Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm

Chương 22

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— ——

Khi Xtas và cậu thiếu niên da đen kéo được thây của những tên Ả Rập cùng cái xác nặng trịch của con sư tử bị giết sang hai bên khe núi thì mặt trời đã hạ xuống thấp hơn và chẳng mấy chốc nữa đã là đêm. Tuy nhiên, khó mà ngủ đêm bên cạnh xác chết, nên mặc dù Ca-li vừa chỉ vào con thú bị giết vừa xoa xoa bộ ngực và tặc lưỡi lặp đi lặp lại: “Msuri nyama” (tốt, thịt tốt), Xtas vẫn không để cho nó lo cái khoản “nyama” ấy mà bảo nó phải đi tóm bọn ngựa đã bị tiếng súng khiến cho hoảng sợ chạy bạt đi. Cậu bé da đen giải quyết chuyện này khéo léo vô cùng, thay vì chạy dọc khe núi đuổi theo chúng (nếu làm theo cách này thì hẳn là ngựa sẽ càng chạy xa hơn), cậu bé đã leo lên núi và rút ngắn đường bằng cách bỏ qua các chỗ quanh co của khe, chắn ngang đường chạy của lũ ngựa. Bằng cách đó, nó lẹ làng tóm ngay được hai con, còn hai con nữa đuổi quay trở lại phía Xtas. Chỉ có những con ngựa của Ghe-bơ-rơ và Kha-mix là không thể bắt được, tuy thế cũng vẫn còn bốn con, chưa kể đến chú lừa đang thồ nặng hàng và cái lều, chú này đã tỏ ra có một sự bình thản hoàn toàn triết học đối với những biến cố kinh khủng vừa xẩy ra. Bọn trẻ tìm được chú ta ngay sau khúc ngoặt, lúc chú đang rứt cỏ mọc trong lòng khe núi một cách rất tỉ mẩn, không chút vội vã.

Nói chung giống lừa ngựa Xu-đan vốn quen thấy các loài dã thú, nhưng lại sợ sư tử, do vậy phải vất vả lắm mới có thể đưa chúng vượt ngang qua cạnh tảng đá nơi hãy còn đọng một vũng máu đỏ. Ngựa vừa thở phì phò, lỗ mũi mở rộng, vừa vươn cổ về phía những tảng đá đẫm máu; tuy nhiên, khi thấy chú lừa chỉ hơi cụp tai một tí, bình thản bước qua,thì chúng cũng bước qua. Đêm đã gần buông xuống, nhưng bọn trẻ còn đi đến gần một cây số mới dừng lại ở khe núi phình rộng thành một cái thung lũng nhỏ, giống như một nhà hát có nhiều bậc hình vòng tròn, mọc đầy cây gai góc và những khóm trinh nữ nhiều gai.

– Ông chủ ơi! – Cậu bé da đen nói. – Ca-li đốt lửa, đốt một đống lửa to.

Rồi lấy thanh gươm Xu-đan rộng bản tước được từ xác Ghe-bơ-rơ, nó bắt đầu chặt gai góc và cả những cây gỗ nhỏ nữa. Sau khi nhóm lửa lên, nó còn chặt tiếp, cho tới khi được một khối lớn, có thể dùng cả đêm.

Sau đó, cùng với Xtas, nó dựng túp lều nhỏ dành cho Nen ngay dưới một vách đá cao dựng đứng của thung lũng, rồi làm một hàng rào gai cao và rộng hình bán nguyệt – gọi là de-ri-ba – vây quanh. Qua chuyện của những nhà thám hiểm Phi châu, Xtas biết rằng khách bộ hành thường dùng cách này để tự vệ chống lại sự tấn công của các loài dã thú. Tuy vậy, ngựa thì không thể nhốt trong hàng rào được, nên bọn trẻ tháo yên cương ra, lấy các tú i hàng và đồ hộp khỏi lưng chúng và buộc giằng hai chân để chúng không đi quá xa khi lần đi kiếm cỏ ăn và nước uống. Mê-a lại tìm được nước ngay gần đấy, trong một khe đá trông giống như một cái bể chứa nhỏ, giữa những tảng đá ở phía bên đối diện. Có nhiều nước, đủ cho ngựa uống, đủ để nấu thịt chim mà Kha-mix bắn được lúc sáng. Trong gùi hàng cùng chỗ với cái lều của Nen do con lừa thồ, bọn trẻ còn tìm thấy gần ba nồi ngô và vài nhúm muối, cùng chùm củ sắn khô nữa.

