Một vài đêm sau tôi đột ngột tỉnh dậy khi đang ngủ say. Điều cảnh báo tức thời là tôi thấy khuôn mặt của Catherine, lớn hơn kích thước thật nhiều lần. Cô có vẻ hoang mang như thể cần tôi giúp. Tôi nhìn đồng hồ; lúc đó là 3:36 sáng. Không hề có bất kỳ tiếng động nào bên ngoài để đánh thức tôi. Carole đang ngủ bình yên cạnh tôi. Tôi bỏ qua điều bất thường này và rơi vào giấc ngủ trở lại.
Lúc khoảng 3:30 sáng hôm đó, Catherine cũng đã tỉnh giấc vì nỗi sợ từ một cơn ác mộng. Cô toát mồ hôi và tim đập dồn dập. Cô quyết định tìm cách tĩnh tâm, hình dung cảnh thôi miên của tôi trong văn phòng. Cô hình dung khuôn mặt tôi, nghe giọng tôi và dần rơi vào giấc ngủ trở lại.
Catherine ngày càng mạnh về tâm linh và rõ ràng tôi cũng vậy. Tôi dường như nghe lại lời giảng của giáo sư tâm thần học của mình về phản ứng chuyển đổi và phản chuyển đổi trong những mối quan hệ trị liệu. Chuyển đổi là sự phóng chiếu những cảm giác, ý nghĩ, ước mơ của bệnh nhân lên bác sỹ trị liệu, có vai trò của một người nào đó trong quá khứ của bệnh nhân.
Phản chuyển đổi thì ngược lại, những phản ứng cảm xúc vô thức của bác sỹ trị liệu phóng chiếu lên bệnh nhân. Nhưng bây giờ là 3:30 sáng và cũng không có sự trao đổi nào. Đây là một mối thần giao cách cảm trên một bước sóng ngoài những kênh truyền thông thường. Phải chăng sự thôi miên đã góp phần mở ra kênh truyền này. Hay đó là do những khán thính giả, một nhóm đa dạng những Bậc thầy tâm linh, thần hộ mệnh và những người khác trong thế giới đó đã tạo nên bước sóng mới này? Cảm giác của tôi còn hơn cả sự ngạc nghiên.
Trong phiên trị liệu tiếp theo, Catherine nhanh chóng đạt đến trạng thái xuất thần sâu. Cô ngay lập tức rơi vào tình trạng khẩn cấp. “Tôi thấy một đám mây lớn.. – nó đe dọa tôi. Nó ở đó.” Cô thở gấp.
“Nó còn ở đó không?”
“Tôi không biết. Nó xuất hiện và di chuyển rất nhanh… thứ gì đó ở trên ngọn núi.” Cô vẫn ở trong tình trạng báo động, tiếp tục thở nặng nề. Tôi sợ rằng cô ấy đang nhìn thấy một quả bom. Liệu cô ấy có thể nhìn thấy tương lai?
“Cô có thấy ngọn núi không? Nó có giống một quả bom không?”
“Tôi không biết.”
“Tại sao nó làm cô sợ?”
“Nó rất bất ngờ. Nó ở ngay đó. Nó rất nhiều khói… rất nhiều khói. Nó lớn. Nó ở xa. Ồ….”
“Cô an toàn mà. Cô có thể tiến gần nó không?”
“Tôi không muốn tới gần hơn!” cô gay gắt trả lời. Hiếm khi thấy cô ấy phản đối mạnh mẽ như vậy.
“Sao cô lại quá sợ hãi như vậy?” tôi hỏi lại.
“Tôi nghĩ nó là một loại hóa chất hay thứ gì đó. Rất khó thở khi lại gần nó.” Cô đang thở khó nhọc.
“Nó có giống một loại khí không? Có phải nó xuất phát từ trong chính ngọn núi… như núi lửa?”
“Tôi nghĩ thế. Nó giống một cây nấm lớn. Trông như một… cây nấm trắng.”
“Nhưng không phải là một quả bom? Nó không phải là bom nguyên tử hay thứ gì tương tự phải không?” cô tạm nghỉ và lại tiếp tục.
“Nó là một núi… một loại núi lửa hay thứ gì đó, tôi nghĩ. Nó rất đáng sợ. Thật khó thở. Có bụi trong không khí. Tôi không muốn ở đó.” Từ từ hơi thở của cô trở lại bình thường, sâu và đều đặn của trạng thái thôi miên. Cô đã rời khỏi khung cảnh đáng sợ đó.
“Hiện giờ đã dễ thở hơn rồi phải không?”
“Vâng.”
“Tốt. Hiện cô đang thấy gì?”
“Không có gì… tôi thấy một vòng chuỗi, vòng chuỗi trên cổ người nào đó. Nó màu xanh dương… nó bằng bạc và có một viên đá xanh dương gắn vào đó và những viên đá nhỏ hơn bên dưới.”
“Có thứ gì trên viên đá xanh dương không?”
“Không, nó trong suốt. Ông có thể nhìn xuyên qua nó. Thiếu phụ có mái tóc đen và một chiếc mũ xanh dương… có một chiếc lông vũ lớn và y phục bằng nhung.”
“Cô có biết người thiếu phụ đó không?”
“Không.”
“Cô có ở đó không hay cô chính là người thiếu phụ đó?”
“Tôi không biết.”
“Nhưng cô có thấy bà ấy không?”
“Vâng. Tôi không phải là người thiếu phụ.”
“Bà ấy bao nhiêu tuổi?”
“Trong độ tuổi 40. Nhưng bà ấy trong già hơn tuổi thực.”
“Bà ấy có làm gì không?”
“Không, bà ấy chỉ đứng cạnh cái bàn. Có một chai nước hoa trên bàn. Nó màu trắng và có những đóa hoa xanh dương trên đó. Có một cái bàn chải và chiếc lược có cán bằng bạc.” Tôi rất ấn tượng với đôi mắt quan sát chi tiết của cô ấy.
“Đó là phòng của bà ấy hay trong một cửa hiệu?”
“Đó là phòng của bà ấy. Có một chiếc giường trong đó… với bốn cột chống. Đó là chiếc giường nâu. Có một chiếc bình có quai trên bàn.”
“Một chiếc bình có quai?”
“Vâng, không có bất kỳ bức tranh nào trong phòng. Có những bức màn che tối thẫm, lạ lùng.”
“Có ai khác ở gần đó không?”
“Không.”
“Thiếu phụ này có mối quan hệ với cô như thế nào?”
“Tôi phục vụ bà ấy.” Một lần nữa cô lại là tì nữ.
“Cô ở với bà ấy có lâu không?”
“Không… chỉ vài tháng.”
“Cô có thích chiếc vòng cổ đó không?”
“Có. Bà ấy rất duyên dáng.”
“Cô đã từng đeo chiếc vòng cổ này chưa?”
“Không,” những câu trả lời ngắn của cô đòi hỏi tôi phải dẫn dắt câu chuyện một cách tích cực để có được những thông tin cơ bản. Cô ấy làm tôi nhớ đến đứa con trai bé bỏng của mình.
“Hiện giờ cô mấy tuổi?”
