Ba tuần đã trôi qua trước khi đến buổi trị liệu tiếp theo của chúng tôi. Trong kỳ nghỉ của mình, nằm trên một bờ biển nhiệt đới, tôi có thời gian và khoảng cách để ngẫm nghĩ những gì đã xảy đến với Catherine: nhờ thôi miên để quay lại những kiếp sống trong quá khứ với những quan sát và giảng giải chi tiết các đối tượng, quá trình và dữ kiện – mà cô không có kiến thức về chúng trong trạng thái tỉnh thức bình thường của mình; sự cải thiện các triệu chứng nhờ quá trình nhớ lại – những cải thiện mà thậm chí liệu pháp tâm lý trị liệu thông thường không đạt được chút nào sau 18 tháng trị liệu đầu tiên; những tiết lộ chính xác đến lạnh người trong trạng thái linh hồn sau khi chết, chuyển tải những tri thức mà cô không thể tiếp cận được; thi ca tâm linh và những bài học về những chiều kích không gian sau khi chết, về sự sống và sự chết, sinh và tái sinh, do tâm linh các Bậc thầy nói ra với sự thông thái và phong cách vượt xa khả năng của Catherine. Thực sự có rất nhiều điều phải suy ngẫm.
Qua nhiều năm, tôi đã trị liệu cho hàng trăm, có lẽ là hàng ngàn bệnh nhân tâm thần, họ đại diện cho toàn bộ tình trạng rối loạn cảm xúc. Tôi chỉ đạo những bộ phận điều trị bệnh nhân của bốn trường y khoa lớn. Tôi đã làm việc nhiều năm trong những phòng cấp cứu tâm thần, những bệnh viện cho bệnh nhân ngoại trú và rất nhiều tổ chức khác chuyên đánh giá và trị liệu bệnh nhân ngoại trú. Tôi biết mọi thứ về ảo giác âm thanh và hình ảnh hoang tưởng của chứng tâm thần phân liệt. Tôi đã trị liệu cho rất nhiều bệnh nhân mắc hội chứng hành động bản năng và rối loạn nhân cách phân ly, kể cả phân lập nhân cách hay đa nhân cách. Tôi từng là giáo viên hướng nghiệp của tổ chức về lạm dụng rượu và ma túy thuộc Viện Nghiên cứu Quốc gia về Lạm dụng Rượu và Ma túy (NIDA) và tôi cũng rất quen thuộc với sắc thái của những tác động do ma túy gây ra trên não.
Catherine không hề mắc phải triệu chứng hay hội chứng nào đã nêu. Những gì đã xảy ra không phải là biểu hiện của bệnh tâm thần. Cô ấy không bị tâm thần, không vượt ngoài khả năng xúc chạm với hiện thực và không bao giờ bị ảo giác (thấy hay nghe những thứ không thực) hay hoang tưởng (niềm tin sai lầm).
Cô ấy không dùng ma túy và cô ấy cũng không rối loạn nhân cách dạng chống đối xã hội. Cô không có nhân cách cuồng loạn và cũng không có xu hướng phân ly. Tóm lại, nói chung cô ấy biết những gì mình làm và mình nghĩ, không rơi vào tình trạng “lái tự động” và cũng chưa bao giờ có bất kỳ triệu chứng phân liệt hay đa nhân cách nào. Những gì cô ấy tạo ra thường vượt ngoài khả năng ý thức của cô cả về hình thức lẫn nội dung. Một số trong đó đặc biệt siêu linh như những gì liên quan đến các sự kiện và dữ kiện về quá khứ của tôi (ví dụ tri thức về cha tôi và con trai tôi) cũng như về quá khứ của cô ấy. Cô ấy có những tri thức mà bản thân chưa bao giờ được tiếp cận hay tích lũy trong kiếp sống hiện tại. Tri thức này cũng như toàn bộ trải nghiệm này hoàn toàn xa lạ với văn hóa và môi trường trưởng thành của cô ấy cũng như trái ngược với rất nhiều đức tin của cô.
Catherine là một người lương thiện và tương đối đơn giản. Cô không phải là một học giả và cũng không thể sáng chế ra các dữ kiện, chi tiết, các sự kiện lịch sử, những mô tả và thi ca đã được trình bày thông qua cô. Là một bác sỹ tâm lý, một nhà khoa học, tôi chắc chắn rằng những thứ này có nguồn gốc từ đâu đó trong vô thức của cô. Nó có thực và vượt ngoài mọi nghi ngờ. Thậm chí nếu Catherine là một diễn viên tài năng thì cũng không thể sáng tạo nên những gì đã xảy ra. Những tri thức đó quá sức đặc biệt và quá sức chính xác, vượt xa khả năng của cô.
Tôi cứ trăn trở về mục đích trị liệu của việc khám phá quá khứ của Catherine. Kể từ lúc chúng tôi tình cờ rơi vào thế giới mới này, sự thuyên giảm của cô ấy cực kỳ nhanh mà không cần bất kỳ thuốc men nào. Thế giới này có một số sức mạnh chữa trị và sức mạnh này rõ ràng là hiệu quả hơn nhiều so với các liệu pháp truyền thống của y tế hiện đại. Sức mạnh này bao gồm cả việc nhớ và sống lại không chỉ những sự kiện gây chấn thương quan trọng mà cả những tổn thương hàng ngày trên cơ thể, trí óc và bản ngã của chúng ta. Trong những câu hỏi của mình khi chúng tôi cùng duyệt qua những kiếp sống, tôi thường tìm kiếm kiểu mẫu của những tổn thương này, những kiểu mẫu dạng như cảm xúc lâu dài hay sự lạm dụng thực thể, nghèo khổ và chết đói, bệnh hoạn và khuyết tật, sự ngược đãi và thành kiến dai dẳng, thất bại liên miên và những thứ tương tự. Tôi cũng luôn để mắt tìm kiếm những bi kịch đau xót hơn như kinh nghiệm chết đau đớn, hiếp dâm, thảm họa tập thể hay bất kỳ sự kiện kinh hoàng nào khác có khả năng ghi khắc một dấu ấn vĩnh viễn. Kỹ thuật này cũng giống như xem xét lại tuổi thơ trong trị liệu truyền thống ngoại trừ một điều rằng trong khung thời gian là vài ngàn năm chứ không phải chỉ mươi mười lăm năm như lệ thường. Vì thế câu hỏi của tôi thường trực tiếp hơn và có tính dẫn dắt hơn trong trị liệu truyền thống. Thế nhưng thành công của cách khai thác phi chính thống này thì không có gì phải nghi ngờ. Cô ấy [và những người khác mà tôi trị liệu sau này bằng cách hồi tưởng nhờ thôi miên hồi quy] được chữa lành với tốc độ đáng kinh ngạc.
