— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— ——
Trong khi đó, đàn lạc đà lao đi như một cơn bão trên mặt cát lấp loáng ánh trăng. Đêm thăm thẳm. Mặt trăng, lúc đầu to như cái đĩa và đỏ bầm, giờ đã nhợt đi và lên cao. Những rặng núi xa xa của sa mạc được bao phủ bởi một làn hơi màu bạc mỏng như voan, màn hơi không che khuất chúng đi mà chỉ biến chúng trở nên huyền ảo như một hiện tượng quang học. Thỉnh thoảng, từ những khối đá nằm rải rác vọng về tiếng tru thê thảm của loài chó núi.
Lại một giờ nữa trôi qua. Xtas vòng tay ôm lấy Nen, giữ chặt lấy cô bé, cố bằng cách đó giảm bớt phần nào những cú xóc mệt người của nhịp phi như điên dại. Cô bé mỗi lúc một hay hỏi tại sao chúng lại phải đi nhanh như thế, và tại sao mãi không thấy lều trại lẫn cha chúng đâu cả. Mãi sau, Xtas quyết định sẽ nói thật với Nen, sự thật mà chóng hay chầy cô bé cũng sẽ phải biết.
– Nen, – em nói, – em hãy rút găng tay ra và từ từ thả chúng xuống đất.
– Sao vậy, anh Xtas?
Xtas ghì chặt cô bé vào mình và đáp một cách dịu dàng hiếm có ở em:
– Em hãy làm như anh bảo đi.
Nen đang phải dùng một tay giữ chặt lấy Xtas không dám buông lơi ra, nhưng cô bé khắc phục chuyện đó bằng cách dùng răng rút từng ngón găng tay một, rồi khi mà găng tay đã rời ra hoàn toàn, cô bé liền thả xuống đất.
– Lát nữa em thả chiếc thứ hai nhé. – Xtas lại nói – Anh đã thả găng của anh rồi, nhưng găng của em dễ nhận thấy hơn vì có màu sáng.
Thấy cô bé đang nhìn mình vẻ muốn hỏi, em bèn nói tiếp:
– Em đừng sợ nhé, Nen… Em thấy đấy… có thể chúng ta sẽ không gặp ba em lẫn ba anh đâu… có thể là bọn người đáng ghét này đã bắt cóc chúng mình. Nhưng em đừng sợ… Bởi vì nếu đúng như thế, thì sẽ có người đuổi theo chúng ta. Họ sẽ đuổi kịp và chắc chắn sẽ đoạt lại chúng mình. Chính vì thế anh mới bảo em thả găng tay, để cho những người đuổi bắt tìm thấy dấu vết. Hiện giờ chúng mình chưa thể làm được điều gì hơn, nhưng sau này anh sẽ nghĩ ra cách gì đó… Chắc chắn là anh sẽ nghĩ ra được cách gì đó, chỉ cần em đừng sợ và hãy tin ở anh…
Nhưng khi Nen biết rằng có thể sẽ không được gặp cha và hiện các em đang đi sâu vào sa mạc tới một nơi nào đó thì em run lên sợ hãi, bắt đầu khóc, đồng thời nép chặt vào người Xtas, vừa nức nở vừa hỏi tại sao người ta lại bắt cóc các em và sẽ chở chúng đi đâu. Cậu bé an ủi Nen cũng bằng những lời như cha cậu đã dùng để an ủi ông Rô-li-xơn. Cậu nói rằng hai ông bố sẽ đích thân đuổi theo chúng,rằng họ sẽ báo cho tất cả các đồn dọc sông Nin.Cuối cùng, cậu bé cam đoan rằng, dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, cậu sẽ không bao giờ bỏ Nen và sẽ luôn luôn bảo vệ Nen.
Song trong lòng cô bé, nỗi đau đớn và niềm nhớ thương cha còn lớn hơn cả sự sợ hãi, nên suốt một hồi lâu em không sao nín khóc được, và cứ thế cả hai đứa trẻ thảm thương ấy bị chở đi vun vút trên mặt cát sa mạc nhợt nhạt, giữa đêm sáng trăng.
