Quảng trường Thiên Phong, những người chơi cờ phủ đầy giá nom giống hệt như những chú người tuyết. Làn hơi trắng tỏa ra từ mũi, từ miệng họ. Vài sợi băng nhỏ như kim mọc từ dưới mũ, chõ xuống đất. Trời trong óng ánh như vỏ trai, mặt trời đỏ lừ đổ nắng xuống, liên miên. Nào có ai biết mặt trời rưới xuống chốn nào?
Và từ bao giờ nơi này trở thành chỗ hẹn hò của dân chời cờ vây? Tôi không biết. Các bàn cờ vây khắc trên mặt đá granit sau hàng ngàn hàng vạn ván cờ như đã hóa thành những gương mặt, tư duy, những lời nguyện ước.
Tôi vừa xiết chiếc lò ủ bằng đồng trong ống tay áo chắn gió, vừa dậm chân cho đỡ giá. Đối thủ của tôi là một người lạ xuống thẳng từ nhà ga. Cuộc cờ càng lúc càng căng thẳng, một làn hơi ấm lan tỏa trong người tôi. Chiều tàn dần và các quân cờ nom không rõ nữa. Đột nhiên, có ai đó đánh lên một que diêm. Một ngọn nến xuất hiện trên tay trái của người kia. Những người chơi khác đã về hết. Tôi biết rằng mẹ sẽ phát ốm khi thấy con gái về muộn thế. Đêm đã xuống và gió bắt đầu nổi. Người đàn ông xòe bàn tay đi găng che ngọn lửa. Tôi lôi trong túi ra một bình rượu nhỏ, rượu làm bỏng cổ họng tôi. Tôi dí bình rượu dưới mũi người lạ mặt. Anh ta sững sờ kinh ngạc nhìn bình rượu. Mặt anh ta râu ria xồm xoàm và chẳng thể nào đoán nổi tuổi. Một vết chém dài từ đỉnh lông mày qua con mắt phải lúc nào cũng khép kín. Anh ta nhăn mặt, làm một hơi hết sạch bình rượu.
Đêm không trăng. Gió rên rỉ như tiếng trẻ kêu t. Trên cao kia, một vị nam thần đang chiến đấu với một nữ thần và xô đẩy các vì sao.
Người đàn ông đếm đi đếm lại các quân cờ. Anh ta thua và bị bỏ xa mười tám điểm. Anh ta thở dài đưa cho tôi cây nến, rồi đứng dậy, lênh khênh như một gã khổng lồ, nhặt túi đồ và bỏ đi không quay trở lại.
Tôi xếp quân cờ vào các hộp gỗ. Chúng kêu rin rít dưới ngón tay tôi. Tôi chỉ có một mình, với lũ quân cờ của tôi, với niềm tự hào được thỏa mãn. Ngày hôm nay, tôi ăn mừng chiến thắng thứ một trăm.
2.
Mẹ thấp bé, chỉ cao ngang ngực tôi. Việc để tang cha kéo dài làm khô héo thân hình mẹ. Khi tôi báo với tin tôi được điều động sang Mãn Châu, mẹ tái mặt.
– Mẹ, con xin mẹ, đã đến lúc con thực hiện số phận người lính rồi.
Không đáp lại lời nào, mẹ bỏ về phòng. Suốt buổi tối, cái bóng còng đi trong đau khổ của mẹ in hình trên vách ngăn phết giấy trắng. Mẹ cầu nguyện.
Sớm nay, tuyết đầu mùa đã rơi trên Tokyo. Tôi quỳ phục trước bàn thờ tổ tiên, tay xòe ra áp sát xuống tấm chiếu tatami. Khi tôi đứng dậy, mắt tôi bắt gặp ảnh cha kính yêu. Cha cười với tôi. Căn phòng tràn ngập sự hiện diện của cha. Ước gì tôi mang được phần nào hình ảnh cha tôi sang tận Trung Quốc.