Nhưng liệu có cách giải thích nào khác cho trí nhớ về kiếp trước của Catherine không? Liệu trí nhớ này có được chứa trong gen của cô ấy không? Khả năng này thật xa vời về mặt khoa học. Trí nhớ di truyền đòi hỏi đường truyền dẫn không đứt gãy của vật liệu di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Catherine sống các kiếp trên trái đất và đường dẫn di truyền của cô ấy thường bị đứt đoạn. Cô chết trong một trận lụt cùng con của mình hoặc không có con hoặc chết khi còn trẻ. Vật liệu di truyền của cô kết thúc và không hề được truyền lại. Đã vậy tình trạng sống lại của cô sau khi chết và trạng thái tâm linh trung gian thì sao? Không có thân thể và chắc chắn không có vật liệu di truyền, thế nhưng trí nhớ của cô vẫn được giữ liên tục. Không, giải thích bằng di truyền đã bị loại bỏ.
Vậy ý tưởng của Jung về vô thức tập thể thì sao, liệu bằng cách nào đó khai thác được kho chứa toàn bộ ký ức và kinh nghiệm loài người này không? Những nền văn hóa đa dạng thường có những biểu tượng tương tự nhau, ngay cả trong những giấc mơ. Theo Jung, vô thức tập thể không phải là thu hoạch của cá nhân mà là sự “thừa hưởng” theo cách nào đó nhờ cấu trúc não. Nó bao gồm cả động lực và hình ảnh làm nảy sinh một sự bắt đầu hoàn toàn mới trong từng nền văn hóa mà không phụ thuộc và truyền thống hay phổ biến lịch sử. Tôi nghĩ ký ức của Catherine quá đặc biệt nên không thể giải thích theo quan niệm của Jung. Cô không cho thấy bất kỳ biểu tượng và hình ảnh hay động lực phổ quát nào. Cô ấy kết nối những mô tả chi tiết về con người và nơi chốn cụ thể. Trong khi đó quan niệm của Jung dường như quá mơ hồ. Hơn nữa, vẫn còn phải xét đến trạng thái trung gian. Xét mọi lẽ, sự đầu thai tỏ ra hợp lý nhất.
Tri thức của Catherine không chỉ chi tiết và cụ thể mà còn vượt ngoài khả năng ý thức của cô. Cô biết những điều không thể chỉ nhờ lượm lặt trong một cuốn sách rồi sau đó tạm thời quên đi. Tri thức của cô không thể thu thập lúc thơ ấu và bị đè nén, đẩy khỏi ý thức. Rồi còn những Bậc thầy và thông điệp của họ thì sao? Chúng phát ra từ Catherine nhưng không phải của Catherine. Sự thông thái của họ cũng thể hiện trong ký ức về các kiếp sống của Catherine. Tôi biết rằng thông tin này và những thông điệp là sự thật. Tôi biết điều này không chỉ nhờ nhiều năm nghiên cứu cẩn thận con người, suy nghĩ, não bộ và cá tính của họ mà tôi còn biết điều này bằng trực giác, thậm chí còn trước cả khi có cuộc gặp với cha tôi và con trai tôi. Bộ óc được huấn luyện cẩn trọng nhiều năm về khoa học của tôi biết điều đó và tận thâm tâm tôi cũng biết vậy.
“Tôi thấy những cái nồi chứa loại dầu gì đó.” Mặc dù nghỉ đến ba tuần nhưng Catherine nhanh chóng đi vào tình trạng xuất thần sâu. Cô đã ở trong một cơ thể khác, vào một thời gian khác. “Có những loại dầu khác nhau trong những cái nồi. Đó hình như là một loại nhà kho hay là một nơi mà họ tích trữ đồ vật. Những cái nồi màu đỏ… đỏ, làm bằng một loại đất đỏ nào đó. Chúng có một dải băng xanh dương bao quanh, những dải xanh dương bao quanh miệng. Tôi thấy những người đàn ông ở đó… có những người đàn ông trong hang. Họ di chuyển những cái hũ và nồi vòng quanh, chất chúng lên và đặt ở một số chỗ. Đầu họ cạo trọc… họ không có tóc trên đầu. Da họ màu nâu… da nâu.”
“Cô có ở đó không?”
“Có… Tôi đang niêm phong một số hũ… bằng loại sáp nào đó… niêm miệng hũ bằng sáp.”
“Cô có biết dầu đó dùng làm gì không?”
“Tôi không biết.”
“Cô có thấy chính mình không? Hãy nhìn vào chính cô. Cho tôi biết trông cô như thế nào.” Cô tạm nghỉ khi đang quan sát chính mình.
“Tôi có một bím tóc. Có một bím tóc trên tóc tôi. Tôi mặc một loại y phục dài… chất liệu dài. Nó có đường viền bằng vàng ở mặt ngoài.”
“Cô có làm việc cho những tu sĩ này – hay những người đàn ông đầu cạo trọc – không?”
“Công việc của tôi là niêm kín những chiếc hũ bằng sáp. Đó là công việc của tôi.”
