Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Một tuần sau, Catherine ào vào văn phòng của tôi để tiến hành buổi thôi miên tiếp theo. Vốn đã xinh đẹp, giờ đây trong cô còn rạng ngời hơn bao giờ hết. Cô sung sướng thông báo rằng nỗi sợ chết đuối của đời cô đã biến mất. Nỗi sợ ngạt thở của cô gần như bị loại bỏ. Giấc ngủ của cô không còn bị ngắt quãng vì cơn ác mộng về chiếc cầu gãy. Mặc dù cô đã nhớ lại những chi tiết trong ký ức về kiếp trước của mình, cô vẫn chưa thật sự chấp nhận chúng.

Khái niệm về kiếp trước và đầu thai hoàn toàn xa lạ với thế giới quan của cô, thế nhưng những ký ức đó quá sinh động, hình ảnh, âm thanh và hương vị hết sức rõ ràng; ý thức rằng cô có ở đó quá mạnh và tức thời đến nỗi cô cảm thấy mình phải thực sự đã từng ở đó. Cô không nghi ngờ về điều này; những ký ức đó cực kỳ mạnh mẽ. Điều cô băn khoăn là làm thế nào để điều này có thể phù hợp với nền giáo dục và đức tin của mình.

Trong suốt tuần đó tôi đã xem lại giáo trình môn tôn giáo so sánh mà mình đã học trong năm thứ nhất ở đại học Columbia. Tân Ước và Cựu Ước thực sự có đề cập đến hiện tượng đầu thai. Năm 325, hoàng đế La Mã là Constantine Đại đế cùng với mẹ của mình là Helena đã xóa bỏ phần đề cập đến hiện tượng đầu thai trong Tân Ước. Hội đồng Constantinople Đệ nhị họp vào năm 553 khẳng định hành động này và tuyên bố quan điểm đầu thai là tà giáo. Rõ ràng, họ nghĩ rằng quan niệm này sẽ làm suy yếu sức mạnh đang lên của giáo hội khi mang lại cho con người quá nhiều thời gian tìm kiếm sự cứu rỗi. Tuy vậy những thông tin gốc vẫn còn ở đó; những Đức cha đầu tiên của giáo hội đã chấp nhận quan niệm về đầu thai. Gnostics – Clement xứ Alexandria, Origen, thánh Jerome và nhiều vị khác – tin rằng họ đã từng sống trước đó và sẽ tiếp tục sống kiếp khác.

Tuy nhiên, tôi không bao giờ tin vào đầu thai. Thực sự, tôi chưa bao giờ dành nhiều thời gian để nghĩ về điều này. Mặc dù giáo dục tôn giáo ban đầu của tôi dạy một vài thứ về sự tồn tại mơ hồ của “linh hồn” sau khi chết nhưng tôi không bị thuyết phục bởi quan niệm này.

Tôi là anh cả trong một gia đình có bốn người con, tất cả đều cách nhau ba tuổi. Chúng tôi thuộc về một nhà thờ Do Thái giáo bảo thủ ở Red Bank – một thành phố nhỏ gần bờ biển New Jersey. Tôi là người hòa giải và là chính khách của gia đình. Cha tôi chú trọng đến tôn giáo hơn bất kỳ điều gì. Ông cực kỳ nghiêm túc trong chuyện này, như cách ông nhìn nhận mọi mặt của cuộc sống. Thành quả học tập của những đứa con là niềm vui lớn nhất đời ông. Ông dễ cáu kỉnh với những bất hòa trong nhà và sẽ rút lui để mặc cho tôi giải quyết. Điều này hóa ra lại là bước chuẩn bị tuyệt vời cho nghề trị liệu tâm thần, nhưng nhìn lại, tuổi thơ của tôi nặng nề và nhiều trách nhiệm hơn tôi mong muốn. Tôi trở thành một thanh niên cực kỳ nghiêm túc vốn quen với việc gánh lấy quá nhiều trách nhiệm.

