Khi chúng ta đói, tinh thần của chúng ta sẽ trở nên sáng suốt và nhạy cảm hơn với các mùi thơm của thức ăn.Tarkad, con trai của ông Azure, chắc hẳn cũng đã nghĩ như thế. Đã hai ngày qua, anh chưa hề nếm một chút thức ăn nào, ngoại trừ hai quả vả nhỏ xíu do anh hái trộm trong vườn của người khác.
Từ sáng đến trưa, anh cứ dạo bước loanh quanh các quầy hàng bày bán những món ăn thơm phức và mong ước có một đồng bạc để vào chén cho thỏa thích.Anh rất đói nhưng không dám bước vào một hàng ăn nào vì anh biết, ở đây họ không bao giờ bán chịu cho bất cứ ai, dù chỉ là số tiền nhỏ cho một cốc rượu nhạt.
Trong lúc đang bần thần như vậy, bỗng nhiên anh đối mặt với một người đàn ông mà bấy lâu anh luôn né tránh. Đó là Dabasir, người buôn lạc đà ở thành Babylon và cũng là chủ nợ của anh. Trước đây, anh đã từng vay tiền của Dabasir và hứa sẽ hoàn trả đúng kỳ hạn, nhưng anh đã không giữ đúng lời hứa.
Gương mặt của Dabasir như bắt được vàng khi nhận ra Tarkad:
– Á! Tarkad đây rồi, tôi đã nhiều lần đi tìm cậu để đòi một đồng và hai hào bạc mà cậu đã mượn tôi trước đây.Trời đất xui khiến thế nào tôi lại được gặp cậu ở đây.Có phải thế không, cậu Tarkad?
Gương mặt của Tarkad trở nên bối rối và lúng túng.Anh chẳng còn hơi sức để phân minh với Dabasir:
-Tôi xin lỗi, tôi thật tiếc về điều đó. -Anh lắp bắp một cách yếu ớt. -Tuy nhiên, bây giờ tôi cũng không có một đồng nào để trả cho ông được.
– Sao cậu lại nói như vậy, Tarkad! – Dabasir cao giọng. – Cậu đã làm gì mà không còn một hào, một cắc để trả cho tôi chứ?
– Thật sự lúc này tôi rất túng bấn, nên chưa thể trả nợ cho ông được.
– Túng bấn ư! Tại sao trời đất lại phạt cậu hoài thế nhỉ? Cậu không thể vay tiền của tôi rồi sau đó mỗi lần gặp tôi, cậu lại viện lý do túng bấn nên chưa thể trả nợ được. Hãy theo tôi vào trong quán, tôi muốn kể cho cậu nghe một câu chuyện trong lúc tôi ăn một chút gì đó. Tôi đang đói bụng lắm đây!
Tarkad cảm thấy do dự trước sự thay đổi thái độ của Dabasir. Nếu vào trong quán, không lẽ anh ngồi nhìn Dabasir ăn uống một cách ngon lành, còn mình ngồi không với cái bụng đang đói meo như vậy. Nhưng anh lại nghĩ, ít ra đây cũng là một cơ hội để anh có thể bước vào cái quán ăn rất hấp dẫn kia.
Như quyết định giúp anh, Dabasir đẩy mạnh Tarkad vào quán và kéo đến ngồi trên hai tấm thảm đặt trong góc.
Dabasir nói với Kauskor, người chủ tiệm, đang nở nụ cười tươi rói trên môi:
– Ông hãy mang cho tôi một cái đùi dê nướng thật vàng với nhiều nước xốt, bánh mì và rau quả. Tôi đang rất đói nên muốn ăn nhiều một chút. À! Đừng quên tôi còn cậu bạn ở đây. Hãy mang cho cậu ta một bát nước. Phải là nước mát đấy, vì trời đang nóng mà.
Dabasir có vẻ như phớt lờ trước tình cảnh của Tarkad. Tarkad cảm thấy thật xấu hổ. Anh buộc phải ngồi đây và uống nước lạnh, trong khi Dabasir ăn ngấu nghiến cái đùi dê thơm phức. NhưngTarkad im lặng không nói gì, và anh nghĩ mình cũngchẳng có điều gì để nói cả.
Tuy nhiên, Dabasir biết rõ những gì Tarkad đang nghĩ trong đầu. Vừa mỉm cười khoát tay chào những thực khách khác ở trong quán, Dabasir vừa nói với Tarkad:
– Tôi nghe một người từ Urfa trở về kể rằng, ở nơi đó có một người đàn ông giàu có đang sở hữu một phiến đá trong suốt đến nỗi mọi người có thể nhìn xuyên qua nó và thấy mọi vật ở phía bên kia. Điều đặc biệt là nó có màu vàng, nên cảnh vật nhìn qua phiến đá ấy trở nên rất khác lạ. Nó không giống như cảnh vật hàng ngày mà chúng ta thường thấy.Theo cậu, điều này có ý nghĩa như thế nào, hỡi Tarkad? Cậu có cho rằng, cảnh vật có thể xuất hiện với một màu sắc khác không?
– Tôi nghĩ ắt là như thế. – Tarkad vừa đáp vừa nhìn cái đùi dê ngon lành đang bày ra trước mặt hai người.
– Đúng, tôi vốn biết điều đó là sự thật. Bởi vì, chính tôi cũng từng chứng kiến điều đó. Tôi sẽ kể cho cậu nghe về chuyện này.
– Dabasir sắp kể chuyện rồi đó! – Một thực khách ngồi gần đó nói nhỏ vào tai người bạn ngồi bên cạnh mình, rồi nhích tấm thảm của anh ta lại gần chỗ ngồi của Dabasir và Tarkad. Những thực khách khác cũng mang thức ăn đến và vây quanh hai người. Họ nhao nhao bên tai của Tarkad và đẩy anh ngồi xích vào bằng những cái dùi dê béo ngậy đang ăn dở trên tay. Nhưng tuyệt nhiên không có ai mời anh một miếng nào. Dabasir cũng không có ý chia sớt với anh chút gì cả, thậm chí cũng không đẩy cho anh một vụn nhỏ bánh mì nhỏ, mà để nó rơi xuống sàn nhà.
– Câu chuyện tôi sắp kể ra đây là câu chuyện có thật trong cuộc đời tôi, lúc còn là một chàng thanh niên mắc nợ ngập đầu. Có lẽ trong số các anh, không ai biết được tôi đã từng là một người nô lệ ở Syri?
Một vài tiếng xì xào ngạc nhiên nổi lên và lan dần trong đám thực khách, còn Tarkad bắt đầu chú ý lắng nghe. Có vẻ như đây là một câu chuyện thích thú.
– Khi còn trẻ, tôi đã từng học cách làm yên ngựa. Lúc đó, tôi vừa mới cưới vợ. Mặc dù tay nghề chưa cao lắm, nhưng hàng tháng tôi cũng kiếm được một số tiền kha khá vừa đủ cho một cuộc sống trung lưu.Tôi thường mua những chiếc áo đẹp, sang trọng để tặng vợ tôi. Dần dần, tôi nhận thấy chủ các cửa hiệu rất tin tưởng tôi và luôn vui vẻ bán chịu cho tôi mỗi khi tôi không có đủ tiền để trả lúc mua hàng. Vì thế, tôi đã không ngần ngại chi tiêu một cách hoang phí.