“Nhưng cô không biết những chiếc hũ này dùng vào việc gì?”
“Chúng hình như được dùng cho một vài nghi lễ tôn giáo. Nhưng tôi không chắc… đó là việc gì. Có một vài nghi lễ xức dầu, xức lên đầu… xức lên đầu và tay, bàn tay. Tôi thấy một con chim, con chim bằng vàng, đeo quanh cổ tôi. Nó dẹt. Nó có đuôi dẹt, đuôi rất dẹt và đầu của nó chỉ xuống… chân tôi.”
“Chân cô ?”
“Đúng, đó là cách đeo bắt buộc. Có một… chất dính màu đen. Tôi không biết nó là thứ gì.”
“Nó ở đâu?”
“Nó ở trong đồ chứa bằng cẩm thạch. Họ cũng dùng thứ đó nhưng tôi không biết cho việc gì.”
“Có thứ gì trong hang mà cô đọc được để có thể cho tôi biết tên của đất nước đó không – địa điểm – chỗ cô sống hay ngày tháng?”
“Không có thứ gì trên những bức tường; chúng trống trơn. Tôi không biết tên.” Tôi hướng dẫn cô tiến nhanh về thời gian.
“Có một chiếc lọ trắng, một loại lọ trắng nào đó. Tay cầm trên miệng bằng vàng, một vài chi tiết mạ vàng trên đó.”
“Trong lọ có gì?”
“Một loại dầu xức nào đó. Nó được dùng để làm gì đó trong hành trình đi sang thế giới khác.”
“Có phải cô là người đang đi sang thế giới khác?”
“Không! Đó không phải là người mà tôi biết.”
“Đây cũng là việc của cô à? Chuẩn bị cho người đi sang thế giới khác ấy?”
“Không. Thầy tế phải làm việc đó, không phải tôi. Chúng tôi chỉ bảo đảm cho họ đủ dầu xức, trầm hương…”
”Hiện thời cô khoảng bao nhiêu tuổi?”
”16.”
“Cô có đang sống với bố mẹ không?”
“Có, ngôi nhà bằng đá, một nơi cư ngụ bằng đá. Nó không lớn lắm. Trời rất nóng và khô. Khí hậu rất nóng.
“Về nhà cô đi.”
“Tôi đang ở đó.”
“Cô có thấy những người khác trong gia đình mình quanh đó không?”
“Tôi thấy một người em trai và mẹ tôi cũng ở đó, có một đứa bé, con của ai đó.”
“Có phải con của cô không?”
“Không.”
“Hiện thời điều gì quan trọng? Hãy đi đến vài sự kiện có ý nghĩa có thể giải thích những triệu chứng của cô trong kiếp sống hiện tại. Chúng ta cần phải hiểu được. Việc này là an toàn. Tiến đến các sự kiện nào.”
Cô thì thầm trả lời rất khẽ. “Mọi thứ có thời điểm của nó… Tôi thấy người ta đang chết.”
“Người đang chết?”
“Đúng… họ không biết điều gì đang xảy ra.”
“Một loại bệnh à?” Thình lình tôi nhận ra rằng cô ấy lại trở về một kiếp sống cổ xưa mà cô từng nhớ lại trước đây. Trong kiếp sống đó, nạn dịch từ nước đã giết chết cha và một người em trai của Catherine. Cô cũng bị bệnh nhưng không chết vì nó. Mọi người đã dùng tỏi và những cây thuốc khác cố để phòng tránh cơn dịch. Catherine đã từng bực bội vì người chết không được ướp đúng cách.
Tuy nhiên, giờ đây chúng tôi tiếp cận kiếp sống đó từ một góc khác. “Có phải có gì đó liên quan đến nước phải không?” tôi hỏi.
“Họ tin vậy. Nhiều người đang hấp hối.” Tôi đã biết trước kết cục.
“Nhưng cô không chết, không phải lần này đúng không?”
“Không, tôi không chết.”
“Nhưng cô đã bị bệnh. Cô trở nên rất yếu.”
“Đúng, tôi rất lạnh… rất lạnh. Tôi cần nước… nước. Họ nghĩ rằng nó đến từ nước… và thứ gì đó màu đen…. Một số người đã chết.”
“Ai chết?”
“Cha tôi chết và một em trai của tôi cũng chết. Mẹ tôi không sao; bà ấy đã hồi phục. Bà rất yếu. Họ phải chôn cất những người chết. Họ phải chôn những người chết và mọi người đều bực bội vì điều đó đi ngược những tập tục tôn giáo.”
“Tập tục gì vậy?” tôi kinh ngạc về sự nhất quán trong việc nhớ lại của cô ấy, từng sự kiện một, chính xác như khi cô kể lại chi tiết của kiếp sống này cách đây vài tháng. Và một lần nữa sự sai lệch so với tập tục an táng thông thường làm cô rất bất bình.
“Mọi người được đặt trong hang. Thi thể được giữ trong hang. Nhưng trước tiên những thi thể này phải được các thầy tu chuẩn bị. Chúng phải được liệm và xức dầu. Chúng được giữ trong hang nhưng đất đang bị lụt… họ nói nước là xấu. Không được uống nước.”
“Có cách nào để xử lý nó không? Có cách nào hiệu quả không?”
“Chúng tôi được cho những cây thuốc, những cây thuốc khác nhau. Hương liệu… cây thuốc và… ngửi hương. Tôi có thể ngửi thấy nó!”
“Cô có nhận ra mùi đó không?”
“Nó màu trắng. Họ treo nó trên trần nhà.”
“Nó có giống tỏi không?”
“Nó được treo chung quanh… đặc tính giống nhau, đúng. Đặc tính của nó… đặt nó trong miệng, mắt, mũi, mọi chỗ. Mùi rất gắt. Người ta tin rằng nó sẽ chặn ma quỷ xâm nhập thân thể. Tím… một loại quả hay thứ gì đó hình tròn bao phủ bằng màu tím, màu tím bao bọc nó…”
“Cô có nhận ra nền văn hóa mà cô đang sống không? Nó có vẻ gì quen thuộc không?”