Ngần ấy quá đủ cho một bữa ăn thịnh soạn. Tuy nhiên, chỉ có Ca-li và Mê-a là ăn nhiều. Cậu bé da đen vốn bị Ghe-bơ-rơ bắt nhịn đói một cách tàn nhẫn, giờ đây ăn một lượng thức ăn bằng cả hai người thường. Song cũng vì vậy nó thành tâm biết ơn cô cậu chủ mới của mình, và ngay sau bữa ăn, nó quỳ sát đất trước mặt Nen và Xtas, ra dấu rằng nó mong muốn được là nô lệ của họ cho tới trọn đời; sau đó, nó cũng bày tỏ lòng thành kính đối với khẩu súng của Xtas, vì hẳn nó nghĩ rằng, tốt hơn hết, hãy lấy lòng một “ông vũ khí” nhiều sức mạnh như vậy là hơn. Sau rốt, nó nói rằng sẽ cùng với Mê-a canh cho lửa khỏi tắt trong khi “ông lớn” và cô bé ngủ, rồi ngồi xếp bằng cạnh đống lửa, nó bắt đầu lẩm nhẩm một bài ca gì đó, lúc lúc lại láy đi láy lại những chữ: “Sim-ba ku-fa!

Sim-ba ku-fa”, mà trong ngôn ngữ Kix-va-hi-li có nghĩa là: sư tử bị giết.

Song cả “ông lớn” lẫn cô bé không có lòng nào nghĩ tới chuyện ngủ. Theo lời yêu cầu khẩn khoản của Xtas, Nen có nuốt vài miếng thịt chim và mấy hạt ngô nấu mềm. Cô bé bảo rằng không muốn ăn cũng không buồn ngủ, mà chỉ khát thôi. Xtas thoạt đầu lo lắng rằng cô bé bị sốt, nhưng em thấy tay cô bé rất lạnh, thậm chí quá lạnh nữa. Tuy nhiên, em cũng nài được Nen vào lều, nơi em đã chuẩn bị sẵn chỗ nằm cho cô bé, trước đó em đã tìm rất kĩ xem trong cỏ có bọ cạp hay không. Xtas ngồi xuống tảng đá với khẩu súng trong tay, bảo vệ cho cô bé khỏi bị dã thú tấn công, nếu như lửa không đủ khiến chúng sợ. Em vô cùng mệt và kiệt sức. Em cứ lặp đi lặp lại trong lòng: “Ta đã giết chết Ghe-bơ-rơ và Kha-mix, ta đã giết bọn Bê-đu-in, đã giết con sư tử và đã được tự do”. Nhưng những lời ấy dường như là của ai đó thì thầm với em, chứ bản thân em không hiểu thật rõ ý nghĩa của chúng. Em chỉ có cảm giác rằng cả hai đã được tự do, nhưng đồng thời cũng đã có một cái gì đó thật kinh khủng xẩy ra, khiến em lo lắng không yên, và đè nặng lên ngực em như một tảng đá. Về sau, những ý nghĩ của em bắt đầu đờ ra.

Em nhìn thẫn thờ một lúc lâu những con thiêu thân đang quay vòng quanh ngọn lửa, rồi bắt đầu ngủ gật và thiếp đi những giấc ngắn. Ca-li cũng ngủ gà ngủ gật, nhưng cứ chốc chốc lại tỉnh giấc để ném thêm cành cây vào đống lửa.

Đêm sâu thẳm và rất tĩnh mịch, điều thật hiếm thấy trong vùng nhiệt đới. Chỉ nghe tiếng lách tách của những cành gai đang cháy và tiếng réo phù phù của ngọn lửa soi sáng những rạn đá vây quanh thành một vòng bán nguyệt. Mặt trăng không chiếu được ánh sáng xuống lòng khe, nhưng trên trời nhấp nhánh những vì sao vô danh dày đặc. Không khí trở nên mát lạnh, khiến Xtas chợt tỉnh, cố rũ bỏ cảm giác nặng nề ngái ngủ và bắt đầu lo lắng, không hiểu Nen có bị lạnh hay không.

