4. RẤT TÒ MÒ
Ai Việt Nam hơn ai?
Gần đây có hai người mở cuộc tranh luận sôi nổi nhằm mục đích trả lời câu hỏi: Ai Việt Nam hơn ai?
Hai người đó là tôi, một anh “gốc Tây” biết tiếng Việt và nghiên cứu lâu năm về văn hóa Việt Nam, và bạn tôi, một chị gốc Việt nhưng chưa biết tiếng Việt, chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với cộng đồng người Việt lớn.
Ai Việt Nam hơn? Không phải theo ý nghĩa vui vẻ mà người Việt hay dùng để trêu người Tây – “Anh Joe giỏi quá, sắp trở thành người Việt Nam rồi!” – mà theo ý nghĩa sâu sắc nhất, gần nhất với sự thiêng liêng của cụm từ “Người Việt Nam”.
Khi tranh luận phải chọn quan điểm rõ ràng để bảo vệ. “Tao Việt Nam hơn hẳn!” tôi chọn quan điểm rõ ràng nhất có thể. “Mày được cái là dòng máu Việt – nhưng máu chỉ chuyển ôxy thôi, không chuyển văn hóa đâu.” Rồi tôi kể chuyện về người Nhật.
Mặc dù dân số Nhật ngày càng giảm đi nhưng chính phủ vẫn không cho phép người nước ngoài nhập quốc tịch. Người nước ngoài không có dòng máu Nhật, các bác bên Cục xuất nhập cảnh lý giải. Quốc tịch và dòng máu là một. Ngoài một số trường hợp đặc biệt, một người ghi quốc tịch Nhật trên hộ chiếu phải mang dòng máu Nhật trong huyết quản.
Có nhiều gia đình Nhật định cư tại Brazil vào giữa thế kỷ hai mươi. “Hay là mời họ về?” Các bác bên Cục xuất nhập cánh âm thầm hỏi nhau. “Họ có dòng máu Nhật, sẽ nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống tại Nhật.” Cuối cùng, hơn 300.000 người Brazil gốc Nhật nhận lời về quê, khiến các bác rất sốc.
Sốc vì cho dù có máu Nhật, họ không hòa nhập với cuộc sống ở Nhật – không biết tiếng, không biết cúi chào, không biết cách tiếp xúc với xã hội. Họ nhảy nhót ở bãi biển, nói to ở quán trà, phạm tội và không nghe lời công an. Cuối cùng, chính phủ Nhật thông báo sẽ tặng vé máy bay và hỗ trợ số tiền lớn để người nào muốn có thể về Brazil ngay.
Tôi xào nấu một chút nhưng đó là chuyện có thật, một diễn biến làm xôn xao xã hội Nhật Bản vào cuối thế kỷ 20. Bạn gốc Việt đó không thích món xào nấu của tôi.
“Tao hiểu ý mày rồi nhưng việc hòa nhập với xã hội và việc giữ bản sắc dân tộc là hai việc khác nhau. Mặc dù tao lớn lên ở bên kia nhưng bố mẹ tao vẫn dạy tao theo kiểu Việt Nam. Có khi tao không biết tiếng Việt, không biết đám ma truyền thống tổ chức như thế nào, nhưng trong lòng, tao vẫn thấy mình là người Việt. Đó là cảm giác sâu trong lòng, không phải cảm giác ‘ghép vào lòng’ như của mày đâu!”
Bạn ấy cầm sợi tóc màu đen lên săm soi một lúc, tiếp tục nói.
Với lại người Việt hay phân biệt. Mày về quê tao nói “xin chào” mọi người báo hức lắm. Còn tao về quê nói câu dài thì mọi người cười – vì tao phát âm lơ lớ. Mọi người biết tao lớn lên bên kia, biết bố mẹ tao định cư từ lâu, không nói tiếng Việt ở nhà. Họ biết tao không có nhiều cơ hội tập tiếng Việt trước khi sang đây năm ngoái. Nhưng họ vẫn cứ nghĩ tao phải nói chuẩn. Mày có biết vì sao không?” Tôi lắc đầu. Bạn ấy lè lưỡi.
“Vì cái này,” bạn ấy nói ngọng nghịu như đang khám răng. Tôi nhìn quanh nhà hàng, bạn thụt lưỡi vào.
“Họ thực sự nghĩ cái lưỡi của tao thích hợp với tiếng Việt. Cái lưỡi của mày thiết kế để nói tiếng Anh; nó liếm được vài nguyên âm tiếng Việt thì họ mừng lắm rồi. Còn cái lưỡi của tao thiết kế để nói tiếng của họ; nó không liếm được các âm thanh đơn giản nhất thì… Nói chung, mọi người thực sự nghĩ tao chỉ cần mấy tháng là sẽ nói tốt, còn mày ở đây cả mấy năm trời chỉ nói vài câu thành ngữ là siêu lắm rồi.”
Tôi cầm ly trà, chờ bạn ấy nói nốt.
“Đa phần người nông thôn nghĩ như thế, mày ạ. Mà đa phần người Việt là người nông thôn. Người cuối cùng quyết định cụm từ “Người Việt Nam” nghĩa là gì chính là người nông thôn đó. Là các anh chị ở quê. Bỏ qua khả năng giao tiếp. Thậm chỉ bỏ qua chuyện giáo dục trong nhà. Rõ ràng tao Việt Nam hơn mày vì tao có dòng máu Việt trong mạch – và đó là tiêu chuẩn quan trọng nhất do chính người Việt đặt ra.”
Tôi chưa chắc người ở quê nghĩ như vậy, nhưng tôi công nhận bạn ấy nói có lý. Năm trước tôi xem cuộc thi Hoa hậu Thế giới người Việt trên truyền hình, thấy có mấy thí sinh chưa biết tiếng Việt, chưa hiểu lắm về văn hóa. Tôi so sánh họ với mấy cô bạn của tôi là người da trắng giỏi tiếng Việt, hiểu văn hóa.
Mặc dù rất xinh, số đo chuẩn, nhưng mấy bạn ấy chắc khó tham gia cuộc thi đó. Hình như đại diện cửa phụ nữ Việt Nam khắp năm châu không cần rành tiếng Vỉệt, không cần am hiểu văn hóa Việt Nam, cũng không cần có quốc tịch Việt Nam. Nhưng phải có da.