“Tôi không biết.”
“Màu tím là của trái cây hay thứ gì khác?”
“Tannis.”
“Thứ đó có giúp được cô không? Có phải nó dùng để trị bệnh?”
“Vào thời đó thì đúng vậy.”
“Tannis,” tôi nhắc lại, cố lần nữa xem thử có phải cô ấy đang nói đến chất tannin hay axit tannin. “Có phải họ gọi tên nó như vậy không? Tannis?”
“Tôi chỉ… Tôi vẫn nghe là ‘Tannis.’ ”
“Có điều gì trong kiếp sống đó vẫn chôn giấu trong kiếp sống hiện tại của cô? Tại sao cô cứ quay trở lại đó? Điều gì gây nên sự lo lắng như vậy?”
“Tôn giáo,” Catherine thì thầm nhanh, “tôn giáo của thời đó. Đó là tôn giáo của sợ hãi… sợ hãi. Có quá nhiều thứ đáng sợ… và có quá nhiều thần.”
“Cô có nhớ tên của bất kỳ vị thần nào không?”
“Tôi thấy những đôi mắt. Tôi thấy một màu đen… một thứ gì đó… Nó trông như một con chó rừng. Ông ấy ở trong dạng một bức tượng. Ông ấy là một loại thần hộ mệnh… tôi thấy một phụ nữ, một nữ thần, đội một loại nón sắt nào đó.”
“Cô biết tên bà ấy không, vị nữ thần?”
“Osiris… Sirus… đại loại giống vậy. Tôi thấy một con mắt… mắt, chỉ một mắt, một con mắt trên một sợi dây chuyền. Nó bằng vàng.”
“Một mắt?”
“Đúng… Ai là Hathor?”
“Gì?”
“Hathor! Đó là ai!”
Tôi chưa từng nghe đến Hathor, dù tôi biết rằng Osiris, nếu phát âm chính xác, là chồng và là anh trai của Isis, một vị thần quan trọng của Ai Cập. Sau này tôi mới biết Hathor là nữ thần của Ai Cập cai quản tình yêu, sự vui vẻ và hân hoan. “Đó có phải là một trong các vị thần không?” tôi hỏi.
“Hathor! Hathor.” Rồi một khoảng lặng dài. “Chim… ông ấy dẹt… dẹt, một con phượng hoàng…” Cô ấy lại im lặng.
“Hãy tiến nhanh về thời gian đến ngày cuối cùng của cô ở kiếp sống ấy. Đến ngày cuối cùng của cô nhưng ở thời điểm trước khi chết. Nói cho tôi biết cô nhìn thấy gì.”
Cô trả lời bằng giọng thì thầm rất nhẹ. “Tôi thấy người và những tòa nhà. Tôi thấy những đôi dép có quai hậu, những đôi dép. Có một tấm áo thầy tu bằng vải thô, một tấm áo bằng vải thô.”
“Xảy ra chuyện gì? Hãy tiến đến thời điểm cô đang hấp hối. Chuyện gì xảy đến với cô? Cô thấy điều gì?”
“Tôi không thấy nó… Tôi không thấy chút gì về mình.”
“Cô đang ở đâu? Cô thấy gì?”
“Không có gì… chỉ có bóng tối… tôi thấy ánh sáng, nguồn sáng ấm áp.” Cô đã chết rồi, đã chuyển sang trạng thái linh hồn. Rõ ràng là cô không cần phải trải qua cái chết thực sự thêm lần nào nữa.
“Cô có thể đến với nguồn sáng được không?” tôi hỏi.
“Tôi đang đi.” Cô đang nghỉ ngơi an lành, lại chờ đợi.
“Giờ đây cô có thấy ra những bài học của kiếp sống đó không? Cô biết những bài học đó chưa?”
“Chưa,” cô thì thầm. Cô tiếp tục chờ. Thình lình cô tỏ ra chú tâm mặc dù mắt vẫn nhắm như vẫn thường thế khi ở trạng thái xuất thần do thôi miên. Đầu cô quay từ bên này qua bên kia.
“Hiện thời cô đang thấy gì? Chuyện gì đang xảy ra?”
Giọng cô lớn hơn. “Tôi cảm thấy… ai đó đang nói với tôi!“
“Họ nói điều gì?”
“Đang nói về sự kiên nhẫn. Con người phải có sự kiên nhẫn…”
“Vâng, hãy tiếp tục.”
Câu trả lời đến từ Bậc thầy thi ca. “Kiên nhẫn và chờ đúng thời điểm… mọi thứ đến khi nó phải đến. Một kiếp sống không thể gấp gáp, không thể diễn ra theo lịch trình mà rất nhiều người muốn nó phải diễn ra. Chúng ta phải chấp nhận những gì đến vói chúng ta ở một thời điểm nào đó và không thể đòi hỏi nhiều hơn thế. Nhưng kiếp sống là bất tận, vì thế chúng ta không bao giờ chết; chúng ta cũng không bao giờ thực sự được sinh ra. Chúng ta chỉ trải qua những giai đoạn khác nhau. Không có kết thúc. Con người có nhiều chiều kích. Nhưng thời gian không phải như chúng ta vẫn thường thấy về thời gian mà chính là ở những bài học mà chúng ta học được.”
Một khoảng lặng kéo dài. Vị thầy thi ca tiếp tục.
“Mọi chuyện sẽ rõ ràng với ông khi đến đúng thời điểm. Nhưng ông phải có cơ hội để hiểu hết tri thức mà ta đã trao cho ông.” Catherine im lặng.
“Có thứ gì tôi nên học thêm không?” tôi hỏi.
“Họ đi rồi,” cô nhẹ thì thầm. “Tôi không nghe thấy bất kỳ ai nữa.”