Mẹ của tôi luôn thể hiện tình cảm của mình. Không điều gì có thể ngăn cản bà. Là người đơn giản hơn cha tôi, bà thường dùng cảm giác tội lỗi, thánh tử đạo, giới hạn của sự xấu hổ, tên tuổi gia đình như những công cụ điều khiển con cái không chút dao động. Tuy nhiên, bà hiếm khi buồn bã và chúng tôi luôn có thể dựa vào tình yêu và sự giúp đỡ của mẹ.

Cha tôi có một công việc tốt là nhà nhiếp ảnh và mặc dù chúng tôi luôn có nhiều thực phẩm nhưng tiền bạc lại rất hạn hẹp. Peter, em út của tôi được sinh ra khi tôi lên chín. Sáu người chúng tôi sống trong một căn hộ nhỏ có vườn và hai phòng ngủ.

Cuộc sống trong căn hộ nhỏ này ồn ào, náo nhiệt và tôi đã trốn trong những cuốn sách của mình. Tôi đọc không ngừng khi không chơi bóng rổ hay bóng ném – niềm đam mê thuở nhỏ của tôi. Tôi biết rằng học hành là cách thoát khỏi thành phố nhỏ này, vì thế tôi luôn đứng hạng nhất hay hạng nhì trong lớp.

Khi nhận được học bổng toàn phần của đại học Columbia, tôi là một thanh niên nghiêm túc và chăm chỉ. Thành công học thuật tiếp tục đến một cách dễ dàng. Tôi học khoa Hóa và tốt nghiệp với bằng danh dự. Tôi quyết định trở thành bác sỹ tâm lý vì lĩnh vực này kết hợp được sự quan tâm của tôi với khoa học và niềm say mê làm việc với trí óc của con người. Ngoài ra, nghề nghiệp trong lĩnh vực y khoa cũng cho phép tôi thể hiện mối quan tâm và sự đồng cảm với người khác. Trong thời gian đó tôi gặp Carole trong một kỳ nghỉ hè ở khách sạn Catskill Mountain, nơi tôi làm công việc rửa chén và cô là một vị khách. Cả hai đều cảm thấy bị hấp dẫn, có cảm giác hết sức quen thuộc và thoải mái với nhau. Chúng tôi đã hòa hợp, hẹn hò, yêu nhau và đính hôn vào năm thứ ba của tôi ở đại học Columbia. Cô ấy vừa tươi tắn vừa xinh đẹp. Mọi thứ dường như được sắp đặt đâu vào đấy. Hiếm có chàng trai trẻ nào lo lắng về sự sống và cái chết cũng như cuộc sống sau khi chết và tôi cũng không phải là ngoại lệ. Tôi đã trở thành một nhà khoa học và học cách suy nghĩ lô-gíc, không hề cảm tính và “thực chứng” .

Trường Y và cuộc sống ở đại học Yale càng mài sắc thêm phương pháp khoa học này. Luận án nghiên cứu của tôi là về hóa học não và vai trò của những chất dẫn truyền tín hiệu thần kinh– những tác nhân truyền thông điệp theo cơ chế hóa học trong các mô não.

Tôi gia nhập ngành mới là tâm thần sinh học, những bác sĩ này phối hợp lý thuyết và kỹ thuật tâm thần truyền thống với ngành khoa học mới về hóa học não. Tôi viết nhiều báo cáo khoa học, thuyết trình tại những hội nghị địa phương lẫn quốc gia và trở thành chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực của mình. Tôi có phần nào dễ bị ám ảnh, tập trung cao độ và cứng rắn nhưng đây là những đặc điểm cần thiết của một bác sỹ. Tôi cảm thấy hoàn toàn sẵn sàng để trị liệu cho bất kỳ ai bước vào văn phòng của mình.

Thế rồi Catherine trở thành Aronda, một cô gái trẻ sống vào năm 1963 trước Công nguyên. Hay phải nói ngược lại nhỉ? Và rồi cô ấy lại xuất hiện ở đây, hạnh phúc hơn bao giờ hết.

Tôi đã từng lo rằng Catherine có thể sợ phải tiếp tục trị liệu. Tuy nhiên, cô đã nóng lòng chuẩn bị cho việc thôi miên và nhanh chóng đi vào trạng thái xuất thần.