Cả gia đình tôi chờ trong phòng khách. Mọi người ngồi quỳ trên gót chân và trang trọng im lặng. Tôi chào từ biệt mẹ trước, tựa như hồi còn bé tôi chào mẹ trước lúc tới trường. Tôi quỳ trước mẹ và nói: “Okasam (1), con xin phép mẹ ra đi”. Mẹ cúi chào tôi thật thấp.
Tôi kéo cánh cửa trượt và ra vườn. Mẹ, em trai, em gái đều đi theo.
Tôi quay lại và cúi mình sát đất. Mẹ khóc. Vạt áo kimono tối màu sột soạt khi mẹ cúi mình đáp lễ. Tôi bỏ chạy. Mẹ mất bình tĩnh cũng chạy lao theo tôi trong tuyết.
Tôi dừng lại. Mẹ cũng dừng lại. Rồi như sợ tôi sẽ nhào vào vòng tay mẹ, mẹ lùi lại một bước.
– Con ơi, Mãn Châu là đất nước anh em, mẹ kêu lên với tôi. Bất hạnh thay, bọn khủng bố tìm cách phá hoại tình bạn giữa hai hoàng đế chúng ta. Bổn phận của con là phải bảo vệ một nền hòa bình khó khăn. Nếu phải chọn giữa cái chết và hèn nhát, hãy dứt khoát chọn cái chết.
Việc chuyển quân lên tàu tiến hành trong tiếng ồn ào của dàn kèn đồng. Gia đình binh lính chen lấn nhau trên bến để ném cho chúng tôi nào là ruy băng, nào hoa lá, và những tiếng hoan hô thấm đẫm vị mặn của nước mắt.
Bờ xa dần, cuốn theo tiếng ồn ào của bến cảng. Chân trời rộng mở, biển bao la làm chúng tôi choáng ngợp.
Chúng tôi cập bến Triều Tiên tại Pusan. Binh lính bị dồn chất trong một chuyến tàu lăn về phương Bắc. Tới hoàng hôn ngày thứ ba, đoàn tàu dừng lại. Chúng tôi vui vẻ nhảy xuống co duỗi chân tay và đi giải. Tôi vừa tiểu vừa huýt sáo. Trên đầu tôi chim chóc bay lượn. Đột nhiên, tôi nghe có tiếng kêu tắc nghẹn. Có người chạy trốn trong khu rừng. Cách tôi chừng mươi bước, Tadayuki, tay lính mới tốt nghiệp quân sự, nằm vật dưới đất. Máu chảy ào ạt từ cổ anh. Mắt anh vẫn mở trừng trừng. Trên tàu, tôi vẫn nhìn thấy gương mặt trẻ trung méo mó trong một nếp nhăn đầy ngạc nhiên.
Chết có nhẹ nhàng như ngạc nhiên không?
Tàu tới một nhà ga Mãn Châu trong đêm. Đất phủ đầy băng giá lấp lánh trong ánh đèn đường. Có tiếng chó sủa xa xôi.
3.
Anh họ Lữ dạy tôi chơi cờ vây. Hồi đó tôi bốn tuổi, anh gấp đôi tuổi tôi.
Những giờ dài dằng dặc suy ngẫm bên bàn cờ vây là một nỗi hành hạ, nhưng ước mong chiến thắng giữ tôi bất động.
Mười năm sau, anh Lữ được coi như một tay cờ siêu hạng. Tại Tân Kinh (1), nước cờ của anh nổi tiếng đến nỗi Hoàng đế (2) Mãn Châu đã ban cho anh được triều kiến. Anh không bao giờ cám ơn tôi vì đã dẫn dắt anh tới vinh quang. Tôi là cái bóng của anh, bí mật của anh, đối thủ xuất sắc nhất của anh.