Ba tuần đã trôi qua trước khi đến buổi trị liệu tiếp theo của chúng tôi. Trong kỳ nghỉ của mình, nằm trên một bờ biển nhiệt đới, tôi có thời gian và khoảng cách để ngẫm nghĩ những gì đã xảy đến với Catherine: nhờ thôi miên để quay lại những kiếp sống trong quá khứ với những quan sát và giảng giải chi tiết các đối tượng, quá trình và dữ kiện – mà cô không có kiến thức về chúng trong trạng thái tỉnh thức bình thường của mình; sự cải thiện các triệu chứng nhờ quá trình nhớ lại – những cải thiện mà thậm chí liệu pháp tâm lý trị liệu thông thường không đạt được chút nào sau 18 tháng trị liệu đầu tiên; những tiết lộ chính xác đến lạnh người trong trạng thái linh hồn sau khi chết, chuyển tải những tri thức mà cô không thể tiếp cận được; thi ca tâm linh và những bài học về những chiều kích không gian sau khi chết, về sự sống và sự chết, sinh và tái sinh, do tâm linh các Bậc thầy nói ra với sự thông thái và phong cách vượt xa khả năng của Catherine. Thực sự có rất nhiều điều phải suy ngẫm.
Qua nhiều năm, tôi đã trị liệu cho hàng trăm, có lẽ là hàng ngàn bệnh nhân tâm thần, họ đại diện cho toàn bộ tình trạng rối loạn cảm xúc. Tôi chỉ đạo những bộ phận điều trị bệnh nhân của bốn trường y khoa lớn. Tôi đã làm việc nhiều năm trong những phòng cấp cứu tâm thần, những bệnh viện cho bệnh nhân ngoại trú và rất nhiều tổ chức khác chuyên đánh giá và trị liệu bệnh nhân ngoại trú. Tôi biết mọi thứ về ảo giác âm thanh và hình ảnh hoang tưởng của chứng tâm thần phân liệt. Tôi đã trị liệu cho rất nhiều bệnh nhân mắc hội chứng hành động bản năng và rối loạn nhân cách phân ly, kể cả phân lập nhân cách hay đa nhân cách. Tôi từng là giáo viên hướng nghiệp của tổ chức về lạm dụng rượu và ma túy thuộc Viện Nghiên cứu Quốc gia về Lạm dụng Rượu và Ma túy (NIDA) và tôi cũng rất quen thuộc với sắc thái của những tác động do ma túy gây ra trên não.
Catherine không hề mắc phải triệu chứng hay hội chứng nào đã nêu. Những gì đã xảy ra không phải là biểu hiện của bệnh tâm thần. Cô ấy không bị tâm thần, không vượt ngoài khả năng xúc chạm với hiện thực và không bao giờ bị ảo giác (thấy hay nghe những thứ không thực) hay hoang tưởng (niềm tin sai lầm).
Cô ấy không dùng ma túy và cô ấy cũng không rối loạn nhân cách dạng chống đối xã hội. Cô không có nhân cách cuồng loạn và cũng không có xu hướng phân ly. Tóm lại, nói chung cô ấy biết những gì mình làm và mình nghĩ, không rơi vào tình trạng “lái tự động” và cũng chưa bao giờ có bất kỳ triệu chứng phân liệt hay đa nhân cách nào. Những gì cô ấy tạo ra thường vượt ngoài khả năng ý thức của cô cả về hình thức lẫn nội dung. Một số trong đó đặc biệt siêu linh như những gì liên quan đến các sự kiện và dữ kiện về quá khứ của tôi (ví dụ tri thức về cha tôi và con trai tôi) cũng như về quá khứ của cô ấy. Cô ấy có những tri thức mà bản thân chưa bao giờ được tiếp cận hay tích lũy trong kiếp sống hiện tại. Tri thức này cũng như toàn bộ trải nghiệm này hoàn toàn xa lạ với văn hóa và môi trường trưởng thành của cô ấy cũng như trái ngược với rất nhiều đức tin của cô.
Catherine là một người lương thiện và tương đối đơn giản. Cô không phải là một học giả và cũng không thể sáng chế ra các dữ kiện, chi tiết, các sự kiện lịch sử, những mô tả và thi ca đã được trình bày thông qua cô. Là một bác sỹ tâm lý, một nhà khoa học, tôi chắc chắn rằng những thứ này có nguồn gốc từ đâu đó trong vô thức của cô. Nó có thực và vượt ngoài mọi nghi ngờ. Thậm chí nếu Catherine là một diễn viên tài năng thì cũng không thể sáng tạo nên những gì đã xảy ra. Những tri thức đó quá sức đặc biệt và quá sức chính xác, vượt xa khả năng của cô.
Tôi cứ trăn trở về mục đích trị liệu của việc khám phá quá khứ của Catherine. Kể từ lúc chúng tôi tình cờ rơi vào thế giới mới này, sự thuyên giảm của cô ấy cực kỳ nhanh mà không cần bất kỳ thuốc men nào. Thế giới này có một số sức mạnh chữa trị và sức mạnh này rõ ràng là hiệu quả hơn nhiều so với các liệu pháp truyền thống của y tế hiện đại. Sức mạnh này bao gồm cả việc nhớ và sống lại không chỉ những sự kiện gây chấn thương quan trọng mà cả những tổn thương hàng ngày trên cơ thể, trí óc và bản ngã của chúng ta. Trong những câu hỏi của mình khi chúng tôi cùng duyệt qua những kiếp sống, tôi thường tìm kiếm kiểu mẫu của những tổn thương này, những kiểu mẫu dạng như cảm xúc lâu dài hay sự lạm dụng thực thể, nghèo khổ và chết đói, bệnh hoạn và khuyết tật, sự ngược đãi và thành kiến dai dẳng, thất bại liên miên và những thứ tương tự. Tôi cũng luôn để mắt tìm kiếm những bi kịch đau xót hơn như kinh nghiệm chết đau đớn, hiếp dâm, thảm họa tập thể hay bất kỳ sự kiện kinh hoàng nào khác có khả năng ghi khắc một dấu ấn vĩnh viễn. Kỹ thuật này cũng giống như xem xét lại tuổi thơ trong trị liệu truyền thống ngoại trừ một điều rằng trong khung thời gian là vài ngàn năm chứ không phải chỉ mươi mười lăm năm như lệ thường. Vì thế câu hỏi của tôi thường trực tiếp hơn và có tính dẫn dắt hơn trong trị liệu truyền thống. Thế nhưng thành công của cách khai thác phi chính thống này thì không có gì phải nghi ngờ. Cô ấy [và những người khác mà tôi trị liệu sau này bằng cách hồi tưởng nhờ thôi miên hồi quy] được chữa lành với tốc độ đáng kinh ngạc.