Song em lại yên tâm ngay khi nhớ ra rằng em đã đưa cô bé vào lều và cho ngủ trong tấm chăn dạ mà bà Đi-na mang theo từ Phai-um. Em còn nghĩ ra rằng, suốt ngần ấy ngày đi từ sông Nin theo đường dốc lên mãi – mặc dù độ dốc không nhiều – nhưng hẳn giờ đây chúng đã lên đến vùng khá cao, nơi bệnh sốt rét không còn đe dọa như ở vùng lũng sông ẩm thấp nữa. Cái lạnh cảm thấy được trong đêm hình như cũng khẳng định điều này.

Và ý nghĩ ấy khiến em thêm vữ ng lòng. Em tiến đến gần lều để nghe xem Nen ngủ có say không, rồi quay lại, ngồi xuống bên đống lửa và lại bắt đầu thiu thiu ngủ, rồi thiếp đi.

Bỗng nhiên tiếng gầm gừ của Xa-ba – con chó trước đó nằm ngủ ngay dưới chân em – khiến em choàng tỉnh.

Ca-li cũng mở mắt và cả hai lo lắng nhìn con chó đang căng thẳng toàn thân như một sợi dây đàn, tai vểnh lên, mũi phập phồng đánh hơi về phía mà cả bọn vừa đi đến, mắt nhìn đăm đăm vào bóng tối. Lông cổ và lông lưng nó xù lên, ngực phồng không khí mà vừa gầm gừ, nó vừa hít vào.

Chàng nô lệ trẻ tuổi vội vàng ném thêm cành khô vào đống lửa.

– Ông chủ! – Nó thì thào. – Cầm súng đi! Cầm lấy súng đi ông chủ!

Xtas cầm lấy khẩu súng bước ra đứng phía trước lửa để trông rõ hơn khe núi tối mịt. Tiếng gầm gừ của Xa-ba đã chuyển thành tiếng sủa rời rạc. Suốt một hồi lâu không thể nghe được gì hết, rồi tai Xtas và Ca-li nghe vọng lại từ xa tiếng vó trầm đục, dường như có những con thú to lớn nào đó đang phi nhanh về phía ngọn lửa.

Tiếng chân ấy, giữa cái tĩnh mịch của đêm thanh, đập vào đá vọng lại thành những tiếng vang mỗi lúc một to hơn.

Xtas hiểu rằng một nỗi nguy hiểm chết người đang tiến lại.

Nhưng đó là cái gì. Có thể là trâu rừng, cũng có thể là một đôi tê giác đang tìm lối thoát ra khỏi khe núi? Trong trường hợp ấy, nếu như tiếng súng không làm chúng sợ mà quay đi, thì cả bọn không thoát chết, bởi vì những giống vật này, vốn không ít dữ tợn và hăng máu hơn bọn thú ăn thịt, hoàn toàn không sợ lửa, sẽ chà đạp tất thảy mọi thứ chúng gặp trên đường…

Nhưng nếu như đó lại là toán quân của gã Xmai-nơ, sau khi gặp những cái thây người trong khe núi, đang săn tìm kẻ giết người thì sao? Bản thân Xtas cũng không biết giữa cái chết nhanh chóng và một cảnh nô lệ mới – cái nào là tốt hơn. Em thoáng nghĩ, nếu như chính gã Xmai-nơ có mặt trong toán quân này, thì y sẽ không giết chúng, nhưng nếu như không có mặt y thì bọn tín đồ Hồi giáo ấy sẽ giết chúng trong chớp mắt, hoặc tệ hơn, còn hành hạ chúng một cách tàn nhẫn trước khi giết chết nữa kia. “Ôi, – em nghĩ thầm, – lạy Chúa hãy cho đó là thú chứ đừng là người!” Trong khi đó, tiếng vó câu mạnh lên rồi chuyển thành tiếng sầm sập của những móng guốc – và cuối cùng, từ trong bóng tối hiện ra những cặp mắt lấp lánh sáng, những cái mũi dãn rộng, cùng những chiếc bờm rối bời do chạy nhanh.

