Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Nguồn Gốc Của Muôn Loài

Chương II: Biến Đổi Trong Tự Nhiên

Tác giả: Charles Darwin

Tính biến đổi – những khác biệt các thể – các loài đáng nghi ngờ – tầm trải rộng, và loài thông thường biến đổi nhiều nhất – những giống trong một loài lớn tại bất cứ nước nào biến đổi nhiều hơn so với giống thuộc loài bé hơn – Nhiều giống của loài lớn có bề ngoài giống như các biến thể rất gần gũi nhưng có mối quan hệ không đồng đều, và trong tầm giới hạn.

Trước khi áp dụng những nguyên lý mà chúng ta đã rút ra được từ chương trước cho các cơ thể hữu cơ tồn tại trong môi trường tự nhiên, chúng ta cần thiết phải đề cập một cách ngắn, gọn liệu những cơ thể sống này có chịu ảnh hưởng của sự biến đổi? Để có thể giải đáp chính xác câu hỏi này, tôi nên đưa ra một catalog dài những bằng chứng khô cứng; nhưng tôi sẽ giữ lại chúng cho chủ đề sau này và ở đây tôi cũng không thảo luận các định nghĩa khác nhau đối với từ “loài”. Hiện vẫn chưa có một định nghĩa nào được mọi nhà tự nhiên học chấp thuận cho là đầy đủ. Tuy thế họ vẫn ngầm hiểu (khá tù mù) hàm ý của một người khi anh này nói đến “loài”. Xét về tổng thể, thuật ngữ đó bao gồm nhân tố chưa được biết đến của một hành động sáng tạo cụ thể. Cụm từ “biến thể” cũng khó định nghĩa không kém; nhưng ở đây, người ta thường ám chỉ đến cộng đồng con cháu mặc dù điều này hiếm khi chứng minh được. Chúng ta cũng có những điều kỳ quái; nhưng chúng tồn tại trong chính các biến thể. Khi nói tới “sự kỳ dị”, tôi hình dung nó là một số sai khác đáng kể trong cấu trúc của một bộ phận, mang tính bất lọi hoặc là gây tổn thương cho chính con vật đó, may mắn thay nó ít khi xuất hiện. Một số nhà nghiên cứu sử dụng cụm từ “sự biến đổi” mang ý nghĩa kỹ thuật, hàm ý một chỉnh sửa trực tiếp do điều kiện vật chất của cuộc sống, và “sự biến đổi” theo nghĩa này được cho rằng là không di truyền; nhưng ai có thể nói rằng điều kiện sống khó khăn của các loài động vật có mai, vỏ tại những vùng nước lợ biển Baltic hay của những cây lùn trên đỉnh Alpine, hay bộ lông dày hơn của một con vật tại vùng phía bắc xa xôi, trong một số trường hợp, lại không được di truyền ít nhất qua vài thế hệ. Ở đây, tôi hình dung dạng thức sống đó được gọi là một biến thể.

Một lần nữa, chúng ta có nhiều điểm khác biệt nhỏ có thể được gọi là những khác biệt cá thể, giống như saị khác mà được biết thường xuất hiện ở đứa con so với cha mẹ, hoặc là cái mà có thể được đoán đã xuất hiện ở thực thé sống bị quan sát thường xuyên trong các cá thể của cùng một loài cư trú tại cùng một địa nơi giam cầm. Không ai cho rằng tất cả các cá thể của một loài được đúc từ cùng một khuôn. Những điểm khác biệt cá thể rất quan trọng đối với chúng ta bởi vì chúng cung cấp nguyên liệu cho sự lựa chọn tự nhiên tích lũy, tương tự như cách mà con người có thể tích tụ những điểm khác biệt cá thể trong sản phẩm thuần hóa của họ theo bất kỳ hướng nào cho trước. Những điểm khác biệt cá thể thường ảnh hưởng đến cái mà các nhà tự nhiên coi là kém quan trọng; nhưng tôi có thể chỉ ra, với một cuốn catalo dài các bằng chứng, rằng các phần mà phải được gọi là quan trọng, cho dù được xem xét dưới góc độ của quan điểm sinh lý hay của phân loại, đôi khi thay đổi trong các cá thể của cùng một loài. Tôi hoàn toàn tự tin nói rằng một nhà tự nhiên học giàu kinh nghiệm sẽ phải ngạc nhiên trước số lượng các trường hợp của tính biến đổi, thậm chí trong phần quan trọng của cấu trúc, mà ông ta có thể thu được nhiều kiến thức bổ ích, giống như tôi đã thu lượm được qua nhiều năm. Chúng ta nên nhớ rằng những người làm việc theo phương pháp khoa học chưa hề hài lòng với việc tìm ra tính biến đổi ở tại các đặc điểm quan trọng; và răng không có nhiều người chịu khó xem xét tìm hiểu các bộ phận quan ừọng bên trong, và so sánh chúng giữa các con trong cùng một loài. Tôi không nên bao giờ ưông đợi nhánh thần kinh chính gần với trung tâm hạch của một con côn trùng biến đổi trong cùng một loài mà nên trông đợi sự thay đổi của đặc điểm này chi có thể xảy ra qua quá trình dài lâu; và gần đây thôi, ông Lubbock đã cho thấy một mức độ biến đổi trong dây thần kinh chính của loài Coccus, cái hầu như có thể đem so sánh với nhánh bất bình thường của bộ rễ cây. Tôi cũng xin nói thêm nhà tự nhiên học kiêm triết gia này gần đây minh chứng các dây cơ trong ấu trùng của vài loài côn trùng không hề đồng nhất. Các học giả đôi khi lập luận vòng vo khi họ phát biểu rằng những bộ phận quan trọng thì không bao giờ biến đổi; và thú vị là chính những vị này xếp đặc điểm quan trọng (như một số nhà tự nhiên học bộc bạch) không thay đổi. Theo quan điểm này, chúng ta sẽ không bao giờ tìm ra ví dụ về một bộ phận biến đổi; nhưng nếu theo bất cứ quan điểm nào khác, nhiều ví dụ kiểu này có thể được đưa ra.