“Chừng khoảng 13, 14…” Cũng cùng độ tuổi.
“Tại sao cô rời bỏ gia đình mình?” Tôi hỏi.
“Tôi không rời bỏ họ,” cô chỉnh tôi. “Tôi chỉ làm việc ở đó.”
“Tôi hiểu. Sau đó, cô có về nhà với gia đình mình không?”
“Có.” Những câu trả lời của cô gần như không giải thích gì thêm.
“Họ sống gần đó không?”
“Cũng khá gần… chúng tôi rất nghèo. Chúng tôi cần phải làm việc… phải phục vụ.”
“Cô biết tên của người thiếu phụ không?”
“Belinda.”
“Bà ấy đối xử với cô tốt chứ?”
“Vâng.”
“Tốt. Cô làm việc vất vả không?”
“Cũng không mệt lắm.” Phỏng vấn trẻ con chẳng bao giờ dễ cả, ngay cả trong những kiếp quá khứ. May mà tôi đã được huấn luyện chuyên nghiệp.
“Tốt. Cô vẫn đang thấy bà ấy chứ hả?”
“Không.”
“Hiện cô đang ở đâu?”
“Trong một phòng khác. Có một cái bàn trải khăn đen… Và đường viền trang trí ở mép. Trong phòng có mùi của rất nhiều cây thuốc… nước hoa nồng nặc.”
“Có phải tất cả những thứ này là của bà chủ cô không? Có phải bà ấy dùng rất nhiều nước hoa?”
“Không, đây là phòng khác. Tôi ở trong một phòng khác.”
“Phòng này của ai vậy?”
“Nó thuộc về quý bà bóng tối.”
“Bóng tối ư? Cô có thấy bà ấy chưa?”
“Bà ấy có rất nhiều thứ trùm trên đầu,” Catherine thì thầm, “nhiều khăn choàng. Bà ấy già và nhăn nheo.”
“Cô quan hệ như thế nào với bà ấy?”
“Tôi chỉ vừa mới đi gặp bà.”
“Để làm gì?”
“Vì bà ấy có thể làm với những lá bài.” Trực giác tôi biết rằng cô đến gặp thầy bói, người có thể bói bài tây. Đây là điều oái oăm trêu ngươi. Ở đây tôi và Catherine cùng nhau thực hiện một cuộc phiêu lưu tâm linh khó tin, trải rộng trên nhiều kiếp sống và những chiều kích không gian xa hơn, thế mà khoảng hai trăm năm trước, cô ấy đã tìm đến một bà đồng để tìm hiểu tương lai của mình. Tôi biết rằng Catherine không bao giờ tìm đến bà đồng trong đời hiện tại và cô cũng chẳng biết tí gì về bói bài tây hay tiên đoán vận mệnh; những chuyện này làm cô sợ hãi.
“Bà ấy có đoán được vận mệnh không?” tôi hỏi.
“Bà ấy thấy vài chuyện.”
“Cô có hỏi gì bà ấy không? Cô muốn xem điều gì? Cô muốn biết điều gì?”
“Về một người đàn ông nào đó… mà tôi có thể kết hôn.”
“Bà ấy nói gì khi bói những lá bài?”
“Lá bài có… một số cái cột. Cột và hoa… những cái cột, ngọn giáo hay một loại đường ống nào đó. Một lá bài khác có cốc rượu lễ trên đó, một cái cốc… Tôi thấy một lá bài có người đàn ông hay cậu bé mang một tấm khiên. Bà ấy bảo là tôi sẽ kết hôn nhưng tôi không kết hôn với người đàn ông này. Tôi không thấy gì khác.”
“Cô có thấy bà ấy không?”
“Tôi thấy vài đồng tiền.”
“Cô vẫn đang ở chỗ bà ấy hay là một nơi khác?”
“Tôi ở chỗ bà ấy.”
“Những đồng tiền trông như thế nào?”
“Chúng bằng vàng. Các mép không trơn láng. Chúng hình vuông. Một mặt có hình vương miện.”
“Xem thử có năm được khắc trên đồng tiền không. Thứ gì đó mà cô có thể đọc… dạng chữ viết.”
“Một vài con số kiểu nước ngoài,” cô trả lời. “Những X và I.”
“Cô có biết đó là năm nào không?”
“1700… mấy đó. Tôi không biết là lúc nào.” Cô lại im lặng.
“Tại sao bà chiêm tinh này lại quan trọng với cô vậy?”
“Tôi không biết….”
“Tiên đoán của bà ấy có đúng không?”
“… Nhưng bà ấy đi mất rồi,” Catherine thì thầm. “Đã mất rồi. Tôi không biết.”
“Hiện giờ cô thấy gì không?”
“Không.”
“Không à?” Tôi ngạc nghiên. Vậy cô ấy đang ở đâu? “Cô có biết tên mình trong kiếp sống này không?” Tôi hỏi, hy vọng tìm được đầu mối của kiếp sống cách đây vài trăm năm.
“Tôi đã rời khỏi đó.” Cô đã rời kiếp sống đó và đang nghỉ ngơi. Giờ đây cô có thể tự mình làm điều đó. Sở dĩ như thế vì trải nghiệm cái chết không còn cần thiết với cô nữa. Chúng tôi chờ trong vài phút. Kiếp sống này không có gì đặc biệt. Cô chỉ nhớ lại vài sự việc nổi bật và sự quan tâm đến lần đi gặp chiêm tinh gia.
“Hiện giờ cô thấy gì không?” Tôi lại hỏi.
“Không,” cô thì thầm.
“Cô đang nghỉ ngơi à?”
“Vâng… những viên ngọc có màu sắc khác nhau…”
“Ngọc?”
“Vâng. Thật ra chúng là ánh sáng nhưng chúng trông giống những viên ngọc….”
“Còn gì khác không?” Tôi hỏi.
“Tôi chỉ…” cô tạm ngưng và rồi tiếng thì thầm của cô lớn và chắc chắn. “Có nhiều lời và ý nghĩ đang bay quanh đây… Đó là về sự cùng tồn tại và hài hòa… sự cân bằng của vạn vật.” Tôi biết những Bậc thầy đang ở gần đó.
“Vâng,” tôi giục cô. Tôi muốn biết về những điều này. Cô có thể nói cho tôi không?”
“Ngay lúc này chúng chỉ là những từ ngữ,” cô trả lời.
“Cùng tồn tại và hài hòa,” tôi nhắc cô. Khi cô trả lời, đó chính là giọng của Bậc thầy thi ca. Tôi hân hoan khi lại được nghe giọng người.
“Đúng,” người trả lời. “Vạn vật phải được cân bằng. Thiên nhiên là cân bằng. Những con thú sống trong hài hòa. Con người không học để làm được vậy. Họ tiếp tục tự hủy hoại chính mình. Không có sự hài hòa, không có sự hoạch định trong những gì họ làm. Thật là khác xa thiên nhiên. Thiên nhiên cân bằng. Thiên nhiên là năng lực và sức sống… và hồi phục. Còn con người chỉ hủy hoại. Họ hủy hoại thiên nhiên. Họ hủy hoại người khác. Cuối cùng họ sẽ hủy hoại chính mình.”