Thời gian đầu, những khoản nợ còn ít và nhỏ nên tôi vẫn còn chi trả được. Cho đến một ngày, tôi nhận ra những món nợ tuy nhỏ nhưng cộng lại thành một con số rất lớn và tôi không thể trả hết được. Cuộc sống của tôi bỗng chốc trở nên khốn đốn và tồi tệ. Mặc dù tôi phải đi vay mượn người thân, bạn bè để trả nợ, nhưng các khoản nợ vẫn dây dưa không hết, thậm chí ngày càng nhiều hơn. Ngày nào tôi cũng bị những chủ nợ đuổi theo để đòi tiền. Căn nhà và những vật dụng có giá trị đều bị họ xiết hết. Vợ tôi đau đớn và tủi nhục nên bỏ về nhà cha ruột cô ấy. Tôi mất việc, mất nhà và trong túi không còn một xu nào cả. Một hôm, trong cơn tuyệt vọng, tôi quyết định trốn khỏi Babylon để đến một nơi khác với hy vọng làm lại cuộc đời.
Trong hai năm trời, tôi làm thuê cho những thương lái lữ hành rày đây mai đó, nhưng vẫn không khấm khá được. Rồi sau đó, đoàn lữ hành của tôi rơi vào tay của bọn đạo tặc chuyên cướp bóc trên sa mạc. Tôi bị bắt và dần trở thành một phần tử trong nhóm người xấu xa đó. Tham gia những hành động như thế thật tôi không khỏi hổ thẹn trong lòng. Trong tâm trí, tôi vẫn luôn cố gắng vươn lên từ nghịch cảnh, nhưng thực tế tôi càng ngày càng rơi xuống vực thẳm.
Đợt cướp bóc lần đầu tiên, chúng tôi gặp may nên đã thu về vô số vàng bạc, tơ lụa và những hàng hóa có giá trị khác. Cả bọn thống nhất đem chiến lợi phẩm này đến Ginir để bán và lấy tiền chi tiêu hoang phí.
Lần thứ hai, chúng tôi thất bại nặng nề, vì bị toán quân rất gan dạ và có trang bị đầy đủ tấn công lại. Đây là toán quân được các đoàn lữ hành trả tiền để bảo vệ cho họ. Những kẻ đầu đảng bị giết chết, còn một số khác trong đó có tôi bị dẫn về Damacus bán làm nô lệ.
Tôi được một thủ lĩnh sa mạc người Syri mua với giá hai đồng bạc. Lúc đó, đầu tóc bị cạo trọc và mặc quần áo tù nhân nên trông tôi không khác gì những người nô lệ. Tuy nhiên, có lẽ quen với lối sống giang hồ khi còn làm đạo tặc, nên tôi nghĩ cuộc đời của tôi sắp bước vào những cuộc phiêu lưu mới. Nhưng sự thật như một gáo nước lạnh tạt vào mặt tôi, khi ông chủ mới dẫn tôi đến trình diện với bốn bà vợ của ông ta, và bảo rằng họ có thể sai khiến tôi như một tên nô lệ mạt hạng.
Tôi rơi vào một tình cảnh thật thảm hại. Những con người ở sa mạc rất hung dữ và hiếu chiến, nên tôi không thể không tuân theo nếu muốn giữ lại mạng sống. Và tôi cũng ý thức được rằng, cho dù có khí giới hay phương tiện để trốn, chưa chắc tôi thoát khỏi sự truy lùng của họ. Khi đó, tôi có thể bị họ đánh chết mà chăng phản kháng gì được.
Tôi sợ hãi đứng đó, trong khi bốn người đàn bà nhìn tôi từ đầu tới chân. Tôi tự hỏi tình cảnh của mình có gợi cho họ một sự thương hại nào không. Sira, người vợ cả và là người lớn tuổi nhất, yên lặng nhìn tôi nhưng không biểu lộ một cảm xúc gì. Tôi chỉ biết hướng đến bà để tìm một chút cảm thông giữa những con người với nhau. Bởi vì, bà thứ nhì tuy rất xinh đẹp, nhưng đang nhìn tôi một cách khinh bỉ tựa như tôi là một con giun đất. Trong khi, hai bà trẻ hơn thì cười mũi và xem tôi như một trò tiêu khiển.
Thời gian trôi qua như một cực hình, tôi cảm thấy nhục nhã vô cùng với cảm giác mình đang bị tuyên án. Bốn người đàn bà đều im lặng, dường như người này muốn để người kia quyết định số phận của tôi. Cuối cùng, bà Sira lên tiếng bằng một giọng nói lạnh lùng:
– Chúng ta đã có rất nhiều đầy tớ để sai vặt, duy chỉ thiếu những đứa chăn dắt lạc đà mà thôi. Ngay ngày hôm nay, tôi phải đến thăm mẹ tôi đang ốm nặng, và chẳng có đứa nô lệ tin cậy nào để làm việc đó. Không biết đứa nô lệ này có thể dắt được lạc đà không?
Thế là ông chủ quay sang hỏi tôi:
– Mày có biết dắt lạc đà không? Cố giấu đi sự phấn khởi, tôi đáp:
– Con có thể điều khiển lạc đà quỳ xuống, có thể buộc đồ đạc lên lưng nó và dẫn nó đi nhiều ngày mà không mệt. Nếu cần, con cũng có thể sửa chữa yên cương nữa.
– Mày nói vậy là được rồi. – Ông chủ nhận xét. – Nếu em muốn thế, Sira, thì hãy dùng tên nô lệ này. Nó sẽ là người chăn dắt lạc đà cho em.
Thế là, tôi được giao cho bà Sira và ngày hôm đó tôi phải dắt lạc đà cho bà ta trong suốt cuộc hành trình về quê thăm mẹ bà ấy. Lợi dụng dịp này, tôi bày tỏ lòng cảm ơn của mình đến sự can thiệp của bà vào lúc sáng. Tôi cũng nói với bà ấy rằng, tôi không phải là người sinh ra để làm nô lệ, mà là con trai của một người tự do, chuyên làm yên ngựa ở Babylon, đồng thời kể lể nguyên nhân tôi lưu lạc đến vùng Syri này. Tuy nhiên, tôi nhanh chóng thất vọng khi nghe bà ấy nói:
– Mày không biết ngượng miệng khi nói rằng mày là một con người tự do à? Chính do sự yếu kém của bản thân đã dẫn mày đến tình cảnh thảm hại như hiện nay! Một người đàn ông nếu đã mang trong mình linh hồn của một kẻ nô lệ, thì cho dù hắn ta chào đời ở bất cứ hoàn cảnh nào, thì cuối cùng hắn ta vẫn chỉ là một tên nô lệ. Bởi vì mày thấy đó, nước có bao giờ chảy ngược dòng đâu? Còn nếu người đó mang trong mình linh hồn của một con người tự do, thì dù có trải qua nhiều nghịch cảnh, cay đắng và khốn khổ trong cuộc đời, cuối cùng người đó cũng trở thành một con người danh giá và được mọi người kính trọng.
Những điều bà Sira nói đã làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Trong hơn một năm sau đó, tuy tôi phải sống chung và làm việc như một tên nô lệ nhưng tôi vẫn không thể trở thành một tên nô lệ được. Vào một hôm, bà Sira hỏi tôi:
-Vào những lúc rảnh rỗi, các nô lệ thường tụ tập và đánh chén vui vầy với nhau. Tại sao mày cứ ngồi tách biệt một mình vậy?
Tôi trả lời bà:
– Con vẫn đang suy ngẫm về những điều mà bà đã nói trước đây.Con nghĩ, có lẽ nào trong bản thân con có linh hồn của một kẻ nô lệ. Tuy nhiên, con cảm thấy mình không thể hòa nhập với bọn họ được, nên phải ngồi riêng ra.