Có một điều liên quan đến tính khác biệt mà vô cùng phức tạp đối với tôi: tôi muốn nói đến các loài mà mọi người vẫn thường gọi là loài “hay thay đổi” hay là “loài đa hình”. Những loài này trải qua quá trình thay đổi và phát triển liên tục kể từ khi chúng hình thành. Chúng ta khó có thể tìm thấy hai nhà tự nhiên học đồng ý với nhau dạng thức nào thì được xếp vào loài còn dạng thức nào thì xếp vào biến thể. Những ví dụ về Rubus, hoa hồng và Hieracium trong số các loài cây, một vài loài côn trùng và một vài loài thân vỏ Brachiopod, có thể được trích dẫn ra. Đa số các loài hay thay đổi lại có nhiều đặc điểm cố định và xác định. Loài hay đổi thay nhiều trong một nước hình như có xu hướng cũng biển chuyển nhiều ở các nước khác, tất nhiên là phải trừ một số trường hợp ngoại lệ như của loài Brachiopod. Những thực tể này dường như rất khó hiểu và chứa đựng mâu thuẫn do chúng cỏ vẻ cho thấy kiểu tính biến đổi này là độc lập, không phụ thuộc vào điều kiện sổng. Tôi có thiên hướng nghi ngờ rằng chúng ta nhìn thấy trong loài hay biến đổi các thay đổi có đặc điểm cấu trúc không có ích đối với chúng, do vậy không được sự lựa chọn tự nhiên, một khái niệm sẽ được giải thích đầy đủ ở phần sau chấp nhận.

Những dạng nắm giữ, ở một mức độ đáng kể, các đặc tính của loài nhưng lại quá giống với những dạng khác hay có quan hệ gần gũi với chúng thông qua sự thay đổi nhỏ đến mức các nhà tự nhiên học không thích sắp xếp chúng là một loài riêng biệt, trong một số trường hợp nhất định là khá có ý nghĩa đối với chúng ta. Chúng ta hoàn toàn có lý do để tin rằng nhiều dạng trong số các dạng thức gần gũi, đáng nghi liên tục giữ lại các đặc điểm của chúng tại nước cư ngụ trong thời gian dài. Trong thực tế, khi một nhà tự nhiên học có thể gộp hai dạng vào với nhau do chúng có các đặc điểm trung gian, anh ta coi một dạng là biến thể của dạng còn lại, và sẽ xếp dạng phổ biến hơn, nhưng đôi khi là dạng được miêu tả đầu tiên, là loài và dạng thứ hai là biến thể. Tôi không liệt kê ra đây những trường hợp đầy khó khăn để quyết định xem có hay không xếp một dạng là biến thể của dạng khác thậm chí là khi chúng liên quan mật thiết với nhau thông qua liên kết trung gian. Đặc điểm lai ghép của các liên kết trung gian được đa số các nhà tự nhiên học thừa nhận sẽ không phải lúc nào cũng gỡ bỏ khó khăn. Tuy thế trong rất nhiều trường hợp, một dạng bị coi là biến thể của dạng khác không chỉ là do người ta tìm ra liên kết trung gian mà còn bởi vì những sự so sánh khiến người quan sát đi tới sự tiên đoán hoặc là chúng hiện giờ vẫn tồn tại ở đâu đó hoặc có thể từng tồn tại; và ở đây cánh cửa cho sự nghi ngờ và phỏng đoán đã được mở tung.