Đây là một tiên đoán tệ hại. Dù thế giới này thường xuyên hỗn độn và rối loạn tôi vẫn hy vọng điều này sẽ không đến quá nhanh. “Khi nào điều này sẽ xảy ra?” Tôi hỏi.
“Nó sẽ xảy ra nhanh hơn là con người nghĩ. Thiên nhiên sẽ sống còn. Cây cỏ sẽ sống còn. Chúng ta thì không.”
“Liệu chúng ta có thể làm được gì để ngăn chặn sự hủy hoại đó?”
“Không. Vạn vật phải được cân bằng…”
“Liệu sự hủy hoại này có xảy ra trong kiếp sống của chúng ta không? Chúng ta có thể ngăn chặn không?”
“Nó sẽ không xảy ra trong kiếp sống của chúng ta. Chúng ta sẽ ở một tầm mức khác, một chiều không gian khác khi điều đó xảy ra nhưng chúng ta sẽ chứng kiến được.”
“Không có cách nào để dạy cho con người sao?” Tôi cố tìm kiếm một lối thoát, những khả năng có thể giảm thiểu.
“Nó sẽ được thực hiện ở một cấp độ khác. Chúng ta sẽ học từ đó.”
Tôi nhìn vào khía cạnh lạc quan. “À, nghĩa là linh hồn chúng ta tiến bộ ở một không gian khác.”
“Đúng. Chúng ta sẽ không còn tiếp tục ở… đây, khi chúng ta biết điều đó. Chúng ta sẽ thấy điều đó.”
“Vâng,” tôi thừa nhận. “Tôi mong muốn dạy cho những người này nhưng tôi không biết có cách nào để tiếp cận họ. Có cách nào không hay họ phải học lấy điều này cho chính mình?”
“Ông không thể tiếp cận tất cả mọi người. Để chấm dứt sự hủy hoại ông phải tiếp cận được mọi người nhưng ông không thể. Không thể chấm dứt được điều đó. Họ sẽ học được. Khi họ tiến bộ họ sẽ học. Sẽ có bình an nhưng không phải ở đây, không phải ở đây trong chiều kích không gian này.”
“Cuối cùng sẽ có sự bình an à?”
“Đúng, trên một cấp độ khác.”
“Dù vậy điều đó dường như rất xa vời,” tôi phàn nàn. “Con người hiện thời có vẻ hết sức nhỏ nhen… bủn xỉn, khao khát quyền lực, tham vọng. Họ quên mất tình yêu, sự hiểu biết và tri thức. Có rất nhiều điều cần phải học.”
“Vâng.”
“Tôi có thể viết thứ gì đó để giúp những người này không? Có cách nào không?”
“Ông biết cách. Chúng tôi không cần phải bảo cho ông. Tất cả rồi sẽ vô ích, tất cả chúng ta sẽ đạt đến một cấp độ và họ sẽ hiểu. Tất cả chúng ta như nhau. Không ai vĩ đại hơn ai. Sau cùng thì đây là những bài học. Và sự trừng phạt.”
“Vâng,” tôi đồng ý. Đây là một bài học sâu xa và tôi cần có thời gian để thấu hiểu. Catherine trở nên yên lặng. Chúng tôi chờ, cô ấy đang nghỉ còn tôi thì ưu tư đắm chìm trong những tuyên bố đáng kinh ngạc một giờ trước. Cuối cùng, cô ấy cũng phá vỡ sự im lặng.
“Những viên ngọc đã đi rồi,” cô thì thầm. “Những viên ngọc đã đi rồi. Ánh sáng… họ đã đi rồi.”
“Các giọng nói cũng đi ư? Những từ ngữ thì sao?”
“Đúng vậy. Tôi không thấy gì nữa.” Khi cô tạm ngưng, đầu cô quay từ bên này sang bên kia. “Một linh hồn… đang nhìn.”
“Nhìn cô ư?”
“Vâng.”
“Cô có nhận ra linh hồn đó không?”
“Tôi không chắc lắm… tôi nghĩ có thể là Edward.” Edward đã mất trong năm trước. Edward thực sự có mặt khắp nơi. Ông ấy dường như luôn ở quanh cô.
“Linh hồn đó trông như thế nào?”
“Chỉ là một… màu trắng … như ánh sáng. Ông ấy không có khuôn mặt, không giống như chúng ta từng biết nhưng tôi biết đó là ông ấy.”
“Ông ấy có giao tiếp điều gì với cô không?”
“Không, ông ấy chỉ quan sát.”
“Ông ấy có lắng nghe những gì tôi nói không?”
“Có,” cô thì thầm. “Nhưng giờ thì ông ấy đi rồi. Ông ấy chỉ muốn chắc chắn rằng tôi ổn.” Tôi nghĩ về những thần thoại phổ biến về thần hộ mệnh. Chắc chắn Edward, trong vai linh hồn đáng yêu, bay lơ lửng quan sát cô ấy để chắc chắn mọi thứ đều ổn, cũng gần giống như nhiệm vụ của một thiên thần. Và Catherine cũng đã từng nói về những linh hồn hộ mệnh. Tôi tự hỏi không biết bao nhiêu chuyện “thần thoại” trẻ thơ của chúng ta thực ra có nguồn gốc là sự hồi tưởng mơ màng quá khứ.
Tôi cũng tự hỏi về hệ thống phân cấp của các linh hồn, ai sẽ trở thành thần hộ mệnh và ai là Bậc thầy, rồi những ai sẽ không thuộc hai vai đó mà chỉ có nhiệm vụ học hỏi. Chắc phải có một sự tiến triển dần về tri thức và sự thông thái, mà mục đích cuối cùng là trở nên giống như Thượng đế và tiến đến, có lẽ là hợp nhất phần nào với Thượng đế. Đây là mục đích mà những nhà thần học huyền bí đã mô tả trong những dạng hỷ lạc từ nhiều thế kỷ qua. Họ từng có ý niệm lờ mờ về sự hợp nhất thiêng liêng đó. Chưa có được trải nghiệm cá nhân như vậy, những người truyền thông điệp như Catherine, với tài năng phi thường đã mang lại góc nhìn tốt đẹp nhất.
Edward đã đi rồi còn Catherine lại lặng im. Khuôn mặt cô an lành và cô chìm trong sự tĩnh lặng. Cô đã có được tài năng phi thường biết bao – khả năng nhìn vượt ngoài sự sống và vượt ngoài sự chết, để trò chuyện với “các vị thần” và chia sẻ sự thông thái của họ. Chúng tôi đang ăn từ Cây Tri thức(1), không còn bị cấm đoán nữa. Tôi tự hỏi không biết còn lại được bao nhiêu quả táo.
Mẹ của Carole là Minette đang chết dần vì ung thư đã di căn từ ngực đến xương và gan. Quá trình này đã tiến triển trong bốn năm và hiện thời không thể khống chế tốc độ bằng hóa trị. Bà là một phụ nữ dũng cảm, chịu đựng nỗi đau và sự yếu ớt một cách kiên cường. Nhưng căn bệnh này gia tăng phát triển và tôi biết rằng cái chết của bà đang đến gần.