Tim Xtas thắt lại không những chỉ vì nỗi đau đớn và sợ hãi, mà còn vì hổ thẹn nữa. Quả tình em không có lỗi gì trong những chuyện đã xảy ra,nhưng giờ đây em chợt nhớ lại tính ba hoa khoác lác của mình mà cha em thường chê trách. Trước đây em tin chắc rằng, không có tình thế nào mà em không thể khắc phục được, em tự cho mình là một tráng sĩ vô địch nào đó, sẵn sàng thách thức với toàn thế giới. Còn giờ đây, em hiểu ra rằng, em chỉ là một đứa trẻ bé nhỏ, mà bất kì kẻ nào khác muốn làm gì, em cũng phải chịu.
Và đấy – em đang bị đưa đi trên lưng lạc đà, mặc dù không muốn, chỉ bởi vì rằng con lạc đà đã bị một tên Xu-đan bán phần dã man thúc đằng sau. Em cảm thấy nhục nhã vô cùng, nhưng không thấy có cách nào chống lại. Em phải tự thú nhận rằng em đang sợ – sợ những con người ấy, sợ sa mạc, sợ những gì mà em và Nen có thể sẽ phải gặp. Song, em thành tâm hứa không chỉ với cô bé mà với bản thân mình, rằng sẽ chăm sóc và bảo vệ cô bé, dù phải trả giá bằng chính mạng sống của mình đi nữa.
Mệt mỏi vì khóc lóc và vì tốc độ phi như điên kéo dài tới sáu giờ liền. Nen bắt đầu thiu thiu ngủ, và lát sau đã ngủ say. Hiểu rằng bất cứ ai bị ngã từ lưng lạc đà đang phi nước đại xuống đất cũng có thể bị chết ngay tại chỗ, Xtas bèn dùng một sợi dây mà em tìm được trên yên buộc cô bé vào mình. Một lát sau, em cảm thấy hình như lũ lạc đà phi chậm hơn, tuy chúng vẫn đang đi qua vùng cát bằng phẳng và mềm mại. Xa xa ẩn hiện những ngọn núi, còn trên vùng đồng bằng, bắt đầu hiện ra những ảo ảnh thường có về đêm trên sa mạc. Trăng trên trời mỗi lúc một mờ, trước mắt đoàn người chợt hiện ra những đám mây kì lạ màu hồng trườn rất thấp, những đám mây hoàn toàn trong suốt, được thêu dệt nên bởi ánh sáng. Không hiểu vì sao chúng được hình thành, chúng di động về phía trước dường như bị đẩy bởi một hơi gió nhẹ nào đó vậy. Xtas nhìn thấy rõ áo dài của những người Bê-đu-in và lũ lạc đà bỗng nhiên hồng rực lên khi đi vào khoảng không gian được chiếu sáng đó, rồi sau đó, cả đoàn người bị bao trùm trong một thứ ánh sáng màu hồng dịu dàng.Đôi khi, những đám mây lại nhuốm màu xanh lơ, và cứ thế hiện tượng ấy kéo dài cho tới vùng núi.
Đến vùng núi, bước chạy của lạc đà càng chậm hơn. Bây giờ có thể thấy ở chung quanh, những khối đá nhô lên từ các gò cát, hoặc rải rác giữa các sườn đồi một cách hỗn độn. Nền cát chuyển thành nền đá. Họ đi qua mấy cái khe trải đầy đá trông giống như những lòng sông đã cạn khô. Chốc chốc, con đường lại bị ngắt quãng bởi những khe núi, khiến họ phải vòng tránh. Bọn súc vật, bắt đầu nhún nhảy như đang múa, thận trọng lựa chỗ đặt chân giữa các bụi cây khô cứng gồm toàn loài hồng sa mạc(1) loài cây phủ đầy trên những sườn đồi và các khối đá. Thỉnh thoảng một con lạc đà nào đó lại bị vấp, rõ ràng là đã đến lúc chúng cần phải nghỉ.
Quả thật, bọn Bê-đu-in dừng lại trong một khu núi, và nhảy từ yên xuống, chúng bắt đầu tháo các gùi hàng. I-đrix và Ghe-bơ-rơ cũng làm theo chúng. Chúng chăm sóc lạc đà, nới các dây cương, cởi bỏ những túi lương thực và tìm chỗ đá phẳng để nhóm lửa.