Bà Sira nhìn tôi chằm chằm như đang suy nghĩ một điều gì. Một lát sau, bà thở dài và cất tiếng nói:
– Chính tôi cũng đang ngồi riêng ra trong ngôi nhà của mình. – Bà Sira tâm sự – Gia đình cha mẹ ruột tôi rất giàu có, nên cho tôi một số vốn khá lớn. Chồng tôi đồng ý cưới tôi chỉ vì món hồi môn đó, chứ không hề yêu thương gì tôi. Thêm nữa, mặc dù đã chung sống với nhau nhiều năm, nhưng tôi vẫn không sinh được một mụn con nào.Từ ngày có thêm ba bà vợ khác, ông ấy thực sự đã bỏ rơi tôi. Trong tình cảnh này, tôi phải sống thui thủi một mình và tự chăm lo cho bản thân mình mà thôi. Theo tập tục của những người Syri, thì phụ nữ cũng giống như những người nô lệ, sống phụ thuộc vào người đàn ông trong gia đình. Nhưng nếu tôi là một người đàn ông, tôi thà chết còn hơn trở thành một kẻ nô lệ.
-Vậy là bà đã hiểu được những gì con nghĩ trong thời gian qua. – Tôi cảm động nói, rồi chợt hỏi bà – Thưa bà, theo bà thì con có linh hồn của một người tự do hay của một kẻ nô lệ?
– Cậu có muốn trả hết nợ không? – Bà Sira hỏi lại tôi.
– Vâng! Con muốn lắm chứ, nhưng con không thể rời khỏi chỗ này được.
– Nếu cậu bằng lòng để thời gian trôi qua và không chịu nỗ lực tìm cách để trả nợ, thì chứng tỏ linh hồn của cậu là linh hồn của một kẻ nô lệ.
– Nhưng con biết làm thế nào khi còn là một tên nô lệ ở Syri?
– Cậu không biết làm gì, thì suốt đời cậu đúng là một kẻ hèn nhát.
– Con không phải là một kẻ hèn! – Tôi phản đối mạnh mẽ.
– Vậy thì hãy tìm cơ hội chứng tỏ bản lĩnh của mình đi. – Bà Sira nói.
– Chứng tỏ như thế nào cơ?
– Có phải nhà vua của xứ cậu đã chiến đấuvới quân địch bằngtất cả tài trí và sức lực của ông ta không? Tại sao cậu không cố gắng làm như vậy? Có phải những món nợ của cậu là những kẻ thù đã xua đuổi cậu ra khỏi Babylon không? Có phải cậu đã để chúng tồn tại trong cuộc sống của mình và mỗi ngày chúng càng lớn mạnh đến mức đẩy cậu đến bước đường cùng không? Đáng lẽ ra, cậu phải chiến đấu chống lại chúng như một người đàn ông chân chính và phải chiến thắng được chúng để trở thành một người danh giá, tự do trong xứ sở của cậu. Nhưng từ trước đến giờ cậu không có ý chí chiến đấu và đã chấp nhận bại trận một cách nhục nhã.
Tôi trăn trở rất nhiều vì những lời nói mạnh mẽ của bà Sira và nhận thấy rõ ràng chính tôi đã bị ‘kẻ thù” do mình tạo nên đuổi khỏi quê hương xứ sở. Trong tình cảnh này, tôi có đủ dũng khí để thoát khỏi số phận nô lệ không? Phải chăng bà Sira đã nói về tôi rất đúng – tôi là một kẻ hèn nhát, một kẻ có linh hồn nô lệ?
Ba ngày sau, người đầy tớ riêng của bà Sira gọi tôi tới gặp bà. Bà bảo tôi:
– Bệnh mẹ tôi lại trở nặng. Cậu hãy thắng yên cương cho hai con lạc đà khỏe nhất, chú ý buộc theo những túi da lớn đựng nước và những túi lương thực cho cẩn thận.
Tôi vừa làm việc, vừa suy nghĩ về các khoản thực phẩm mà bà Sira nhắc đến. Nhà mẹ ruột của bà Sira tuy ở xa nhưng đi không quá một ngày đường. Vì vậy, nếu giống như lần trước, bà Sira không cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy. Tuy rất thắc mắc nhưng tôi vẫn cẩn thận làm theo lệnhbà. Khi mọi thứ đã sẵn sàng,bà Sira cưỡi trên lưng con lạc đà do tôi dắt đi phía trước, còn người hầu gái ngồi trên con lạc đà thứ hai và đi phía sau. Khi chúng tôi đến nhà mẹ bà Sira, thì trời đã tối đen như mực. Bà Sira cho người đầy tớ gái đi nghỉ và bảo nhỏ với tôi rằng:
– Dabasir, cậu có linh hồn của một người tự do hay linh hồn của một kẻ nô lệ?
– Linh hồn của một con người tự do! – Tôi kiên quyết đáp.
– Vậy thì bây giờ cậu hãy chứng minh điều đó đi. Ông chủ của cậu và những kẻ hầu cận của ông ta đang ở rất xa nơi này. Cậu hãy yên tâm lấy hai con lạc đà này và trốn khỏi đây mau. Trong cái túi này, tôi có để sẵn áo quần cho cậu cải trang. Sáng mai, tôi sẽ bảo rằng cậu đã ăn cắp hai con lạc đà và chạy trốn trong lúc tôi đi thăm mẹ tôi ốm.
– Tôi vô cùng cám ơn bà, và có lẽ suốt đời tôi không trả hết món nợ này. Bà có linh hồn của một vị nữ thần. – Tôi tỏ lời cám ơn bà Sira. – Tôi luôn cầu chúc bà được bình an và hạnh phúc.
– Hạnh phúc! – Bà thở dài đáp lại. – Hạnh phúc có thể không đến với những ai đã rời bỏ quê hương xứ sở và đến một vùng đất xa xôi khác để kiếm tìm. Thôi, cậu hãy cố gắng đi theo con đường của riêng mình và cầu mong cho những vị thần sa mạc sẽ che chở cậu. Nhớ đừng uống hết nước và ăn hết thức ăn trước khi về đến xứ sở của cậu đấy!
Tôi vô cùng cảm động và biết ơn bà Sira, nhanh chóng theo lời bà lao ngay vào trong màn đêm của sa mạc mênh mông. Tôi không biết phương hướng nào dẫn đến Babylon, nên cứ nhắm mắt đi bừa trong sa mạc. Tôi cưỡi trên lưng một con lạc đà và dắt theo một con đi suốt cả đêm rồi cả ngày kế tiếp sau đó, lòng lo sợ về số phận của mình. Trong tình cảnh này, nếu bị bắt lại, có thể tôi phải hứng chịu một hình phạt rất khủng khiếp. Tội trạng của những kẻ nô lệ dám đánh cắp tài sản của chủ mình để đào thoát là rất nặng và có thể bị đánh chết.
Mãi tới xế trưa ngày hôm sau đó tôi mới đến được một vùng hoang vu không có người ở, cũng chẳng khác gì là sa mạc. Hai con lạc đà di chuyển một cách chậm chạp và mệt nhọc trên những phiến đá lởm chởm, nhọn hoắt. Nhìn vùng đất khô cằn, nứt nẻ, ngay cả ngọn cỏ cũng không thể sống nổi, tôi hiểu rõ tại sao con người lại tránh xa vùng đất không thân thiện này.
Tôi thực sự rơi vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan. Mặc dù ở đây tính mạng của tôi được an toàn, nhưng quả thật cuộc sống của tôi gần như đang đi vào ngõ cụt. Những ngày tiếp theo, hai con lạc đà di chuyển rất chậm, thức ăn và nước uống đã cạn, trong khi đó ánh nắng mặt trời không ngừng đổ lửa xuống người tôi. Vào cuối ngày thứ chín, tôi ngã từ trên lưng lạc đà xuống đất và không còn đủ sức để trèo lên lại. Trong đầu óc của tôi chợt vang lên câu hỏi: “Chẳng lẽ tôi chôn vùi xác ở xứ sở hoang vu này sao?”.