– Ngựa! – Cali kêu lên.Đó chính là những con ngựa của Ghe-bơ-rơ và Kha-mix. Cả hai lao tới với tốc độ khủng khiếp, rõ ràng chúng bị một nỗi sợ hãi nào đó đuổi theo, nhưng sau khi vào được trong ánh sáng và trông thấy những người bạn của mình, chúng liền nhảy dựng trên hai chân sau, rồi vừa kêu rừ rừ vừa bổ móng xuống mặt đất và đứng yên lặng như thế một lú c lâu. Song Xtas không rời súng khỏi má. Em chắc rằng, ngay sau lũ ngựa sẽ nhô ra cái đầu xù lông của một con sư tử hay cái sọ bẹt của con báo gấm. Nhưng em chỉ hoài công chờ đợi. Lũ ngựa dần dần bình tĩnh trở lại, hơn nữa, một lúc sau Xa-ba cũng thôi không còn đánh hơi, mà khoanh khoanh mấy vòng một chỗ như loài chó thường làm, nằm xuống cuộn mình thành một vòng tròn và nhắm mắt lại. Hẳn là, nếu như có một con dã thú nào đó đuổi theo lũ ngựa, thì khi cảm thấy hơi khói hoặc trông thấy ánh lửa, nó đã rút lui từ xa rồi.

– Chắc phải có gì đó khiến chúng nó sợ lắm, – Xtas nói với Ca-li, – nếu không, chúng nó đã chẳng dám chạy ngang qua xác người và sư tử đâu.

– Ông chủ ơi! – Cậu bé nói. – Ca-li biết chuyện gì xảy ra.

Nhiều, nhiều linh cẩu và lang núi đi vào khe, đến chỗ các xác chết.

Ngựa chạy trốn chúng, nhưng linh cẩu không đuổi theo chúng, vì còn ăn thịt Ghe-bơ-rơ và những tên kia…

– Cũng có thể, nhưng bây giờ cậu hãy đi tháo yên cương ngựa, cởi các bình và túi mang lại đây! Đừng có sợ, có khẩu súng này bảo vệ rồi!

– Ca-li không sợ. – Cậu bé đáp.Rồi xô một ít rào gai ngay sát vách, nó bước ra ngoài hàng rào; trong khi đó, Nen bước ra khỏi lều.

Lập tức Xa-ba nhổm dậy và cọ mũi vào cô bé để đòi được vuốt ve như thường lệ, song cô bé vừa chìa tay ra đã rụt lại ngay như kinh tởm điều đó.

– Anh Xtas, có chuyện gì vậy? – Cô bé hỏi.

– Chẳng có gì. Mấy con ngựa kia quay trở lại thôi. Tiếng chân chúng khiến em thức dậy đấy à?

– Em đã dậy từ trước và muốn ra khỏi lều, nhưng…

– Nhưng sao?

– Em sợ rằng anh sẽ giận.

– Anh? Giận em?

Nen ngước mắt lên nhìn cậu bé bằng một cái nhìn là lạ trước đó chưa hề có bao giờ. Trên nét mặt Xtas thoáng qua một nỗi ngạc nhiên lớn, vì trong lời nói và cái nhìn của cô bé, cậu đọc thấy một nỗi sợ sệt rõ ràng.

“Con bé sợ mình rồi”! – Em thầm nghĩ.

Và trong giây lát đầu tiên, em cảm thấy như thoáng lên một ánh hài lòng. Ý nghĩ rằng sau hành động mà em vừa làm, ngay cả Nen cũng đã xem em không chỉ là người hoàn toàn khôn lớn, mà còn là một chiến sĩ gieo rắc nỗi sợ hãi hùng chung quanh mình – khiến em thấy thu thú. Nhưng cảm giác đó chỉ tồn tại trong chốc lát, vì cảnh sống đau khổ đã khiến cho trí tuệ em phát triển và nẩy nở óc nhận xét. Do vậy, em thấy được rằng, trong cặp mắt đầy lo lắng của cô bé, bên cạnh nỗi sợ hãi, dường như còn có cả sự ghê tởm đối với những gì vừa xảy ra, đối với máu vừa đổ, đối với sự tàn bạo mà hôm nay cô bé được chứng kiến. Em chợt nhớ lại rằng vừa mới rồi cô bé rụt tay lại không muốn vuốt ve Xa-ba, con chó đã cắn chết hẳn một tên Bê-đu-in. Phải! Chính Xtas cũng cảm thấy trên ngực mình đè nặng một cơn ác mộng. Hồi ở Port Xai-đơ, đọc sách về những chàng săn thú người Mỹ ở miền Viễn Tây giết hàng tá người In-đi-an da đỏ là một chuyện, còn tự tay làm việc đó và phải trông thấy cảnh những người vừa mới đây còn sống, giờ đã lăn lộn giữa những cơn co giật trong vũng máu lại là chuyện hoàn toàn khác. Phải! Chắc hẳn Nen đang mang trong tim đầy nỗi sợ hãi, song đồng thời cả sự ghê tởm nữa, sự ghê tởm sẽ còn lại mãi mãi.