Không có củi khô cũng như phân khô mà người Ả Rập thường dùng, nhưng Kha-mix, con trai của Kha-đi-gi, liền bẻ các cây hồng sa mạc và xếp thành một đống to rồi châm lửa. Trong lúc bọn Xu-đan đang bận bịu với lũ lạc đà, Xtas, Nen và nhũ mẫu của cô bé, bà Đi-na, được ở một lúc cạnh nhau. Bà Đi-na còn hoảng sợ hơn cả bọn trẻ, không thể thốt ra được một lời nào. Bà chỉ biết bọc Nen vào một tấm chăn ấm, và ngồi xuống cạnh cô bé trên mặt đất, bà bắt đầu vừa rên rỉ vừa hôn hai tay cô bé. Xtas lập tức hỏi Kha-mix tất cả chuyện này có nghĩa gì, nhưng hắn chỉ cười phô hàm răng trắng nhởn và bỏ đi, tiếp tục lấy cây hồng sa mạc. Còn gã I-đrix khi bị hỏi, chỉ trả lời một tiếng cụt lên: “Rồi mày sẽ thấy”, – rồi giơ một ngón tay ra doạ em. Khi đống củi bằng cây hồng sa mạc cháy sáng lên – thực ra nó ngún âm ỉ nhiều hơn là cháy thành ngọn – tất cả bèn vây chung quanh thành một vòng tròn, trừ gã Ghe-bơ-rơ đang còn ở chỗ lạc đà, và bắt đầu ăn bánh ngô với thịt cừu và thịt dê sấy khô. Bị đói suốt dọc đường, bọn trẻ cũng cùng ăn, nhưng Nen vừa ăn mắt vừa dính lại vì buồn ngủ. Bỗng trong ánh sáng bập bùng của ngọn lửa hiện ra gã Ghe-bơ-rơ da đen sậm, mắt trắng dã long lanh, giơ lên cao hai chiếc găng tay bé nhỏ màu sáng và hỏi:
– Của ai đấy?
– Của tôi, – Nen đáp bằng giọng mệt mỏi và ngái ngủ.
– Của mày hả, đồ rắn độc ranh con? – Tên Xu-đan rít qua kẽ răng. – Mày đánh dấu đường để thằng cha mày biết phải đuổi chúng tao theo hướng nào phải không?
Vừa nói hắn vừa dùng chiếc roi kinh khủng kiểu Ả Rập – cái roi thậm chí có thể cứa đứt cả da lạc đà đánh Nen, khiến cô bé, mặc dù được bọc trong một tấm chăn dày, phải thét lên vì đau đớn và hãi hùng. Nhưng Ghe-bơ-rơ không kịp đánh roi thứ hai, vì ngay lúc ấy, nhanh như một con mèo rừng, Xtas đã nhảy tới, húc đầu vào ngực hắn, rồi chộp lấy cổ hắn.
Chuyện xảy ra bất ngờ đến nỗi gã Xu-đan ngã ngửa ra, Xtas nằm đè lên hắn, và cả hai bắt đầu lăn lộn trên mặt đất. So với tuổi của mình, cậu bé quả là mạnh mẽ khác thường, nhưng Ghe-bơ-rơ nhanh chóng át được cậu bé. Trước tiên hắn gỡ hai bàn tay, Xtas đang thít trên cổ hắn, rồi dằn mặt cậu bé xuống đất, hắn vừa ấn cổ cậu xuống vừa quật roi vào lưng cậu.
Tiếng kêu thét cùng nước mắt của Nen – cô bé túm lấy tay tên hung bạo van xin hãy “tha” cho Xtas – sẽ không có kết quả gì, nếu như bất ngờ gã Iđrix không cứu cậu bé. Hắn nhiều tuổi hơn Ghe-bơ-rơ, khoẻ hơn nhiều, và từ đầu cuộc trốn chạy từ Ga-rắc Xun-ta-ni mọi kẻ khác đều tuân theo mệnh lệnh của hắn. Lúc này, hắn giằng roi khỏi tay thằng em vứt ra xa, kêu lên:
– Xéo đi, đồ ngốc!
– Tôi phải dần cho thằng bọ cạp này một trận mới được! – Ghe-bơ-rơ nghiến răng đáp.