Những phiên trị liệu của Catherine cũng diễn ra trong thời gian đó và khi tôi chia sẻ những trải nghiệm và thông tin này với bà, tôi đã hơi ngạc nghiên khi bà ấy, vốn là một nữ doanh nhân thực dụng, đã nhanh chóng chấp nhận tri thức này và muốn học hỏi hơn nữa – tôi đưa cho bà sách và bà đã ngấu nghiến đọc. Bà đã sắp xếp và tham dự khóa học cùng tôi và Carole về bí thuật Kabbalah, tài liệu huyền nhiệm của Do Thái giáo có từ nhiều thế kỷ trước. Tái sinh và những chiều kích trung gian là những nguyên lý cơ bản của kinh văn Kabbalah, tuy nhiên hầu hết những người Do Thái hiện đại không biết về điều này. Tinh thần của bà càng mạnh mẽ khi cơ thể của bà càng suy kiệt. Nỗi sợ cái chết của bà biến mất. Bà bắt đầu hy vọng về ngày tái hợp với người chồng yêu thương của mình, Ben. Bà tin vào sự bất tử của linh hồn và điều này giúp bà chống chọi với cơn đau. Bà đang cố sống, chờ đến ngày sinh của một đứa cháu khác, đó là đứa con đầu lòng của Donna, con gái bà. Bà gặp Catherine tại bệnh viện trong một phiên trị liệu của cô và quan điểm, lời nói của họ hết sức hòa hợp và thấu hiểu. Sự chân thành và thật lòng của Catherine giúp thuyết phục Minette tin rằng sự tồn tại của kiếp sau là có thật.
Một tuần trước khi chết, Minette được chấp thuận vào khu ung thư của bệnh viện. Carole và tôi có thể dành thời gian cho bà, nói về sự sống và sự chết, điều gì đang chờ đợi chúng ta sau khi chết. Là một quý bà với phẩm hạnh cao quý, bà quyết định chết trong bệnh viện để nhờ vào sự chăm sóc của y tá. Donna, chồng cô ấy và con gái sáu tuần tuổi của họ đã đến và dành thời gian cho bà ấy cũng như nói lời tạm biệt. Chúng tôi gần như ở suốt bên bà. Khoảng sáu giờ vào buổi chiều, ngày mà bà Minette mất, Carole và tôi chỉ vừa về đến nhà từ bệnh viện thì cả hai đều nóng lòng quay lại. Trong sáu hay bảy giờ tiếp theo là khoảng thời gian tràn đầy tĩnh lặng và năng lượng tâm linh huyền nhiệm. Dù hơi thở nặng nhọc, bà Minette không đau đớn nhiều. Chúng tôi nói về sự chuyển đổi của bà ấy sang trạng thái trung gian, ánh sáng rực rỡ và sự hiện diện của các linh hồn. Bà nhớ lại đời mình, hầu như trong lặng thinh và đấu tranh để chấp nhận những phần đời tiêu cực. Dường như bà biết rằng mình chưa thể ra đi nếu quá trình này chưa hoàn tất. Bà chờ thời điểm rất đặc biệt để ra đi, vào sáng sớm. Bà cũng bị mất kiên nhẫn dần vì chờ thời điểm này. Bà Minette là người đầu tiên mà tôi đã hướng dẫn để đến và đi qua cái chết theo cách này. Bà ấy rất mạnh mẽ và nỗi đau buồn của chúng tôi cũng vơi nhẹ phần nào nhờ toàn bộ trải nghiệm này.
Tôi phát hiện rằng khả năng chữa lành cho bệnh nhân của tôi đã được mở rộng đáng kể, không chỉ với nỗi sợ và lo lắng mà đặc biệt còn chữa cho sự chết và hấp hối, đau buồn và tư vấn cho bệnh nhân. Bằng trực giác tôi biết điều gì sai sót và hướng khắc phục trong trị liệu. Tôi có khả năng chuyển tải những cảm giác an bình, thanh thản và hy vọng. Sau cái chết của bà Minette, nhiều người khác đang hấp hối hay những người đang sống sau cái chết của người thân đã tìm đến tôi để được giúp đỡ. Nhiều người còn chưa biết về Catherine hay những kinh văn về sự sống sau cái chết. Nhưng ngay cả khi chưa nhận được tri thức đặc biệt đó, tôi cảm thấy mình vẫn có thể truyền trao thông điệp. Âm sắc giọng nói, hiểu biết sâu sắc quá trình mà những người này đang trải qua, nỗi sợ và cảm giác của họ, một cái nhìn, sự xúc chạm, một lời nói – tất cả đều có thể ở một mức độ nào đó chạm đến sợi dây hy vọng, tâm linh đã lãng quên, tính nhân bản chung hay thậm chí còn hơn thế. Và với những người có thể tiếp nhận nhiều hơn, gợi ý những cuốn sách nên đọc và chia sẻ kinh nghiệm của tôi với Catherine và những người khác cũng giống như mở một cánh cửa sổ ra vùng trời tươi mới. Những người đã sẵn sàng sẽ phục hồi. Họ có được khả năng thấu hiểu thậm chí còn nhanh hơn.
Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng các nhà tâm lý trị liệu phải có đầu óc rộng mở. Không chỉ cần phải có thêm nhiều công trình khoa học viết về những kinh nghiệm chết và hấp hối như của Catherine mà những công trình về những trải nghiệm trong lĩnh vực này cũng cần phải nhiều hơn. Những nhà tâm lý trị liệu phải xem xét khả năng tồn tại của sự sống sau khi chết và kết hợp điều đó vào quá trình trị liệu của mình. Họ không chỉ phải dùng biện pháp thôi miên hồi quy mà còn phải giữ đầu óc rộng mở, chia sẻ tri thức với bệnh nhân của mình và không được xem nhẹ những kinh nghiệm của bệnh nhân.
Hiện thời con người đang bị hủy hoại vì sợ hãi cái chết của mình. Dịch AIDS, hiểm họa hạt nhân, chủ nghĩa khủng bố, bệnh tật và những hiểm họa thiên nhiên khác đang lơ lửng trên đầu chúng ta, tra tấn chúng ta mỗi ngày. Nhiều thiếu niên tin rằng chúng sẽ không sống đến tuổi 20 của mình. Đây là điều khó tin, phản ánh những khủng hoảng trầm trọng trong xã hội chúng ta. Về phương diện cá nhân, phản ứng của bà Minette với thông điệp của Catherine rất đáng khích lệ. Tinh thần của bà ấy mạnh lên và bà cảm thấy hy vọng dù phải đối mặt với những đau đớn vật lý và tình trạng suy kiệt cơ thể. Những thông điệp này là dành cho tất cả chúng ta chứ không chỉ cho người đang hấp hối. Vẫn còn hy vọng cho chúng ta. Chúng ta cần có nhiều hơn nữa những nhà khoa học và lâm sàng để báo cáo về những Catherine khác, để khẳng định và mở rộng thông điệp của cô ấy. Câu trả lời ở đó. Tất cả chúng ta bất tử. Chúng ta sẽ luôn bên nhau.