Tôi ngủ thiếp đi và không hay biết gì cho đến khi những tia nắng của ngày mới chiếu trên mặt.
Tôi ngồi dậy và ngơ ngác nhìn chung quanh. Hai con lạc đà nằm cách tôi không xa. Không khí buổi sáng thật mát mẻ. Xung quanh tôi là một vùng đất hoang vu rộng lớn, chỉ toàn đá và những bụi gai nhọn, không hề có dấu hiệu của nước hay cây cỏ có thể ăn được cho người hoặc lạc đà.
– Chẳng lẽ mình gục ngã ở nơi vắng vẻ này sao? – Đầu tôi lại vang lên câu hỏi này một lần nữa. – Chẳng lẽ mình đã sai khi chọn lối thoát này? Chẳng lẽ mình đúng là một kẻ hèn nhát, một con người có linh hồn của một kẻ nô lệ ư? – Nghĩ đến đây, bỗng nhiên đầu óc của tôi bỗng trở nên tỉnh táo hơn. Thân xác rã rời và kiệt quệ, đôi môi nứt nẻ và rướm máu, lưỡi khô khốc và sưng phồng, dạ dày trống rỗng… đối với tôi không còn quan trọng nữa. Bên trong con người tôi bỗng trào dâng một sức sống mãnh liệt. Tôi phải sống! Bởi vì, tôi còn nhiều việc phải làm và phải trở thành một con người được mọi người kính trọng. Tôi phải lấy lại niềm tin tưởng của những người tôi quen biết. Tôi còn phải chăm lo cho cuộc sống của vợ tôi nữa.
Tôi nhìn vào khoảng không trước mắt. Một lần nữa, đầu tôi vang lên câu nói của bà Sira: “Những món nợ của cậu là những kẻ thù đã xua đuổi cậu ra khỏi Babylon”. Vâng! Đúng như thế. Tại sao tôi lại từ chối việc đứng thẳng người trên mặt đất như một người đàn ông chân chính? Tại sao tôi lại để cho vợ tôi phải quay trở về nhà của cha nàng trong tủi nhục?”
Bất chợt, tôi nhìn thấy một điều kỳ lạ xảy ra trước mắt. Tất cả cảnh vật xung quanh tôi dường như mang một màu sắc tươi mới, giống như thể tôi đã nhìn thấy chúng xuyên qua một phiến đá kỳ diệu. Phải chăng đây mới chính là giá trị thật của cuộc sống mà tôi chưa hề khám phá ra trước đó?
Chịu chết trong sa mạc ư! Không thể như thế! Tôi phải sống và phải chứng tỏ cho mọi người biết, tôi là một con người có linh hồn tự do, một người có ý chí mạnh mẽ có thể vượt qua mọi nghịch cảnh. Tôi phải trở về nhà, phải trả hết nợ và xây một căn nhà để bắt đầu một cuộc sống mới với tầm nhận thức mới. Có lẽ đã trải qua nhiều kinh nghiệm cay đắng, nên tôi cảm thấy đầy hy vọng và tin tưởng vào cuộc sống sau này.
Tôi gượng đứng dậy, mặc cho hai chân chỉ muốn khuỵu xuống. Đói có nghĩa gì đâu? Khát có nghĩa gì đâu? Đó chỉ là những rủi ro trên con đường quay trở về xứ sở Babylon thân yêu của tôi mà thôi. Bên trong con người tôi, linh hồn của một con người tự do đang trỗi dậy, không những đã chiến thắng kẻ thù của chính mình, mà còn mãnh liệt khích lệ tinh thần của tôi. Tôi thu hết sức lực và hét lên thật to để thể hiện lòng quyết tâm sắt đá của mình.
Hai cặp mắt lờ đờ của hai con lạc đà bỗng nhiên mở to và sáng lên qua giọnghét của tôi. Sau nhiều lần cố gắng hết sức, và bằng một sự nỗ lực phi thường, tôi và hai con lạc đà đứng dậy bắt đầu đi chầm chậm về hướng Bắc, nơi mà linh tính mách bảo cho tôi biết, đó là con đường dẫn về Babylon.
Trải qua một đoạn đường dài, tôi đã đến vùng đất phì nhiêu, có nước, cỏ xanh và cây trái tươi tốt. Tôi nhận thấy sự hiện diện của cuộc sống, của con người. Tôi đã trở về Babylon bằng linh hồn của một con người tự do và làm chủ bản thân tôi. Sau đó, tôi bắt đầu giải quyết các công việc đúng như quyết tâm của mình và dần dần tạo ra được vị thế như ngày hôm nay.
Cậu nghĩ như thế nào, Tarkad? Cái dạ dày trống rỗng của cậu có làm cho đầu óc của cậu sáng suốt hơn không? Cậu có sẵn sàng lấy lại uy tín và lòng tự trọng của mình không? Cậu đã nhìn thấy giá trị thật của cuộc sống chưa? Cậu có mong ước trả hết các món nợ của mình và trở thành một con người đáng kính ở Babylon không?
Đôi mắt của Tarkad bỗng nhiên đỏ hoe. Anh đứng phắt dậy và nói:
– Cám ơn ông đã chỉ cho tôi một con đường mới!Tôi đã cảm thấy linh hồn tự do trỗi dậy trong tâm hồn mình.
– Trở về Babylon, với tình cảnh nợ nần chồng chất như thế, ông đã xoay xở như thế nào, hỡi ngài Dabasir đáng kính? – Một thực khách hỏi.
– Trước hết, tôi viếng thăm những người chủ nợ và yêu cầu họ hãy rộng lượng cho tôi thêm thời gian để tôi kiếm tiền trả nợ. Phần lớn mọi người đều vui vẻ chấp nhận, thậm chí họ còn sẵn lòng giúp đỡ tôi, nhưng cũng có một số người trách cứ tôi. Trong đó có một người đã giúp đỡ tôi rất nhiệt tình, đó là Mathon, người cho vay vàng ở vương quốc chúng ta. Biết được tôi đã từng chăn dắt lạc đà ở Syri, nên ông ấy giới thiệu tôi đến làm việc cho ông Nebatur, người buôn lạc đà đáng kính mà chắc hẳn quý vị ở đây đều biết. Được làm việc cho ông ấy, sự hiểu biết về lạc đà của tôi đã phát huy rất tốt. Dần dần, tôi đã thanh toán xong tất cả các món nợ, và có thể ngẩng cao đầu, tự tin lấy lại uy tín của mình như ngày nay.
Mọi người lần lượt cám ơn Dabasir về câu chuyện thú vị, đồng thời cũng là một bài học sâu sắc trong cuộc sống, rồi trở về chỗ cũ tiếp tục bữa ăn dang dở của mình. Dabasir cũng vậy, nhưng lần này anh gọi lớn:
– Này Kauskor ơi! Ông đâu rồi? Thức ăn đã nguội cả rồi. Ông hãy đem thêm cho tôi một số món ngon khác, rau và nhiều bánh mì nữa nhé! Tôi muốn mời cậu Tarkad ăn một bữa thịnh soạn.
Lòng vô cùng biết ơn Dabasir, Tarkad thấm thía một điều: “Một khi đã có ý chí sắt đá, thì con người sẽ dễ dàng tìm ra được một con đường để tiến lên phía trước!”.
