếu Chitra cứ bị kẹt vào một mẫu gia đình như vậy, rồi cô sẽ phải trải qua một tương lai như một nạn nhân tê liệt bị bắt buộc nhận tình yêu. Nếu cô chợt từ bỏ, đột ngột kết

thúc mối quan hệ với mẹ cô, rời bỏ bà mà không có cách giải quyết thỏa đáng, thì cô có thể phải trở lại làm một người hộ lý của đứa bé bị bệnh nghiêm trọng. Vì đó là cách mà chúng ta phải làm như thế nào.

Chúng ta thường xuyên đối mặt với những tình huống tương tự như chúng ta đang tìm kiếm để học hỏi sự cân bằng hợp lý giữa cho và nhận, giữa hy sinh và thương cảm cho bản thân, cho đến khi chúng ta đạt được tình trạng hài hòa. Cho đi những gì cô đã học hỏi và nhận rõ sự cân bằng đó, Chitra đã trở lại thành một nhà phẫu thuật chỉnh hình và hệ thần kinh, nhưng cô có thể sinh vào một thế giới nhiều hoặc ít bạo động, nhiều hoặc ít lòng thương cảm và tình yêu, lệ thuộc vào sự hòa nhịp mà người khác đạt được. Nếu có đủ những người trong số chúng ta bằng cách nào đó nâng cao ý thức con người, nếu chúng ta chấp thuận thay đổi một tương lai chung bằng cách nâng cao tương lai riêng lẻ của mỗi chúng ta, chúng ta thật sự có thể thay đổi tương lai của cả thế giới và cả nhân loại.”

***

Như chúng ta đã thấy, lòng thương cảm liên quan đến sự đồng cảm, và cả tình yêu, những cảm xúc đó đều xuất phát từ trái tim.

Đồng cảm và thương cảm thường đuợc dùng như từ đồng nghĩa, nhưng thật ra hai thành tố này khác nhau trong tâm trí con người. Một cách chính xác, khi bạn hiểu được những tâm tư tình cảm của người khác như của chính bạn và bạn có thể tự đặt mình vào hoàn cảnh của họ, thì như vậy, rõ ràng bạn có lòng thương cảm với người đó. Tuy nhiên bạn có thể thương cảm mà không hề đồng cảm. Bạn cũng có thể thương cảm một người nào đó hoặc kể cả những sinh vật, thú vật ngay khi bạn không cảm nhận được những xúc cảm của họ.

Trong triết lý Phật giáo thường chỉ dẫn chúng ta lòng từ bi đối với vạn vật bởi vì tất cả chúng sinh đều có linh hồn. Quả đúng như vậy, muôn thú có thể đã từng là con người trong những kiếp quá khứ và cũng có thể sẽ lại làm người trong những kiếp tương lai. Mặc dù điều này không tìm thấy trong sách của tôi, nhưng nó không có nghĩa là khái niệm này không đúng. Có thể rằng con người không hề nhớ được những kiếp sống của họ như một loài giống khác. Vì vậy, bạn dễ thương cảm một con bọ cánh hay một con gấu mà không cần phải đồng cảm với chúng, không cần đặt bạn vào tình huống của chúng.

Lòng thương cảm toát ra từ trong trái tim, và nó được biểu thị bằng cử chỉ ân cần và tấm lòng nhân ái đối với muôn loài chúng sinh. Chúa Giê-Su có một tấm lòng từ bi cao ngất, và chúng ta cũng biết là Thánh Gandi cũng vậy. Nếu trái tim của bạn hướng đến người khác thì bạn là người có lòng thương cảm. Hành động ngẫu nhiên của lòng tốt như nhường cho người khác bước lên xếp hàng trước bạn, nhường ghế cho một phụ nữ mang thai, cứu trợ cho những người vô gia cư, là phẩm chất của cách cư xử có lòng thương cảm. Tuy nhiên, chỉ khi nào hành động tốt đó xuất phát từ sự bất giác đích thực chứ không phải vì bạn có chủ ý để làm một việc tốt, hoặc bạn làm vì mục đích để nhận lại những phước báu trên thiên đường.

Lòng thương cảm thuộc về bản năng nhiều hơn, còn sự đồng cảm thì lại dựa trên trí tuệ, xuất phát từ hai điểm khác nhau. Nếu cha bạn là một người thô bạo, bạn đâu cần thiết phải thương cảm với ông. Có lẽ bạn nhận ra rằng: “Ồ, ông nội đã từng đối xử với cha như vậy, và cha đã bị thấm những hành động xấu xa đó. Giờ đây ông lại muốn truyền những hành động đó cho mình. Mình đồng cảm với những gì cha đã bị xúc phạm vì mình hiểu những cảm xúc của ông, nhưng mình sẽ không lập lại cách cư xử thô bạo như vậy vì mình đã thấm nhuần bài học tốt đẹp hơn.”

Đó là bài thực hành trí tuệ. Tuy nhiên, nói một cách lý tưởng hơn, ngay khi trong trường hợp cực đoan như người cha thô bạo, khi bạn có thể đồng cảm với cha bạn thì

bạn cũng sẽ bắt đầu thương cảm cho ông. Có lẽ điều này cũng rất khó. Có thể ông lại vẫn cứ thô bạo với bạn như trước.

Nhưng ông cũng chỉ là một con người bị tổn thương như chính bạn mà thôi, và khi bạn hiểu thấu đáo thì trái tim và cả trí tuệ của bạn sẽ có câu trả lời như nhau. Nếu bạn trả lời, nếu bạn có khả năng vượt khỏi những tổn thương của bạn, bạn sẽ thấy rõ đồng cảm và thương cảm hòa nhập với nhau. Cả hai sẽ đưa bạn đến một điểm cuối cùng của tất cả những bài học trên một quãng đường đi đến sự bất diệt: tình yêu tinh thần, tình yêu không điều kiện, tình yêu đó rất trong sáng và vĩnh cửu.

***

Tôi đã biết ông rất nổi tiếng về điều trị bệnh nhân bằng cách đưa họ trở về quá khứ, có đúng không?