Do đó khi quyết định liệu một dạng là nên được xếp vào loài hay biến thể, ý kiến của những nhà tự nhiên học giàu kinh nghiệm, có nhận xét, đánh giá chuẩn xác có vẻ như là phương hướng đúng đắn duy nhất để đi theo. Nhưng trong nhiều trường hợp chúng ta vẫn phải quyết định dựa trên ý kiến đa số của các nhà tự nhiên, bởi vì có một số dạng được đông đảo giới sinh học biết đến và có đặc điểm nổi bật rõ ràng để được xếp vào loài, nhưng chúng vẫn không được các nhà tự nhiên học danh tiếng coi là loài. Việc các biến thể của loài trong thế giới tự nhiên hoang dã đầy sự nghi ngờ này không hề thống nhất là điều không có gì phải bàn cãi. So sánh vài quần thể thực vật ở Đe chế Anh, Pháp, hay Mỹ, được rút ra bởi các nhà nghiên cứu thực vật khác nhau, tôi phát hiện một con số đáng kinh ngạc các dạng thức đã được xếp là loài thực sự bởi một số nhà thực vật học; nhưng đối với những nhà nghiên cứu khác chúng lại chi là biến thể của một dạng. Ông H.c Watson, người đã tận tình giúp đỡ tôi về mọi mặt, đã chỉ cho tôi thấy 182 loài cây nước Anh được coi là biến thể nhưng lại được đa số các nhà thực vật học coi đây là loài. Khi đưa ra bản danh sách này, ông đã loại đi nhiều biến thể không đáng kể, nhưng lại được các nhà thực vật học khác xếp vào loài, và ông đã bỏ đi toàn bộ một số loài hay thay đổi. Trái lại ông Babington đưa ra hai trăm năm mươi mốt loài, bao gồm cả những dạng biến đổi nhiều nhất, còn ông Bentham liệt kê một trăm mười hai loài – một sự khác biệt một trăm ba chín dạng đang tranh cãi. Trong số những con vật mà được hợp vào dựa trên nguồn gốc sinh nở, và những con mang tính di động cao, các dạng đáng nghi ngờ, được phân loại là bởi nhà động vật học này nhưng là biến thể bởi nhà động vật học khác, ít khi tìm ra trong cùng một nước nhưng lại hay xuất hiện tại các địa điểm cách biệt. Có vô số loài chim và côn trùng ở Bắc Mỹ và châu âu, chúng rất ít khác biệt nếu đem so với nhau, đã được một nhà tự nhiên giàu kinh nghiệm xếp vào dạng loài rõ ràng,và bởi một người khác xếp vào dạng biến thể, hay như người thường gọi chúng là giống theo khu vực địa lý! Nhiều năm trước đây, khi so sánh, và cả xem người khác so sánh các con chim đến từ các đảo khác nhau của quần đảo Galapagos, so sánh một con một với nhau hay là với các con từ lục địa châu Mỹ, tôi cảm thấy rất ngạc nhiên trước sự phân biệt mơ hồ và thường dựa vào chủ quan cá nhân giữa loài và biến thể. Trong những đảo của quần đảo Maderia có rất nhiều côn trùng mà được ông Wollaston xếp vào dạng biến thể trong công trình nghiên cứu khoa học đáng khâm phục của ông, nhưng chắc chắn những con này sẽ được các nhà nghiên cứu côn trùng khác xếp vào dạng loài. Thậm chí trong nước Ireland chỉ có một vài con vật được mọi người vẫn là biến thể, song một vài nhà tự nhiên học khăng khăng chúng là loài. Một vài nhà nghiên cứu chim nổi tiếng chỉ công nhận gà gô trắng Anh là một giống của một loài ở Na-uy, trong khi đó nhiều người lại xếp nó vào loài ngoại lai của Đế chế Anh. Khoảng cách lớn giữa hai dạng thuộc diện nghi ngờ khiến hầu hết các nhà tự nhiên học nghĩ chúng là hai loài phân biệt. Song một câu hỏi đặt ra ở đây là khoảng cách xa bao nhiêu thì mới đủ? Chúng ta phải thừa nhận rằng nhiều dạng thức được phân loại bởi các nhà nghiên cứu đầy uy tín, có những đặc điểm chỉ hoàn hảo tới mức mà các nhà nghiên cứu tiếng tăm khác coi chúng thực sự là dạng loài. Nhưng để thảo luận xem liệu có đúng hay không khi chúng được gọi là loài hoặc biến thể, trước khi bất kỳ một định nghĩa nào cho các cụm từ này được chấp nhận, là không khả thi.