Nghe thấy thế I-đrix bèn túm lấy ngực áo khoác của hắn, và vừa nhìn thẳng vào mắt hắn vừa nói bằng giọng dữ tợn mặc dù rất khẽ:
– Bà Phát-ma tôn quý(2) cấm xử tệ với bọn trẻ con này, vì chúng đã đứng ra bênh vực cho bà.
– Tôi phải dần nó! – Ghe-bơ-rơ vẫn lặp lại.
– Còn tao thì bảo mày rằng mày sẽ không được phép vung roi đánh một đứa nào nữa. Nếu mày đánh một, thì tao sẽ nện trả mày mười roi.
Rồi lắc người hắn như lắc một nhánh cọ, gã nói tiếp:
– Bọn trẻ này thuộc về ngài Xmai-nơ, và nếu như có đứa nào không sống về được tới nơi, vì chính đức Ma-hơ-đi (cầu Thượng đế kéo dài tuổi thọ của Người) sẽ ra lệnh treo cổ mày lên. Hiểu chưa hả đồ ngốc?
Tên của Ma-hơ-đi gây ấn tượng rất mãnh liệt đến mọi tín đồ của y, nên Ghe-bơ-rơ lập tức cúi đầu xuống và lặp đi lặp lại như kinh hoàng:
– Allach akbar! Allach akbar!(3) Bị đánh đau, Xtas thở hổn hển, nhỏm dậy, cậu bé cảm thấy rằng, nếu lúc này cha em thấy và nghe được tiếng em, hẳn ông sẽ tự hào, bởi vì em đã không hề suy tính khi nhảy tới cứu Nen, và giờ đây, dù những lằn roi như lửa đang thiêu đốt, nhưng em hoàn toàn không nghĩ tới đau đớn của bản thân, mà bắt đầu an ủi cô bé và hỏi xem cú đánh có làm cô bé đau lắm không.
Rồi em nói:
– Anh tuy bị đánh, nhưng hắn sẽ không còn dám đánh em nữa. Ôi, giá như anh có vũ khí!
Người phụ nữ nhỏ xíu ấy bèn đưa hai tay ôm ghì lấy cổ cậu bé, và vừa tuôn nước mắt ướt đầm gò má cậu, vừa nói rằng mình không bị đau lắm đâu, rằng cô khóc không phải vì đau mà chỉ vì thương cậu. Nghe thấy thế, Xtas bèn kề môi vào tai cô bé thì thầm:
– Nen, không phải vì hắn đánh anh, mà vì hắn đã quật em, anh thề sẽ không tha hắn.
Cuộc xô xát kết thúc tại đó. Một lát sau, Ghe-bơ-rơ và I-đrix đã lại dàn hoà với nhau, cùng trải áo choàng lên mặt đất và ngả lưng xuống, còn Kha-mix cũng nhanh chóng làm theo bọn chúng. Bọn người Bê-đu-in rắc ngô cho lạc đà, sau đó cưỡi hai con lạc đà không thồ hàng đi về phía sông Nin. Nen tựa đầu vào gối của bà Đi-na ngủ thiếp đi.Đống lửa lụ i dần và lát sau chỉ còn nghe thấy tiếng lắc cắc của ngô bị răng lạc đà nhai vỡ. Trên trời có những đám mây nhỏ kéo qua, thỉnh thoảng lại che khuất mặt trăng, song đêm vẫn sáng. Tiếng tru thảm thiết của bầy chó núi vọng lên từ sau những tảng đá.
Hai giờ sau bọn Bê-đu-in trở về cùng lạc đà thồ nặng những túi da đựng nước. Tiếp thêm củi vào đống lửa, bọn chúng ngồi xuống cát và ăn uống. Sự quay về của chúng đánh thức Xtas đang thiu ngủ, cùng với hai tên Xu-đan và Kha-mix, con trai của Kha-đi-gi.
Bên đống lửa diễn ra cuộc nói chuyện sau đây:
– Ta đi được chưa? – I-đrix hỏi.
– Chưa, vì chúng tôi phải nghỉ đã – chúng tôi và lạc đà của chúng tôi.
– Không có ai trông thấy chúng mày chứ?
– Không. Chúng tôi tới sông ở quãng giữa hai làng. Chỉ có tiếng chó sủa xa xa.