Người đàn ông điện thoại đến cho tôi tên là Hugh, và nếu tôi nổi tiếng trong lãnh vực của tôi thì ông cũng nổi tiếng trong lãnh vực của ông. Ông là một người có năng lực siêu nhiên, chương trình của ông trên truyền hình địa phương thu hút hàng ngàn khán giả,

phần lớn họ muốn liên lạc với những người thân đã chết. Bản thân tôi không phải là một nhà ngoại cảm, không kể đến phạm vi siêu nhiên mà tất cả chúng ta đôi khi cũng có. “Linh cảm” dẫn đến một quyết định kinh doanh chính xác. “Vật bảo đảm” khiến chúng ta chọn con đường đời này trước con đường khác. Nhưng tôi biết điều này có thực. Tôi khâm phục những người giống như John Edward và James Van Praagh, họ dường như sở hữu nó và dùng nó để chữa lành bệnh, và tôi đã có kinh nghiệm từ lâu là không gièm pha những điều mà tôi không hiểu.

Tôi xác nhận với ông ta:

Vâng, đã có vài thành công với bệnh nhân. Có phải cuộc điện thoại này liên quan đến phép trị liệu?

Ông ta cười với một âm vực cao, đầy hồi hộp:

Vâng. Của tôi đó. Năng lực siêu linh, chữa lành cho chính ông? Dường như tôi không thể chữa cho riêng mình.

Chúng tôi hẹn gặp vào tuần tới, và tôi rất hồ hởi chờ đợi. Tôi đã từng chữa trị cho nhiều bệnh nhân có năng lực ngoại cảm, và thấy họ đều thích thú. Độ nhạy cảm của

họ rất cao và sự thẳng thắn của họ đối với khái niệm về những kiếp quá khứ khiến họ đặc biệt thích hợp với phép trị liệu theo cách quay về quá khứ.

Hugh là người đàn ông mảnh khảnh, hơi thấp và ốm nhom, không còn vẻ oai vệ như tôi đã nhìn thấy ông một lần trong chương trình truyền hình đầy sức hút. Gương mặt ông ta hơi hồng vì còn phấn trang điểm, quần áo có vẻ hơi quá khổ. Rõ ràng là ông đang hồi hộp bởi con mắt liếc đảo nhanh khắp phòng như con đom đóm, và phải thường xuyên hắng giọng trước khi nói, tuy vậy, khi bắt đầu ông ta rất hùng hồn.

Tôi hỏi:

Chuyện gì vậy?

Tôi quá đuối sức. Xương cốt rã rời. Không phải về thể chất, mặc dù tôi ít tập thể dục, mà về tinh thần. Tôi có cảm giác như thể mọi người trên thế giới đeo bám tôi, muốn tôi đưa họ gặp người thân đã chết. Vì họ cần quá, năn nỉ quá, xứng đáng quá, thèm khát chính đáng quá nên khi tôi từ chối tôi cảm thấy có tội, một cái tội to lớn cân nặng hàng triệu pao mà tôi không thể vứt bỏ.

Bất kể người nào đang ở trong phố hoặc trên đường đều muốn nhờ ông lý giải hoặc thông báo hoặc phán truyền dùm họ từ một cảnh giới xa xăm, nhưng đâu phải lúc nào cũng làm được như vậy. Ông không thể gọi một người bà con của ai đó, nhảy xổ vào cõi xa xăm, và cung cấp một lời nhắn gởi như họ mong đợi. Công việc của ông mất rất nhiều năng lượng, sức mạnh và thời gian, và ông đã mất hết sinh khí. Tôi đồng cảm với ông. Trong phạm vi nào đó, tôi đã từng bị tấn công theo một dạng giống như vậy. Tôi cũng bị chặn lại trong nhà hàng hoặc ngay buổi nghỉ giải lao trong những cuộc hội thảo. Nếu như người ta biết việc quay về là một quá trình tốn nhiều thời gian, nhưng hiểu biết mà thiếu sự cay đắng thì tôi không thể giúp đỡ cho họ. Người ta dường như nghĩ rằng Hugh có thể lấy thông tin cho họ trong lúc ông đang ăn tối. Ông muốn giúp họ – ồ, ông ao ước làm sao mà ông có thể giúp tất cả mọi người! Giá mà ông không tự cảm thấy vô dụng, và mỗi khi từ chối một lời thỉnh cầu nỗi lo lắng của ông lại tăng lên.

Ông kể cho tôi nghe rằng ông có khả năng nhìn thấy những sự kiện sẽ xảy ra ở một thời điểm tương lai, hoặc những tồn tại mà mắt thường không thể nhìn thấy, và ông cũng có thể nghe những lời nhắn nhủ chỉ nói với riêng ông. Hầu hết những nhà ngoại cảm tự biểu hiện khả năng này rất sớm, ví dụ như nhiều đứa trẻ có bạn bè trong trí tưởng tượng, đơn giản chỉ vì chúng rất cô đơn và khao khát tình bạn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp bạn bè cũng không phải trong trí tưởng tượng. Trong một cuốn sách

khác tôi có kể về một bé gái mà mẹ của bé không thể hiểu tại sao cô bé không hề tỏ ra đau buồn trước cái chết của bà ngoại. Cô bé nói với mẹ rằng “Tại sao con phải buồn chứ? Con vừa nói chuyện với bà đây mà. Bà ngồi trong phòng con đó mẹ.” Bà ngoại đã kể cho cô bé nghe về những bí mật trong thời thơ ấu của mẹ cô, những bí mật mà một mình cô không thể khám ra được, điều đó đã tạo nên một giá trị vững chắc cho câu chuyện. Những đứa trẻ khác thì có thể nhìn thấy trước tai nạn hoặc nghe được những thông điệp và những sự việc đó đều thật sự xảy ra, đây là những bằng chứng của hiện tượng siêu nhiên.

Thường thường, năng lực siêu nhiên của đứa trẻ biến mất trước khi nó lên 6 tuổi. Tuy vậy, thỉnh thoảng năng lực siêu nhiên này không chỉ vẫn tồn tại trong con người mà còn phát triển mạnh hơn nữa. Đây là trường hợp của Hugh. Ông ta nói:

Hồi còn nhỏ, mấy đứa trẻ khác nói tôi là phù thủy. Chúng nói tôi là “đồ điên” khi tôi kể lại rằng tôi nhận được thông điệp của một người chết đang cố cảnh báo chúng. Gia đình chúng cấm chúng chơi với tôi. Họ khiến tôi cảm thấy mình bị điên. Nhưng điều đó không ngăn được những cảnh tượng hoặc những thông điệp. Vì vậy tôi giữ những điều đó cho riêng mình, không cho ai biết. Hồi đó tôi rất khác lạ.