Nhiều trường hợp của các biến thể được chú ý kỹ hay loài bị nghi ngờ đáng nhận được sự quan tâm đúng mực. Người ta vin vào sự phân bố địa lý, biến đổi mang tính so sánh, tính lai ghép… để đưa ra một số lập luận nhằm cố gắng quyết định việc phân loại. Tôi chỉ đưa ra một ví dụ duy nhầt, ví dụ nổi tiếng về cây anh thảo và cây anh thảo vàng, hay cây báo xuân. Những cây này khác nhau đáng kể nếu xét về hình dáng bên ngoài của chúng. Chúng có mùi thon và tỏa hưomg thon không lẫn vào đâu được; chúng trổ hoa ở những thời điểm khác nhau chút ít; chúng phát triển trong hoàn cảnh, môi trường sống khá khác biệt, chúng mọc trên núi ở độ cao chênh lệch; chúng có tầm địa lý không giống nhau; và cuối cùng theo kết quả rút ra từ nhiều cuộc khảo sát và thực nghiệm trong suốt mấy năm qua của ông Gartner, người nổi tiếng về tính cẩn thận: để lai giống chúng là một việc làm vô cùng khó khăn. Chúng ta khó có thể đạt được một chứng cứ với chất lượng cao hơn nữa về hai dạng khác biệt cụ thể. Chúng được gắn kết thông qua nhiều mối liên hệ trung gian và mọi người nghi ngờ rằng liệu những gắn kết này có phải là các lai ghép hay không; và tôi cho rằng số lượng bằng chứng khảo nghiệm là khổng lồ, chứng minh chúng bắt nguồn từ cùng cha mẹ; và như thế thì phải được xếp vào hàng biến thể.

Trong hầu hết các trường hợp, việc rà soát kỹ càng sẽ giúp các nhà tự nhiên học đi đến một thống nhất về dạng đang bị nghi ngờ. Song chúng ta phải công nhận là ở những nước được biết tới nhiều nhất, chúng ta tìm thấy số lượng lớn nhất các dạng bị nghi ngờ. Tôi cho rằng nếu bất kỳ động vật hay thực vào nào trong thiên nhiên có ích lợi lớn đối với con người hay thu hút được sự chú ý của họ, thì các biến thể của chúng được tìm thấy rất nhiều. hơn nữa một số học giả thường khẳng định những biến thể này là loài. Hãy quan sát cây sồi bình thường; nó đã được các nhà sinh vật học nghiên cứu kỹ càng, song một nhà nghiên cứu người Đức xếp hơn 12 loài từ các dạng nói chung được coi là biến thể; và tại quốc gia này, chúng ta có thể trích dẫn lời của những chuyên gia và của những người làm việc thực tế nói rằng cầy sồi là không cuống và có cuống hoặc là loài thực sự hoặc chỉ là biến thể đơn thuần.

Khi một nhà tự nhiên học trẻ tuổi bắt đầu nghiên cứu về nhóm các cơ thể sống tương đối xa lạ đối với anh ta, anh ta ban đầu sẽ thấy bối rối không biết quyết định xem với đặc điểm khác biệt gì để được cho vào dạng loài hay biến thể; bởi vì anh ta chưa hề biết tới sự biến đổi mà nhóm đó phải chịu tác động. Điều này ít nhất cho thấy sự biến đổi thường xuất hiện. Nhưng nếu tập trung nghiên cứu một loài trong một nước nào đó, anh ta sẽ sớm tìm ra được phương pháp để phân loại những dạng nghi ngờ nhất. Xu hướng chung của một nhà tự nhiên học trẻ tuổi điển hình là mong muốn sắp xếp càng nhiều dạng vào loài càng tốt; bởi vì như thế họ sẽ được mọi người chú ý tới, giống như những người nuôi chim bồ câu hay gia cầm. Anh ta có ít kiến thức chung về sự biến đối tương tự của các nhóm khác và trong các nước khác mà chính chúng có thể giúp anh ta nhận thức đúng hơn so với ấn tượng ban đầu. Trong quá trình mở rộng tầm nghiên cứu cũng như quan sát, anh ta sẽ đối mặt nhiều trường hợp khó khăn, phức tạp hơn và anh ta sẽ bắt gặp số lượng lớn hơn các loài có quan hệ gần gũi. Nếu sự quan sát, nghiên cứu được mờ rộng, chắc chắn kết quả cuối cùng thu được là nhà tự nhiên học trẻ tuổi này có thể quyết định gọi dạng nào là loài, dạng nào là biến thể. Song anh ta chỉ thành công trong việc này khi chấp nhận có nhiều biến đổi đã xảy ra -và sự thật đó thường bị các nhà tự nhiên học khác phản đối. Vả lại khi nghiên cứu, xem xét các dạng thức gần gũi được mang đến từ nhiều nước, việc này hiện giờ không còn được làm nữa, mà trong đó anh ta khó có thể tìm ra mối liên kết trung gian giữa các dạng bị nghi ngờ, anh ta sẽ phải hoàn toàn tin vào sự so sánh trực quan; và lúc đó khó khăn sẽ chồng chất.