Một vài đêm sau tôi đột ngột tỉnh dậy khi đang ngủ say. Điều cảnh báo tức thời là tôi thấy khuôn mặt của Catherine, lớn hơn kích thước thật nhiều lần. Cô có vẻ hoang mang như thể cần tôi giúp. Tôi nhìn đồng hồ; lúc đó là 3:36 sáng. Không hề có bất kỳ tiếng động nào bên ngoài để đánh thức tôi. Carole đang ngủ bình yên cạnh tôi. Tôi bỏ qua điều bất thường này và rơi vào giấc ngủ trở lại.
Lúc khoảng 3:30 sáng hôm đó, Catherine cũng đã tỉnh giấc vì nỗi sợ từ một cơn ác mộng. Cô toát mồ hôi và tim đập dồn dập. Cô quyết định tìm cách tĩnh tâm, hình dung cảnh thôi miên của tôi trong văn phòng. Cô hình dung khuôn mặt tôi, nghe giọng tôi và dần rơi vào giấc ngủ trở lại.
Catherine ngày càng mạnh về tâm linh và rõ ràng tôi cũng vậy. Tôi dường như nghe lại lời giảng của giáo sư tâm thần học của mình về phản ứng chuyển đổi và phản chuyển đổi trong những mối quan hệ trị liệu. Chuyển đổi là sự phóng chiếu những cảm giác, ý nghĩ, ước mơ của bệnh nhân lên bác sỹ trị liệu, có vai trò của một người nào đó trong quá khứ của bệnh nhân.
Phản chuyển đổi thì ngược lại, những phản ứng cảm xúc vô thức của bác sỹ trị liệu phóng chiếu lên bệnh nhân. Nhưng bây giờ là 3:30 sáng và cũng không có sự trao đổi nào. Đây là một mối thần giao cách cảm trên một bước sóng ngoài những kênh truyền thông thường. Phải chăng sự thôi miên đã góp phần mở ra kênh truyền này. Hay đó là do những khán thính giả, một nhóm đa dạng những Bậc thầy tâm linh, thần hộ mệnh và những người khác trong thế giới đó đã tạo nên bước sóng mới này? Cảm giác của tôi còn hơn cả sự ngạc nghiên.
Trong phiên trị liệu tiếp theo, Catherine nhanh chóng đạt đến trạng thái xuất thần sâu. Cô ngay lập tức rơi vào tình trạng khẩn cấp. “Tôi thấy một đám mây lớn.. – nó đe dọa tôi. Nó ở đó.” Cô thở gấp.
“Nó còn ở đó không?”
“Tôi không biết. Nó xuất hiện và di chuyển rất nhanh… thứ gì đó ở trên ngọn núi.” Cô vẫn ở trong tình trạng báo động, tiếp tục thở nặng nề. Tôi sợ rằng cô ấy đang nhìn thấy một quả bom. Liệu cô ấy có thể nhìn thấy tương lai?
“Cô có thấy ngọn núi không? Nó có giống một quả bom không?”
“Tôi không biết.”
“Tại sao nó làm cô sợ?”
“Nó rất bất ngờ. Nó ở ngay đó. Nó rất nhiều khói… rất nhiều khói. Nó lớn. Nó ở xa. Ồ….”
“Cô an toàn mà. Cô có thể tiến gần nó không?”
“Tôi không muốn tới gần hơn!” cô gay gắt trả lời. Hiếm khi thấy cô ấy phản đối mạnh mẽ như vậy.
“Sao cô lại quá sợ hãi như vậy?” tôi hỏi lại.
“Tôi nghĩ nó là một loại hóa chất hay thứ gì đó. Rất khó thở khi lại gần nó.” Cô đang thở khó nhọc.
“Nó có giống một loại khí không? Có phải nó xuất phát từ trong chính ngọn núi… như núi lửa?”
“Tôi nghĩ thế. Nó giống một cây nấm lớn. Trông như một… cây nấm trắng.”
“Nhưng không phải là một quả bom? Nó không phải là bom nguyên tử hay thứ gì tương tự phải không?” cô tạm nghỉ và lại tiếp tục.
“Nó là một núi… một loại núi lửa hay thứ gì đó, tôi nghĩ. Nó rất đáng sợ. Thật khó thở. Có bụi trong không khí. Tôi không muốn ở đó.” Từ từ hơi thở của cô trở lại bình thường, sâu và đều đặn của trạng thái thôi miên. Cô đã rời khỏi khung cảnh đáng sợ đó.
“Hiện giờ đã dễ thở hơn rồi phải không?”
“Vâng.”
“Tốt. Hiện cô đang thấy gì?”
“Không có gì… tôi thấy một vòng chuỗi, vòng chuỗi trên cổ người nào đó. Nó màu xanh dương… nó bằng bạc và có một viên đá xanh dương gắn vào đó và những viên đá nhỏ hơn bên dưới.”
“Có thứ gì trên viên đá xanh dương không?”
“Không, nó trong suốt. Ông có thể nhìn xuyên qua nó. Thiếu phụ có mái tóc đen và một chiếc mũ xanh dương… có một chiếc lông vũ lớn và y phục bằng nhung.”
“Cô có biết người thiếu phụ đó không?”
“Không.”
“Cô có ở đó không hay cô chính là người thiếu phụ đó?”
“Tôi không biết.”
“Nhưng cô có thấy bà ấy không?”
“Vâng. Tôi không phải là người thiếu phụ.”
“Bà ấy bao nhiêu tuổi?”
“Trong độ tuổi 40. Nhưng bà ấy trong già hơn tuổi thực.”
“Bà ấy có làm gì không?”
“Không, bà ấy chỉ đứng cạnh cái bàn. Có một chai nước hoa trên bàn. Nó màu trắng và có những đóa hoa xanh dương trên đó. Có một cái bàn chải và chiếc lược có cán bằng bạc.” Tôi rất ấn tượng với đôi mắt quan sát chi tiết của cô ấy.
“Đó là phòng của bà ấy hay trong một cửa hiệu?”
“Đó là phòng của bà ấy. Có một chiếc giường trong đó… với bốn cột chống. Đó là chiếc giường nâu. Có một chiếc bình có quai trên bàn.”
“Một chiếc bình có quai?”
“Vâng, không có bất kỳ bức tranh nào trong phòng. Có những bức màn che tối thẫm, lạ lùng.”
“Có ai khác ở gần đó không?”
“Không.”
“Thiếu phụ này có mối quan hệ với cô như thế nào?”
“Tôi phục vụ bà ấy.” Một lần nữa cô lại là tì nữ.
“Cô ở với bà ấy có lâu không?”
“Không… chỉ vài tháng.”
“Cô có thích chiếc vòng cổ đó không?”
“Có. Bà ấy rất duyên dáng.”
“Cô đã từng đeo chiếc vòng cổ này chưa?”
“Không,” những câu trả lời ngắn của cô đòi hỏi tôi phải dẫn dắt câu chuyện một cách tích cực để có được những thông tin cơ bản. Cô ấy làm tôi nhớ đến đứa con trai bé bỏng của mình.
“Hiện giờ cô mấy tuổi?”