Ông ngừng lại một chút để tằng hắng.

– Và bây giờ tôi vẫn cứ khác lạ.

Lúc nhỏ ông phát huy lòng tự trọng rất ít, cho đến lớn vẫn như vậy. Chúng tôi đã có nhiều buổi làm việc và thấy rằng vấn đề đó và những cái khác liên kết với nhau. Nhưng tôi đã biết rằng chúng tôi phải đi sâu hơn chứ không chỉ ở tính nhạy cảm của thời thơ ấu. Tôi đề nghị một chuyến đi về quá khứ. Ông cười, nói:

– Đó là lý do tôi có mặt ở đây.

Hugh rất dễ dàng đi vào trạng thái thôi miên. Vì hồi nhỏ ông ta đã thực hành theo một cách nào đó. Ông bắt đầu:

Tôi nhìn thấy nhiều chiếc xe đang bay. Không giống máy bay lắm, giống xe hơi hơn, ồ xe hơi có thể bay, vận hành bằng năng lượng sạch. Chúng lượn lòng vòng trên những tòa nhà chọc trời sang trọng làm bằng kính. Bên trong tòa nhà nhân viên đang làm việc với công nghệ tiên tiến. Tôi là người trong số họ, một trong những nhà khoa học quan trọng và giỏi nhất ở đó. Mục đích là tạo ra mọi thứ có tác động mạnh hơn để chúng tôi có thể thay thế tất cả các hình thái vật chất, tất cả vất chật trên trái đất, và điều khiển nó, điều khiển hoạt động của những cái khác, điều khiển thiên nhiên.

Nhưng không phải làm vì điều tốt đẹp, mà cho mục đích thống trị. Những nhà khoa học chúng tôi đang làm việc để thống trị thế giới.

– Thích thật. Ông vừa đi đến thời gian của tương lai.

Tôi bắt đầu liệu pháp tâm lý với Hugh cũng như tôi thường bắt đầu tiến hành với các bệnh nhân, và dường ông đã vượt trước một tương lai của nhiều thiên niên kỷ tới mà không hề có sự thúc đẩy nào.

Ông trả lời làm tôi ngạc nhiên:

Đó không phải là tương lai gì cả mà là Atlantis. Atlantis! Một thế giới huyền thoại được hàng tá nhà văn miêu tả, mà câu chuyện nổi tiếng nhất là của nhà văn Edgar Cayce. Nó tồn tại ba mươi hay bốn muơi ngàn năm trước rồi biến mất. Atlantis là nơi mà dân cư đã thống trị một phần của thế giới bởi vì chỉ có họ giữ những điều bí mật của tất cả vật chất và mọi sinh vật. Hugh không hề đi đến tương lai, ông đã ở trong một thế giới đã biến mất từ lâu trước khi được lịch sử ghi lại.

Công việc của tôi là thay đổi mức độ ý thức của mình và học hỏi những kỹ thuật điều khiển năng lượng để chuyển hóa vật chất.

Ông thở rất gấp và rõ ràng là đang bị kích động vì vai trò của mình trong một xã hội lạ lùng.

Tìm kiếm một sự sáng tỏ, tôi hỏi tiếp:

Chuyển hóa vật chất bằng năng lực siêu nhiên?

Đúng vậy. Thông qua năng lực của trí óc. Ông do dự giây lát:

Hoặc có lẽ chúng tôi dùng các tinh thể. Năng lượng xuyên qua các tinh thể. Tôi không chắc lắm. Nó không phải là năng lượng của dòng điện, nó là cái gì đó tiên tiến hơn nhiều.

Và ông là một nhà khoa học có tầm quan trọng?

Chính xác là vậy. Đó là những gì mà tôi đã được đào tạo để làm việc.

Ông trở nên buồn bã:

– Tôi muốn đạt được một sức mạnh cá nhân. Có nghĩa là phải giữ kín lại phần tâm

linh, nhưng đó là cái giá tôi phải trả. Có lẽ tôi có thể thay đổi mức độ ý thức riêng để đến một cường độ dao động cao hơn. Theo cách này, tôi sẽ phát triển mặt tâm linh để đến một nơi vượt khỏi vật chất, vượt khỏi thời gian. Nhưng tôi không bận tâm về điều đó. Những điều mà tôi và các bạn đồng nghiệp đang làm là rất tồi tệ. Mục đích của chúng tôi là điều khiển các nền văn minh chung quanh, chúng tôi đã thành công. Chúng tôi đã đạt được mục đích.

Tôi có thể đoán trước việc ông sẽ kiểm nghiệm lại cuộc đời mình. Ông hối tiếc những hành động và nhận ra ông đã chọn lầm đường. Giá như ông dùng năng lực của trí óc để làm việc tốt và thực hiện những mục đích cao thượng, chứ không phải vì sức mạnh hay vì nâng cao địa vị bản thân, thì có lẽ ông đã có một cuộc sống tốt hơn, hạnh phúc hơn. Ông đã phí đi sự thông thái, phí đi sức mạnh, và phí cả cuộc đời.

Sau khi ông về, tôi ghi lại 2 đoạn:

Thứ nhất, chuyện mà Hugh trở về kiếp trước tại Atlantis không chứng minh được gì về sự tồn tại của Atlantis hoặc chuyện mà tôi tin là có. Đây chỉ là sự trải nghiệm của ông, xét cho cùng, có lẽ ông đã nhìn thấy tương lai. Đó có thể là viễn tưởng, cũng có thể là sự thật. Điều quan trọng là ông đã biết hối tiếc, ông đã không đem cái sức mạnh siêu nhiên cho những mục đích cao cả. Có vẻ như đó là niềm hối tiếc của ngày nay.