Mới hai mươi tuổi nhưng Lữ nom như một ông già. Những lọn tóc trắng xòa xuống trán anh. Anh bước đi chậm rãi từng bước ngắn, tay khoanh lại, lưng còng xuống. Những sợi râu đầu tiên mọc trên cằm anh, như một chòm râu của người già tới tuổi trăm.
Cách đây một tuần, tôi nhận được một bức thư của anh: ” Anh về vì em. Anh quyết định sẽ nói chuyện với em về tương lai của chúng ta…”
Phần còn lại của lá thư là một lời thú nhận chẳng thể đọc ra nổi chữ. Ông anh họ kín tính này đã nhúng bút vào một thứ mực quá loãng. Các chữ tượng hình ngoằn ngoèo nổi lên trên các vân giấy như những con hạc trắng bay trong sương mờ. Cái thư dài lê thê, không đọc được, vẽ trên giấy lụa này khiến tôi vô cùng tức giận.
4.
Tuyết rơi dầy nên không thể tiến hành tập luyện được. Bị vây trong giá tuyết, lạnh và gió, chúng tôi phải ngồi chơi bài suốt ngày trong nhà.
Hình như tại nông thôn bắc Mãn Châu, người Trung Quốc không tắm bao giờ và bôi mỡ cá để chống lạnh. Trong trại lính, chúng tôi phản đối mãi, người ta mới cho dựng một nhà tắm. Cả lính và sĩ quan đều phải xếp hàng.
Trong căn nhà m mịt hơi, tường rỉ nước ròng ròng. Tuyết tan chảy lồng lộn sôi trong chiếc nồi khổng lồ đặt trên bếp. Mỗi người múc phần nước của mình trong một chiếc xô nứt nẻ.
Tôi cởi đồ và lấy khăn nhúng vào xô nước đục lờ để lau người. Cách tôi không xa, một nhóm nhỏ quây lại. Các sĩ quan bận rộn cọ lưng cho nhau và bàn tán chuyện thời sự. Tôi xích lại gần và nhận ra người vừa nói: đó là đại úy Mori, một trong số các cựu binh đã từng chiến đấu cho nước Mãn Châu độc lập.
Báo sáng nay (1) đưa tin tướng Trương Học Lương đã bắt Tưởng Giới Thạch làm con tin tại thành phố Tây An nơi ông ta và quân đội của mình bị quân Nhật dồn đuổi đóng từ sáu năm nay (2). Ông chỉ trả tự do cho thống chế Tưởng nếu Quốc dân đảng giảng hòa với Đảng cộng sản để cùng nhau giành lại xứ Mãn Châu.
– Trương Học Lương là một thằng con hoang và một thằng mê gái – đại úy Mori giễu cợt nói – Sau ngày 18 tháng chín, quân ta vây thành phố Thẩm Dương nơi tổng hành dinh của hắn đóng quân, cái đồ rác rưởi đó đã bỏ trốn mà chẳng kháng cự gì. Còn Tưởng Giới Thạch là một tay nói dối chuyên nghiệp. Hắn chẳng giữ lời đâu. Hắn sẽ ôm hôn quân cộng sản để rồi lại bóp cổ họ ngay thôi.
– Chẳng quân đội Trung Quốc nào có thể chống lại chúng ta – một sĩ quan vừa sai cần vụ cọ lưng thật mạnh vừa nói them – Nội chiến đã làm kiệt quệ nước Trung Quốc rồi. Có ngày chúng ta sẽ chiếm toàn bộ lãnh thổ xứ này như chúng ta đã làm với Triều Tiên thôi (3). Các anh xem, rồi chúng ta sẽ tiến dọc theo đường sắt nối liền Bắc và Nam Trung Quốc. Chỉ cần ba ngày, chúng ta sẽ chiếm được Bắc Kinh, sáu ngày sau là ta sẽ diễu hành tại Nam Kinh, rồi chỉ thêm tám ngày nữa là chúng ta có thể ngủ đêm tại Hồng Kông, cửa ngõ của Đông Nam Á.