– Từ nay cần phải đi lấy nước vào lúc nửa đêm và lấy ở những chỗ không có người. Chỉ cần vượt qua cái thác đầu tiên, từ đó trở đi, làng xóm sẽ thưa thớt hơn và ngả theo Đấng tiên tri nhiều hơn. Chắc chắn là chúng sẽ đuổi theo chúng ta.
Nghe thế, Kha-mix nằm úp bụng xuống đất, và lấy hai bàn tay kê dưới mặt nói:
– Các kĩ sư trước tiên sẽ phải chờ lũ trẻ tại En Pha-khen suốt đêm cho đến chuyến tàu tiếp đó, rồi sẽ đi Phai-um, từ đó tới Ga-rắc.
Tại đó họ mới hiểu được chuyện gì đã xảy ra. Khi ấy họ sẽ phải quay về Mê-đi-nét để gửi cái lời chạy theo sợi dây đồng đến các thành phố trên sông Nin cũng như các đoàn người cưỡi lạc đà sẽ đuổi theo chúng ta. Tất cả những điều đó sẽ mất ít nhất là ba ngày. Trước đó, không cần phải làm mệt đàn lạc đà của ta, còn chúng ta có thể bình tĩnh “uống khói” bằng ống điếu.
Vừa nói thế, hắn vừa rút một nhánh cây hồng sa mạc ra khỏi đống lửa và dùng nó châm vào điếu, còn I-đrix, theo phong tục Ả Rập, tắc lưỡi vì hài lòng.
– Mày nói hay lắm, hỡi con trai của Kha-đi-gi! -Hắn nói.- Song ta phải tranh thủ thời gian để trong ba ngày đó đi được xa nhất về phía Nam. Tao chỉ có thể an lòng hơn khi nào chúng ta vượt qua sa mạc quãng giữa sông Nin và Khac-giê (một ốc đảo lớn ở phía Tây sông Nin). Xin Thượng đế hãy cho lạc đà chịu đựng được.
– Chúng sẽ chịu được. – Một trong hai tên Bê-đu-in lên tiếng.
– Người ta cũng còn nói rằng, – Kha-mix xen vào, – quân đội của đức Ma-hơ-đi (cầu Thượng đế kéo dài tuổi thọ của Người) đã tới được A-xu-an.
Đến đây, Xtas – vốn không bỏ sót một lời nào trong cuộc trò chuyện này và nhớ cả những điều mà I-đrix vừa nói trước đó với Ghe-bơ-rơ – liền nhổm dậy nói:
– Quân của Ma-hơ-đi còn ở mãi dưới Khác-tum.
– La! La (không phải, không phải). – Kha-mix phản đối.
– Các ông đừng để ý những điều hắn nói, – Xtas đáp, – vì hắn không những chỉ có nước da đen thủi mà cả bộ óc cũng đen kịt nữa. Dù cho cứ ba ngày một các ông lại thay lạc đà mới và đi nhanh như hôm nay đi nữa, các ông cũng phải mất một tháng mới tới được Khác-tum. Thêm nữa, có thể các ông không biết rằng quân đội sẽ chặn đường các ông đi, không phải quân Ai Cập đâu mà là quân đội Anh kia…
Những lời này đã gây ấn tượng nào đó. Nhận thấy thế, Xtas bèn nói tiếp:
– Trước khi các ông tới được địa điểm nằm giữa sông Nin và cái ốc đảo lớn thì tất cả mọi con đường trên sa mạc đã bị những đơn vị binh lính canh phòng. Ha! Lời nói chạy theo đường dây đồng còn đi nhanh hơn lạc đà! Làm sao các ông có thể thoát được?
– Sa mạc rộng lớn vô cùng! – Một trong hai tên Bê-đu-in đáp.
– Nhưng các ông sẽ phải bám chặt sông Nin.
– Chúng tao có thể sẽ vượt sang bờ bên kia, và khi người ta đang săn tìm chúng tao bên này, thì chúng tao lại ở bên kia cơ.
– Lời nói chạy theo dây đồng sẽ đến các thành phố và làng mạc ở cả hai bên bờ sông.
– Đức Ma-hơ-đi sẽ gửi đến cho chúng ta một vị thiên sứ, thiên sứ sẽ bịt tay vào mắt bọn Anh và Thổ (tức Ai Cập) và dùng đôi cánh che cho chúng tao.