Thứ hai là dường như trong thời gian đó có một mức độ công nghệ cao hơn những cái mà chúng ta đang sở hữu. Có lẽ nhiều người lúc đó đã đầu thai lại kiếp này bởi vì, một lần nữa, công nghệ của chúng ta đang tiến đến mức độ đã tồn tại từ thời xa xưa. Như vậy chúng ta nên nhìn lại những gì chúng ta đã học hỏi. Đó là một sự xung đột giữa thói quen yêu thương và thói quen ích kỷ của chúng ta với năng lực tiên tiến. Lần trước chúng ta gần như phá hủy cả hành tinh. Vậy giờ đây chúng ta sẽ lựa chọn điều gì?

Chuyến trở về kế tiếp Hugh thấy mình đang ở Châu Âu trong thời Trung Cổ, ông không chắc là nước nào.

Tôi là một người đàn ông to lớn, vạm vỡ. Tôi mặc áo dài thắt ngang lưng, đầu tóc rối bù. Tôi đang nói chuyện trước cuộc họp của một nhóm người trong thành phố. Đôi mắt tôi sắc lạnh, hoang dại, và mãnh liệt khác thường. Tôi nói với mọi người là họ không cần đi nhà thờ hoặc nghe lời cha xứ mà tìm Chúa. “Chúa ở trong bản thân các bạn, ở trong mỗi con người các bạn. Các bạn không cần những tên đạo đức giả đó chỉ đường tìm đến Chúa. Mỗi người đều sở hữu một trí tuệ siêu phàm. Tôi sẽ chỉ cho các bạn một cách rất đơn giản, và các bạn sẽ không còn lệ thuộc vào nhà thờ hay những

tên thầy tu hách dịch trong đó. Chúng sẽ mất hết quyền năng mà các bạn sẽ giành lại cho chính mình”.

Ngay sau đó, Hugh bị Giáo hội bắt giam và bị tra tấn để rút lại lời tuyên bố trước kia. Nhưng ông không rút lời cho dù ông bị cực hình dã man đến mức nào. Với cảm giác kinh hoàng ông kể với tôi rằng cuối cùng ông bị xé rời ra từng mảnh bằng một dụng cụ tra tấn đặt ngay quảng trường của thành phố, một phần là do cơn giận dữ điên cuồng của các giáo sĩ và cũng do họ muốn dùng ông để cảnh báo người dân trong thành phố đừng theo những tư tưởng nguy hiểm đó nữa.

Trong buổi ngắn ngủi kiểm nghiệm lại kiếp sống đó, ông đã tạo mối liên kết lại với một kiếp ở Atlantis mà tôi đã rút gọn trong phần ghi chú sau:

“Một sự đền bù quá mức! Hugh hướng đến tâm linh thay cho lòng ích kỷ trong sự phản kháng đối với kiếp sống ở Atlantis. Sự thông thái về khả năng của mức độ ý thức cao hơn đã đưa Hugh trở nên quá công khai, và không để ý đến quyền lực của Giáo hội Ky-tô giáo ở thời điểm đó, cũng như sự hăng hái của họ để loại bỏ những kẻ dị giáo hay bất cứ người nào đụng chạm đến quyền lực của nhà thờ, thậm chí ngay những mức độ thấp nhất.”

Hugh cần tạo những mối liên quan với kiếp hiện tại. Ông nói với tôi về những năng lực siêu nhiên của sức nhìn, nghe, và trí óc:

Năng lực tôi đã phát triển tại Atlantis. Ở đó tôi học được những kỹ năng ngoại cảm và tiên đoán.

Tôi hỏi:

Còn những lời nhắn nhủ thì sao? Ông trả lời nhanh:

Cái đó thì khác, chúng đến từ những linh hồn.

Linh hồn? Ý ông là sao? Ông tằng hắng:

Linh hồn. Những linh hồn lìa khỏi xác. Chắc chắn. Họ đã ban cho tôi sự thông thái, và nói với tôi về một chân lý.

Một chủ đề tương tự, nhiều bệnh nhân khác cũng đã nói về linh hồn, nhưng tôi khám phá ra một sự khác biệt. Khi ông ta về rồi, tôi ghi lại như sau:

“Nguồn gốc thông thái của Hugh đối với người khác được lộ ra, cho thấy Hugh đang cố gắng phù phép để ngăn chận sự cố gắng phá hủy thể chất len lỏi vào thân thể ông ở kiếp sống vào thời Trung Cổ. Một cách khác ông nói rằng:

‘Không phải tôi. Tôi chỉ nghe được từ những người khác, cho dù là những linh hồn’. Quả là một kế hoạch an toàn, vì có năng lực siêu nhiên rất nguy hiểm. Nhưng trong một mức độ nào đó các linh hồn cũng ngăn chặn ông đạt được cấp độ cao hơn của ý thức đa dạng.”

Tôi nghĩ có lẽ ông sẽ đạt được cấp độ cao hơn như vậy nếu tôi đưa ông đi đến tương lai. Ông quả là một nhà ngoại cảm tài năng. Biết đâu ông sẽ giỏi hơn và cẩn thận hơn những người khác nếu ông có thể nắm giữ những gì sẽ đến? Ông sẽ không cần đến phép trị liệu. Ông đã hiểu được nguyên nhân của nỗi lo lắng, và đạt được một thỏa thuận của năng lực siêu nhiên. Nhưng tôi vẫn cứ tò mò về những điều ông khám phá.

Không biết ông có thích đi đến tương lai và cho tôi đi theo? Hầu như ông không thể đợi được nữa.

Có lẽ Hugh đã đi quá sâu. Dường như ông đang trải nghiệm hai cuộc hành trình cùng một lúc, một đi đến tương lai, và một đi đến mức độ ý thức càng lúc càng cao hơn, đến những thế giới khác, những cảnh giới khác ở trên và vượt qua thế giới này. Ông kể lại giọng đầy kính sợ:

Một cấp độ kế tiếp vuợt qua cấp độ của chúng ta, không dày đặc như chúng ta biết. Có một vấn đề rắc rối ở đó. Dù con đường gian nan đầy hiểm nguy, nhưng khi chúng tôi đến thì trí tuệ nhiều hơn, thể chất giảm bớt. Mọi người đều có khả năng ngoại cảm. Có một dao động cao hơn. Thân thể chúng tôi nhẹ nhàng, di chuyển dễ dàng hơn.