Khi chúng ta đói, tinh thần của chúng ta sẽ trở nên sáng suốt và nhạy cảm hơn với các mùi thơm của thức ăn.Tarkad, con trai của ông Azure, chắc hẳn cũng đã nghĩ như thế. Đã hai ngày qua, anh chưa hề nếm một chút thức ăn nào, ngoại trừ hai quả vả nhỏ xíu do anh hái trộm trong vườn của người khác.
Từ sáng đến trưa, anh cứ dạo bước loanh quanh các quầy hàng bày bán những món ăn thơm phức và mong ước có một đồng bạc để vào chén cho thỏa thích.Anh rất đói nhưng không dám bước vào một hàng ăn nào vì anh biết, ở đây họ không bao giờ bán chịu cho bất cứ ai, dù chỉ là số tiền nhỏ cho một cốc rượu nhạt.
Trong lúc đang bần thần như vậy, bỗng nhiên anh đối mặt với một người đàn ông mà bấy lâu anh luôn né tránh. Đó là Dabasir, người buôn lạc đà ở thành Babylon và cũng là chủ nợ của anh. Trước đây, anh đã từng vay tiền của Dabasir và hứa sẽ hoàn trả đúng kỳ hạn, nhưng anh đã không giữ đúng lời hứa.
Gương mặt của Dabasir như bắt được vàng khi nhận ra Tarkad:
– Á! Tarkad đây rồi, tôi đã nhiều lần đi tìm cậu để đòi một đồng và hai hào bạc mà cậu đã mượn tôi trước đây.Trời đất xui khiến thế nào tôi lại được gặp cậu ở đây.Có phải thế không, cậu Tarkad?
Gương mặt của Tarkad trở nên bối rối và lúng túng.Anh chẳng còn hơi sức để phân minh với Dabasir:
-Tôi xin lỗi, tôi thật tiếc về điều đó. -Anh lắp bắp một cách yếu ớt. -Tuy nhiên, bây giờ tôi cũng không có một đồng nào để trả cho ông được.
– Sao cậu lại nói như vậy, Tarkad! – Dabasir cao giọng. – Cậu đã làm gì mà không còn một hào, một cắc để trả cho tôi chứ?
– Thật sự lúc này tôi rất túng bấn, nên chưa thể trả nợ cho ông được.
– Túng bấn ư! Tại sao trời đất lại phạt cậu hoài thế nhỉ? Cậu không thể vay tiền của tôi rồi sau đó mỗi lần gặp tôi, cậu lại viện lý do túng bấn nên chưa thể trả nợ được. Hãy theo tôi vào trong quán, tôi muốn kể cho cậu nghe một câu chuyện trong lúc tôi ăn một chút gì đó. Tôi đang đói bụng lắm đây!
Tarkad cảm thấy do dự trước sự thay đổi thái độ của Dabasir. Nếu vào trong quán, không lẽ anh ngồi nhìn Dabasir ăn uống một cách ngon lành, còn mình ngồi không với cái bụng đang đói meo như vậy. Nhưng anh lại nghĩ, ít ra đây cũng là một cơ hội để anh có thể bước vào cái quán ăn rất hấp dẫn kia.
Như quyết định giúp anh, Dabasir đẩy mạnh Tarkad vào quán và kéo đến ngồi trên hai tấm thảm đặt trong góc.
Dabasir nói với Kauskor, người chủ tiệm, đang nở nụ cười tươi rói trên môi:
– Ông hãy mang cho tôi một cái đùi dê nướng thật vàng với nhiều nước xốt, bánh mì và rau quả. Tôi đang rất đói nên muốn ăn nhiều một chút. À! Đừng quên tôi còn cậu bạn ở đây. Hãy mang cho cậu ta một bát nước. Phải là nước mát đấy, vì trời đang nóng mà.
Dabasir có vẻ như phớt lờ trước tình cảnh của Tarkad. Tarkad cảm thấy thật xấu hổ. Anh buộc phải ngồi đây và uống nước lạnh, trong khi Dabasir ăn ngấu nghiến cái đùi dê thơm phức. NhưngTarkad im lặng không nói gì, và anh nghĩ mình cũngchẳng có điều gì để nói cả.
Tuy nhiên, Dabasir biết rõ những gì Tarkad đang nghĩ trong đầu. Vừa mỉm cười khoát tay chào những thực khách khác ở trong quán, Dabasir vừa nói với Tarkad:
– Tôi nghe một người từ Urfa trở về kể rằng, ở nơi đó có một người đàn ông giàu có đang sở hữu một phiến đá trong suốt đến nỗi mọi người có thể nhìn xuyên qua nó và thấy mọi vật ở phía bên kia. Điều đặc biệt là nó có màu vàng, nên cảnh vật nhìn qua phiến đá ấy trở nên rất khác lạ. Nó không giống như cảnh vật hàng ngày mà chúng ta thường thấy.Theo cậu, điều này có ý nghĩa như thế nào, hỡi Tarkad? Cậu có cho rằng, cảnh vật có thể xuất hiện với một màu sắc khác không?
– Tôi nghĩ ắt là như thế. – Tarkad vừa đáp vừa nhìn cái đùi dê ngon lành đang bày ra trước mặt hai người.
– Đúng, tôi vốn biết điều đó là sự thật. Bởi vì, chính tôi cũng từng chứng kiến điều đó. Tôi sẽ kể cho cậu nghe về chuyện này.
– Dabasir sắp kể chuyện rồi đó! – Một thực khách ngồi gần đó nói nhỏ vào tai người bạn ngồi bên cạnh mình, rồi nhích tấm thảm của anh ta lại gần chỗ ngồi của Dabasir và Tarkad. Những thực khách khác cũng mang thức ăn đến và vây quanh hai người. Họ nhao nhao bên tai của Tarkad và đẩy anh ngồi xích vào bằng những cái dùi dê béo ngậy đang ăn dở trên tay. Nhưng tuyệt nhiên không có ai mời anh một miếng nào. Dabasir cũng không có ý chia sớt với anh chút gì cả, thậm chí cũng không đẩy cho anh một vụn nhỏ bánh mì nhỏ, mà để nó rơi xuống sàn nhà.
– Câu chuyện tôi sắp kể ra đây là câu chuyện có thật trong cuộc đời tôi, lúc còn là một chàng thanh niên mắc nợ ngập đầu. Có lẽ trong số các anh, không ai biết được tôi đã từng là một người nô lệ ở Syri?
Một vài tiếng xì xào ngạc nhiên nổi lên và lan dần trong đám thực khách, còn Tarkad bắt đầu chú ý lắng nghe. Có vẻ như đây là một câu chuyện thích thú.
– Khi còn trẻ, tôi đã từng học cách làm yên ngựa. Lúc đó, tôi vừa mới cưới vợ. Mặc dù tay nghề chưa cao lắm, nhưng hàng tháng tôi cũng kiếm được một số tiền kha khá vừa đủ cho một cuộc sống trung lưu.Tôi thường mua những chiếc áo đẹp, sang trọng để tặng vợ tôi. Dần dần, tôi nhận thấy chủ các cửa hiệu rất tin tưởng tôi và luôn vui vẻ bán chịu cho tôi mỗi khi tôi không có đủ tiền để trả lúc mua hàng. Vì thế, tôi đã không ngần ngại chi tiêu một cách hoang phí.