“Đúng thế!” Bạn của tôi nói (Hóa ra tôi vừa nghĩ vừa nói). “Miss Canada là người da trắng, da vàng hay da đen không ai nghĩ gì. Đẹp là đẹp. Nhưng Miss Việt Nam phải là người da vàng. Nếu không vàng hẳn thì ít nhất phải vàng vàng một chút.
Tôi nhìn ra cửa sổ.
“Thôi tạm thời bỏ qua chuyện ai quyết định cụm từ ‘Người Việt Nam’ nghĩa là gì,” tôi nói. “Chuyện đó cãi sau. Bây giờ tao…”
“Tranh luận sau.” Bạn tôi cười.
“Chuyện đó tranh luận sau. Bây giờ tao muốn quay tại chuyện giáo dục trong nhà và cảm giác trong lòng. Mày có biết Pax Thiên không?”
“Biết.”
“Bố mẹ của mày là người Việt. Hai bác định cư từ lâu nhưng vẫn dạy mày theo cách của Việt Nam. Nhưng Pax là con nuôi, bố mẹ là người Tây. Cộng đồng xung quanh cũng toàn là người Tây luồn. Mày có coi Pax là người Việt Nam không? Dĩ nhiên Pax có dòng máu Việt nhưng các yếu tố văn hóa ấy hầu như không có hết”
“Bạn” của tôi nghĩ một lúc rồi nói: “Không. Nếu mày nói đúng và môi trường của Pax thực sự thiếu những yếu tố văn hóa đó thì tao không coi nó là người Việt.”
“Thế thì mày có coi…” Tôi định đặt trường hợp ngược lại thì bạn ấy ngắt lời tôi.
“Nhưng có một điều lạ. Đó là tao rất muốn coi nó là đứa Việt Nam
“Sao hả mày?”
“Tức là… chắc mày biết chuyện báo chí Việt Nam hay nhận ngườí gốc Việt phải không? Nếu có một người gốc Việt nhưng không có họ hàng Việt Nam, không biết tiếng Việt, không rành văn hóa, không có sự liên quan với đất nước này hơn một du khách mới sang… giành giải Nobel thì tao chắc chắn báo chí Việt Nam sẽ nhận người đó là người Việt. Báo chí Tây thì khác. Báo chí Anh không nhận người Úc gốc Anh như vậy. Báo chí Pháp không nhận người Canada gốc Pháp. Nếu người giành giải Nobel là người gốc Anh nhưng sinh ra và lớn lên tại Úc thì báo chí Anh không nhún nhảy nhiều đâu. Đó là đặt quá nhiều áp lực vào từ ‘gốc’. Còn tao hơi giống báo chí Việt Nam, mày ạ. Tao rất muốn nhận Pax Thiên là thằng Việt. Khó nói.”
Tôi cũng không biết nói gì về vấn đề đó. Thế là tôi quay lại vấn đề trước.
“Ví dụ, Phước Sang và Anh Thư nhận con nuôi ở Thái. Cháu lớn lên tại Việt Nam. Xung quanh cháu toàn là con người và văn hóa Việt Nam. Nếu thế thì mày có coi cháu là người Việt không?”
Bạn tôi cười.
“Câu hỏi át chủ bài hả?”
“Gọi là con heo.”
“Là sao?”
“Mày có biết chơi tiến lên không?”
“Cái gì?”
“Thôi cứ trả lời câu hỏi của tao đi!”
Bạn tôi cười tiếp.
“Nói thật với mày, tao sẽ coi cháu là người Việt.”
“Thế thì hơi mâu thuẫn nhỉ.” Lần này tôi cười. “Nếu mày coi con nuôi của Phước Sang và Anh Thư là người Việt thì rõ ràng văn hóa thắng dòng máu. Mày phải xem lại quan điểm của mình.”
Bạn ấy cười to hơn.
“Thực chất người Thái có dòng máu hơi giống của người Việt. Nhìn từ xa khó biết thằng nào là thằng cà ri xanh, thằng nào là thằng phở xào bò. Nếu mày nói Phước Sang và Anh Thư nhận con nuôi ở Nga thì chắc tao phải suy nghĩ lâu hơn mới trả lời câu hỏi của mày.”
Rồi hai người ngồi trong im lặng, quên mất chưa trả lời câu hỏi ai Việt Nam hơn ai.
Cảm ơn xì-căng-đan?
Trong thế giới showbiz luôn có những vòng luẩn quẩn. Sao có hành động thiếu văn hóa. Báo có bài về sao có hành động thiếu văn hóa. Đông độc giả vào xem ảnh (tất nhiên có jpeg), xem clip (tất nhiên có link), đọc lời giải thích của sao (tất nhiên không có ngữ cảnh), rồi bình luận: “Thật là một hành động thiếu văn hóa!”.
Bài thành “hot”. Trang báo nhận tiền của công ty quảng cáo (tính theo số lần truy cập). Sao lên báo tiếp, lần này để xin lỗi. Độc giả phản đối tiếp (“PR thôi!”). “Bài xin lỗi” thành “hot”. Trang báo lại nhận tiền của công ty quảng cáo…
Ai cũng được lợi. Sao được nổi, trang báo được tiền, độc giả được cảm giác mình đang bảo vệ văn hóa dân tộc băng cách phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm. Lợi cả ngã ba.
Sự thật là chúng ta cần xì-căng-đan. Chúng ta cần được ăn, cần được yêu, cần bị sốc. Tôi có thể giả vờ là người không cần biết về sự đổ vỡ đột ngột của người khác. Nhưng nếu có người nói với tôi “Chết thật, anh biết về xì-căng-đan mới chưa?” thì tôi sẽ tò mò. Tôi cần biết. Ai cũng cần biết xì-căng-đan mới là xì-căng-đan gì.
Người quan tâm đến phim cần biết diễn viên vừa bị bắt vì sử dụng ma túy là anh nào. Người quan tâm đến khoa học cần biết giáo sư vừa bị phát hiện giả mạo kết quả nghiên cứu là ông nào. Người quan tâm đến sex cần biết ca sĩ trẻ vừa lộ clip nóng là em nào. Chúng ta phản đối bằng miệng nhưng ủng hộ bằng thời gian, bằng không gian, bằng tiền.
Đằng sau sự ủng hộ đó là gì?