Lời các sĩ quan đã khẳng định những tin đồn chúng tôi nghe trong trung đoàn từ khi còn ở Nhật. Mặc dù chính phủ còn ngần ngại, công cuộc tiến đánh Trung Quốc ngày càng trở nên khó tránh khỏi.
Đêm hôm đó, tôi ngủ, lòng thư thái và sung sướng vì được sạch sẽ.
Tiếng vải sột soạt khiến tôi tỉnh giấc. Tôi đang nằm trong phòng và trong phòng bên, cha ngồi quấn mình trong chiếc Yukata mỏng màu xanh dương sẫm. Mẹ đang bước đi. Gấu áo kimomo lót màu hồng nhạt. Mẹ mang gương mặt một thiếu phụ trẻ trung. Chẳng có nếp nhăn nào trên đôi mắt một mí của người. Mẹ tỏa ra một mùi hương như mùa xuân. Đó là mùi nước hoa cha đặt mua từ Paris về tặng mẹ.
Đột nhiên tôi nhớ ra rằng mẹ chẳng đụng vào lọ nước hoa đó nữa từ khi cha mất.
Giấc mơ của tôi tan biến, chỉ còn lại nỗi đau và nhớ.
5.
Anh Lữ còng lưng xuống. Anh bắt chước dáng của một người từng trải và chán đời. Trên gương mặt gầy guộc của anh, đôi mắt sâu thẳm đáng ngại truy đuổi tôi. Khi tôi nhìn chằm chằm vào mặt anh và hỏi:
– Anh họ, anh sao vậy?
Anh im.
Tôi rủ anh làm một ván cờ vây. Anh tái mặt và vặn vẹo người trên ghế. Nước đi của anh để lộ những nỗi bất ổn trong lòng anh. Trên bàn cờ vây, đất anh chiếm được lúc thì quá hẹp, lúc lại quá rộng. Tài năng của anh chỉ còn là những nước đi kỳ quặc và kém hiệu quả. Tôi đoán được rằng anh lại đọc các sách dạy cờ của người đời xưa do ông hàng xóm buôn đồ cổ của anh, một tay trùm giả mạo, cho mượn. Thậm chí tôi còn tự bảo có khi vì đọc quá nhiều các loại bản thảo mà người ta cho rằng có xuất xứ thần tiên vốn đầy rấy các tích truyện bi thảm, ông anh họ của tôi có cơ sẽ hóa rồ như những người chơi cờ ngày xưa.
– Anh này, em thấy anh cứ nhìn vào đuôi sam của em mà chẳng chịu chú ý đến nước cờ, anh lạ đi đấy. Tại sao vậy?
Anh Lữ đột ngột đỏ mặt như thể tôi đã nhìn thấy bí mật của anh.
Anh khẽ ho và lấy lại vẻ mặt của một ông già ốm yếu. Tôi hết chịu nổi bèn giễu:
– Anh tìm thấy cái gì trong quyển sách của anh thế? Trường sinh bất tử à? Anh càng ngày càng giống các nhà luyện đan lụ khụ với bí quyết chế đan dược đấy.
Anh chẳng nghe tôi nói. Anh tránh mắt tôi và nhìn về phía bức thư anh mới gửi đến còn để trên bàn.
Anh chàng này từ hôm về cứ chờ câu trả lời của tôi cho cái lũ câu hỏi không đọc nổi của anh ta. Còn tôi, tôi đã quyết sẽ chẳng đả động gì đến nó.
Anh Lữ trở về thủ đô, vừa bị cảm vừa bị thất vọng. Tôi tiễn anh ra ga. Nhìn con tàu đi xa dần trong cơn lốc tuyết, tôi cảm thấy nhẹ người một cách lạ thường.
6.
Cuối cùng, nhiệm vụ đầu tiên của tôi đã tới.