Tuy nhiên cho đến nay, chúng ta vẫn không có sự phân định rõ ràng về loài và tiểu loài. Những dạng mà theo một số nhà tự nhiên học đã tiến rất gần, nhưng không hoàn toàn đạt tới để có thể xếp vào loài, hay nằm giữa tiểu loài và biến thể nổi bật, hay giữa biến thể ít nổi bật hơn và khác biệt cá thể. Các điếm khác biệt này xen kẽ lẫn lộn song lại cung cấp một lối ra đích thực.

Do đó tôi quan niệm những khác biệt cả thể, cho dù chúng không hề thủ vị gì đối với một nhà nghiên cứu về hệ thống, nhưng lại quan trọng đối với chúng ta, như là bước đầu tiên tiến tới biến thể. Mọi người rất ít để ý tới các khác biệt này thể hiện qua thực tế là họ nghĩ chúng không đáng để ghi vào trong những tác phẩm viết về lịch sử tự nhiên. Tôi coi các biến thể xét trên bất kỳ mức độ khác biệt hay thường xuyên nào, là bước dẫn tới biến thể thường xuyên và nổi bật hơn, tiếp đó là dần tới tiểu loài rồi loài. Trong một vài trường họp, sự chuyển hóa từ giai đoạn này sang giai đoạn khác cao hơn có thể chỉ đơn thuần là do ảnh hưởng lâu dài liên tục của các điều kiện sống vật chất tự nhiên trong hai vùng khác biệt, nhưng tôi không mấy tin vào tư tưởng này; và tôi quan niệm rằng nguyên nhân gây ra sự chuyển đổi của một biến thể, từ trạng thái mà trong đó nó ít khác biệt sang trạng thái khác biệt nhiều hơn so với cha mẹ, chính là tác nhân của sự lựa chọn tự nhiên (sẽ được giải thích đủ sau này) đối với khác biệt tích tụ của cấu trúc theo những hướng nhất định. Với lý do này, tôi quan niệm một biến thể nổi bật chỉ nên được gọi là loài mới xuất hiện; nhưng liệu quan niệm này có thể được minh chứng hay không thì tôi cần phải có các bằng chứng thuyết phục và cái nhìn đúng đắn trong toàn bộ tác phẩm.

Mọi người không nên nghĩ rằng tất cả các biến thế hoặc loài mới sinh ra nhất thiết phải đạt tới xép hạng loài. Chúng có thể bị tuyệt chủng hoặc tồn tại với tư cách là biến thể trong giai đoạn rất dài, giống như ví dụ dẫn ra bởi ông Wollaston về biến thể của loài thân sò trên cạn cổ đại tại quần đảo Madeira. Nếu một biến thể phát triển mạnh mẽ tới mức vượt số lượng loài bố mẹ, thì chúng sẽ được coi là loài, còn loài bố mẹ bị đẩy xuống hàng biến thể; có thể giành lấy hay làm tuyệt chủng loài bố me; hoặc nếu cùng tồn tại thì cả hai cùng được công nhận là hai loài độc lập. Chúng ta sẽ còn quay lại chủ đề này ở phần sau.

Với những nhận xét đó, người ta hiểu là tôi hình dung thuật ngữ “loài” như là một từ được đưa ra mang tính chủ quan để thuận tiện cho việc gọi tên một hệ các cá thể rất giống nhau, và cơ bản là nó không khác mấy so với thuật ngữ “biến thể”, dùng cho dạng ít nổi bất và hay biến hóa hơn. Thuật ngữ “biến thể”, một lần nữa, trong sự so sánh với khác biệt cá thể, cũng bị áp dụng một cách lộn xộn với mục đích thuận tiện.