“Tôi đang ném những vòng hoa xuống nước. Đây là một buổi lễ. Tóc tôi màu vàng và được tết lại. Tôi mặc váy nâu dát vàng và giày xăng đan. Một vài người đã qua đời, một vài người trong hoàng cung… người mẹ. Tôi là một nô tì trong hoàng cung và tôi phục vụ thức ăn. Chúng tôi ngâm những thi thể này 30 ngày trong nước muối. Chúng được làm khô và nội tạng được lấy ra ngoài. Tôi có thể ngửi nó, mùi của các thi thể.”

Cô ấy đã tự động quay lại kiếp sống của Aronda nhưng ở một giai đoạn khác, lúc nhiệm vụ của cô là xử lí các thi thể sau khi chết.

“Trong một tòa nhà khác”, Catherine tiếp tục, “tôi có thể thấy những thi thể này. Chúng tôi đang tẩm liệm các thi thể. Linh hồn đang chuyển tiếp. Ông sẽ mang theo những gì mình sở hữu, được chuẩn bị cho kiếp sống mới vĩ đại hơn.” Cô ấy đang diễn tả những thứ dường như là quan niệm của người Ai Cập về cái chết và kiếp sau, khác hẳn với niềm tin của chúng ta. Trong tôn giáo đó, bạn có thể mang nó theo mình.

Cô rời khỏi kiếp sống đó và nghỉ ngơi. Cô tạm nghỉ vài phút trước khi đi vào một thời kỳ rất cổ xưa.

“Tôi thấy băng tuyết, treo trong một cái hang… những tảng đá…” Cô mô tả một cách mơ hồ một nơi tối tăm cực khổ và trông cô khó chịu thấy rõ. Sau đó cô mô tả những gì đã thấy về chính mình. “Tôi xấu xí, dơ dáy và hôi hám.” Cô chuyển đến một thời gian khác.

“Có vài tòa nhà và một chiếc xe kéo có bánh bằng đá. Tóc tôi màu nâu và có một chiếc khăn trên đó. Chiếc xe có chất rơm. Tôi đang hạnh phúc. Cha tôi ở đó… Ông ấy đang ôm tôi. Đó là… đó là Edward [vị bác sỹ nhi khoa đã khăng khăng bảo cô gặp tôi]. Ông ấy là cha tôi. Chúng tôi sống trong một thung lũng có cây cối. Có những cây sung và ô liu trong sân. Mọi người viết trên giấy. Trên đó có những dấu hiệu buồn cười, trông như những chữ cái. Mọi người viết suốt ngày, xây dựng một thư viện. Đó là năm 1536 trước công nguyên. Đất đai cằn cỗi. Cha tôi tên là Perseus.”

Tuy năm không trùng khớp chính xác nhưng tôi chắc chắn cô ấy đang ở trong cùng kiếp sống mà cô đã tường thuật ở buổi trị liệu tuần trước. Tôi hướng dẫn cô vượt nhanh thời gian nhưng vẫn ở trong kiếp đó.

“Cha tôi biết ông [nghĩa là tôi]. Ông và cha tôi nói chuyện về mùa màng, luật pháp và nhà nước. Ông ấy bảo rằng ông rất thông minh và tôi phải nghe lời ông.” Tôi hướng dẫn cô tiếp tục đẩy thời gian đi xa hơn.

“Ông ấy [cha] đang nằm trong một căn phòng tối tăm. Ông ấy già và bệnh. Trời lạnh… Tôi cảm thấy hết sức trống rỗng.” Cô tiến tới thời gian mình chết. “Giờ tôi đã già và rất yếu. Con gái tôi cũng ở đó, cạnh giường tôi. Chồng của tôi đã chết rồi. Chồng của con gái tôi cũng ở đó, có cả con cái của chúng nữa. Có rất nhiều người vây quanh tôi.”