Tôi nghĩ câu trả lời nằm ở quá trình tiến hóa. Tính từ thời nguyên thủy, những văn hóa “mê xì-căng-đan” phát triển mạnh, còn những văn hóa “chẳng quan tâm” bị tuyệt chủng. Tôi đoán như vậy bởi trong sự phát triển văn hóa không có khía cạnh nào tự nhiên xuất hiện. Tất cả đều có tác dụng.
Vai trò các cơ quan trong cơ thể rất dễ xác định. Cơ quan thị giác là để nhìn, cơ quan sinh sản là để duy trì nòi giống. Vai trò các khía cạnh văn hóa khó xác định hơn. Nếu không có cơ quan sinh sản thì nhân loại sẽ bị tuyệt chủng. Nhưng nếu không có sở thích biết về xì-căng-đan thì sao? Nhân loại sẽ bị ảnh hưởng như thế nào? Sở thích đó có lợi ích thế nào đối với xã hội chung?
Thứ nhất, nó giúp xã hội đoàn kết. Số đông cầm tay nhau chửi số ít – từ việc đó số đông sẽ cảm thấy gần gũi nhau hơn Văn hóa nào cũng phải có sự đoàn kết như vậy mới tồn tại lâu.
Thứ hai, nó giúp chúng ta rút kinh nghiệm một cách an toàn. Trong các vụ ngộ độc thực phẩm, một công ty bị ném đá và hàng trăm công ty khác âm thầm rút kinh nghiệm. Chết một, cứu nhiều. Một người trẻ lộ clip nóng quay bằng máy điện thoại thì hàng trăm người trẻ khác nhanh tay cầm máy mình, xóa hết.
Thứ ba, nó giúp chúng ta định nghĩa văn hóa. Nhiều khi bắt định nghĩa văn hóa dựa trên “cái có” khó hơn định dựa trên “cái không có”, cái không phù hợp, cái trái ngược, cái sai. Nói người Canada khác người Mỹ thì dễ. Nhưng nói người Canada cụ thể là như thế nào mà không nhắc văn hóa thứ hai nào thì rất khó. Chính vì thế nên các hành động thiếu văn hóa bao giờ cũng tốn nhiều mực hơn các hành động “thừa”. Qua những điều “không hợp” được phổ biến, hóa mỗi lần có xì-căng-đan, chúng ta hiểu rõ hơn chúng ta-là ai.
Thứ tư, nó giúp xã hội phát triển. Ngày xưa chuyện một em Việt yêu một anh Tây chắc gây xì-căng-đan lớn, cả chợ đều buôn về chuyện con Huyền đi với thằng Henry. (“Không hiểu cô này là ai và ý thức ở đâu!”) Nhưng xì- căng-đan Huyền-Henry mở cửa cho một cuộc tranh luận sôi nổi. Cứ mười người phản đối sẽ có một người đứng lên hỏi – “Nhưng mọi người ơi, tại sao yêu người nước ngoài là không tốt?”.
Không có người phản đối thì không có người hỏi. (Kêu đói lúc mọi người đang ngồi im thì vô duyên, nhưng kêu đói lúc mọi người đang kêu no thì được.) Trong các trường hợp đó, người phản đối vô tình mở cửa cho người ủng hộ vô tình cho người ủng hộ một sân khấu để đứng lên và trình bày.
Giúp mọi người đoàn kết, sống an toàn, định nghĩa và phát triển văn hóa… Có lẽ chúng ta nên cám ơn xì-căng-đan. Cả năm chúng ta chửi mắng nó, cả bản chất lẫn người dính. Làm như vậy là không công bằng. Hôm nay chúng ta nên cảm ơn xì-căng-đan một câu, suy nghĩ về giá trị của nó – rồi sáng mai quên đi và nhiệt tình chửi tiếp.
Ma Tây
Chủ nhật. Đà Lạt. Một anh chàng người Anh thuê phòng trong một nhà nghỉ trước đây là biệt thự của một gia đình người Pháp, đêm về ngủ. Trong mơ, anh ấy thấy xuất hiện một cô bé tóc vàng. Cháu nhìn anh ấy, nói với giọng yếu ớt: “I’m really cold. Please, can I wear your jacket?” (“Chú ơi cháu lạnh lắm. Cháu mượn áo của chú có được không?”)
Sáng hôm sau anh ấy ngủ dậy, kể lại với cô lễ tân. Cô ấy thở dài, kể chuyện cách đây 110 năm có một cô bé người Anh bị lạc trong rừng (Cháu được gia đình người Pháp nhận nuôi). Đêm đó là lạnh nhất trong cả mùa đông. Khi được tìm thấy, cháu rất yếu và đến hôm sau qua đời ở nhà.
Tối thứ Hai, một chị người Việt không biết tiếng Anh thuê chính căn phòng đó, đêm về ngủ. Cô bé người Anh cũng xuất hiện trong mơ của chị ấy, cũng kêu lạnh, xin mượn áo. Tôi chưa bao giờ mơ có phụ đề nên tôi không biết trong trường hợp đó cháu sẽ trả lời như thế nào. Tôi tính sáu trường hợp có thể xảy ra:
Cháu xin mượn áo bằng tiếng Anh, chị người Việt không hiểu, chỉ thấy một cô bé ốm yếu đang nói “câu gì đó”.
Cháu xin mượn áo bằng tiếng Anh, chị người Việt có hiểu; mặc dù chưa học tiếng Anh nhưng do một phép màu siêu nhiên nên chị ấy “tạm rành”.
Cháu xin mượn áo bằng tiếng Việt, nói luôn “Cháu lạnh quá. Cháu mượn áo của cô có được không ạ?”. Khi còn sống, cháu không biết tiếng Việt, nhưng lúc sang bên kia thì cháu đăng ký học thêm.
Cháu dùng ngôn ngữ cử chỉ, biết mình đang nói với một người “không hiểu tiếng nói” nên phải tìm cách khác để ra ý.
Cháu không nói gì, không hành động gì, nhưng trong tim chị người Việt hiểu rất rõ cháu đang xin mượn áo.
Cháu không xuất hiện trong mơ chị ấy.
Giả sử sự tiếp xúc giữa ma và người trong mơ không khác gì sự tiếp xúc giữa người và người ngoài đời: cứ nói theo cách mình biết nói, cứ nghe theo cách mình biết nghe. Như vậy thì dễ có trục trặc lắm!
Hãy tưởng tượng một con ma là bà già người Việt xuất hiện trong mơ một du khách là anh chàng người Đức. Anh ấy biết tiếng Việt nhưng chưa rành lắm.