Dựa vào suy xét mang tính lý thuyết, tôi đã nghĩ chúng ta sẽ thu được kết quả thú vị về thế giới tự nhiên và mối quan hệ của loài thay đổi nhiều nhất bằng cách lập bảng tất cả các biến thể trong các quần thực vật hoạt động tốt. Ban đầu, việc này nghe có vẻ đơn giản nhưng ông H.c. Watson, người tôi rất biết ơn với lời góp ý và sự giúp đỡ quý báu về chủ đề-này. Đã sớm thuyết phục tôi: nhiều khó khăn vướng mắc sẽ phát sinh; và tiến sỹ Hooker cũng đưa ra nhận định tương tự, thậm chí là với từ ngữ mãnh liệt hơn. Tôi sẽ nói đến sau những khó khăn này và các bảng con số cân đối của các loài biến đổi.

Tiến sỹ Hooker cho phép tôi thêm một số chi tiết, sau khi đã đọc kỹ bản thảo và kiểm tra các bảng biểu của tôi; ông nhận xét những nhận ỵinh sau là hoàn toàn có căn cứ. Tuy nhiên toàn bộ chủ đề mà cần thiết được đề cập ngắn gọn ở đây lại khá phức tạp; vẩn đề quan đến “cuộc đấu tranh sinh tồn”, “sự chệch hướng của tính cách” và các câu hỏi khác sẽ được thảo luận đến sau.

Ông Alph. De. Candolle phát biểu những cây trải rộng nói chung là hay cho ra biến thể; và người ta có thể đã trông đợi sự việc này bởi vì chúng tồn tại trong điều kiện sống đa dạng và phải cạnh tranh (quá hiện tượng sau này chúng ta sẽ thấy nó còn quan trọng hơn) và các bộ loài cơ thể sống khác. Nhưng các bảng của tôi còn cung cấp nhiều thông tin hơn thế nữa: loài phổ biến nhất, nhiều cá thể nhất, và loài phát triển rộng khắp trong chính nước bản địa của chúng, trong một chừng mực nào đó, đây là một quan điểm khá khác lạ so với quan niệm chung, thường tạo điều kiện cho các biến thể phát triển nổi bật tới mức chúng được ghi chép lại trong các công trình nghiên cứu về cây cối. Như vậy loài phát triển nhất, hay như người ta vẫn thường gọi nó là loài thống trị, loài mà có mặt khắp nơi trên thế giới, phổ biến nhất trong nước bản địa và có đông số lượng cá thể nhất – thường sinh ra biến thể nhiều nhất, và theo cách tôi quan niệm về chúng là loài mới sinh. Và điều này có lẽ cũng đã được tiên đoán từ trước bởi vì các biến thể để tồn tại lâu dài phải cạnh tranh với các cư dâấn động, thực vật khác sống trong nước đó. Loài thống trị có xu hướng sinh ra những đưa con được thừa hưởng các ưu điểm nhờ đó loài thống trị có lợi thế hơn so với các loài khác. Chúng ta sẽ thấy số lượng lớn hơn của các loài rất phổ biến hay loài thống trị nằm ở trong lớp thực vật lớn hơn. Một lần nữa, các nhà tự nhiên học chắc hẳn đã dự đoán tình trạng này do thực tể nhiều loài trong cùng một lớp sống tại bất cứ nước nào, cho chúng ta thấy có một cái gì đó trong điều kiện sống hữu cơ và vô cơ đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lớp động thực vật đó, và kết quả là chúng ta đã mong đợi tìm ra trong lớp lớn hơn hay nói cách khác trong lớp bao gồm nhiều loài, một số lượng lớn các loài thống trị. Nhưng có quá nhiều nguyên nhân che giấu đi kết quả này đến nỗi tôi cảm thấy ngạc nhiên chính những bảng biểu của mình thậm chí còn một phần (nhỏ thôi) nghiêng về phía lớp lớn. Ở đây, tôi chỉ muốn nói đến hai nguyên nhân của sự khó hiểu. Cây ưa nước ngọt và cây ưa nước mặn thường phân tán khá rộng, nhưng hiện tượng này có vẻ như liên quan đến điều kiện tự nhiên nơi chúng tồn tại và có ít hoặc không có quan hệ gì tới kích thước của lớp thực vật mà chúng thuộc về. Cây nhỏ hoặc ít phát triển thông thường trải rộng hơn nhiều so với cây cỡ lớn. và ở đây cũng không có mối quan hệ mật thiết với kích thước của lớp thực vật. Nguyên nhân những cây có cấu trúc không hoàn chỉnh phân bố rộng sẽ được tôi đề cập đến ở chương bàn về phân bố địa.