Trong một phạm vi nào đó nó giống như ở Atlantis mà ông đã mô tả trong lần đầu tiên trở về quá khứ. Nhưng ở đây còn hơn nữa.

Tôi đang đi lên, lên mãi. Tại những cấp độ khác nhau có nhiều sự thay đổi về chất lượng ánh sáng. Tôi không thể miêu tả được. Nó sáng hơn, mềm mại hơn, không màu sắc, hoặc có tất cả các màu. Nó đưa đến nhiều cõi ngoài ánh sáng và vượt qua nơi mà tư tưởng có thể chạm đến. Đây là cấp độ mà trí tuệ con người không thể hiểu được. Tôi vẫn tiếp tục đi. Không có điểm kết thúc. Tôi vượt qua không gian vô tận và, nếu có thể, thậm chí qua khỏi cả nơi đó.

Cả hai chúng tôi đều có cảm giác rằng đây là những nơi đích thực rất bình yên và tuyệt đẹp, tuy vậy từ tuyệt đẹp thì quá đơn điệu. Hugh miêu tả bằng dáng điệu nhiều

hơn là lời nói. Sự kiện mà ông vẽ ra nằm ngoài ngôn từ mà ông có. Đó là nét đẹp thanh thản trên gương mặt ông, gương mặt dùng để hùng biện giờ đây đã không còn nhăn nhúm nữa. Ông diễn tả một đời sống tương lai không phải của riêng ông mà là một tương lai chung.

Sau này khi tôi bắt đầu đưa những người trong cuộc hội thảo hay trong buổi hợp nhóm đến tương lai, thì thường cũng có trường hợp đó, tôi sẽ nói đến vào chương cuối.

Hugh nói:

Chuyến đi này giống như máy bay đang cất cánh trong cơn bão sấm sét. Khi chúng tôi lên đến tầng mây thì trời tối dần. Có nhiều hỗn loạn, sợ hãi, lo lắng. Nhưng rồi chúng tôi cũng xuyên qua lớp mây và vượt ra một phía khác đi vào bầu trời sáng chói, vầng thái dương rực sáng chiếu qua nhiều bóng râm. Phải mất nhiều năm, nhiều thế kỷ để vượt qua những đám mây đó, thời gian trôi qua những đám mây đó càng ngày càng đáng sợ. Những đám mây của nghịch cảnh và tai ương sẽ đe dọa nền văn minh của chúng ta. Nhưng rồi khoảng tám trăm hoặc một ngàn năm, có thể hơn nữa, những đám mây đó sẽ biến mất, sự hỗn loạn sẽ biến mất, và sẽ có cảm giác bình yên, kính sợ và an toàn.

Ông cúi về phía trước, giãi bày với tôi trong tình trạng bị thôi miên.

Con người ở bên phía khác của cơn bão có khả năng tinh thần và khả năng siêu nhiên mạnh hơn là tôi đang có. Họ là nhà ngoại cảm.

Giọng nói ông hầu như thầm thì:

– Họ có thể thâu tóm mọi hiểu biết. Họ có quyền năng tuyệt đối về tinh thần.

Có lẽ Hugh đang miêu tả khái niệm của Carl Jung về hệ vô thức chung, hoặc khái niệm mà tôn giáo Phương Đông gọi là Tạng Thức[12]. Tạng thức giống như một bộ hồ sơ: mỗi hành động dù là nhỏ nhất, mỗi ý niệm dù không đáng kể của nhân loại từ thời mới sơ khai đều được lưu giữ. Tôi cho rằng có lẽ các nhà ngoại cảm đã sao chép lại từ đó để tìm hiểu những ý niệm, những giấc mơ của người khác. Đó là những điều ông kể về dân ở thành phố Trung Cổ. Trong hình ảnh về tương lai ông đã thông thạo những điều mà người Atlantis đã tìm kiếm. Họ có thể chuyển đổi vật chất thành năng lượng và năng lượng thành vật chất. Họ còn có thể thay đổi những mẫu nhỏ cơ bản thành từng cái khác bằng cách sử dụng sức mạnh của ý thức. Vào thời Atlantis sức

mạnh này được sử dụng cho tội ác. Vào thời Trung Cổ, dù Hugh không nói rõ, các nhà nghiên cứu thuật chế kim đã cố gắng chế biến khoáng sản thành vàng. Trong tương lai mà Hugh nhìn thấy, mỗi người đều là nhà chế kim, họ đang sử dụng sức mạnh vào mục đích tốt đẹp. Họ đã vượt qua khỏi những đám mây xám xịt và đi vào vùng trời xanh thẳm có ánh sáng vàng rực.

Tôi nghĩ rằng cuộc truy lùng của Hugh là một ẩn dụ để thay đổi bản thân chúng ta từ phần vật chất đến phần tâm linh, và có vẻ như ông đã đạt được kết quả này trong một thời tương lai xa hơn nữa. Có lẽ tất cả chúng ta, những người đã bỏ lại những nghịch cảnh và tai ương, đều sẽ đạt được như vậy. Những điều mà ông đem về từ tương lai có thể hiểu rằng: Trong lúc ông đang dự kiến thì thân thể vật chất có thể đã thay đổi. Con người có thể tùy ý đi ra đi vào thể xác. Họ có thể lìa khỏi xác bất cứ lúc nào họ muốn. Kể cả người chết cũng vậy. Không còn bệnh tật nữa, bệnh tật về tinh thần hoặc thể xác đều biến mất bởi vì con người đã biết làm thế nào để hiệu chỉnh lại sự hỗn loạn năng lực mà đã gây ra bệnh tật cho thể chất.