Ma: Mời bạn ra khỏi nhà tôi!
Khách: Cảm ơn bà, nhà rất đẹp.
Còn nếu ngôi nhà của một gia đình người Việt đang bị ma Tây ám thì cách giải quyết tốt nhất là gì? Nếu nhờ nhà ngoại cảm vào cuộc thì người đó chắc cần biết tiếng Tây phải không? Hoặc không cần đâu, cứ nhờ một con ma khác làm phiên dịch?
Bổ đề cơ bản
Vừa rồi báo chí kể nhiều về giáo sư Ngô Bảo Châu. Bố mẹ anh làm gì, trước đây anh học ở đâu, thích gì, muốn gì, được gì. Anh đã nhận giải thưởng Fields ở thành phố nào, được người nào trao tặng huy chương. Thậm chí các báo đăng thông tin công trình nghiên cứu của anh dày 169 trang (tận 169 trang cơ), nhà xuất bản tên gì, trụ sở ở đâu. Nhưng báo chí ít nhắc đến công việc cụ thể mà anh ấy đã làm – lý do khiến anh ấy nhận giải thưởng Fields.
“Nói chung anh ấy giỏi toán,” là khái niệm sơ sơ của đa số tác giả viết bài. “Ngô Bảo Châu đã chứng minh được Bổ đề cơ bản, Le lemme fondamental pour les algèbres de Lie!” Thế thì mừng quá! Nhưng… “Bổ đề cơ bản” là gì và vì sao phải chứng minh nó?
Tôi nghĩ các vấn đề khoa học có thể được thể hiện bằng lối viết hấp dẫn nếu tác giả bỏ chút thời gian nghiên cứu. Đằng sau mọi thành đạt trong khoa học thường là câu chuyện thú vị, và đằng sau sự thành đạt của Ngô Bảo Châu là câu chuyện thú vị lắm.
Ngày xửa ngày xưa, các nhà toán học công bố hai lý thuyết lớn: lý thuyết số học và lý thuyết nhóm (number theory, group theory). Bản chất sâu sắc của hai lý thuyết này không quá quan trọng ở đây – điều nên nhớ là hai lý thuyết (a) đặc biệt lớn, và (b) nhìn từ xa có vẻ riêng biệt với nhau, như hai cành cây.
Cách đây khoảng 30 năm, một nhà toán học người Canada tên là Robert Langlands viết bài cho rằng hai lý thuyết ấy có sự liên quan đa dạng, không riêng biệt nhau như nhiều người nghĩ mà đi với nhau như mây và mưa. Quan điểm của Robert khiến nhiều nhà toán học há hốc mồm. Nó khiến chính cái mồm của Robert há hốc ra khi ông phát hiện sẽ mất mấy thế hệ để chứng minh sự liên quan đa dạng đó.
“Nhưng bước đầu tiên sẽ tương đối đơn giản,” Robert tự tin nói với đồng nghiệp. Bước đầu tiên ấy Robert đặt tên là “Fundamental Lemma”. Đó chính là “Bổ đề cơ bản” mà người Việt nghe kể nhiều thời gian vừa qua.
Robert tựa như đang đứng trên đảo nhỏ. Nhìn về phía Đông là con tàu lớn. Nhìn về phía Tây cũng là con tàu lớn. Hai con tàu không có người lái, trôi nổi trên mặt biển.
Mặc dù không nhìn được rõ, Robert vẫn cho rằng hai con tàu đó có nhiều điểm chung. Có khi đóng từ cùng loại thép. Có khi lúc bánh lái của “tàu Đông” hướng về phía tay phải thì bánh lái của “tàu Tây” tự động hướng về phía tay trái. Khỏi phải nói hai con tàu đó là “number theory” và “group theory”.
Với ông Robert, việc chứng minh Bổ đề cơ bản có thể so sánh với việc ném hai sợi dây móc sang hai con tàu. Làm xong việc đó, các nhà toán học khỏe mạnh có thể đứng trên đảo Robert, cầm dây và kéo hai con tàu lên bờ – khi đó mới nghiên cứu kỹ, phát hiện điểm chung. Robert nghĩ việc nghiên cứu đó sẽ mất mấy thế hệ. Nhưng vụ ném dây thì không. Một năm. Hai năm. Thế thôi.
Robert đã nhầm. Hóa ra việc ném dây khó lắm. Robert cùng một số sinh viên của ông ném thử nhiều lần – lần nào cũng thất bại. Họ chỉ biết ném gần bằng dây mảnh, chứ ném chính xác bằng dây chất lượng gần như là nhiệm vụ bất khả thi.
Đảo Robert trở nên nổi tiếng. Trong suốt 30 năm, nhiều nhà toán học giỏi bơi sang và ném thử. Ai cũng lau mồ hôi, kêu khổ. Nhiều nhà toán học trên đất liền chuẩn bị các công cụ để kiểm tra hai con tàu lúc được kéo về bờ. Họ sản xuất máy kiểm tra sơn, lập trình phần mềm phân tích chân vịt; thậm chí có người tập cách đứng trên boong tàu để không bị say sóng. Nhưng toàn bộ sự nỗ lực đó sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có người biết ném dây và ngoắc móc.
Xuất hiện anh Ngô Bảo Châu! (Tiếng kèn trompet.) Nghe nhiều người kể về đảo Robert, anh ấy cởi áo, bơi sang, xin phép ném thử.
“Thử đi!” Các nhà toán học giỏi nhất thế giới động viên. “Thử xong ngồi uống trà đá với bọn mình nhé!”
Anh Châu ném thử, ném rất mạnh, dùng dây loại chất lượng nhất. Các nhà toán học đứng lên, cốc trà đá rơi xuống. Cách ném của anh Châu rất lạ; anh dùng kỹ thuật đặc biệt mà mọi người chưa từng thấy.
“Lại đi anh ơi!” Họ động viên tiếp. “Biết đâu anh sẽ là nhà toán học đầu tiên bắt tàu hai tay!”
Ngô Bảo Châu ném lại một lần nữa. Hai cái móc bám ngay vào hai con tàu khiến các nhà toán học giỏi nhất thế giới sững sờ ngưng cả thở (thêm tiếng trompet). Xong việc đó, anh Châu nhờ các đồng nghiệp ngưng cả thở ấy giữ dây để anh ấy có thể bay sang n Độ nhận giải thưởng Fields.