“Con bé sợ mình – Xtas nghĩ thầm – nhưng trong đáy lòng, không hề chủ ý, Nen sẽ không bao giờ thôi oán trách mình về chuyện đó, và đó là phần thưởng mà mình được nhận sau khi đã làm tất cả mọi việc vì cô bé”.

Nghĩ thế, một nỗi cay đắng ghê gớm cuồn cuộn dâng lên trong lồng ngực em, em hiểu rất rõ rằng, giá như không có Nen, thì hoặc là em đã bị giết từ lâu, hoặc là đã trốn thoát từ đời nào rồi. Chính vì cô bé, em đã chịu đựng tất cả những gì mà em phải chịu, ấy thế mà tất cả những nỗi khổ hạnh và đói khát đó chỉ để mang lại mỗi một việc là giờ đây đứng trước mặt em hình như không phải là cô em bé bỏng kia nữa, mà là một đứa bé kinh hoàng đang ngước mắt nhìn em, không phải với vẻ tin cậy như xưa mà là với nỗi sợ hãi đáng ngạc nhiên. Đột nhiên, Xtas cảm thấy thấm thía thế nào là nỗi tủi thân. Mặc dù không muốn, lệ vẫn ứa ra mắt và giá như không có chuyện dù thế nào đi nữa, vị “chiến sĩ dữ tợn” này cũng không được khóc – hẳn em đã khóc òa lên rồi.

Song em cố nén và hỏi lại cô bé:

– Em sợ ư, Nen?…

Cô bé khẽ đáp:

– Cứ… sờ sợ thế nào ấy.

Xtas bèn bảo Ca-li mang tấm nệm dưới yên lại, dùng một tấm phủ lên tảng đá lúc nãy em ngồi ngủ gật, chiếc thứ hai trải xuống đất và nói:

– Ngồi xuống đây cạnh anh bên đống lửa… Đêm lạnh quá phải không em? Nếu em buồn ngủ thì tựa đầu vào anh mà ngủ.

Song Nen vẫn nhắc lại:

– Cứ sờ sợ thế nào ấy…

Xtas cẩn thận dùng tấm chăn bọc lấy người cô bé, và một hồi lâu chúng cứ ngồi lặng đi như thế, tựa vào nhau, được ánh lửa hồng chiếu sáng, ánh lửa chập chờn trên các tảng đá và nhóng nhánh phản chiếu từ những mảnh mi-ca trên các hòn đá.

Từ bên ngoài hàng rào vọng lại tiếng thở rừ rừ của ngựa và tiếng cỏ sột soạt trong miệng chúng.

– Nghe anh đây, Nen… – Xtas cất tiếng. – Anh buộc phải làm như thế… Ghe-bơ-rơ dọa là sẽ đâm chết chúng mình nếu như con sư tử không chịu dừ ng ở xác Ca-li mà tiếp tục đuổi theo chúng. Em có nghe không?… Em hãy biết là hắn không những chỉ đe dọa riêng anh, mà cả em nữa. Và hắn sẵn sàng làm chuyện đó. Nói thật với em, nếu như không có lời đe dọa đó, thì dù đã từ lâu anh hằng nghĩ tới chuyện này, anh cũng sẽ không bắn chúng nó đâu. Anh nghĩ là mình không thể… Nhưng hắn đã vượt quá mức rồi! Em thấy trước đó hắn hành hạ Cali tới mức nào rồi chứ? Còn Kha-mix?