Khi xem loài chỉ là biến thể nổi bật và được định nghĩa rõ ràng, tôi tiên đoán loài thuộc lớp lớn hơn trong mỗi nước sẽ thường cho ra biến thể nhiều hơn so với loài nằm trong lớp bé; vì bất cứ đâu nhiều loài có mối liên hệ mật thiết (ví dụ như loài trong cùng một lớp) hình thành, nhiều biến thể hay loài mới phát sinh, như là một quy luật chung, phải được hình thành ở nơi mà những cây lớn mọc lên. Chúng ta trông đợi tìm thấy những cây non ở noi nhiều loài của một lớp ra đời bởi sự biến đổi. Bởi thế chúng ta có lẽ trông đợi tìm thấy các hoàn cảnh, điều kiện tự nhiên có lợi cho sự biến đổi. Mặc khác chúng ta xem mỗi loài là một sáng tạo đặc biệt thì không có lý do cụ thể nào giải thích tại sao nhiều biến thể lại xuất hiện trong nhóm có nhiều loài hơn là nhóm ít loài.

Đe kiểm chứng tính xác thực của tiên đoán này, tôi đã sắp xếp các cây của 12 nước và các loài côn trùng cánh cứng của 2 vùng thành 2 khối riêng biệt – loài thuộc lớp lớn ở một bên, và loài thuộc lớp nhỏ một bên. Kết quả luôn là lớp lớn cho nhiều biến thể hơn lớp nhỏ.

hơn thế nữa, loài thuộc lớp lớn mà cho ra bất kỳ biến thể nào luôn luôn sản xuất số lượng các biến thể nhiều hơn là loài thuộc lớp nhỏ. Kết quả là hoàn toàn tưcmg tự khi sự cách phân chia khác được tiến hành, và khi tất cả lớp nhỏ nhất, chi khoảng từ một đến bốn loài bị loại ra khỏi bảng. Những bằng chứng này chỉ có ý nghĩa lớn đối với quan điểm: loài là biến thể lâu dài và nổi bật; bởi vì bất kỳ đâu khi nhiều loài trong cùng một lớp hình thành, hay khi, nếu chúng ta sử dụng cách diễn đạt này, nhà máy chế tạo loài đang trong thời gian hoạt động, nói chung chúng ta phải nhận ra rằng nhà máy vẫn đang làm việc, đặc biệt hơn là chúng ta có mọi lý do để tin rằng quá trình tạo ra loài mới là một quá trình lâu dài và chậm chạp. Và tất đây là một trường hợp, nếu biến thể được xem là loài mới phát sinh; các bảng của tôi minh họa chính xác, như là một quy luật chung, bất kỳ khi nào nhiều loài của cùng một lớp hình thành, các loài đó cho ra một số lượng biến thể nhất định; đó là các loài mới sinh. Thực tế là không phải tất cả các lớp động thực vật lớn đang thay đổi nhiều, và do đó đang tăng số lượng các loài của chúng, hay không lớp động thực vật nhỏ nào đang biến đổi và tăng trưởng; bởi vì nếu như vậy, lý thuyết của tôi sẽ đứng trước nguy cơ bị sụp đổ ngay lập tức khi xét về mặt địa chất học thì lớp động thực vật nhỏ theo quá trình thời gian tăng kích cỡ của chúng rất nhiều, trong khi lớp lớn thường đạt tới cực độ phát triển của chúng, suy tàn, rồi biến mất. Tất cả những điều mà tôi muốn thể hiện là nhiều loài thuộc một chi được hình thành ở những nơi mà hiện giờ nhiều loài, xét trên mức độ trung bình, vẫn đang tiếp tục hình thành, mà điều này là hoàn toàn chuẩn xác.