Chứng minh Bổ đề cơ bản là một trong những thành tựu lớn nhất của ngành toán học hiện đại, được tạp chí Time xếp vào danh sách “Top 10” phát minh khoa học tiêu biểu của năm 2009. Vì Ngô Bảo Châu hoàn thành xong công việc của mình nên hàng trăm nhà toán học khác có thể bắt đầu hoàn thành công việc của họ, tự tin vào cuộc dựa trên nền tảng vững chắc. Cả Việt Nam nên rất tự hào về anh hùng ném dây tên Ngô Bảo Châu.
Bọn 9X
Gần đây tôi nghe nhiều người phàn nàn về thế hệ 9X. Bọn 9X kinh, bọn 9X khùng, bọn 9X đú đa đú đởn, vớ va vớ vẩn, lừ đà lừ đừ như ông Từ vào quán Playstation 3. Tóm lại bọn 9X rất “bọn”.
Lúc tôi bắt đầu hòa nhập vào làng giải trí Việt Nam (cách đây chỉ có vài năm), internet là sân chơi riêng của 8X. Blog được gọi là không gian độc quyền của các bạn 8X, chưa kể đến những website, forum, shop, portal, góc chia sẻ – tất cả đều của 8X hết. Khi đó 9X chỉ là cụm từ nêu ra để gây cười, giống “0X” bây giờ.
Nhưng chỉ vài năm sau, 8X đã thành cụm từ của hôm qua. Muốn hay không, các anh chị 8X đã phải nhường lại sân chơi ảo cho các em 9X trẻ trung và xinh tươi hơn. Trước đây 8X là những “bố già in-tờ-nét”, còn bây giờ họ là người bố thật, là người già thật, in tờ thì nhiều, mực không còn nét. Bây giờ nhắc đến 8X, người ta nghĩ đến công việc nhiều hơn giải trí. 8X là thế hệ năng động (ở đâu xuất hiện chữ 8X, ở đó xuất hiện tính từ “năng động”) đã và đang xâ dựng nền kinh tế phát triển. Vần vân và mừng mừng.
Có một thời gian báo online nhắc cả hai cho chắc “Quán rất hợp với 8X, 9X!” Nhưng thời gian ấy đã qua. Giờ quán chỉ hợp với 9X.
Các em 9X. Chỉ trẻ hơn các anh chị 8X mấy tuổi mà đã xây dựng một hình ảnh riêng trên – và ngoài – mạng.
Một người bạn của tôi từng nói vui: “7X thì không biết, không làm. 8X thì biết nhưng không làm. Còn đến với các em 9X là vừa biết vừa làm, vừa làm lại lần nữa cho biết!”. Đôi khi tôi cũng nhiệt tình tham gia các trò chơi chê cười 9X do các bạn 7X và 8X tổ chức. Bạn tôi bảo 9X điên, tôi bảo 9X hâm. Bạn tôi bảo 9X hư, tôi bảo 9X hỏng, cứ như thế đến hết một buổi chiều Chủ nhật.
Nhưng sáng thứ Hai tôi lại thấy… quý quý.
Thứ nhất, các em 9X biết tiếp cận với thế giới bên ngoài. Điều đó không có nghĩa là các em bị “Tây hóa” hay bỏ qua thế giới bên trong. Đặc điểm tôi muốn nhắc ở đây là khả năng tiếp cận với văn hóa quốc tế, là cách đối xử chung của tất cả các văn hóa có mặt trên sân hội nhập, không phân biệt Tây, Đông, Bắc, Nam hay Nữ. Singapore gặp Slovakia, Nhật gặp Na Uy – ở đâu có người từ xứ sở xa nhau gặp nhau, ở đó có văn hóa quốc tế.
Mặc dù khó xác định nét đặc trưng nhưng đó là văn hóa có thật. Có phần thái độ, có phần trình độ, thêm phần đại độ và đức độ cho đặc. Công bằng mà nói, nhiều người Việt thuộc các thế hệ trên rất biết tiếp cận với văn hóa quốc tế.
Thứ hai, các em nói lịch sự. “9X mà nói lịch sự?”, tôi đang nghe nhiều người kêu. Nhưng bỏ qua số ít các em đại diện cho bên bậy thì kinh nghiệm của tôi là vậy. Ở Việt Nam, tôi rất sợ mấy vụ tai nạn giao thông nhỏ, mấy vụ đâm nhau không đáng kể nhưng cuối cùng phải kể nhiều chuyện lắm. Tôi sợ bị chửi, bị lừa, bị mất thời gian xem phim Chí Phèo không phụ đề. Nhưng với các em 9X, tôi đỡ sợ hơn. Theo kinh nghiệm của tôi, ngoài vài em tóc vàng, jean bó, thì các em sẽ thỏa thuận với mình một cách văn minh, nhẹ nhàng, ai cần nói gì thì nói, đổi số điện thoại, lên xe đi tiếp. Kể cả mấy em tóc vàng, jean bó, cũng không có gì quái quá. Bọn 9X chửi bậy, đua xe, đánh nhau và làm hỏng các lễ hội thực vật của thành phố – tôi nghe kể nhiều, gặp ít.
Thứ ba, các em biết đánh giá. Tôi thấy văn hóa bằng cấp của Việt Nam đang xuống cấp. Tiếp tục phân tích, đó là sự xuống cấp sẽ đưa Việt Nam đi lên. Mà phải cảm ơn 9X. Tất nhiên các em vẫn cố gắng học giỏi để có điểm cao; nhưng với họ, tờ giấy kỳ diệu mang tên “bằng” (nhất là bằng khen) có vẻ không sáng sủa lắm. May quá! Việt Nam hiện đang có quá nhiều thứ tồn tại trên giấy tờ, từ sự phát triển thị trường bất động sản đến độ an toàn thực phẩm – một điếu thuốc đánh rơi là đốt cháy hết.
Thứ tư, gu thẩm mỹ của các em rất tốt. Gu thẩm mỹ, trong bất cứ lĩnh vực nào, không phải điều tự nhiên mà có. Đó là kết quả của nhiều năm tìm hiểu và làm thử, biết vì sao một kiểu thiết kế nhìn đẹp, một kiểu nhìn xấu – rồi biết làm sao để kiểu nhìn xấu trở thành kiểu nhìn đẹp năm tới. Thiết kế quần áo, sửa lại quán trà, kể cả việc chụp hình hotgirl, hotboy cũng là một kỹ năng gồm nhiều yếu tố phức tạp không phải ai cũng làm được.