Nhưng liệu có cách giải thích nào khác cho trí nhớ về kiếp trước của Catherine không? Liệu trí nhớ này có được chứa trong gen của cô ấy không? Khả năng này thật xa vời về mặt khoa học. Trí nhớ di truyền đòi hỏi đường truyền dẫn không đứt gãy của vật liệu di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Catherine sống các kiếp trên trái đất và đường dẫn di truyền của cô ấy thường bị đứt đoạn. Cô chết trong một trận lụt cùng con của mình hoặc không có con hoặc chết khi còn trẻ. Vật liệu di truyền của cô kết thúc và không hề được truyền lại. Đã vậy tình trạng sống lại của cô sau khi chết và trạng thái tâm linh trung gian thì sao? Không có thân thể và chắc chắn không có vật liệu di truyền, thế nhưng trí nhớ của cô vẫn được giữ liên tục. Không, giải thích bằng di truyền đã bị loại bỏ.
Vậy ý tưởng của Jung về vô thức tập thể thì sao, liệu bằng cách nào đó khai thác được kho chứa toàn bộ ký ức và kinh nghiệm loài người này không? Những nền văn hóa đa dạng thường có những biểu tượng tương tự nhau, ngay cả trong những giấc mơ. Theo Jung, vô thức tập thể không phải là thu hoạch của cá nhân mà là sự “thừa hưởng” theo cách nào đó nhờ cấu trúc não. Nó bao gồm cả động lực và hình ảnh làm nảy sinh một sự bắt đầu hoàn toàn mới trong từng nền văn hóa mà không phụ thuộc và truyền thống hay phổ biến lịch sử. Tôi nghĩ ký ức của Catherine quá đặc biệt nên không thể giải thích theo quan niệm của Jung. Cô không cho thấy bất kỳ biểu tượng và hình ảnh hay động lực phổ quát nào. Cô ấy kết nối những mô tả chi tiết về con người và nơi chốn cụ thể. Trong khi đó quan niệm của Jung dường như quá mơ hồ. Hơn nữa, vẫn còn phải xét đến trạng thái trung gian. Xét mọi lẽ, sự đầu thai tỏ ra hợp lý nhất.
Tri thức của Catherine không chỉ chi tiết và cụ thể mà còn vượt ngoài khả năng ý thức của cô. Cô biết những điều không thể chỉ nhờ lượm lặt trong một cuốn sách rồi sau đó tạm thời quên đi. Tri thức của cô không thể thu thập lúc thơ ấu và bị đè nén, đẩy khỏi ý thức. Rồi còn những Bậc thầy và thông điệp của họ thì sao? Chúng phát ra từ Catherine nhưng không phải của Catherine. Sự thông thái của họ cũng thể hiện trong ký ức về các kiếp sống của Catherine. Tôi biết rằng thông tin này và những thông điệp là sự thật. Tôi biết điều này không chỉ nhờ nhiều năm nghiên cứu cẩn thận con người, suy nghĩ, não bộ và cá tính của họ mà tôi còn biết điều này bằng trực giác, thậm chí còn trước cả khi có cuộc gặp với cha tôi và con trai tôi. Bộ óc được huấn luyện cẩn trọng nhiều năm về khoa học của tôi biết điều đó và tận thâm tâm tôi cũng biết vậy.
“Tôi thấy những cái nồi chứa loại dầu gì đó.” Mặc dù nghỉ đến ba tuần nhưng Catherine nhanh chóng đi vào tình trạng xuất thần sâu. Cô đã ở trong một cơ thể khác, vào một thời gian khác. “Có những loại dầu khác nhau trong những cái nồi. Đó hình như là một loại nhà kho hay là một nơi mà họ tích trữ đồ vật. Những cái nồi màu đỏ… đỏ, làm bằng một loại đất đỏ nào đó. Chúng có một dải băng xanh dương bao quanh, những dải xanh dương bao quanh miệng. Tôi thấy những người đàn ông ở đó… có những người đàn ông trong hang. Họ di chuyển những cái hũ và nồi vòng quanh, chất chúng lên và đặt ở một số chỗ. Đầu họ cạo trọc… họ không có tóc trên đầu. Da họ màu nâu… da nâu.”
“Cô có ở đó không?”
“Có… Tôi đang niêm phong một số hũ… bằng loại sáp nào đó… niêm miệng hũ bằng sáp.”
“Cô có biết dầu đó dùng làm gì không?”
“Tôi không biết.”
“Cô có thấy chính mình không? Hãy nhìn vào chính cô. Cho tôi biết trông cô như thế nào.” Cô tạm nghỉ khi đang quan sát chính mình.
“Tôi có một bím tóc. Có một bím tóc trên tóc tôi. Tôi mặc một loại y phục dài… chất liệu dài. Nó có đường viền bằng vàng ở mặt ngoài.”
“Cô có làm việc cho những tu sĩ này – hay những người đàn ông đầu cạo trọc – không?”
“Công việc của tôi là niêm kín những chiếc hũ bằng sáp. Đó là công việc của tôi.”