“Chừng khoảng 13, 14…” Cũng cùng độ tuổi.
“Tại sao cô rời bỏ gia đình mình?” Tôi hỏi.
“Tôi không rời bỏ họ,” cô chỉnh tôi. “Tôi chỉ làm việc ở đó.”
“Tôi hiểu. Sau đó, cô có về nhà với gia đình mình không?”
“Có.” Những câu trả lời của cô gần như không giải thích gì thêm.
“Họ sống gần đó không?”
“Cũng khá gần… chúng tôi rất nghèo. Chúng tôi cần phải làm việc… phải phục vụ.”
“Cô biết tên của người thiếu phụ không?”
“Belinda.”
“Bà ấy đối xử với cô tốt chứ?”
“Vâng.”
“Tốt. Cô làm việc vất vả không?”
“Cũng không mệt lắm.” Phỏng vấn trẻ con chẳng bao giờ dễ cả, ngay cả trong những kiếp quá khứ. May mà tôi đã được huấn luyện chuyên nghiệp.
“Tốt. Cô vẫn đang thấy bà ấy chứ hả?”
“Không.”
“Hiện cô đang ở đâu?”
“Trong một phòng khác. Có một cái bàn trải khăn đen… Và đường viền trang trí ở mép. Trong phòng có mùi của rất nhiều cây thuốc… nước hoa nồng nặc.”
“Có phải tất cả những thứ này là của bà chủ cô không? Có phải bà ấy dùng rất nhiều nước hoa?”
“Không, đây là phòng khác. Tôi ở trong một phòng khác.”
“Phòng này của ai vậy?”
“Nó thuộc về quý bà bóng tối.”
“Bóng tối ư? Cô có thấy bà ấy chưa?”
“Bà ấy có rất nhiều thứ trùm trên đầu,” Catherine thì thầm, “nhiều khăn choàng. Bà ấy già và nhăn nheo.”
“Cô quan hệ như thế nào với bà ấy?”
“Tôi chỉ vừa mới đi gặp bà.”
“Để làm gì?”
“Vì bà ấy có thể làm với những lá bài.” Trực giác tôi biết rằng cô đến gặp thầy bói, người có thể bói bài tây. Đây là điều oái oăm trêu ngươi. Ở đây tôi và Catherine cùng nhau thực hiện một cuộc phiêu lưu tâm linh khó tin, trải rộng trên nhiều kiếp sống và những chiều kích không gian xa hơn, thế mà khoảng hai trăm năm trước, cô ấy đã tìm đến một bà đồng để tìm hiểu tương lai của mình. Tôi biết rằng Catherine không bao giờ tìm đến bà đồng trong đời hiện tại và cô cũng chẳng biết tí gì về bói bài tây hay tiên đoán vận mệnh; những chuyện này làm cô sợ hãi.
“Bà ấy có đoán được vận mệnh không?” tôi hỏi.
“Bà ấy thấy vài chuyện.”
“Cô có hỏi gì bà ấy không? Cô muốn xem điều gì? Cô muốn biết điều gì?”
“Về một người đàn ông nào đó… mà tôi có thể kết hôn.”
“Bà ấy nói gì khi bói những lá bài?”
“Lá bài có… một số cái cột. Cột và hoa… những cái cột, ngọn giáo hay một loại đường ống nào đó. Một lá bài khác có cốc rượu lễ trên đó, một cái cốc… Tôi thấy một lá bài có người đàn ông hay cậu bé mang một tấm khiên. Bà ấy bảo là tôi sẽ kết hôn nhưng tôi không kết hôn với người đàn ông này. Tôi không thấy gì khác.”
“Cô có thấy bà ấy không?”
“Tôi thấy vài đồng tiền.”
“Cô vẫn đang ở chỗ bà ấy hay là một nơi khác?”
“Tôi ở chỗ bà ấy.”
“Những đồng tiền trông như thế nào?”
“Chúng bằng vàng. Các mép không trơn láng. Chúng hình vuông. Một mặt có hình vương miện.”
“Xem thử có năm được khắc trên đồng tiền không. Thứ gì đó mà cô có thể đọc… dạng chữ viết.”
“Một vài con số kiểu nước ngoài,” cô trả lời. “Những X và I.”
“Cô có biết đó là năm nào không?”
“1700… mấy đó. Tôi không biết là lúc nào.” Cô lại im lặng.
“Tại sao bà chiêm tinh này lại quan trọng với cô vậy?”
“Tôi không biết….”
“Tiên đoán của bà ấy có đúng không?”
“… Nhưng bà ấy đi mất rồi,” Catherine thì thầm. “Đã mất rồi. Tôi không biết.”
“Hiện giờ cô thấy gì không?”
“Không.”
“Không à?” Tôi ngạc nghiên. Vậy cô ấy đang ở đâu? “Cô có biết tên mình trong kiếp sống này không?” Tôi hỏi, hy vọng tìm được đầu mối của kiếp sống cách đây vài trăm năm.
“Tôi đã rời khỏi đó.” Cô đã rời kiếp sống đó và đang nghỉ ngơi. Giờ đây cô có thể tự mình làm điều đó. Sở dĩ như thế vì trải nghiệm cái chết không còn cần thiết với cô nữa. Chúng tôi chờ trong vài phút. Kiếp sống này không có gì đặc biệt. Cô chỉ nhớ lại vài sự việc nổi bật và sự quan tâm đến lần đi gặp chiêm tinh gia.
“Hiện giờ cô thấy gì không?” Tôi lại hỏi.
“Không,” cô thì thầm.
“Cô đang nghỉ ngơi à?”
“Vâng… những viên ngọc có màu sắc khác nhau…”
“Ngọc?”
“Vâng. Thật ra chúng là ánh sáng nhưng chúng trông giống những viên ngọc….”
“Còn gì khác không?” Tôi hỏi.
“Tôi chỉ…” cô tạm ngưng và rồi tiếng thì thầm của cô lớn và chắc chắn. “Có nhiều lời và ý nghĩ đang bay quanh đây… Đó là về sự cùng tồn tại và hài hòa… sự cân bằng của vạn vật.” Tôi biết những Bậc thầy đang ở gần đó.
“Vâng,” tôi giục cô. Tôi muốn biết về những điều này. Cô có thể nói cho tôi không?”
“Ngay lúc này chúng chỉ là những từ ngữ,” cô trả lời.
“Cùng tồn tại và hài hòa,” tôi nhắc cô. Khi cô trả lời, đó chính là giọng của Bậc thầy thi ca. Tôi hân hoan khi lại được nghe giọng người.
“Đúng,” người trả lời. “Vạn vật phải được cân bằng. Thiên nhiên là cân bằng. Những con thú sống trong hài hòa. Con người không học để làm được vậy. Họ tiếp tục tự hủy hoại chính mình. Không có sự hài hòa, không có sự hoạch định trong những gì họ làm. Thật là khác xa thiên nhiên. Thiên nhiên cân bằng. Thiên nhiên là năng lực và sức sống… và hồi phục. Còn con người chỉ hủy hoại. Họ hủy hoại thiên nhiên. Họ hủy hoại người khác. Cuối cùng họ sẽ hủy hoại chính mình.”