Thứ năm, các em biết nói đùa. Ở Việt Nam, nhận xét về văn hóa là việc rủi ro. Không phải do môi trường pháp luật hay quá trình kiểm duyệt – hai điều đó có nhiều chuyện để nói nhưng điều tôi sợ nhất không phải cái bút của người kiểm duyệt mà cái miệng của người đọc. Lòng tự ái. Nhiều người khó phân biệt thế nào là bài nói vui (châm biếm, chơi văn), thế nào là bài nghiêm túc nói lên đúng quan điểm của tác giả.
Với họ, kịch hài nào cũng phải có chữ “Cười” trong tên, tin nhắn trêu ghẹo nào cũng phải có mặt cười, bài viết châm biếm nào cũng phải có bức tranh biếm họa. Không thì nhầm. Nhầm thì giận. Người của công chúng nào cũng đều hiểu về sự rủi ro xuất phát từ lòng tự ái của khán giả, độc giả, thính giả hoặc bất cứ giả nào khác là giả của Việt Nam.
“Tôi viết truyện một con chó mực. Tôi thề rằng: quả thật đó chỉ là truyện một con chó mực. Nhưng truyện vừa in ra thì tôi gặp một thằng say. Hắn trợn mắt lên. Mặt hắn đỏ ngầu ngầu. Hắn lè nhè hỏi tôi: Sao lại bảo hắn là con chó. Rồi hắn chửi cho tôi một mẻ vuốt mặt không kịp.
Tôi ức quá. Nhưng rồi tôi lại cười. Tôi lẳng lặng về nhà, lấy giấy bút viết truyện một thằng say rượu.”
(Nam Cao, Những truyện không muốn nói)
Tôi nghĩ Nam Cao sẽ thích các em 9X. Các em biết thế nào là chó mực, thế nào là xúc phạm. (Thế nào là cả hai.) Tôi vẫn nhớ cách đây mấy năm một blogger nữ đến từ Sài Gòn viết bài “tát” Hà Nội – con người không thân thiện, cơm không ngon, wifi không có. Bình luận đe dọa lên đến hàng trăm, báo mạng nhảy vào cuộc kéo báo giấy nhảy theo. Cô blogger đó phải gỡ bài xuống và xin lỗi. Thực chất bài đó không có gì. Một bài phàn nàn bình thường, giống hàng nghìn bài phàn nàn của hàng trăm cô gái trẻ.
Giờ tôi rất khó hình dung một bài blog có thể gây xôn xao đến mức đó. Một phần là thời gian vừa qua có nhiều bài sốc nên dân mạng lỳ đòn. Nhưng một phần nữa là sự ảnh hưởng của văn hóa 9X – gây sốc thì được nhưng bị sốc thì không sành điệu lắm.
Thứ sáu (tiếp tục hành trình sau vài phút nghỉ ngơi), các em 9X quan tâm đến môi trường. Tôi thấy đó là sự quan tâm thật, không phải trào lưu, không phải để ý đến một điều để lấy lòng những người đang để ý đến mình. Các em có vẻ rất chán việc gọi là “tình nguyện xã giao”: lên xe bus, đến nơi xa, làm ít việc hình thức (quét đường, quét đường). Không phải em nào cũng “xanh” thực sự, nhưng tôi quan sát kỹ và thấy nhiều em hằng ngày có hành động nhỏ đế bảo vệ hành tinh – mà không nói với ai. Bản thân tôi nghĩ “bọn 6X” là kẻ thù lớn nhất của môi trường Việt Nam.
Thứ bảy, các em đang vẽ một vùng xám đẹp ở giữa các vùng trắng và đen của văn hóa xưa. Không phải cứ người sống thử là sai, cứ người đồng tính là hỏng, cứ người có hình xăm là đầu gấu – mà phải đánh giá cẩn thận dựa trên yếu tố riêng từng trường hợp một. Từ một đạo đức cứng (đừng làm việc n) họ đang dịch sang một đạo đức mềm (đừng làm tổn thương nhau). Không phải dịch hẳn sang mà dịch gần một chút để mọi người đều có chỗ ngồi.
Thứ tám, các em 9X biết mình là ai. “Mất gốc”. Nếu tôi là một em 9X thì tôi sẽ rất ghét từ đó. Sự thật là các em 9X đang giữ gốc với đúng mức độ nhiệt tình mà các bác 5X đang “giữ” lời khen. Tức là giữ rất tốt. Tất nhiên các em dùng tiếng Anh nhiều, nhưng cứ một từ tiếng Anh đưa vào sử đụng là họ nghĩ ra mười từ tiếng Việt mới. Tiếng lóng chi cần 10 đến 20 năm thành tiếng chuẩn; sau này từ điển tiếng Việt sẽ rất béo khỏe nhờ sự sáng tạo của các em 9X bây giờ.
Thứ chín, các em thích mua sách.
Chín là chín, thế là thế. Nếu xây dựng quan điểm về các em 9X dựa trên các thông tin phổ biến trên mạng và ngoài phố thì không thể chênh lệch hơn được. 9X hư? 9X lười? 9X vô tâm chỉ nghĩ đến bản thân? Nhầm, nhầm, nhầm. Họ là các em thông minh và chân thành sẽ đưa Việt Nam đi lên.
Phải bọn 0x mới kinh!
Ngoặc chấm chấm ngoặc
Trong các dấu chấm câu sáng tạo báo mạng Việt Nam hay dùng, tôi thích nhất “(!?)”. Mở ngoặc, dấu chấm than, dấu chấm hỏi, đóng ngoặc. Đó là một trong rất ít cách phóng viên có thể nói “Chém gió ác thế” mà không viết “Chém gió ác thế”.
Ví dụ, trong một bài báo viết về chuyện hai anh nông dân bị công an thị trấn Tào Xuyên, Thanh Hóa, hắt giữ và đòi 7,5 triệu vì “tội” ăn cháo quên mang giấy tờ tùy thân, có đoạn này phỏng vấn ông trưởng công an:
“Sự việc hai ông phó công an thị trấn lấy tiền của anh Khánh và anh Ngọc tổng cả 7,5 triệu đồng một cách không giấy tờ gì tại trụ sở công an thị trấn là có thật…
Việc mấy anh công an này làm là sai rồi. Các anh đó hiểu biết chưa được nhiều, các anh thông cảm bỏ qua cho (!?)”