“Nhưng cô không biết những chiếc hũ này dùng vào việc gì?”
“Chúng hình như được dùng cho một vài nghi lễ tôn giáo. Nhưng tôi không chắc… đó là việc gì. Có một vài nghi lễ xức dầu, xức lên đầu… xức lên đầu và tay, bàn tay. Tôi thấy một con chim, con chim bằng vàng, đeo quanh cổ tôi. Nó dẹt. Nó có đuôi dẹt, đuôi rất dẹt và đầu của nó chỉ xuống… chân tôi.”
“Chân cô ?”
“Đúng, đó là cách đeo bắt buộc. Có một… chất dính màu đen. Tôi không biết nó là thứ gì.”
“Nó ở đâu?”
“Nó ở trong đồ chứa bằng cẩm thạch. Họ cũng dùng thứ đó nhưng tôi không biết cho việc gì.”
“Có thứ gì trong hang mà cô đọc được để có thể cho tôi biết tên của đất nước đó không – địa điểm – chỗ cô sống hay ngày tháng?”
“Không có thứ gì trên những bức tường; chúng trống trơn. Tôi không biết tên.” Tôi hướng dẫn cô tiến nhanh về thời gian.
“Có một chiếc lọ trắng, một loại lọ trắng nào đó. Tay cầm trên miệng bằng vàng, một vài chi tiết mạ vàng trên đó.”
“Trong lọ có gì?”
“Một loại dầu xức nào đó. Nó được dùng để làm gì đó trong hành trình đi sang thế giới khác.”
“Có phải cô là người đang đi sang thế giới khác?”
“Không! Đó không phải là người mà tôi biết.”
“Đây cũng là việc của cô à? Chuẩn bị cho người đi sang thế giới khác ấy?”
“Không. Thầy tế phải làm việc đó, không phải tôi. Chúng tôi chỉ bảo đảm cho họ đủ dầu xức, trầm hương…”
”Hiện thời cô khoảng bao nhiêu tuổi?”
”16.”
“Cô có đang sống với bố mẹ không?”
“Có, ngôi nhà bằng đá, một nơi cư ngụ bằng đá. Nó không lớn lắm. Trời rất nóng và khô. Khí hậu rất nóng.
“Về nhà cô đi.”
“Tôi đang ở đó.”
“Cô có thấy những người khác trong gia đình mình quanh đó không?”
“Tôi thấy một người em trai và mẹ tôi cũng ở đó, có một đứa bé, con của ai đó.”
“Có phải con của cô không?”
“Không.”
“Hiện thời điều gì quan trọng? Hãy đi đến vài sự kiện có ý nghĩa có thể giải thích những triệu chứng của cô trong kiếp sống hiện tại. Chúng ta cần phải hiểu được. Việc này là an toàn. Tiến đến các sự kiện nào.”
Cô thì thầm trả lời rất khẽ. “Mọi thứ có thời điểm của nó… Tôi thấy người ta đang chết.”
“Người đang chết?”
“Đúng… họ không biết điều gì đang xảy ra.”
“Một loại bệnh à?” Thình lình tôi nhận ra rằng cô ấy lại trở về một kiếp sống cổ xưa mà cô từng nhớ lại trước đây. Trong kiếp sống đó, nạn dịch từ nước đã giết chết cha và một người em trai của Catherine. Cô cũng bị bệnh nhưng không chết vì nó. Mọi người đã dùng tỏi và những cây thuốc khác cố để phòng tránh cơn dịch. Catherine đã từng bực bội vì người chết không được ướp đúng cách.
Tuy nhiên, giờ đây chúng tôi tiếp cận kiếp sống đó từ một góc khác. “Có phải có gì đó liên quan đến nước phải không?” tôi hỏi.
“Họ tin vậy. Nhiều người đang hấp hối.” Tôi đã biết trước kết cục.
“Nhưng cô không chết, không phải lần này đúng không?”
“Không, tôi không chết.”
“Nhưng cô đã bị bệnh. Cô trở nên rất yếu.”
“Đúng, tôi rất lạnh… rất lạnh. Tôi cần nước… nước. Họ nghĩ rằng nó đến từ nước… và thứ gì đó màu đen…. Một số người đã chết.”
“Ai chết?”
“Cha tôi chết và một em trai của tôi cũng chết. Mẹ tôi không sao; bà ấy đã hồi phục. Bà rất yếu. Họ phải chôn cất những người chết. Họ phải chôn những người chết và mọi người đều bực bội vì điều đó đi ngược những tập tục tôn giáo.”
“Tập tục gì vậy?” tôi kinh ngạc về sự nhất quán trong việc nhớ lại của cô ấy, từng sự kiện một, chính xác như khi cô kể lại chi tiết của kiếp sống này cách đây vài tháng. Và một lần nữa sự sai lệch so với tập tục an táng thông thường làm cô rất bất bình.
“Mọi người được đặt trong hang. Thi thể được giữ trong hang. Nhưng trước tiên những thi thể này phải được các thầy tu chuẩn bị. Chúng phải được liệm và xức dầu. Chúng được giữ trong hang nhưng đất đang bị lụt… họ nói nước là xấu. Không được uống nước.”
“Có cách nào để xử lý nó không? Có cách nào hiệu quả không?”
“Chúng tôi được cho những cây thuốc, những cây thuốc khác nhau. Hương liệu… cây thuốc và… ngửi hương. Tôi có thể ngửi thấy nó!”
“Cô có nhận ra mùi đó không?”
“Nó màu trắng. Họ treo nó trên trần nhà.”
“Nó có giống tỏi không?”
“Nó được treo chung quanh… đặc tính giống nhau, đúng. Đặc tính của nó… đặt nó trong miệng, mắt, mũi, mọi chỗ. Mùi rất gắt. Người ta tin rằng nó sẽ chặn ma quỷ xâm nhập thân thể. Tím… một loại quả hay thứ gì đó hình tròn bao phủ bằng màu tím, màu tím bao bọc nó…”
“Cô có nhận ra nền văn hóa mà cô đang sống không? Nó có vẻ gì quen thuộc không?”