Thời gian đầu, những khoản nợ còn ít và nhỏ nên tôi vẫn còn chi trả được. Cho đến một ngày, tôi nhận ra những món nợ tuy nhỏ nhưng cộng lại thành một con số rất lớn và tôi không thể trả hết được. Cuộc sống của tôi bỗng chốc trở nên khốn đốn và tồi tệ. Mặc dù tôi phải đi vay mượn người thân, bạn bè để trả nợ, nhưng các khoản nợ vẫn dây dưa không hết, thậm chí ngày càng nhiều hơn. Ngày nào tôi cũng bị những chủ nợ đuổi theo để đòi tiền. Căn nhà và những vật dụng có giá trị đều bị họ xiết hết. Vợ tôi đau đớn và tủi nhục nên bỏ về nhà cha ruột cô ấy. Tôi mất việc, mất nhà và trong túi không còn một xu nào cả. Một hôm, trong cơn tuyệt vọng, tôi quyết định trốn khỏi Babylon để đến một nơi khác với hy vọng làm lại cuộc đời.
Trong hai năm trời, tôi làm thuê cho những thương lái lữ hành rày đây mai đó, nhưng vẫn không khấm khá được. Rồi sau đó, đoàn lữ hành của tôi rơi vào tay của bọn đạo tặc chuyên cướp bóc trên sa mạc. Tôi bị bắt và dần trở thành một phần tử trong nhóm người xấu xa đó. Tham gia những hành động như thế thật tôi không khỏi hổ thẹn trong lòng. Trong tâm trí, tôi vẫn luôn cố gắng vươn lên từ nghịch cảnh, nhưng thực tế tôi càng ngày càng rơi xuống vực thẳm.
Đợt cướp bóc lần đầu tiên, chúng tôi gặp may nên đã thu về vô số vàng bạc, tơ lụa và những hàng hóa có giá trị khác. Cả bọn thống nhất đem chiến lợi phẩm này đến Ginir để bán và lấy tiền chi tiêu hoang phí.
Lần thứ hai, chúng tôi thất bại nặng nề, vì bị toán quân rất gan dạ và có trang bị đầy đủ tấn công lại. Đây là toán quân được các đoàn lữ hành trả tiền để bảo vệ cho họ. Những kẻ đầu đảng bị giết chết, còn một số khác trong đó có tôi bị dẫn về Damacus bán làm nô lệ.
Tôi được một thủ lĩnh sa mạc người Syri mua với giá hai đồng bạc. Lúc đó, đầu tóc bị cạo trọc và mặc quần áo tù nhân nên trông tôi không khác gì những người nô lệ. Tuy nhiên, có lẽ quen với lối sống giang hồ khi còn làm đạo tặc, nên tôi nghĩ cuộc đời của tôi sắp bước vào những cuộc phiêu lưu mới. Nhưng sự thật như một gáo nước lạnh tạt vào mặt tôi, khi ông chủ mới dẫn tôi đến trình diện với bốn bà vợ của ông ta, và bảo rằng họ có thể sai khiến tôi như một tên nô lệ mạt hạng.
Tôi rơi vào một tình cảnh thật thảm hại. Những con người ở sa mạc rất hung dữ và hiếu chiến, nên tôi không thể không tuân theo nếu muốn giữ lại mạng sống. Và tôi cũng ý thức được rằng, cho dù có khí giới hay phương tiện để trốn, chưa chắc tôi thoát khỏi sự truy lùng của họ. Khi đó, tôi có thể bị họ đánh chết mà chăng phản kháng gì được.
Tôi sợ hãi đứng đó, trong khi bốn người đàn bà nhìn tôi từ đầu tới chân. Tôi tự hỏi tình cảnh của mình có gợi cho họ một sự thương hại nào không. Sira, người vợ cả và là người lớn tuổi nhất, yên lặng nhìn tôi nhưng không biểu lộ một cảm xúc gì. Tôi chỉ biết hướng đến bà để tìm một chút cảm thông giữa những con người với nhau. Bởi vì, bà thứ nhì tuy rất xinh đẹp, nhưng đang nhìn tôi một cách khinh bỉ tựa như tôi là một con giun đất. Trong khi, hai bà trẻ hơn thì cười mũi và xem tôi như một trò tiêu khiển.
Thời gian trôi qua như một cực hình, tôi cảm thấy nhục nhã vô cùng với cảm giác mình đang bị tuyên án. Bốn người đàn bà đều im lặng, dường như người này muốn để người kia quyết định số phận của tôi. Cuối cùng, bà Sira lên tiếng bằng một giọng nói lạnh lùng:
– Chúng ta đã có rất nhiều đầy tớ để sai vặt, duy chỉ thiếu những đứa chăn dắt lạc đà mà thôi. Ngay ngày hôm nay, tôi phải đến thăm mẹ tôi đang ốm nặng, và chẳng có đứa nô lệ tin cậy nào để làm việc đó. Không biết đứa nô lệ này có thể dắt được lạc đà không?
Thế là ông chủ quay sang hỏi tôi:
– Mày có biết dắt lạc đà không? Cố giấu đi sự phấn khởi, tôi đáp:
– Con có thể điều khiển lạc đà quỳ xuống, có thể buộc đồ đạc lên lưng nó và dẫn nó đi nhiều ngày mà không mệt. Nếu cần, con cũng có thể sửa chữa yên cương nữa.
– Mày nói vậy là được rồi. – Ông chủ nhận xét. – Nếu em muốn thế, Sira, thì hãy dùng tên nô lệ này. Nó sẽ là người chăn dắt lạc đà cho em.
Thế là, tôi được giao cho bà Sira và ngày hôm đó tôi phải dắt lạc đà cho bà ta trong suốt cuộc hành trình về quê thăm mẹ bà ấy. Lợi dụng dịp này, tôi bày tỏ lòng cảm ơn của mình đến sự can thiệp của bà vào lúc sáng. Tôi cũng nói với bà ấy rằng, tôi không phải là người sinh ra để làm nô lệ, mà là con trai của một người tự do, chuyên làm yên ngựa ở Babylon, đồng thời kể lể nguyên nhân tôi lưu lạc đến vùng Syri này. Tuy nhiên, tôi nhanh chóng thất vọng khi nghe bà ấy nói:
– Mày không biết ngượng miệng khi nói rằng mày là một con người tự do à? Chính do sự yếu kém của bản thân đã dẫn mày đến tình cảnh thảm hại như hiện nay! Một người đàn ông nếu đã mang trong mình linh hồn của một kẻ nô lệ, thì cho dù hắn ta chào đời ở bất cứ hoàn cảnh nào, thì cuối cùng hắn ta vẫn chỉ là một tên nô lệ. Bởi vì mày thấy đó, nước có bao giờ chảy ngược dòng đâu? Còn nếu người đó mang trong mình linh hồn của một con người tự do, thì dù có trải qua nhiều nghịch cảnh, cay đắng và khốn khổ trong cuộc đời, cuối cùng người đó cũng trở thành một con người danh giá và được mọi người kính trọng.
Những điều bà Sira nói đã làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Trong hơn một năm sau đó, tuy tôi phải sống chung và làm việc như một tên nô lệ nhưng tôi vẫn không thể trở thành một tên nô lệ được. Vào một hôm, bà Sira hỏi tôi:
-Vào những lúc rảnh rỗi, các nô lệ thường tụ tập và đánh chén vui vầy với nhau. Tại sao mày cứ ngồi tách biệt một mình vậy?
Tôi trả lời bà:
– Con vẫn đang suy ngẫm về những điều mà bà đã nói trước đây.Con nghĩ, có lẽ nào trong bản thân con có linh hồn của một kẻ nô lệ. Tuy nhiên, con cảm thấy mình không thể hòa nhập với bọn họ được, nên phải ngồi riêng ra.