– Ông I-đrix này, – Xtas nói, – tôi không thèm nói với Kha-mix, vì đầu hắn trống rỗng như quả bầu, cũng không muốn nói với Ghe-bơ-rơ vì hắn chỉ là một con lang bần tiện, mà tôi nói với ông.
Tôi biết rằng các người muốn mang chúng tôi đến Ma-hơ-đi và nộp cho Xmai-nơ. Song nếu như các ông làm chuyện đó vì tiền, thì ông hãy nhớ rằng, cha của cô bé bé bỏng này còn giàu hơn tất cả những người Xu-đan gộp lại.
– Thế thì sao? – I-đrix ngắt lời.
– Thế thì sao? Các ông hãy tự mình quay lại đi,và ngài kĩ sư vĩ đại ấy, cũng như cha tôi, sẽ không tiếc tiền đối với các ông đâu.
– Hoặc sẽ nộp chúng tao cho chính phủ, chính phủ sẽ ra lệnh treo cổ chúng tao lên chứ gì?
– Không đâu, ông I-đrix. Chắc chắn các ông sẽ bị treo cổ, nhưng chỉ trong trường hợp nếu như các ông bị bắt khi đang trốn chạy. Còn nếu như các ông tự mình quay trở lại thì các ông sẽ không bị một hình phạt nào hết, thêm nữa các ông còn trở thành những người giàu có đến cuối đời. Ông biết đấy, những người da trắng từ châu Âu tới bao giờ cũng giữ lời hứa. Tôi thay mặt hai vị kĩ sư hứa với ông rằng mọi việc sẽ diễn ra đúng như lờ i tôi nói.
Quả thực Xtas hoàn toàn tin rằng cha em cùng ông Rô-li-xơn sẽ trăm lần muốn thực hiện những lời em hứa hơn là để cho cả hai, nhất là Nen, sẽ phải chịu đựng một cuộc hành trình khủng khiếp và một cuộc sống còn khủng khiếp hơn nữa giữa các bộ tộc hoang dã và điên loạn của Ma-hơ-đi.
Vì vậy, trái tim em đập gấp gáp trong khi chờ đợi câu trả lời của gã I-đrix, gã này cứ nín lặng, mãi một lúc lâu mới cất tiếng nói:
– Mày nói rằng cha của cô bé bé nhỏ này và cha mày sẽ trả cho chúng tao nhiều tiền?
– Chính thế.
– Tuyệt vời! – Cả hai tên Bê-đu-in cùng Kha-mix và Ghe-bơ-rơ cùng bật thốt lên khi nghe thấy thế.
– Liệu tất cả tiền của bọn họ có thể mở ra trước mắt chúng tao cánh cửa dẫn tới thiên đường, thiên đường mà chỉ một lời ban phước của Đức Ma-hơ-đi thánh thiện cũng đủ mở ra hay không?
Lập tức, Xtas thấy mất hẳn hi vọng, vì em hiểu rằng, mặc dù người phương Đông rất tham lam và có thể mua chuộc được, song khi một tín đồ Hồi giáo nào đã nhìn một việc gì đó từ khía cạnh lòng tin, thì thế giới này không có một kho báu nào có thể lay chuyển được anh ta.
Còn I-đrix, được tiếng kêu cổ vũ, y nói tiếp, rõ ràng là không phải để trả lời Xtas mà là để thu được nhiều hơn nữa sự thán phục và ca ngợi của đám bạn:
– Chúng ta có cái hạnh phúc được thuộc về bộ tộc đã sản sinh ra đấng tiên tri thiêng liêng, còn bà Phát-ma tôn quý cùng con cái của bà lại là họ hàng với Người. Đức Ma-hơ-đi vĩ đại yêu mến họ.
Nếu chúng ta nộp mày cùng cô bé kia cho Người, thì Người sẽ đánh đổi chúng mày lấy bà Phát-ma cùng các con trai của bà, còn chúng ta sẽ được Người ban phước. Mày nên biết là cả nước mà mỗi sáng Người dùng để rửa ráy theo quy định của kinh Co-ran, còn chữa khỏi bệnh tật và tẩy sạch mọi tội lỗi, nói gì tới sự ban phước của Người.