Tiểu đoàn của chúng tôi được lệnh truy đuổi một nhóm quân khủng bố chống lại quyền lực của Nhật trên đất Mãn Châu. Chúng cải trang thành binh lính Nhật tấn công vào một kho quân sự để cướp đạn dược và vũ khí.
Bốn ngày liền, chúng tôi được đi dọc theo một con sông đông cứng lại trong băng. Gió thổi ngược chiều chúng tôi đi. Tuyết rơi quấn lấy chân tôi. Mặc dù có chiếc áo măng tô mới, cái lạnh sắc hơn dao kiếm vẫn xuyên qua người tôi. Tôi chẳng cảm thấy chân tay mình nữa. Đi bộ nhiều cũng khiến tôi tê người không suy nghĩ gì được. Quân trang đè nặng trên vai, đầu rụt vào cổ áo, tôi đi, lòng chỉ tơ tưởng đến lúc được sưởi ấm bên một bếp lửa trú quân.
Đến chân một ngđồi, có tiếng súng nổ. Phía trước tôi, nhiều người ngã gục. Tôi cũng nằm rạp xuống đất. Chúng tôi bị sa vào ổ phục kích. Kẻ thù chiếm được các cao điểm, bắn xả xuống mà chúng tôi không có cách gì bắn trả được. Bụng tôi chợt đau như xé. Tôi bị thương mất rồi! Tôi chết mất. Tôi đưa tay lần xuống. Không có vết thương nào, chỉ là cơn co thắt do quá sợ mà thôi. Điều đó làm tôi xấu hổ vô cùng. Tôi ngẩng đầu và chùi tuyết bám vào mi mắt: các lính cựu đã nhảy xuống dòng sông băng. Họ nấp vào ven bờ sông để bắn trả. Tôi chồm dậy và chạy. Lẽ ra tôi đã bị dính đạn tới hàng trăm lần, nhưng trong chiến tranh, sự sống và cái chết chỉ phụ thuộc vào may rủi mà thôi.
Các khẩu trung liên của chúng tôi bắt đầu khạc đạn. Được lưới lửa quân mình dầy đặc yểm trợ, chúng tôi tấn công. Tôi vung kiếm xông lên hàng đầu mong bù đắp lại nỗi hèn nhát lúc trước.
Lớn lên trong một xã hội trọng danh dự, tôi chưa từng biết đến tội ác, sự khốn cùng, sự phản bội và lần đầu tiên tôi biết tới sự căm thù: đó là một tình cảm tuyệt vời, một nỗi khao khát công lý và trả thù.
Trời nặng những tuyết là tuyết. Các mỏm đá lớn che chở cho quân thổ phỉ nhưng khói súng để lộ chỗ chúng nấp. Tôi ném hai quả lựu đạn. Chúng nổ tung. Cẳng chân, cánh tay, các mảnh thịt bắn vung trong tuyết và lửa. Cảnh tượng kinh hoàng đó khiến tôi sung sướng. Tôi thét lên. Chỉ bằng một nhát kiếm, tôi chém gọn một tên phỉ đang nhằm bắn tôi. Đầu hắn lăn lông lốc trong tuyết.
Thế là cuối cùng tôi đã có thể tự hào nhìn vào các bậc tổ phụ. Các Người đã truyền lại cho tôi thanh kiếm và lòng dũng cảm. Tôi đã không làm hổ danh dòng tộc.
Chiến đấu khiến chúng tôi rơi vào trạng thái kích động. Máu làm chúng tôi sôi lên, chúng tôi quật roi vào tù binh để buộc chúng nói. Nhưng người Trung Quốc cũng rắn như đá, quyết chẳng hé môi. Chán với trò hành hạ, chúng tôi giết họ. Chỉ hai viên đạn vào đầu.