Đây là một tiên đoán tệ hại. Dù thế giới này thường xuyên hỗn độn và rối loạn tôi vẫn hy vọng điều này sẽ không đến quá nhanh. “Khi nào điều này sẽ xảy ra?” Tôi hỏi.
“Nó sẽ xảy ra nhanh hơn là con người nghĩ. Thiên nhiên sẽ sống còn. Cây cỏ sẽ sống còn. Chúng ta thì không.”
“Liệu chúng ta có thể làm được gì để ngăn chặn sự hủy hoại đó?”
“Không. Vạn vật phải được cân bằng…”
“Liệu sự hủy hoại này có xảy ra trong kiếp sống của chúng ta không? Chúng ta có thể ngăn chặn không?”
“Nó sẽ không xảy ra trong kiếp sống của chúng ta. Chúng ta sẽ ở một tầm mức khác, một chiều không gian khác khi điều đó xảy ra nhưng chúng ta sẽ chứng kiến được.”
“Không có cách nào để dạy cho con người sao?” Tôi cố tìm kiếm một lối thoát, những khả năng có thể giảm thiểu.
“Nó sẽ được thực hiện ở một cấp độ khác. Chúng ta sẽ học từ đó.”
Tôi nhìn vào khía cạnh lạc quan. “À, nghĩa là linh hồn chúng ta tiến bộ ở một không gian khác.”
“Đúng. Chúng ta sẽ không còn tiếp tục ở… đây, khi chúng ta biết điều đó. Chúng ta sẽ thấy điều đó.”
“Vâng,” tôi thừa nhận. “Tôi mong muốn dạy cho những người này nhưng tôi không biết có cách nào để tiếp cận họ. Có cách nào không hay họ phải học lấy điều này cho chính mình?”
“Ông không thể tiếp cận tất cả mọi người. Để chấm dứt sự hủy hoại ông phải tiếp cận được mọi người nhưng ông không thể. Không thể chấm dứt được điều đó. Họ sẽ học được. Khi họ tiến bộ họ sẽ học. Sẽ có bình an nhưng không phải ở đây, không phải ở đây trong chiều kích không gian này.”
“Cuối cùng sẽ có sự bình an à?”
“Đúng, trên một cấp độ khác.”
“Dù vậy điều đó dường như rất xa vời,” tôi phàn nàn. “Con người hiện thời có vẻ hết sức nhỏ nhen… bủn xỉn, khao khát quyền lực, tham vọng. Họ quên mất tình yêu, sự hiểu biết và tri thức. Có rất nhiều điều cần phải học.”
“Vâng.”
“Tôi có thể viết thứ gì đó để giúp những người này không? Có cách nào không?”
“Ông biết cách. Chúng tôi không cần phải bảo cho ông. Tất cả rồi sẽ vô ích, tất cả chúng ta sẽ đạt đến một cấp độ và họ sẽ hiểu. Tất cả chúng ta như nhau. Không ai vĩ đại hơn ai. Sau cùng thì đây là những bài học. Và sự trừng phạt.”
“Vâng,” tôi đồng ý. Đây là một bài học sâu xa và tôi cần có thời gian để thấu hiểu. Catherine trở nên yên lặng. Chúng tôi chờ, cô ấy đang nghỉ còn tôi thì ưu tư đắm chìm trong những tuyên bố đáng kinh ngạc một giờ trước. Cuối cùng, cô ấy cũng phá vỡ sự im lặng.
“Những viên ngọc đã đi rồi,” cô thì thầm. “Những viên ngọc đã đi rồi. Ánh sáng… họ đã đi rồi.”
“Các giọng nói cũng đi ư? Những từ ngữ thì sao?”
“Đúng vậy. Tôi không thấy gì nữa.” Khi cô tạm ngưng, đầu cô quay từ bên này sang bên kia. “Một linh hồn… đang nhìn.”
“Nhìn cô ư?”
“Vâng.”
“Cô có nhận ra linh hồn đó không?”
“Tôi không chắc lắm… tôi nghĩ có thể là Edward.” Edward đã mất trong năm trước. Edward thực sự có mặt khắp nơi. Ông ấy dường như luôn ở quanh cô.
“Linh hồn đó trông như thế nào?”
“Chỉ là một… màu trắng … như ánh sáng. Ông ấy không có khuôn mặt, không giống như chúng ta từng biết nhưng tôi biết đó là ông ấy.”
“Ông ấy có giao tiếp điều gì với cô không?”
“Không, ông ấy chỉ quan sát.”
“Ông ấy có lắng nghe những gì tôi nói không?”
“Có,” cô thì thầm. “Nhưng giờ thì ông ấy đi rồi. Ông ấy chỉ muốn chắc chắn rằng tôi ổn.” Tôi nghĩ về những thần thoại phổ biến về thần hộ mệnh. Chắc chắn Edward, trong vai linh hồn đáng yêu, bay lơ lửng quan sát cô ấy để chắc chắn mọi thứ đều ổn, cũng gần giống như nhiệm vụ của một thiên thần. Và Catherine cũng đã từng nói về những linh hồn hộ mệnh. Tôi tự hỏi không biết bao nhiêu chuyện “thần thoại” trẻ thơ của chúng ta thực ra có nguồn gốc là sự hồi tưởng mơ màng quá khứ.
Tôi cũng tự hỏi về hệ thống phân cấp của các linh hồn, ai sẽ trở thành thần hộ mệnh và ai là Bậc thầy, rồi những ai sẽ không thuộc hai vai đó mà chỉ có nhiệm vụ học hỏi. Chắc phải có một sự tiến triển dần về tri thức và sự thông thái, mà mục đích cuối cùng là trở nên giống như Thượng đế và tiến đến, có lẽ là hợp nhất phần nào với Thượng đế. Đây là mục đích mà những nhà thần học huyền bí đã mô tả trong những dạng hỷ lạc từ nhiều thế kỷ qua. Họ từng có ý niệm lờ mờ về sự hợp nhất thiêng liêng đó. Chưa có được trải nghiệm cá nhân như vậy, những người truyền thông điệp như Catherine, với tài năng phi thường đã mang lại góc nhìn tốt đẹp nhất.
Edward đã đi rồi còn Catherine lại lặng im. Khuôn mặt cô an lành và cô chìm trong sự tĩnh lặng. Cô đã có được tài năng phi thường biết bao – khả năng nhìn vượt ngoài sự sống và vượt ngoài sự chết, để trò chuyện với “các vị thần” và chia sẻ sự thông thái của họ. Chúng tôi đang ăn từ Cây Tri thức(1), không còn bị cấm đoán nữa. Tôi tự hỏi không biết còn lại được bao nhiêu quả táo.
Mẹ của Carole là Minette đang chết dần vì ung thư đã di căn từ ngực đến xương và gan. Quá trình này đã tiến triển trong bốn năm và hiện thời không thể khống chế tốc độ bằng hóa trị. Bà là một phụ nữ dũng cảm, chịu đựng nỗi đau và sự yếu ớt một cách kiên cường. Nhưng căn bệnh này gia tăng phát triển và tôi biết rằng cái chết của bà đang đến gần.