– Tuyệt vời! – Bọn Xu-đan và Bê-đu-in lại kêu lên. Xtas bèn tóm lấy chút hi vọng cuối cùng và nói:
– Thế thì các người hãy bắt tôi đem đi, còn để cho bọn Bê-đu-in cùng với cô bé quay trở lại. Chỉ một mình tôi cũng đủ đánh đổi bà Phát-ma cùng con cái của bà ta.
– Cả hai chúng mày thì càng chắc chắn là người ta sẽ đánh đổi hơn.
Nghe thấy thế, cậu bé bèn quay lại phía Kha-mix:
– Cha ngươi sẽ phải chịu trách nhiệm về hành động của ngươi.
– Cha tao đã ở trên sa mạc và đang trên đường đến với Đấng tiên tri rồi. – Kha-mix đáp.
– Thế thì người ta sẽ tóm được và sẽ treo cổ ông ta lên.
Đến đây, I-đrix thấy cần phải cổ vũ thêm cho các bạn bè của hắn. Hắn nói:
– Lũ diều hâu sẽ rỉa thịt xương cốt chúng ta, có thể hãy còn chưa nở. Chúng ta biết rõ những gì đang đe doạ chúng ta, nhưng chúng ta không phải là trẻ con, còn sa mạc thì chúng ta đã từng quen thuộc từ lâu rồi. Những người này (hắn chỉ bọn Bê-đu-in) đã nhiều lần tới Béc-be-rơ và biết rõ những con đường chỉ có lũ nai chạy mà thôi. Ở đó, không một kẻ nào có thể tìm thấy chúng ta, không kẻ nào có thể truy đuổi chúng ta. Quả thực chúng ta phải ra sông Ba-hơ-rơ En Du-xép, rồi sau này, ra sông Nin, để lấy nước, nhưng chúng ta sẽ làm việc đó về ban đêm. Các anh tưởng rằng dọc sông không có những bạn bè bí mật của đức Ma-hơ-đi hay sao?
Còn ta, ta nói với các anh rằng, càng đi về phía Nam thì họ lại càng nhiều hơn lên. Cả các bộ tộc cũng như các tù trưởng của họ chỉ chờ thời cơ thuận tiện để cầm gươm bảo vệ tín ngưỡng chân chính của mình. Chính những người này sẽ cung cấp nước uống, thức ăn, lạc đà, và sẽ đánh lạc hướng bọn đuổi theo. Chúng ta biết rõ rằng con đường đến chỗ đức Ma-hơ-đi rất xa xôi, nhưng chúng ta cũng biết rõ, cứ một ngày qua đi lại khiến chúng ta được đến gần hơn tấm da cừu, mà trên đó Đấng tiên tri thiêng liêng thường quỳ gối để cầu nguyện.
– Tuyệt lắm! – Đồng bọn lại kêu lên lần thứ ba.
Rõ ràng là uy tín của I-đrix trong bọn chúng tăng lên rõ rệt.
Xtas hiểu rằng đã mất hết hi vọng, song vì muốn tránh cho Nen ít ra khỏi gặp phải sự tàn tệ của bọn Xu-đan, nên em nói:
– Sau có sáu giờ đi đường mà cô bé đã sống dở chết dở. Sao các người lại nghĩ rằng cô bé có thể chịu đựng được con đường ấy cơ chứ? Nếu như Nen chết, thì tôi cũng chết theo, khi ấy các người sẽ mang gì để ra mắt Ma-hơ-đi cơ chứ?
Giờ thì I-đrix không tìm ra câu trả lời, thấy thế. Xtas bèn nói tiếp:
– … Và Ma-hơ-đi cùng Xmai-nơ sẽ đón các người ra sao khi biết rằng, vì sự ngu ngốc của các người, mà mụ Phát-ma cùng con cái của mụ ta phải trả giá bằng tính mạng của họ?
Song tên Xu-đan đã kịp định thần và trả lời:
– Tao đã thấy mày bóp cổ Ghe-bơ-rơ ra sao. Thề có đức A-la, mày quả thật là sư tử con, mày sẽ không chết được đâu, còn con bé…
Nói tới đây, hắn nhìn mái đầu của Nen đang say ngủ, tựa vào đầu gối của u già Đi-na, rồi chợt kết thúc bằng một giọng ôn tồn không ngờ:
– Chúng ta sẽ làm riêng cho cô bé một cái tổ như tổ chim trên bướu lạc đà, để cho cô bé hoàn toàn không cảm thấy mệt và có thể ngủ dọc đường cũng yên giấc như bây giờ.