Bà Sira nhìn tôi chằm chằm như đang suy nghĩ một điều gì. Một lát sau, bà thở dài và cất tiếng nói:
– Chính tôi cũng đang ngồi riêng ra trong ngôi nhà của mình. – Bà Sira tâm sự – Gia đình cha mẹ ruột tôi rất giàu có, nên cho tôi một số vốn khá lớn. Chồng tôi đồng ý cưới tôi chỉ vì món hồi môn đó, chứ không hề yêu thương gì tôi. Thêm nữa, mặc dù đã chung sống với nhau nhiều năm, nhưng tôi vẫn không sinh được một mụn con nào.Từ ngày có thêm ba bà vợ khác, ông ấy thực sự đã bỏ rơi tôi. Trong tình cảnh này, tôi phải sống thui thủi một mình và tự chăm lo cho bản thân mình mà thôi. Theo tập tục của những người Syri, thì phụ nữ cũng giống như những người nô lệ, sống phụ thuộc vào người đàn ông trong gia đình. Nhưng nếu tôi là một người đàn ông, tôi thà chết còn hơn trở thành một kẻ nô lệ.
-Vậy là bà đã hiểu được những gì con nghĩ trong thời gian qua. – Tôi cảm động nói, rồi chợt hỏi bà – Thưa bà, theo bà thì con có linh hồn của một người tự do hay của một kẻ nô lệ?
– Cậu có muốn trả hết nợ không? – Bà Sira hỏi lại tôi.
– Vâng! Con muốn lắm chứ, nhưng con không thể rời khỏi chỗ này được.
– Nếu cậu bằng lòng để thời gian trôi qua và không chịu nỗ lực tìm cách để trả nợ, thì chứng tỏ linh hồn của cậu là linh hồn của một kẻ nô lệ.
– Nhưng con biết làm thế nào khi còn là một tên nô lệ ở Syri?
– Cậu không biết làm gì, thì suốt đời cậu đúng là một kẻ hèn nhát.
– Con không phải là một kẻ hèn! – Tôi phản đối mạnh mẽ.
– Vậy thì hãy tìm cơ hội chứng tỏ bản lĩnh của mình đi. – Bà Sira nói.
– Chứng tỏ như thế nào cơ?
– Có phải nhà vua của xứ cậu đã chiến đấuvới quân địch bằngtất cả tài trí và sức lực của ông ta không? Tại sao cậu không cố gắng làm như vậy? Có phải những món nợ của cậu là những kẻ thù đã xua đuổi cậu ra khỏi Babylon không? Có phải cậu đã để chúng tồn tại trong cuộc sống của mình và mỗi ngày chúng càng lớn mạnh đến mức đẩy cậu đến bước đường cùng không? Đáng lẽ ra, cậu phải chiến đấu chống lại chúng như một người đàn ông chân chính và phải chiến thắng được chúng để trở thành một người danh giá, tự do trong xứ sở của cậu. Nhưng từ trước đến giờ cậu không có ý chí chiến đấu và đã chấp nhận bại trận một cách nhục nhã.
Tôi trăn trở rất nhiều vì những lời nói mạnh mẽ của bà Sira và nhận thấy rõ ràng chính tôi đã bị ‘kẻ thù” do mình tạo nên đuổi khỏi quê hương xứ sở. Trong tình cảnh này, tôi có đủ dũng khí để thoát khỏi số phận nô lệ không? Phải chăng bà Sira đã nói về tôi rất đúng – tôi là một kẻ hèn nhát, một kẻ có linh hồn nô lệ?
Ba ngày sau, người đầy tớ riêng của bà Sira gọi tôi tới gặp bà. Bà bảo tôi:
– Bệnh mẹ tôi lại trở nặng. Cậu hãy thắng yên cương cho hai con lạc đà khỏe nhất, chú ý buộc theo những túi da lớn đựng nước và những túi lương thực cho cẩn thận.
Tôi vừa làm việc, vừa suy nghĩ về các khoản thực phẩm mà bà Sira nhắc đến. Nhà mẹ ruột của bà Sira tuy ở xa nhưng đi không quá một ngày đường. Vì vậy, nếu giống như lần trước, bà Sira không cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy. Tuy rất thắc mắc nhưng tôi vẫn cẩn thận làm theo lệnhbà. Khi mọi thứ đã sẵn sàng,bà Sira cưỡi trên lưng con lạc đà do tôi dắt đi phía trước, còn người hầu gái ngồi trên con lạc đà thứ hai và đi phía sau. Khi chúng tôi đến nhà mẹ bà Sira, thì trời đã tối đen như mực. Bà Sira cho người đầy tớ gái đi nghỉ và bảo nhỏ với tôi rằng:
– Dabasir, cậu có linh hồn của một người tự do hay linh hồn của một kẻ nô lệ?
– Linh hồn của một con người tự do! – Tôi kiên quyết đáp.
– Vậy thì bây giờ cậu hãy chứng minh điều đó đi. Ông chủ của cậu và những kẻ hầu cận của ông ta đang ở rất xa nơi này. Cậu hãy yên tâm lấy hai con lạc đà này và trốn khỏi đây mau. Trong cái túi này, tôi có để sẵn áo quần cho cậu cải trang. Sáng mai, tôi sẽ bảo rằng cậu đã ăn cắp hai con lạc đà và chạy trốn trong lúc tôi đi thăm mẹ tôi ốm.
– Tôi vô cùng cám ơn bà, và có lẽ suốt đời tôi không trả hết món nợ này. Bà có linh hồn của một vị nữ thần. – Tôi tỏ lời cám ơn bà Sira. – Tôi luôn cầu chúc bà được bình an và hạnh phúc.
– Hạnh phúc! – Bà thở dài đáp lại. – Hạnh phúc có thể không đến với những ai đã rời bỏ quê hương xứ sở và đến một vùng đất xa xôi khác để kiếm tìm. Thôi, cậu hãy cố gắng đi theo con đường của riêng mình và cầu mong cho những vị thần sa mạc sẽ che chở cậu. Nhớ đừng uống hết nước và ăn hết thức ăn trước khi về đến xứ sở của cậu đấy!
Tôi vô cùng cảm động và biết ơn bà Sira, nhanh chóng theo lời bà lao ngay vào trong màn đêm của sa mạc mênh mông. Tôi không biết phương hướng nào dẫn đến Babylon, nên cứ nhắm mắt đi bừa trong sa mạc. Tôi cưỡi trên lưng một con lạc đà và dắt theo một con đi suốt cả đêm rồi cả ngày kế tiếp sau đó, lòng lo sợ về số phận của mình. Trong tình cảnh này, nếu bị bắt lại, có thể tôi phải hứng chịu một hình phạt rất khủng khiếp. Tội trạng của những kẻ nô lệ dám đánh cắp tài sản của chủ mình để đào thoát là rất nặng và có thể bị đánh chết.
Mãi tới xế trưa ngày hôm sau đó tôi mới đến được một vùng hoang vu không có người ở, cũng chẳng khác gì là sa mạc. Hai con lạc đà di chuyển một cách chậm chạp và mệt nhọc trên những phiến đá lởm chởm, nhọn hoắt. Nhìn vùng đất khô cằn, nứt nẻ, ngay cả ngọn cỏ cũng không thể sống nổi, tôi hiểu rõ tại sao con người lại tránh xa vùng đất không thân thiện này.
Tôi thực sự rơi vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan. Mặc dù ở đây tính mạng của tôi được an toàn, nhưng quả thật cuộc sống của tôi gần như đang đi vào ngõ cụt. Những ngày tiếp theo, hai con lạc đà di chuyển rất chậm, thức ăn và nước uống đã cạn, trong khi đó ánh nắng mặt trời không ngừng đổ lửa xuống người tôi. Vào cuối ngày thứ chín, tôi ngã từ trên lưng lạc đà xuống đất và không còn đủ sức để trèo lên lại. Trong đầu óc của tôi chợt vang lên câu hỏi: “Chẳng lẽ tôi chôn vùi xác ở xứ sở hoang vu này sao?”.