Đêm xuống. Do sợ rơi vào một cãi bẫy nào khác, chúng tôi đóng quân ngay tại chỗ. Những người đã bị thương rên rỉ. Các tiếng kêu nối nhau rồi lại im. Cái lạnh đóng băng tê môi họ, họ sẽ chẳng sống sót được.
Chúng tôi thu nhặt xác quân ta lại. Đất rắn đến độ không thể đào hố được. Ngày mai, lũ thú đói sẽ dọn sạch chỗ này.
Chúng tôi quấn lên người bất cứ thứ gì chúng tôi kiếm được, quần áo người chết, chăn vứt đi, cành cây tuyết. Chúng tôi chen chúc bên nhau mà vẫn canh chừng.
Tôi ngủ thiếp đi sau khi đã thưởng thức rất lâu cái thú dìu dịu của người thắng trận. Có tiếng chân nhẹ nhàng khiến tôi giật mình thức dậy. Lũ chó sói đợi chúng tôi bỏ đi mãi không được, đã nhảy xổ vào các xác chết.
7 .
Anh Lữ trở về vào dịp Tết.
Tại hội đền Bạch Mã, chúng tôi bị lạc nhau trong đám đông, chỉ còn lại hai đứa. Anh xin tôi đừng đi nhanh quá và nắm tay tôi.
Tôi chán ngán giằng tay ra và chạy vội để đuổi kịp các bạn. Anh theo tôi như một cái bóng, kêu tôi dừng lại. Cơn tức của tôi tràn ra. Tôi ra lệnh phải về nhà ngay lập tức. Anh giả như không nghe thấy gì và chặn đường tôi trước một mái đình nghiêng nghiêng dính lớp rèm băng dầy.
Mắt anh rực lên, hai gò má cóng lại trong cơn lạnh cũng đỏ chót lên như hai mảnh vải đỏ dán lên gương mặt nhợt nhạt. Giữa riềm mũ bằng da cáo và lông màu anh có một lớp băng giá trắng lấp lánh. Nét mặt đau khổ của anh khiến tôi thấy phát tởm, tôi bỏ chạy. Anh đuổi theo và rủ tôi xem đèn lồng tạc trong đá.
Tôi càng đi nhanh hơn.
Lữ xoạc chân đi sau tôi, van nài tôi để cho anh nói. Giọng anh run rẩy, rồi nghẹn ngào tiếng nấc.
Tôi bịt tai lại nhưng giọng nói đã nhỏ đi của anh tiếp tục ám theo tôi.
– Em nghĩ sao về bức thư của anh? – Anh gọi với theo.
Tôi tức tối dừng lại.
Anh e dè không dám lại gần.
– Em đã đọc chưa?
Tôi cười độc ác.
– Em xé nó rồi.
Tôi quay lưng đi. Anh vồ lấy tôi và ôm tôi đến ngạt thở:
– Em hãy nghe anh nói!
Tôi đẩy anh ra:
– Anh Lữ, mình chơi một ván cờ vây. Nếu anh thắng em chấp nhận mọi lời đề nghị của anh. Nếu anh thua, chúng ta sẽ không gặp nhau nữa.
8.
Bọn khủng bố luôn chuồn thoát chỉ trong gang tấc và chúng tôi phải đón năm mới giữa bầy sói và cáo.
Tuyết hôm nay rơi chồng lên tuyết hôm qua. Chúng tôi dồn đuổi kẻ thù cho tới khi nào chúng cạn kiệt lương thực và đạn dược thì thôi.
Biết làm sao tả được mùa đông khắc nghiệt ở miền Bắc Trung Quốc? Nơi đây, gió hú rền rĩ và cây cối oằn xuống dưới sức nặng của tuyết. Rừng thông nom giống như những bia mộ nguyệch ngoạc màu trắng màu đen. Thỉnh thoảng một con hươu đực hoặc một con nai đốm lẩn lướt hiện ra. Chúng nhìn chúng tôi ngạc nhiên, rồi lủi nhanh.