Nói thế xong, hắn bước tới phía con lạc đà, rồi cùng với bọn Bê-đu-in bắt đầu bố trí chỗ ngồi cho cô bé trên bướu con lạc đà tốt nhất trong số lạc đà một bướu. Chúng nói khá nhiều, tranh cãi nhau tí chút, nhưng cuối cùng, với dây thừng, chăn và các thanh tre, chúng cũng làm được một chỗ ngồi có dạng cái sọt sâu lòng cố định, trong đó Nen có thể ngồi hoặc nằm mà không thể ngã được.
Chúng còn căng một cái mái bằng vải trên chỗ ngồi đó. Chỗ ngồi ấy rộng đến nỗi bà Đina cũng có thể cùng ngồi trong đó.
– Mày thấy chưa? – I-đrix nói với Xtas. – Trong cái ổ thế này thì đến trứng cun cút cũng không thể vỡ nổi. Mụ già sẽ đi cùng cô bé để phục vụ cô cả ngày lẫn đêm… Mày sẽ ngồi cùng với tao, mà mày cũng có thể ngồi cùng với cô bé để chăm sóc nó.
Xtas vui mừng, dù chỉ đạt được từng ấy mà thôi. Suy nghĩ về tình thế hiện tại, em tin rằng, rất có thể người ta sẽ tóm được bọn chúng trước khi chúng kịp vượt qua cái thác đầu tiên, và ý nghĩ này động viên em thêm phần nào. Em thấy rất buồn ngủ, nên tự nhủ rằng sẽ buộc mình bằng một sợi thừ ng vào yên, và vì em sẽ không phải đỡ cho Nen, nên em có thể ngủ vài tiếng đồng hồ.
Đêm nhạt dần, lũ chó núi đã ngừng tru trong các hẻm núi.
Nhẽ ra cả đoàn đã lên đường, nhưng bọn Xu-đan thấy trời rạng sáng liền đi tới một tảng đá ở cách đó vài bước chân, và ở đó, theo những quy định của kinh Co-ran, chúng bắt đầu cuộc rửa ráy ban sáng, dùng cát thay cho nước mà chúng muốn tiết kiệm. Rồi sau đó vang lên tiếng đọc kinh Xu-bơ-hơ-gơ, tức là kinh cầu đầu tiên vào buổi sáng.
Trong sự tĩnh mịch sâu thẳm có thể nghe rõ từng lời nói của bọn chúng: “Sáng danh đấng Thượng đế đại từ đại bi. Hãy ngợi ca Người, chúa tể của thế giới, Người đại từ đại bi trong ngày phán xét. Chúng con thành kính Người và tuân theo Người, chúng con xin Người cứu giúp chúng con. Xin hãy dẫn dắt chúng con theo con đường của những người, mà đối với họ Người không tiếc của cải và phước lộc, chớ theo đường của những kẻ tội lỗi, những kẻ sẽ phải chịu cơn thịnh nộ của Người và sẽ bị lạc loài. A-men!” Còn Xtas, nghe thấy những lời ấy, bèn ngước mắt lên trời, và giữa vùng đất xa xôi này, giữa mặt cát vàng hoe và câm lặng ấy, em bắt đầu cầu nguyện: “Hỡi Đức Mẹ thiêng liêng của Chúa, chúng con sẽ trốn thoát dưới sự che chở của Mẹ…” ?
— —— ———!
1 Còn gọi là cây phục sinh. Đây là loại hồng sa mạc, thích hợp với điều kiện sống khô cằn, có thân cây nhỏ, dùng làm thuốc. Chúng gồm hai giống: Anastatica hierochuntica – mọc ở vùng ĐôngĐịa Trung hải và Asteriscus pygmaeus – mọc ở vùng Angiêri và Beluxtan.
2 Tất cả họ hàng thân thuộc của Ma-hơ-đi đều được gọi kèm theo hai tiếng “tôn quý” (chú thích của tác giả).
3 Tiếng kêu này vốn có nghĩa là: “Thượng đế thật vĩ đại”, nhưng người Ả Rập thường thốt ra khi sợ hãi, tỏ ý cầu xin cứu độ (chú thích của tác giả)