(VTC)
Hiểu biết chưa được nhiều? Chém gió ác thế! Hay ví dụ này, lấy từ một bài viết về vụ công ty Vedan nhận giải thưởng “Vì Sức khỏe cộng đồng”:
“Giám đốc Trung tâm Tư vấn phát triển thương hiệu và chất lượng TP. HCM (NATƯSI) lại còn lý giải có thể do lu bu nên MC xướng nhầm tên của Vedan vào danh sách các doanh nghiệp được kêu tên lên nhận giải (!?)”
(Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh)
Thôi đi ông ơi, lạnh quá rồi, còn chiếc mũ của tôi vừa bị cuốn bay khỏi đầu! Hay ví dụ này, mang tính chất nhạy cảm khác:
“Anh Tuấn, nhân viên thiết kế tại phố Lê Văn Hưu không giấu được sự ngại ngần: Con gái ngày nay đã không còn như xưa, sống dễ dãi, buông thả mà việc kinh doanh màng trinh nhân tạo còn rầm rộ thì con gái Việt Nam rồi sẽ ra sao? Tất cả sẽ thay đổi hoàn toàn. Sự thỏa chí chơi bời, sự lừa dối sẽ làm mất đi hình ảnh con gái Việt Nam, thuần phong mỹ tục ở đâu (!?)”
(VTC)
Rõ ràng phóng viên không đồng ý lắm với quan điểm của anh Tuấn. Tôi hình dung ngay một phóng viên nữ đang đặt câu hỏi ngược lại về “sự thỏa chí chơi bời” vốn được chấp nhận hơn của con trai Việt Nam.
Không phải chỉ trong đoạn trích lời mà dấu “ngoặc chấm chấm ngoặc” cũng xuất hiện ngay trong tít:
“Cáu, bực tức, HH Trái đất sáng tạo ‘Miss Aozai’ (!?)”
(VTC)
“Hải quan để lọt 1.800 tấn dầu ăn nhập lậu (!?)”
(Pháp luật TP)
“Chủ tịch VFF chưa biết HN T&.T vô địch V.League (!?)”
(VTC)
“Đảng ủy phường không có chủ trương xin hỗ trợ (!?)”
(Tiền phong)
Mặc dù lá cải, mặc dù đi ngược với tính công bằng của nhà báo, mặc dù mở đường cho người thích kiện – “Joe: Tôi đẹp trai” rất khác với “Joe: Tôi đẹp trai (!?)”- nhưng mỗi lần thấy một “ngoặc chấm chấm ngoặc”xuất hiện, tôi vẫn liếm môi. Đúng là hơi quá. Đúng là hơi thô. Nhưng rất có cá tính.
Thoát xấu với Charisma Man
“Charisma Man” (Siêu nhân quyến rũ) là nhân vật của một họa sĩ người Canada làm việc tại Nhật. Anh ấy nhận thấy có nhiều anh Tây khi ở quê nhà là người hết sức bình thường, nhưng khi sang Nhật thì trở thành trung tâm của sự chú ý. Người Canada rất thích châm biếm, nên anh ấy phát triển nhận xét đó thành truyện tranh.
Khả năng biến thành Charisma Man của các anh Tây sang Việt Nam cũng không hề kém. Tôi, chẳng hạn. Tôi chưa bao giờ được nhiều người khen đẹp trai như ở Việt Nam (suy ra trước khi sang Việt Nam, tôi chưa đẹp trai). Lúc đầu, tôi nghĩ đó là những lời khen xã giao để tôi cảm thấy được quý mến. Nhưng sau một thời gian, tôi bắt đầu… tin tin.
Hóa ra mẹ tôi nói đúng!
Đầu tiên phải cảm ơn Hollywood. Người Tây đi đâu, phim Hollywood đi trước làm marketing giúp. Kết quả là, với một bộ phận lớn người Việt, cứ ông Tây là giàu (trông nghèo là khiêm tốn), cứ ông Tây là đẹp trai (trông xấu là quyến rũ), cứ ông Tây là lịch lãm (trông lôi thôi là “có style”), cứ ông Tây là giỏi (trông ngố là giấu giếm), cứ bà Tây là cởi mở về chuyện ấy…
Cách đây rất lâu, Hollywood phát hiện một sự thật “bình thường” không bán được. Đa số các anh Tây ở Tây có cuộc sống rất bình thường, không quá giàu, không quá giỏi. Họ khiêm tốn, tốt bụng, sống tình cảm với gia đình, giống như đa số các anh việt Nam ở Việt Nam. Nhưng cuộc đời các anh ấy không dựng được thành phim, hoặc dựng được nhưng không bán được thành tiền. Hollywood phải khác. Mà Hollywood xuất khẩu cái nào thì Việt Nam nhập khẩu cái đó.
Và ngược lại. Người Tây chủ yếu xây dựng hình ảnh về người Việt qua những bộ phim và tiểu thuyết về thời chiến, thời Pháp thuộc. (Vẫn chỉ có thế là phổ biến toàn cầu.) Trong các tác phẩm nghệ thuật ấy, phụ nữ thường xuất hiện với vẻ duyên dáng, bí ẩn. Đẹp kỳ lạ. Nếu có nhiều anh Tây sang Việt Nam và ăn theo hình ảnh “com-plê”, thì cũng có nhiều em Việt Nam sang Tây và ăn theo hình ảnh “áo dài”. Có bao nhiêu anh Tây biến thành Charisma Man ở Việt Nam thì có bấy nhiêu em Việt Nam biến thành Exotic Woman ở Tây (Siêu nhân đẹp kỳ lạ). Ví dụ, một em quê ở vùng biển, người thì gầy, da thì đen, giọng thì lờ và nờ thành một. Ở Việt Nam em ấy khó có thể vượt qua sự phân biệt ngoại hình và địa phương. Vậy nên em ấy giành học bổng, bay sang Anh. Sau ba năm đi học, em ấy nói tiếng Anh như người bản địa, kiếm việc part time là người mẫu ảnh (ai ngờ gương mặt đó lại ăn hình như thế?), kiếm boyfriend fulltime là Chủ tịch hội đồng sinh viên. Từ “gái nhà quê” em ấy biến thành “phụ nữ Exotic”. Ngoài vài ngày nhớ nhà (nhớ bún cá) em ấy cảm thấy hài lòng với cuộc sống mới – một cuộc sống rất giống phim.