Chúng tôi đi. Chỉ sau một tiếng đồng hồ, cố gắng quá sức làm chúng tôi ngạt thở vì nóng. Rồi chưa kịp lấy lại sức thì cái lạnh đã ùa vào trong các áo măng tô và làm chân tay chúng tôi tê cứng.
Kẻ thù xảo quyệt và quen thuộc địa hình hơn chúng tôi, thường tấn công bất ngờ rồi rút lui. Và mặc dù chịu tổn thất, chúng tôi vẫn tiếp tục dấn thân vào cuộc đua sứ chịu đựng này.
Kẻ nào thắng được sự kiệt quệ sẽ thắng trong cuộc săn đuổi này.
9.
Chúng tôi bắt đầu ván cờ trong một góc phòng khách vào lúc bình minh, khi ngày chưa rạng. Anh Lữ cả đêm không ngủ. Mắt anh đỏ vằn máu, tóc tai bờm xờm, anh uống hết tách trà này tới tách trà khác cho tỉnh ngủ, và thở dài liên tục. Sáng nay, sau hai ngày đi thăm và cúng bái trong thành phố, ba mẹ tôi bận đồ truyền thống để tiếp khách. Dù có đóng kín cửa phòng, chúng tôi cũng không thoát được màn chào hỏi. Mọi người cứ cho gọi chúng tôi liên tục. Lúc thì phải quỳ xuống chúc mừng năm mới phát tài phát lộc, lúc thì chỉ cần cúi chào cũng đủ. Người lớn bao giờ cũng thích được khen. Được khen thì họ hài lòng và cho chúng tôi các phong bao lì xì màu đỏ và ai cũng nói giống nhau:”Các cháu, cầm tiền đi mua kẹo nhé!”
Mỗi khi quay về bàn cờ, Lữ khinh miệt vứt phong bao lên bàn. Để trêu tức, tôi mở các phong bao của mình và vừa đếm vừa bình phẩm luôn mồm.
– Thôi đi, em có phải trẻ con nữa đâu.
Tôi nhăn mặt thay trả lời.
– Em sắp mười sáu tuổi rồi, anh cáu kỉnh nói. Tuổi này như người khác là đã làm vợ làm mẹ rồi.
– Thế anh định cưới em chắc?
Và tôi phá ra cười.
Lữ sầm mặt.
Đến trưa, nào trống, nào kèn, nào pháo nổ đùng đùng làm rung cả nhà. Tôi nhìn ra cửa sổ, qua đầu tường thấy các vũ công nam nữ mặc quần áo đỏ, lênh khênh trên các cây cà kheo đang nhấp nhô trên không trung giữa đám lá.
Lữ bịt tai lại. Cái thứ âm nhạc quần chúng này đáng lẽ phải làm tôi rối trí thì lại càng khiến tôi tập trung hơn. Ánh sáng mùa đông như làm dậy thêm sắc màu vui tươi trong phố, luẩn quẩn trên bàn cờ. Lễ lạt chỉ làm tôi xa cách hơn với phần còn lại trong thiên hạ. Sự cô độc của tôi như một cuộn lụa đỏ cất kỹ dưới đáy hòm gỗ.
Sau bữa cơm trưa, anh Lữ chìm trong suy tư. Thỉnh thoảng anh chùi vài giọt nước mắt lạc loài nơi khóe mắt. Cũng không thể giả ngu mãi được, tôi im. Sự im lặng như món mì lạnh không muối, tỏa ra trên bàn cờ vây.
Anh họ dường như lúng túng, tì cằm lên tay và không ngớt thở dài. Khoảng mười chín giờ anh phạm phải một sai lầm. Đến tối, chẳng chờ cho cờ hết, tôi chỉ cho anh biết anh đã thua và chúng tôi phải giữ lời đánh cuộc.
Anh đẩy ghế đứng dậy.