Tôi ngủ thiếp đi và không hay biết gì cho đến khi những tia nắng của ngày mới chiếu trên mặt.
Tôi ngồi dậy và ngơ ngác nhìn chung quanh. Hai con lạc đà nằm cách tôi không xa. Không khí buổi sáng thật mát mẻ. Xung quanh tôi là một vùng đất hoang vu rộng lớn, chỉ toàn đá và những bụi gai nhọn, không hề có dấu hiệu của nước hay cây cỏ có thể ăn được cho người hoặc lạc đà.
– Chẳng lẽ mình gục ngã ở nơi vắng vẻ này sao? – Đầu tôi lại vang lên câu hỏi này một lần nữa. – Chẳng lẽ mình đã sai khi chọn lối thoát này? Chẳng lẽ mình đúng là một kẻ hèn nhát, một con người có linh hồn của một kẻ nô lệ ư? – Nghĩ đến đây, bỗng nhiên đầu óc của tôi bỗng trở nên tỉnh táo hơn. Thân xác rã rời và kiệt quệ, đôi môi nứt nẻ và rướm máu, lưỡi khô khốc và sưng phồng, dạ dày trống rỗng… đối với tôi không còn quan trọng nữa. Bên trong con người tôi bỗng trào dâng một sức sống mãnh liệt. Tôi phải sống! Bởi vì, tôi còn nhiều việc phải làm và phải trở thành một con người được mọi người kính trọng. Tôi phải lấy lại niềm tin tưởng của những người tôi quen biết. Tôi còn phải chăm lo cho cuộc sống của vợ tôi nữa.
Tôi nhìn vào khoảng không trước mắt. Một lần nữa, đầu tôi vang lên câu nói của bà Sira: “Những món nợ của cậu là những kẻ thù đã xua đuổi cậu ra khỏi Babylon”. Vâng! Đúng như thế. Tại sao tôi lại từ chối việc đứng thẳng người trên mặt đất như một người đàn ông chân chính? Tại sao tôi lại để cho vợ tôi phải quay trở về nhà của cha nàng trong tủi nhục?”
Bất chợt, tôi nhìn thấy một điều kỳ lạ xảy ra trước mắt. Tất cả cảnh vật xung quanh tôi dường như mang một màu sắc tươi mới, giống như thể tôi đã nhìn thấy chúng xuyên qua một phiến đá kỳ diệu. Phải chăng đây mới chính là giá trị thật của cuộc sống mà tôi chưa hề khám phá ra trước đó?
Chịu chết trong sa mạc ư! Không thể như thế! Tôi phải sống và phải chứng tỏ cho mọi người biết, tôi là một con người có linh hồn tự do, một người có ý chí mạnh mẽ có thể vượt qua mọi nghịch cảnh. Tôi phải trở về nhà, phải trả hết nợ và xây một căn nhà để bắt đầu một cuộc sống mới với tầm nhận thức mới. Có lẽ đã trải qua nhiều kinh nghiệm cay đắng, nên tôi cảm thấy đầy hy vọng và tin tưởng vào cuộc sống sau này.
Tôi gượng đứng dậy, mặc cho hai chân chỉ muốn khuỵu xuống. Đói có nghĩa gì đâu? Khát có nghĩa gì đâu? Đó chỉ là những rủi ro trên con đường quay trở về xứ sở Babylon thân yêu của tôi mà thôi. Bên trong con người tôi, linh hồn của một con người tự do đang trỗi dậy, không những đã chiến thắng kẻ thù của chính mình, mà còn mãnh liệt khích lệ tinh thần của tôi. Tôi thu hết sức lực và hét lên thật to để thể hiện lòng quyết tâm sắt đá của mình.
Hai cặp mắt lờ đờ của hai con lạc đà bỗng nhiên mở to và sáng lên qua giọnghét của tôi. Sau nhiều lần cố gắng hết sức, và bằng một sự nỗ lực phi thường, tôi và hai con lạc đà đứng dậy bắt đầu đi chầm chậm về hướng Bắc, nơi mà linh tính mách bảo cho tôi biết, đó là con đường dẫn về Babylon.
Trải qua một đoạn đường dài, tôi đã đến vùng đất phì nhiêu, có nước, cỏ xanh và cây trái tươi tốt. Tôi nhận thấy sự hiện diện của cuộc sống, của con người. Tôi đã trở về Babylon bằng linh hồn của một con người tự do và làm chủ bản thân tôi. Sau đó, tôi bắt đầu giải quyết các công việc đúng như quyết tâm của mình và dần dần tạo ra được vị thế như ngày hôm nay.
Cậu nghĩ như thế nào, Tarkad? Cái dạ dày trống rỗng của cậu có làm cho đầu óc của cậu sáng suốt hơn không? Cậu có sẵn sàng lấy lại uy tín và lòng tự trọng của mình không? Cậu đã nhìn thấy giá trị thật của cuộc sống chưa? Cậu có mong ước trả hết các món nợ của mình và trở thành một con người đáng kính ở Babylon không?
Đôi mắt của Tarkad bỗng nhiên đỏ hoe. Anh đứng phắt dậy và nói:
– Cám ơn ông đã chỉ cho tôi một con đường mới!Tôi đã cảm thấy linh hồn tự do trỗi dậy trong tâm hồn mình.
– Trở về Babylon, với tình cảnh nợ nần chồng chất như thế, ông đã xoay xở như thế nào, hỡi ngài Dabasir đáng kính? – Một thực khách hỏi.
– Trước hết, tôi viếng thăm những người chủ nợ và yêu cầu họ hãy rộng lượng cho tôi thêm thời gian để tôi kiếm tiền trả nợ. Phần lớn mọi người đều vui vẻ chấp nhận, thậm chí họ còn sẵn lòng giúp đỡ tôi, nhưng cũng có một số người trách cứ tôi. Trong đó có một người đã giúp đỡ tôi rất nhiệt tình, đó là Mathon, người cho vay vàng ở vương quốc chúng ta. Biết được tôi đã từng chăn dắt lạc đà ở Syri, nên ông ấy giới thiệu tôi đến làm việc cho ông Nebatur, người buôn lạc đà đáng kính mà chắc hẳn quý vị ở đây đều biết. Được làm việc cho ông ấy, sự hiểu biết về lạc đà của tôi đã phát huy rất tốt. Dần dần, tôi đã thanh toán xong tất cả các món nợ, và có thể ngẩng cao đầu, tự tin lấy lại uy tín của mình như ngày nay.
Mọi người lần lượt cám ơn Dabasir về câu chuyện thú vị, đồng thời cũng là một bài học sâu sắc trong cuộc sống, rồi trở về chỗ cũ tiếp tục bữa ăn dang dở của mình. Dabasir cũng vậy, nhưng lần này anh gọi lớn:
– Này Kauskor ơi! Ông đâu rồi? Thức ăn đã nguội cả rồi. Ông hãy đem thêm cho tôi một số món ngon khác, rau và nhiều bánh mì nữa nhé! Tôi muốn mời cậu Tarkad ăn một bữa thịnh soạn.
Lòng vô cùng biết ơn Dabasir, Tarkad thấm thía một điều: “Một khi đã có ý chí sắt đá, thì con người sẽ dễ dàng tìm ra được một con đường để tiến lên phía trước!”.