Những phiên trị liệu của Catherine cũng diễn ra trong thời gian đó và khi tôi chia sẻ những trải nghiệm và thông tin này với bà, tôi đã hơi ngạc nghiên khi bà ấy, vốn là một nữ doanh nhân thực dụng, đã nhanh chóng chấp nhận tri thức này và muốn học hỏi hơn nữa – tôi đưa cho bà sách và bà đã ngấu nghiến đọc. Bà đã sắp xếp và tham dự khóa học cùng tôi và Carole về bí thuật Kabbalah, tài liệu huyền nhiệm của Do Thái giáo có từ nhiều thế kỷ trước. Tái sinh và những chiều kích trung gian là những nguyên lý cơ bản của kinh văn Kabbalah, tuy nhiên hầu hết những người Do Thái hiện đại không biết về điều này. Tinh thần của bà càng mạnh mẽ khi cơ thể của bà càng suy kiệt. Nỗi sợ cái chết của bà biến mất. Bà bắt đầu hy vọng về ngày tái hợp với người chồng yêu thương của mình, Ben. Bà tin vào sự bất tử của linh hồn và điều này giúp bà chống chọi với cơn đau. Bà đang cố sống, chờ đến ngày sinh của một đứa cháu khác, đó là đứa con đầu lòng của Donna, con gái bà. Bà gặp Catherine tại bệnh viện trong một phiên trị liệu của cô và quan điểm, lời nói của họ hết sức hòa hợp và thấu hiểu. Sự chân thành và thật lòng của Catherine giúp thuyết phục Minette tin rằng sự tồn tại của kiếp sau là có thật.
Một tuần trước khi chết, Minette được chấp thuận vào khu ung thư của bệnh viện. Carole và tôi có thể dành thời gian cho bà, nói về sự sống và sự chết, điều gì đang chờ đợi chúng ta sau khi chết. Là một quý bà với phẩm hạnh cao quý, bà quyết định chết trong bệnh viện để nhờ vào sự chăm sóc của y tá. Donna, chồng cô ấy và con gái sáu tuần tuổi của họ đã đến và dành thời gian cho bà ấy cũng như nói lời tạm biệt. Chúng tôi gần như ở suốt bên bà. Khoảng sáu giờ vào buổi chiều, ngày mà bà Minette mất, Carole và tôi chỉ vừa về đến nhà từ bệnh viện thì cả hai đều nóng lòng quay lại. Trong sáu hay bảy giờ tiếp theo là khoảng thời gian tràn đầy tĩnh lặng và năng lượng tâm linh huyền nhiệm. Dù hơi thở nặng nhọc, bà Minette không đau đớn nhiều. Chúng tôi nói về sự chuyển đổi của bà ấy sang trạng thái trung gian, ánh sáng rực rỡ và sự hiện diện của các linh hồn. Bà nhớ lại đời mình, hầu như trong lặng thinh và đấu tranh để chấp nhận những phần đời tiêu cực. Dường như bà biết rằng mình chưa thể ra đi nếu quá trình này chưa hoàn tất. Bà chờ thời điểm rất đặc biệt để ra đi, vào sáng sớm. Bà cũng bị mất kiên nhẫn dần vì chờ thời điểm này. Bà Minette là người đầu tiên mà tôi đã hướng dẫn để đến và đi qua cái chết theo cách này. Bà ấy rất mạnh mẽ và nỗi đau buồn của chúng tôi cũng vơi nhẹ phần nào nhờ toàn bộ trải nghiệm này.
Tôi phát hiện rằng khả năng chữa lành cho bệnh nhân của tôi đã được mở rộng đáng kể, không chỉ với nỗi sợ và lo lắng mà đặc biệt còn chữa cho sự chết và hấp hối, đau buồn và tư vấn cho bệnh nhân. Bằng trực giác tôi biết điều gì sai sót và hướng khắc phục trong trị liệu. Tôi có khả năng chuyển tải những cảm giác an bình, thanh thản và hy vọng. Sau cái chết của bà Minette, nhiều người khác đang hấp hối hay những người đang sống sau cái chết của người thân đã tìm đến tôi để được giúp đỡ. Nhiều người còn chưa biết về Catherine hay những kinh văn về sự sống sau cái chết. Nhưng ngay cả khi chưa nhận được tri thức đặc biệt đó, tôi cảm thấy mình vẫn có thể truyền trao thông điệp. Âm sắc giọng nói, hiểu biết sâu sắc quá trình mà những người này đang trải qua, nỗi sợ và cảm giác của họ, một cái nhìn, sự xúc chạm, một lời nói – tất cả đều có thể ở một mức độ nào đó chạm đến sợi dây hy vọng, tâm linh đã lãng quên, tính nhân bản chung hay thậm chí còn hơn thế. Và với những người có thể tiếp nhận nhiều hơn, gợi ý những cuốn sách nên đọc và chia sẻ kinh nghiệm của tôi với Catherine và những người khác cũng giống như mở một cánh cửa sổ ra vùng trời tươi mới. Những người đã sẵn sàng sẽ phục hồi. Họ có được khả năng thấu hiểu thậm chí còn nhanh hơn.
Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng các nhà tâm lý trị liệu phải có đầu óc rộng mở. Không chỉ cần phải có thêm nhiều công trình khoa học viết về những kinh nghiệm chết và hấp hối như của Catherine mà những công trình về những trải nghiệm trong lĩnh vực này cũng cần phải nhiều hơn. Những nhà tâm lý trị liệu phải xem xét khả năng tồn tại của sự sống sau khi chết và kết hợp điều đó vào quá trình trị liệu của mình. Họ không chỉ phải dùng biện pháp thôi miên hồi quy mà còn phải giữ đầu óc rộng mở, chia sẻ tri thức với bệnh nhân của mình và không được xem nhẹ những kinh nghiệm của bệnh nhân.
Hiện thời con người đang bị hủy hoại vì sợ hãi cái chết của mình. Dịch AIDS, hiểm họa hạt nhân, chủ nghĩa khủng bố, bệnh tật và những hiểm họa thiên nhiên khác đang lơ lửng trên đầu chúng ta, tra tấn chúng ta mỗi ngày. Nhiều thiếu niên tin rằng chúng sẽ không sống đến tuổi 20 của mình. Đây là điều khó tin, phản ánh những khủng hoảng trầm trọng trong xã hội chúng ta. Về phương diện cá nhân, phản ứng của bà Minette với thông điệp của Catherine rất đáng khích lệ. Tinh thần của bà ấy mạnh lên và bà cảm thấy hy vọng dù phải đối mặt với những đau đớn vật lý và tình trạng suy kiệt cơ thể. Những thông điệp này là dành cho tất cả chúng ta chứ không chỉ cho người đang hấp hối. Vẫn còn hy vọng cho chúng ta. Chúng ta cần có nhiều hơn nữa những nhà khoa học và lâm sàng để báo cáo về những Catherine khác, để khẳng định và mở rộng thông điệp của cô ấy. Câu trả lời ở đó. Tất cả chúng ta bất tử. Chúng ta sẽ luôn bên nhau.