Các nhà tự nhiên học phát hiện ra có những mối quan hệ đáng chú ý giữa loài lớp lớn và các biến thể ghi nhận được của chúng. Chúng ta biết rằng cho đến nay, tiêu chí cụ thể phân biệt giữa loài và biến thể nổi bật vần chưa xuất hiện. Trong các trường hợp mà quan hệ trung gian không tìm thấy giữa những dạng đáng nghi ngờ, các nhà tự nhiên học thường dễ đi tới một quyết định dựa trên số lượng khác biệt của chúng, phán xét dựa trên sự so sánh liệu có hay không số lượng khác biệt đủ lớn để đưa một hoặc cả hai vào dạng loài. Như vậy, số lượng các điểm khác biệt là một tiêu chí rất quan trọng trong việc công nhận dạng thức nào là loài, dạng thức nào là biến thể. Ông Fries, khi nhận xét về cây cối và ông Wesstwood khi nói về côn trùng đã khẳng định rằng trong các lớp lớn, số lượng những khác biệt giữa các loài thường quá nhỏ. Tôi đã cố gắng kiểm tra nhận xét này thông qua tính toán định lượng trung bình, và nếu dựa trên kết quả thu được không hoàn chỉnh của tôi thì nó khẳng định nhận xét trên là chính xác. Tôi cũng đã tham vẩn ý kiến của một số người quan sát sắc sảo và kinh nghiệm; sau khi thảo luận, trao đổi ý kiến, họ tán đồng với cách nhìn nhận này. Như vậy có thể nói loài thuộc lớp lớn có bề ngoài giống với biến thể hơn so với loài thuộc lớp bẻ. Hay nói cách khác, trong các lớp lớn hơn, số lượng biến thể hay loài mới sinh hiện đang sản sinh, và đã sản sinh các biến thể tưomg đồng; và chúng khác nhau dưới hơn mức trung bình.

Ngoài ra các loài ttong lớp lớn có mối liên hệ với nhau giống như các biến thể của bất kỳ loài nào khác quan hệ với nhau. Không một nhà tự nhiên học dám thừa nhận là tất cả các loài của một lớp cỏ cùng một mức độ khác nhau. Xét về tổng thể, chúng có thể được chia theo tiểu lớp, khu vực hay nhóm nhỏ. Như ông Fries đã nói, những giống bé thường tập hợp lại giống như các vệ tinh xoay xung quanh các loài khác. Những biến thể là gì nếu không phải là các nhóm dạng, có quan hệ không đồng đều với nhau, tập hợp xung quanh các dạng thể nhất định – đó là loài cha mẹ chúng? Chúng ta khó có thể nghi ngờ là có một điểm quan trọng khác biệt giữa biến thể. Đó là số lượng khác biệt giữa các biến thể, khi đem chúng so sánh với nhau và so

Cuối cùng, những biến thể có chung đặc tính chủ yếu với loài, chúng không thể được phân biệt rõ rệt khỏi loài -trừ khi, thứ nhất phát hiện ra những mối liên kết chung gian, và sự xuất hiện của liên kết loại này không thể ảnh hưởng đặc điểm thực sự của dạng thể mà chúng liên quan; và trừ khi, thứ hai, số lượng nhất định các khác biệt, đối với hai dạng thể, nếu khác nhau rất ít thì thường được coi là biến thể cho dù liên kết trung gian không tìm thấy; nhưng số lượng các khác biệt cần thiết để xếp hai dạng thức vào loài thì hoàn toàn chưa xác định. Trong các lớp có số lượng loài nhiều hơn mức trung bình trong bất kỳ nước nào, loài thuộc lớp này có số lượng biến thể nhiều hơn trung bình. Trong các lớp lớn có xu hướng tự nhiên có quan hệ gần gũi, họ hàng, nhưng không đồng đều, tạo thành nhũng cụm nhỏ xung quanh vài loài nhất định. Những loài mà gắn bó mật thiết với các loài khác chắc chắn có tầm hạn chế. Trong tất cả các mặt, loài thuộc lớp lớn cho thấy nhiều điểm tương đồng với biến thể. Và chúng ta có thể hiểu rõ nhũng điểm tương đồng này, nếu loài đã từng tồn tại với tư cách là biến thể, và bắt nguồn từ đó: trái lại, những tương đồng đó sẽ không thể giải thích nổi nếu mỗi loài đã được tạo ra một cách độc lập.

Chúng ta cũng biết là loài phát triển nhất hay loài thống trị thuộc lớp lớn mà nhìn chung thay đổi nhiều nhất; và như chúng ta sẽ thấy dưới đây, các biến thể có xu hướng biến chuyển thành loài mới và riêng biệt. Như thể, lớp lớn có xu hướng trở nên lớn hơn; và trong khắp thế giới tự nhiên, dạng thức sống mà giờ đây đang giữ vị trí thống trị có xu hướng nắm quyền thống trị chắc hơn bằng cách sinh đẻ nhiều con cháu thống trị và có thay đổi. Nhưng thông qua các bước sau đây sẽ giải thích, lớp lớn lại có xu hướng chia nhỏ thành các lớp bé hơn. Và do đó, dạng thức sống trên khắp hành tinh bị chia nhỏ vào trong các nhóm thuộc nhóm.

Bình luận