“Tôi không biết.”
“Màu tím là của trái cây hay thứ gì khác?”
“Tannis.”
“Thứ đó có giúp được cô không? Có phải nó dùng để trị bệnh?”
“Vào thời đó thì đúng vậy.”
“Tannis,” tôi nhắc lại, cố lần nữa xem thử có phải cô ấy đang nói đến chất tannin hay axit tannin. “Có phải họ gọi tên nó như vậy không? Tannis?”
“Tôi chỉ… Tôi vẫn nghe là ‘Tannis.’ ”
“Có điều gì trong kiếp sống đó vẫn chôn giấu trong kiếp sống hiện tại của cô? Tại sao cô cứ quay trở lại đó? Điều gì gây nên sự lo lắng như vậy?”
“Tôn giáo,” Catherine thì thầm nhanh, “tôn giáo của thời đó. Đó là tôn giáo của sợ hãi… sợ hãi. Có quá nhiều thứ đáng sợ… và có quá nhiều thần.”
“Cô có nhớ tên của bất kỳ vị thần nào không?”
“Tôi thấy những đôi mắt. Tôi thấy một màu đen… một thứ gì đó… Nó trông như một con chó rừng. Ông ấy ở trong dạng một bức tượng. Ông ấy là một loại thần hộ mệnh… tôi thấy một phụ nữ, một nữ thần, đội một loại nón sắt nào đó.”
“Cô biết tên bà ấy không, vị nữ thần?”
“Osiris… Sirus… đại loại giống vậy. Tôi thấy một con mắt… mắt, chỉ một mắt, một con mắt trên một sợi dây chuyền. Nó bằng vàng.”
“Một mắt?”
“Đúng… Ai là Hathor?”
“Gì?”
“Hathor! Đó là ai!”
Tôi chưa từng nghe đến Hathor, dù tôi biết rằng Osiris, nếu phát âm chính xác, là chồng và là anh trai của Isis, một vị thần quan trọng của Ai Cập. Sau này tôi mới biết Hathor là nữ thần của Ai Cập cai quản tình yêu, sự vui vẻ và hân hoan. “Đó có phải là một trong các vị thần không?” tôi hỏi.
“Hathor! Hathor.” Rồi một khoảng lặng dài. “Chim… ông ấy dẹt… dẹt, một con phượng hoàng…” Cô ấy lại im lặng.
“Hãy tiến nhanh về thời gian đến ngày cuối cùng của cô ở kiếp sống ấy. Đến ngày cuối cùng của cô nhưng ở thời điểm trước khi chết. Nói cho tôi biết cô nhìn thấy gì.”
Cô trả lời bằng giọng thì thầm rất nhẹ. “Tôi thấy người và những tòa nhà. Tôi thấy những đôi dép có quai hậu, những đôi dép. Có một tấm áo thầy tu bằng vải thô, một tấm áo bằng vải thô.”
“Xảy ra chuyện gì? Hãy tiến đến thời điểm cô đang hấp hối. Chuyện gì xảy đến với cô? Cô thấy điều gì?”
“Tôi không thấy nó… Tôi không thấy chút gì về mình.”
“Cô đang ở đâu? Cô thấy gì?”
“Không có gì… chỉ có bóng tối… tôi thấy ánh sáng, nguồn sáng ấm áp.” Cô đã chết rồi, đã chuyển sang trạng thái linh hồn. Rõ ràng là cô không cần phải trải qua cái chết thực sự thêm lần nào nữa.
“Cô có thể đến với nguồn sáng được không?” tôi hỏi.
“Tôi đang đi.” Cô đang nghỉ ngơi an lành, lại chờ đợi.
“Giờ đây cô có thấy ra những bài học của kiếp sống đó không? Cô biết những bài học đó chưa?”
“Chưa,” cô thì thầm. Cô tiếp tục chờ. Thình lình cô tỏ ra chú tâm mặc dù mắt vẫn nhắm như vẫn thường thế khi ở trạng thái xuất thần do thôi miên. Đầu cô quay từ bên này qua bên kia.
“Hiện thời cô đang thấy gì? Chuyện gì đang xảy ra?”
Giọng cô lớn hơn. “Tôi cảm thấy… ai đó đang nói với tôi!“
“Họ nói điều gì?”
“Đang nói về sự kiên nhẫn. Con người phải có sự kiên nhẫn…”
“Vâng, hãy tiếp tục.”
Câu trả lời đến từ Bậc thầy thi ca. “Kiên nhẫn và chờ đúng thời điểm… mọi thứ đến khi nó phải đến. Một kiếp sống không thể gấp gáp, không thể diễn ra theo lịch trình mà rất nhiều người muốn nó phải diễn ra. Chúng ta phải chấp nhận những gì đến vói chúng ta ở một thời điểm nào đó và không thể đòi hỏi nhiều hơn thế. Nhưng kiếp sống là bất tận, vì thế chúng ta không bao giờ chết; chúng ta cũng không bao giờ thực sự được sinh ra. Chúng ta chỉ trải qua những giai đoạn khác nhau. Không có kết thúc. Con người có nhiều chiều kích. Nhưng thời gian không phải như chúng ta vẫn thường thấy về thời gian mà chính là ở những bài học mà chúng ta học được.”
Một khoảng lặng kéo dài. Vị thầy thi ca tiếp tục.
“Mọi chuyện sẽ rõ ràng với ông khi đến đúng thời điểm. Nhưng ông phải có cơ hội để hiểu hết tri thức mà ta đã trao cho ông.” Catherine im lặng.
“Có thứ gì tôi nên học thêm không?” tôi hỏi.
“Họ đi rồi,” cô nhẹ thì thầm. “Tôi không nghe thấy bất kỳ ai nữa.”