Hắn bán đứng chúng mình mới đểu giả làm sao! Thêm nữa, em có biết nếu như không tìm thấy Xmai-nơ thì chúng nó sẽ làm gì không? Ghe-bơ-rơ sẽ hành hạ chúng ta, hành hạ em hệt như đối với Ca-li thôi. Thật kinh khủng khi nghĩ rằng hắn sẽ dùng roi ngựa đánh em, hắn sẽ giày vò cả hai đứa mình, rồi sau khi chúng mình chết, hắn sẽ quay về Pha-sô-đa mà nói rằng chúng mình bị chết vì sốt rét… Nen, không phải anh làm như thế vì tàn bạo đâu, nhưng anh phải nghĩ cách cứu em… Anh chỉ nghĩ đến em mà thôi…

Trong giọng nói của Xtas lộ rõ sự tủi thân đang tràn ngập lòng em. Nen cảm nhận được điều đó, cô bé nép sát vào người em, còn em, sau khi nén nỗi xúc động, bèn nói tiếp:

– Anh nào có thay đổi gì đâu, anh sẽ chăm lo và bảo vệ em như trước kia thôi; khi chúng nó còn sống thì chúng mình không có một chút hi vọng nào thoát thân. Nhưng giờ chúng mình có thể chạy trốn tới A-bi-xi-ni-a, người A-bi-xi-ni-a là người da đen và hoang dã, nhưng họ là tín đồ Thiên chúa và là kẻ thù của bọn phiến loạn.

Chỉ cần em khỏe mạnh thì chắc chắn chúng mình sẽ làm được chuyện đó, vì từ đây tới A-bi-xi-ni-a không bao xa. Thậm chí, nếu như chúng mình không thành công đi nữa, dù cho chúng mình có rơi vào tay Xmai-nơ, thì em cũng đừng sợ là hắn sẽ trả thù chúng mình. Trong đời hắn chưa bao giờ được gặp Ghe-bơ-rơ cũng như bọn Bê-đu-in ấy cả, hắn chỉ biết có mỗi mình Kha-mix nhưng Kha-mix đối với hắn có là gì đâu! Chúng mình cũng không cần phải nói với Xmai-nơ là Kha-mix đi cùng với chúng mình làm gì. Nếu như chúng mình tới được A-bi-xi-ni-a thì chúng mình sẽ thoát, mà dù không thoát đi nữa, thì ít nhất em cũng sẽ không bị khổ hơn, chỉ sướng hơn thôi, so với vừa rồi, vì trên thế giới có lẽ không có ai ác hơn bọn chúng… Đừng sợ anh nhé, Nen!…

Và muốn cô bé thêm tin tưởng, đồng thời cũng muốn cổ vũ thêm, em bắt đầu vuốt tóc cô bé. Nen vừa lắng nghe vừa rụt rè ngước cặp mắt lên nhìn em. Rõ ràng cô bé muốn nói gì đấy, nhưng cô chần chừ, do dự và lo sợ. Mãi sau, cúi thật thấp mái đầu, khiến tóc xõa che mất hoàn toàn khuôn mặt, cô bé mới hỏi bằng giọng còn khẽ hơn lúc trước và hơi run run:

– Anh Xtas…

– Sao hả em?

– Bọn họ có tới đây không?…

– Ai kia? – Xtas ngạc nhiên hỏi lại.

– Bọn kia… Những người bị giết ấy.

– Em nói gì thế, Nen?

– Em sợ, em sợ lắm!…

Và đôi môi nhợt nhạt của cô bé run lên.

Im lặng. Xtas không tin là những người chết có thể trở dậy, nhưng vì đang là đêm, xác chết của bọn chúng lại cách đấy không xa, nên em cũng chợt cảm thấy rờn rợn: một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng.

– Em nói gì thế, Nen? – Cậu nhắc lại. – Đấy hẳn là bà Đi-na dạy em sợ ma… Những người chết không…

Em không kịp nói hết câu, vì chính vào giây phút ấy diễn ra một chuyện thật rùng rợn. Giữa đêm trường tĩnh mịch, trong cái thẳm sâu của khe núi, từ phía những cái xác đang nằm, chợt vang lên một tiếng cười kinh rợn, không phải của con người, trong tiếng cười đó rung lên cả nỗi tuyệt vọng lẫn niềm sung sướng, cả sự tàn nhẫn, cả nỗi đớn đau, cả tiếng nức nở và sự giễu cợt, tiếng cười chói tai và bệnh hoạn của những người điên khùng và mất trí.

Nen thét lên, dùng hết sức bấu chặt lấy cánh tay Xtas. Tóc Xtas cũng dựng đứng cả lên. Con chó Xa-ba bật dậy sủa vang.

Song cậu bé Ca-li ngồi cách đấy không xa vẫn bình thản ngẩng đầu lên và nói gần như vui vẻ:

– Đó là linh cẩu đang cười giễu Ghe-bơ-rơ và sư tử đấy.

Bình luận