Tôi đã hiểu ra tại sao những chuyến du hành đến tương lai ông đều đi đường kép. Có lúc bị dày vò đau khổ, rồi có lúc lại là thiên đường. Cuối cùng thì tương lai đó hình thành đường cong càng lúc càng cao hơn, trở nên siêu phàm hơn cho đến khi nó liên kết với quá trình tiến triển đến cấp độ cao hơn của ý thức, những cảnh giới hay thế giới cao hơn mà Hugh đã nhìn thấy trong cuộc hành trình đi tới. Nói một cách khác, cho dù ông đang đi hai hướng, thì đích đến cũng giống nhau. Trong cuộc hành trình đầu tiên ông đi thẳng đến các cấp độ cao hơn của ý thức. Lần thứ hai ông đến những kiếp tương lai ở đây trên hành tinh này. Cả hai kiếp tương lai đều đạt đến cảnh giới cao nhất, và có lúc gặp tại một điểm nào đó trên đường. Hugh nói về tương lai của chúng ta giống như những nhánh đường sắt, luôn luôn dẫn đến một sân ga chính. Bất kể con đường nào chúng ta đi đều đưa chúng ta đến cùng một nơi, và nơi đó có một niềm hân hoan vượt qua tất cả những cảnh giới và tất cả sự hiểu biết của con người.

Bây giờ sống trong kiếp hiện tại Hugh không còn cảm thấy khác biệt vì ông biết được tài năng của ông bị chi phối bởi tất cả chúng ta, cho dù những tài năng đó hầu như đang tiềm ẩn. Ông cảm thấy mình tốt hơn và có đặc ân được phép lướt qua những cảnh giới cao hơn. Ông nhận thức công việc mình rõ ràng hơn, và giờ đây dường như ông nhận được thông tin từ những cấp độ cao hơn. Ông không còn cho rằng sự thông thái của mình là những linh hồn bên ngoài riêng rẽ do nỗi sợ hãi mang theo từ thời Trung Cổ. Ông biết sức mạnh nằm bên trong con người ông. Ông hạnh phúc hơn, và đó là phương tiện tốt nhất của chuyến du hành. Sự rõ ràng trong cách lý giải của ông làm sáng tỏ ý định ông giúp đỡ người khác, làm sáng tỏ ý chí thay đổi nỗi tuyệt vọng thành niềm hy vọng, và làm sáng tỏ cuộc đời ông. Ông trở thành nhà chế kim mà ông

đã dự định từ nhiều thiên niên kỷ trước.

Tôi đưa câu chuyện của ông vào cuộc thảo luận về lòng thương cảm không phải vì ông cần học hỏi điều đó trên con đường ông đi đến sự bất diệt, mà bởi vì điều ông có được quá mức thừa thãi. Ông cảm thấy đau khổ và thương yêu cho tất cả những người đến với ông, trong cách làm như vậy ông đã từ bỏ bản thân quá nhiều. Không có lòng thương cảm, con người không thể đạt đến trình độ phát triển cao hơn trong những kiếp tới.

Cũng như những đức hạnh đã thảo luận trong cuốn sách này, lòng thương cảm là một phần của toàn thể. Con người nên biết thương cảm cho người khác và cho cả chính mình.

***

Chitra, ba mươi lăm tuổi, cũng là người ban phát lòng thương cảm mà không cần báo ơn. Một nhà sinh vật học chuyên nghiên cứu về phân tử. Cô dành cả ban ngày trong phòng thí nghiệm, và ban đêm cô dành thời gian chăm sóc người mẹ hay ốm đau và khắt khe. Cô đã chăm sóc bà mười năm rồi. Cô không có thời gian giao tiếp với xã hội, thật ra, không còn một chút gì cho riêng cô.

Cô là con gái út trong gia đình người Ấn Độ di cư qua Mỹ. Lúc qua Mỹ cô vẫn còn nhỏ và luôn được giáo dục theo truyền thống đạo Hindu. Cô được giao phó chăm sóc bà mẹ. Vợ chồng người anh trai thì không muốn lo và cả người chị gái đã có chồng và hai con cũng vậy.

Chitra đã lập gia đình với một người chồng già hơn cô rất nhiều, một cuộc hôn nhân do gia đình lựa chọn, chồng cô giờ đã chết mà cô chưa có con. Do đó cô phải gánh vác việc chăm sóc mẹ.

Khi đến chỗ tôi, cô than phiền rằng mẹ cô dựa dẫm và bảo hộ cô quá đáng làm cô nghẹt thở. Thật sự cô thở rất nặng nhọc, và khi nói cũng khó thành lời. Tiếng Hindu là tiếng mẹ đẻ nhưng cô nói tiếng Anh rất lưu loát và mẹ cô cũng vậy. Cô chỉ mặc xari, ngoại trừ khi đi làm thì cô mặc quần jean áo thun và khoác áo đồng phục trong phòng thí nghiệm. Cô là một sự pha trộn vừa khác lạ vừa thích thú của hai nền văn hóa, tuy vậy tôi không tin rằng rằng cô đang hạnh phúc. Chính nền văn hóa cũ đã kìm hãm thú vui của cô ở tuổi thanh xuân.

Người Hindu thường tin vào sự đầu thai, nhưng họ tin vì đó là niềm tin tín ngưỡng. Để sử dụng như một công cụ trị liệu thì họ hoàn toàn không biết. Chitra có thể hoặc

không thể tin vào những kiếp quá khứ. Cô trầm lặng khi tôi bắt đầu thảo luận về vấn đề đó. Tuy nhiên cô sẵn sàng đồng ý một cuộc trở về quá khứ. Sau hai tuần thực hành thư giãn và phương pháp thôi miên, cô có thể bước vào một tình trạng bị thôi miên vừa phải. Những biểu hiện của cô khá mơ hồ và lời nói thì ngập ngừng.

Tôi sống tại Ấn Độ… một cô gái làng chơi nhưng không thật vậy… tôi đi khắp nơi cùng với quân đội đang chiến đấu với kẻ thù… tôi không biết năm nào… không xưa lắm… người ta nói tôi cần thiết cho những người lính… họ rất quan trọng… họ là quân đội của tôi, là dân của tôi… họ phải được chăm sóc… tôi cung cấp cho họ… thỏa mãn tình dục cho họ… tôi ghét những việc tôi phải làm… tôi có thể nhìn thấy mình đang chết… tôi vẫn còn rất trẻ… vâng tôi đang chết… chết vì sinh con.

Thì ra là thế. Trong hồi ức về kiếp trước cô nhận ra cô không muốn sống lay lất ở một nơi như vậy. Giúp những người lính Ấn Độ chống lại kẻ thù không có gì cao đẹp cả. Đó là một tục lệ được quy ước bởi lòng ích kỷ và bởi những tên đàn ông dã man, vì là phụ nữ, cô bị mắc kẹt và chịu thua.