Có lần tôi xem phim tài liệu của kênh Discovery kể về cuộc sống mới của người phụ nữ Việt đi lấy chồng Hàn Quốc. Có đoạn phỏng vấn một chị khá giỏi, ở Hàn Quốc chỉ có mấy năm mà lên tới chức xã trưởng. Khi ngồi tâm sự với máy quay, chị ấy mặc áo Hàn Quốc rất thời trang và nói giọng Việt Nam rất địa phương – một hình ảnh vừa mâu thuẫn vừa quen thuộc.
Tuy nhiên, “thoát xấu” bằng cách nào – nhờ phim, nhờ sách, nhờ chất tờ giấy trắng – cũng rất khó để thoát hẳn. Quay lại với tác phẩm chính: kẻ thù lớn nhất của “Charisma Man” trong truyện tranh là “Westem Woman” (Phụ nữ Tây): các em Canada cũng sang Nhật và rất biết sự thật về anh chàng “quyến rũ” này.
Chuyện Linh và Lucy
Linh hay là Lucy? Khánh hay Chris? Phạm Thi Nguyệt Nhung hay Tizzie Lulu Pham?
Tôi tính hai trường hợp mà người Việt đi nước ngoài nên đổi tên khác: tên mình có ý nghĩa xấu trong ngôn ngữ của người ta,và tên mình khó phát âm quá – dù muốn cuốn đến mấy nhưng lưỡi của người ta không liếm được các nguyên và phụ âm đó.
Một anh tên Chiến sắp đi du học ở Pháp nên đổi tên. Trong tiếng Pháp, “chien” có nghĩa là “chó” – “Je m’apelle Chien” (“Tôi tên chó”) là cách giới thiệu chỉ phù hợp với ca sĩ hát rap.
Còn hai tên Dung và Dũng có vấn đề ở Anh. Theo cách đọc của tiếng Anh, cả hai sẽ thành phát âm là “Đăng”, ý nghĩa là “phân”. Kể cả ca sĩ hát rap cũng không có người nào tên Phân cả.
Hai tên Phước và Phức cũng hơi “phức tạp”. Ví dụ, bạn là cô gái Sài Gòn đang yêu một anh Việt kiều ở Mỹ. Anh ấy tên thật là Phước nhưng bạn bè toàn gọi anh ấy bằng tên tiếng Anh là Peter. Một hôm hai người cãi nhau máu lửa qua điện thoại. Peter tắt máy, tức giận. Cảm thấy mình có lỗi, bạn sáng tác thư tình bằng tiếng Việt (để tăng độ tình cảm), gọi điện lại anh ấy, đọc cho anh ấy nghe.
Peter. Phước yêu… Alô? Alô, anh còn đó không?
Bên cạnh nguy cơ người ta hiểu không đúng, có nguy cơ khủng khiếp hơn là người ta phát âm không nổi.
What’s your name?
I’m Nguyệt.
Nờ’gu-yệt?
No no. Nguyệt
Nơ-goẹt?
Nguyệt.
Nguy-y-hệt?
Actually it’s Jane.
Với nhiều người Tây, buộc dây giày bằng lưỡi sẽ dễ hơn phát âm tên Nguyệt. Đó không phải lỗi tại ai; đơn giản tên đó kết hợp những âm khó nói nhất trong một diện tích nhỏ. Một vấn đề nữa là sự mất đi của phát âm đặc trưng. Ba tên Hùng, Hưng và Hương thường bị nói là “Hoong” hết. Một bạn tên Hùng sang Tây một mình chắc không sao, nhưng sang cùng bạn Hương và bạn Hưng thì… “Hey, Hoong!” Sếp kêu, khiến cả ba người phải nhìn nhau, nhìn sếp, rồi nhìn nhau một lần nữa.
Tuy nhiên, đa số tên Việt Nam không có ý nghĩa xấu, cách phát âm bất khả thi trong tiếng nước ngoài; đổi hay không là sự quyết định “tùy thích”. Bạn thích được gọi bằng Linh hay Lucy? Không phải bạn chấp nhận tên Lucy, bạn đồng ý tên Linh, mà bạn thích tên nào hơn?
Tôi có nhiều bạn Việt Nam đi nước ngoài và đổi tên thành công. Họ cảm thấy tên mới của mình (những Mike, Linda, Sam…) giúp mình hòa nhập với cuộc sống, thêm bạn, thêm vui. Tôi cũng có nhiều bạn nước ngoài sang Việt Nam và đổi tên thành công (những Duy, Khải, Cường). Họ không thiếu lời mời đi uống bia hơi.
Thêm vào đó, nhiều người cho rằng muốn thành công ở các lĩnh vực sáng sủa toàn cầu như điện ảnh Hollywood thì phải có tên tiếng Anh. Michelle Yeoh (Dương Tử Quỳnh) và Jackie Chan (Thành Long) thành công một phần vì tên tiếng Anh của họ tạo ấn tượng tốt trong lòng khán giả Tây.
Nhưng cứ một Michelle Yeoh có một Zhang Ziyi (Chương Tử Di), cứ một Jackie Chan có một Chow Yun Phat (Châu Nhuận Phát), là diễn viên châu Á giữ tên gốc và thành công không kém. Tên “lạ tai” cũng có thể tạo ấn tượng tốt – Nếu “anh hùng Núp” đổi tên thành “anh hùng Mạnh” liệu còn có ai nhớ ông chăng?
Cũng có người giữ tên gốc nhưng thêm “tên vui” – như cái tên “Dâu” mà các đồng nghiệp ở Liên Hiệp Quốc đặt cho tôi. Tên đó giúp tôi phát triển thương hiệu với cộng đồng mang lại nhiều lợi ích. Nhưng thêm một tên vui như vậy là việc rủi ro: nó luôn có nguy cơ lấn át tên thật (quả Dâu siết cổ chú Joe, cười tươi khi chôn xác ngoài vườn). Chính vì thế tôi phải vất vả chăm sóc cả hai.
Tuy nhiên dù chọn phương án nào – giữ tên gốc, đổi tên mới, giữ tên gốc và thêm tên vui – có một điều luôn phải để ý. Đó là đã tự giới thiệu bằng một cái tên thì sẽ rất khó thuyết phục mọi người gọi mình bằng tên nào khác.