Sáng hôm sau, người ta báo cho tôi biết anh đi. Tàu chạy chín giờ. Tôi còn kịp thời gian gặp anh. Trên sân ga, anh chờ tôi nói những lời hối hận. Còn lâu. Tôi chẳng việc gì lại phải đi nài nỉ. Làm thế chỉ tổ khuyến khích cơn dở hơi của anh. Anh đã xúc phạm tôi, anh phải chịu phạt. Sau này tôi sẽ viết cho anh, tôi sẽ gọi anh về với tôi khi những khát khao không trong sáng của anh đã nhường chỗ cho sự khiêm nhường của kẻ chiến bại.
10.
Trung đội của tôi bao vây một ngôi làng chìm trong tuyết. Khi biết chúng tôi đến, đàn bà, trẻ con đều bỏ trốn. Chỉ còn lại vài ông già rúc trong các nếp nhà tranh trông tang thương hơn trong vài thứ tô điểm sơ sài cho dịp tết.
Chúng tôi tập hợp họ lại giữa làng. Quần áo ít ỏi, họ quấn thân hình gầy guộc trong những tấm chăn vá víu và giấu ánh mắt ngu độn dưới lớp mũ mùa đông. Họ run rẩy, rên rỉ, tìm cách làm chúng tôi động lòng thương. Tôi cố nói với họ bằng tiếng quan thoại nhưng họ chẳng hiểu gì và trả lời tôi bằng thứ thổ ngữ thật khó nghe. Tức mình, tôi chĩa súng lục dọa họ. Đột nhiên, ba người trong đám họ phủ phục xuống, bám vào chân tôi và kêu than vô tội bằng thứ tiếng quan thoại chuẩn nhất. Quá kinh tởm, tôi nện báng súng để gỡ mình khỏi tay họ. Nhưng họ lại ôm chặt hơn và dập đầu vào bụng dưới tôi.
Quân tôi cười ran khi thấy tôi lúng túng. Tôi bảo một tên:
– Đồ ngu, tới gỡ cho tôi chứ.
Nụ cười của hắn chuyển thành cái nhăn mặt. Hắn nhanh nhẹn gỡ súng khỏi vai và xọc lưỡi lê vào chân một lão già.
Người bị thương hét lên vì đau đớn, lăn ra đất. Hai người kia kinh hoảng ngã bật ra sau. Tôi hoàn hồn sau cú sốc, quát lên:
– Đồ khốn, suýt nữa làm tôi bị thương!
Những kẻ vây quanh lại cười sặc như điên.
Sự độc ác của binh lính chúng tôi bắt nguồn từ một nền giáo dục khắc nghiệt. Tát, đấm, chửi bới là những hình phạt hàng ngày dành cho trẻ con. Trong quân ngũ, để rèn luyện sự tuân phục, sĩ quan đánh lính dưới quyền đến tóe máu hoặc dùng loại roi tre đặc biệt để quật vào mặt lính cho tứa máu ra.
Nhưng hành hạ người vô tội khiến tôi ghê tởm. Tôi thương hại những người nông dân Trung Quốc sống trong ngu tối, nghèo đói và bẩn thỉu này. Là người hiền lành, họ sẵn lòng tuân theo dù là hoàng đế người Mãn Châu, hay lãnh chúa Trong Hoa, hoặc hoàng đế Nhật Bản, miễn là được no bụng mỗi ngày.
Tôi ra lệnh cho lính băng bó cho ông già bị thương và đưa họ về nhà. Chúng tôi lục soát nhà họ và lấy luôn phần lương thực dự trữ cho tới hạt cuối cùng. Tôi hứa sẽ trả lại cho họ nếu cho chúng tôi biết chỗ trốn của quân khủng bố.
Tờ mờ sáng hôm sau, có người đến thức chúng tôi dậy.
Cái đói đã mở mồm anh ta. Chúng tôi đi ngay, lao vào cơn bão tuyết mà không chờ trời sáng hẳn.