Lần trở về kế tiếp cũng rất ngắn.

Tôi là phụ nữ… áo choàng làm lễ hiến tế… Tôi phải chết để bảo đảm trúng mùa gặt hái… Có lẽ cái chết của tôi sẽ bảo vệ người dân thoát khỏi kẻ thù… từ tai họa của thiên nhiên… Người ta nói tôi rất danh dự được chết… Tôi và gia đình sẽ được ân sủng ở kiếp sau… Một thanh gươm trên đầu tôi… nó giáng xuống.

Trong hai lần cô đều khó thở, và lần nào tôi cũng nhanh chóng đem cô trở về. Chitra cần học hỏi từ những đời sống đó, nhưng không được đầy đủ chi tiết lắm. Cô đã trải qua những nỗi bất hạnh, và khi chúng tôi nói về điều đó, cô nhận ra sự bạo động đối nghịch với những khái niệm tâm linh. Những hứa hẹn hão huyền cho những ân huệ về sau là những lời dối trá có tính tư lợi nhân danh những tay tướng lãnh hoặc những trưởng lão, mà quyền lực của họ dựa trên sự ngu dốt, lừa gạt, và sợ hãi.

Chúng tôi khám phá ra một mắt xích trong hai kiếp và mối liên quan của chúng với tình thế của Chitra hiện tại. Cả hai lần trở về cô đều bị bắt buộc hy sinh mạng sống của mình, hy sinh những mục đích riêng, và cả hạnh phúc riêng tư để phục vụ cho sự cao cả. Và thực tế, sự hy sinh đã giết cô lúc đó như nó đang giết cô trong lúc này.

Mẹ của Chitra cũng có một hồi ức về kiếp sống trước, dù bà chưa hề đến văn phòng tôi. Thích thú vì công việc chúng tôi đang làm, Chitra đem những đĩa CD của tôi về nhà để thực hành, giống như tôi thường khuyến khích bệnh nhân. Mẹ cô lắng nghe và

nhìn thấy mình cách đây khoảng ba thế kỷ là một người vợ Ấn Độ còn trẻ. Lúc đó Chitra là người chồng mà bà quá mực yêu thương, mối quan tâm chính trong cuộc sống của bà. Nhưng ông ta chết sớm, có lẽ do nọc độc của rắn cắn. Khi bà quay về hiện tại, bà hiểu rằng bà đã quá bám chặt Chitra, con gái bà, và giải thích với Chitra rằng đó là sự phản ứng bởi sự mất mát cách đây nhiều thế kỷ. Giờ đây Chitra nhận ra sự dựa dẫm và bảo hộ quá đáng của mẹ mình là do nguyên nhân từ kiếp trước, không phải ở kiếp này, và cô dễ dàng tha thứ hơn.

Mẹ cô bắt đầu thay đổi. Bà khắc phục những hủ tục từ từ, bớt bám chặt, bớt bảo hộ. Bà trở nên thoải mái hơn khi dành thời gian cho những đứa con khác, và thậm chí bà còn vui vẻ để Chitra giao du ngoài xã hội, bất kể có khả năng Chitra sẽ đi đến một mối quan hệ khác đụng chạm đến sự dựa dẫm của bà. Sự nối tiếp này giúp Chitra cải thiện quan điểm riêng. Lần đầu tiên cô nhìn xa hơn mà không sợ hãi, và đồng ý để tôi đưa cô đi đến tương lai.

Chitra trải qua ba kiếp tương lai chỉ trong một chuyến du hành. Trong chuyến đầu tiên cô thấy mình là người hộ lý quan trọng cho một đứa trẻ bị teo cơ, gầy trơ xương và yếu thần kinh. Động cơ gia đình đòi hỏi Chitra dành hết thời gian và sức lực cho cô gái nhỏ đó với tiền công ít ỏi.

Chồng cô trong kiếp đó là người ít xúc cảm và thường hơi thô bạo; đơn giản chỉ vì anh ta không thể đối đầu với nghịch cảnh. Với tôi nguồn thương cảm, tình yêu thương, và năng lực dường như chỉ có duy nhất một hướng ra bên ngoài, còn với Chitra thì cho đi mà không bao giờ nhận lại.

Trong chuyến đi thứ hai, thể xác Chitra bị đau đớn vô cùng vì bị thương trong một tai nạn xe cộ. Cô nói rằng:

Không thể gọi là xe hơi. Nó giống như một hình trụ có cửa sổ khổng lồ đang bay. Dù sao thì chương trình của nó cũng bị trục trặc, ồ! rầm, nó đâm vào ngọn cây.

Chitra đờ người và cần được phục hồi tâm lý và co giãn thân thể. Cô nói với giọng hài lòng:

Mức độ kỹ thuật y học rất tiến bộ. Nhưng tôi phải mất hơn một năm trời để hồi phục hệ mô thần kinh của cả bộ não và dây cột sống.

Chitra mỉm cười:

– Nhân viên bệnh viện rất tuyệt vời, nhưng việc hồi phục rất khó. Nếu không có tình

yêu của gia đình và bạn bè tôi không chắc là mình có thể phục hồi được. Chồng tôi rất đáng yêu, và các con tôi, hai gái một trai. Ồ! Phòng tôi đầy hoa. Người ta gọi phòng bệnh của tôi là vườn Địa Đàng.

Tôi nghĩ đây là điều trái ngược của kiếp trước. Một lần nữa, thương cảm, yêu thương, và năng lực chỉ có duy nhất một hướng đi ra, nhưng lần này chúng tuôn chảy thành dòng.

Trong chuyến đi thứ ba, Chitra là một bác sĩ phẫu thuật, chuyên về thuật chỉnh hình và hệ thần kinh. Khi tôi chỉ ra điều này quá khác thường vì một người mà có hai lãnh vực tinh thông khác nhau như vậy thì cô giải thích:

Tôi làm việc bằng gậy hoặc thạch anh, chúng phát ra ánh sáng, năng lượng để điều trị rất hiệu quả, bất kể là xương hay não. Chúng cũng có năng lượng âm thanh giúp cho việc hồi phục cơ bắp, tứ chi, và dây chằng.

Chitra tìm được niềm vui lớn từ những kết quả của sự thông thái và những kỹ năng. Sự phản hồi tích cực này không phải do bệnh nhân của cô hay gia đình họ, mà do bạn đồng nghiệp của cô có trình độ chuyên môn. Cuộc sống gia đình cô cũng rất hạnh phúc và khỏe mạnh. Trong kiếp sống đó dường như cô đã đạt được một sự cân bằng đích thực của dòng chảy, ra vào đều đặn. Cô dễ dàng yêu thương người khác và cả chính bản thân cô. Chitra kể với tôi rằng cô đã kiểm lại kiếp sống tương lai thứ ba từ một triển vọng cao hơn, nghĩa là cô đã phát triển đến một cấp độ mới. Cô vẫn còn trong trạng thái bị thôi miên khi cô kể chuyện này, nhưng rồi cô bỗng nhiên ngừng lại …

Tôi không biết kiếp sống này sẽ kết thúc như thế nào. Rất hoang mang. Bây giờ tôi phải rời bỏ thôi.

Như thường lệ, cô không phải là người nấn ná lại trong kiếp quá khứ cũng như kiếp tương lai.

Hào hứng và náo nhiệt bởi cuộc hành trình cô chợt quay về hiện tại. Cô giải thích:

Tất cả các kiếp sống từ quá khứ đến hiện tại đều liên hệ với nhau, như kiếp này và kiếp trước mà mẹ tôi đã mô tả. Những gì tôi phải làm là cân bằng lòng thương cảm cũng như tình yêu thương, để được nhận và cho đi.

Quyết tâm của cô quá rõ ràng. Cô nói:

Những mục đích của đời tôi không bao giờ còn là vật hy sinh nữa, không vì những giá trị văn hóa, hoàn cảnh cá nhân, hay tội lỗi.

Cô có thể biểu hiện sự giận dữ, lòng oán hờn đối với mẹ và anh chị cô đã đẩy cô vào vai trò người chăm sóc, bất kể điều cấm kỵ về văn hóa ngăn chặn sự nổi loạn như vậy, và theo cách đó bản thân cô sống tự do.

Chúng tôi quay lại kiếp sống tương lai thứ ba, và lần này cô có thể nhìn thấy đoạn cuối: cô chết lúc tuổi già và do nguyên nhân tự nhiên. Khi kiểm nghiệm lại kiếp sống của cô, những ý nghĩa đã né tránh tôi lại hiện lên rành rành trước mắt cô. Cô giải thích:

Trong ba kiếp tương lai không hề liên tiếp hay đều đặn. Chúng là những biểu thị có thể xảy ra cho những kiếp tới dựa vào những gì tôi làm trong kiếp này.

Về một ý nghĩa nào đó, chúng là những kiếp tương lai song song tuôn chảy cùng một lúc. Một kiếp mà cô đã đi đến đoạn cuối có thể xuất phát từ nội dung của phần còn lại trong kiếp hiện tại. Cô kể rằng:

Thật ra có vô số kiếp tương lai có thể xảy ra, tôi đã chứng kiến tất cả sự thay đổi của ba kiếp. Điều đó không chỉ là ý thức của tôi mà còn là tư tưởng và hành động chung của toàn bộ nhân loại, con người sẽ có một vai trò trong việc nặn hình một người trở thành người thật. Nếu chúng ta ý thức giữ lấy lòng thương cảm, sự đồng cảm, tình yêu thương, sự kiên nhẫn, và lòng tha thứ, thì thế giới sau này sẽ trở nên kỳ diệu hơn là nếu chúng ta không nắm giữ.

Ngôn ngữ của cô thay đổi rõ rệt. Cô không nói từng câu ngắn, đứt đoạn. Tư tưởng và từ ngữ của cô sành điệu hơn cho thấy rằng một mối liên quan đến mức độ cao hơn của ý thức. Người phụ nữ trẻ thông minh này đã dạy tôi rất nhiều điều.

Khi cô ra về tôi ghi lại:

“Chúng ta có rất nhiều năng lực làm ảnh hưởng tích cực đến những kiếp sống tương lai riêng lẻ cũng như tương lai còn lại của kiếp hiện tại, hơn là chúng ta làm ảnh hưởng đến cả hành tinh này hoặc tương lai chung của nhân loại. Tuy nhiên, những tương lai riêng lẻ biểu lộ bản thân chúng vào tương lai chung, và hành động của mỗi người sẽ quyết định vào một tương lai nào trong vô số mà chúng ta sẽ trở về.

Nếu Chitra cứ bị kẹt vào một mẫu gia đình như vậy, rồi cô sẽ phải trải qua một tương lai như một nạn nhân tê liệt bị bắt buộc nhận tình yêu. Nếu cô chợt từ bỏ, đột ngột kết

thúc mối quan hệ với mẹ cô, rời bỏ bà mà không có cách giải quyết thỏa đáng, thì cô có thể phải trở lại làm một người hộ lý của đứa bé bị bệnh nghiêm trọng. Vì đó là cách mà chúng ta phải làm như thế nào.

Chúng ta thường xuyên đối mặt với những tình huống tương tự như chúng ta đang tìm kiếm để học hỏi sự cân bằng hợp lý giữa cho và nhận, giữa hy sinh và thương cảm cho bản thân, cho đến khi chúng ta đạt được tình trạng hài hòa. Cho đi những gì cô đã học hỏi và nhận rõ sự cân bằng đó, Chitra đã trở lại thành một nhà phẫu thuật chỉnh hình và hệ thần kinh, nhưng cô có thể sinh vào một thế giới nhiều hoặc ít bạo động, nhiều hoặc ít lòng thương cảm và tình yêu, lệ thuộc vào sự hòa nhịp mà người khác đạt được. Nếu có đủ những người trong số chúng ta bằng cách nào đó nâng cao ý thức con người, nếu chúng ta chấp thuận thay đổi một tương lai chung bằng cách nâng cao tương lai riêng lẻ của mỗi chúng ta, chúng ta thật sự có thể thay đổi tương lai của cả thế giới và cả nhân loại.”

***

Như chúng ta đã thấy, lòng thương cảm liên quan đến sự đồng cảm, và cả tình yêu, những cảm xúc đó đều xuất phát từ trái tim.

Bình luận