Lần này cái chết của cô thật yên lành. Cô đang bay lơ lửng. Lơ lửng? Điều này nhắc tôi nhớ đến những nghiên cứu của bác sỹ Raymond Moody về những nạn nhân trải qua cận tử. Những đối tượng nghiên cứu đó cũng nhớ lại tình trạng bay lơ lửng, sau đó bị kéo ngược về thân thể của họ. Tôi đã đọc cuốn sách của ông ta nhiều năm trước và giờ đây tự nhắc mình đọc lại nó. Tôi tự hỏi Catherine có thể nhớ thêm được điều gì sau khi cô ấy chết nhưng cô ấy chỉ nói “Tôi chỉ bay lơ lửng”. Tôi đánh thức cô và kết thúc buổi trị liệu.

Với niềm khao khát vô tận mới, tôi săn lùng bất kỳ báo cáo khoa học nào đã từng xuất bản về sự đầu thai khắp các thư viện y khoa. Tôi đã nghiên cứu những công trình của Ian Stevenson, tiến sỹ y khoa, giáo sư tâm thần học danh tiếng của đại học Virginia, người đã xuất bản rất nhiều sách trong y văn tâm thần học. Bác sỹ Stevenson đã thu thập hơn hai ngàn trường hợp những đứa trẻ có trí nhớ và trải nghiệm kiểu đầu thai. Rất nhiều em thể hiện khả năng nói một ngoại ngữ mà mình chưa hề tiếp xúc (xenoglossy). Những báo cáo của ông được thực hiện hết sức thận trọng, thấu đáo và rất đáng tin cậy.

Tôi đã đọc một bài tổng quan khoa học xuất sắc của Edgar Mitchell. Tôi đã hết sức quan tâm xem xét những dữ liệu ngoại cảm của đại học Duke và những bài viết của giáo sư C. J. Ducasse ở đại học Brown và chú tâm phân tích những nghiên cứu của BS. Martin Ebon, BS. Helen Wambach, BS. Gertrude Schmeidler, BS. Frederick Lenz và BS. Edith Fiore. Càng đọc tôi càng muốn đọc thêm nữa. Tôi bắt đầu nhận ra rằng dù tôi tự cho là mình được giáo dục tốt về mọi khía cạnh của trí tuệ nhưng nền tảng giáo dục của tôi vẫn còn rất hạn hẹp. Có những thư viện chứa đầy nghiên cứu và y văn như thế mà rất ít người biết đến. Rất nhiều nghiên cứu đã được các bác sỹ lâm sàng và nhà khoa học tiến hành, xác nhận và lặp lại. Lẽ nào tất cả bọn họ đều sai lầm và bị đánh lừa? Tuy các bằng chứng tỏ ra cực kỳ thuyết phục, tôi vẫn cứ nghi ngờ. Dù có nhiều hay không có bằng chứng thì tôi thấy vẫn khó tin.

Cả Catherine và tôi – theo một cách riêng – đều đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của trải nghiệm này. Catherine tiến bộ về cảm xúc, còn tôi thì mở rộng chân trời tư duy của mình. Catherine đã bị nỗi sợ giày vò trong nhiều năm và cuối cùng cô cũng đang cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Dù đó là trí nhớ thật hay ảo tưởng sống động thì tôi cũng đã tìm được cách để giúp đỡ cô ấy và tôi sẽ không ngừng lại lúc này.

Trong một khoảnh khắc tôi đã nghĩ về tất cả những điều đó khi Catherine chìm vào trạng thái xuất thần trong lúc bắt đầu buổi trị liệu tiếp theo. Trước khi tiến hành thôi miên, cô đề cập đến giấc mơ về một trò chơi diễn ra trên những bậc cấp cũ bằng đá, bàn cờ có những lỗ trên đó. Giấc mơ hình như đặc biệt sống động đối với cô. Giờ đây tôi bảo cô quay lại vượt ngoài những giới hạn không gian và thời gian thông thường, hãy quay lại và xem thử giấc mơ của cô có nguồn gốc trong một kiếp sống nào trước đây không.

“Tôi thấy những bậc cấp dẫn đến một cái tháp… nhìn bao quát cả núi và biển. Tôi là một cậu bé… Tóc tôi vàng… mái tóc lạ lùng. Y phục của tôi ngắn, nâu và trắng, làm bằng da thú. Một vài người đàn ông đang ở trên đỉnh tháp, đang quan sát… lính gác. Họ rất dơ bẩn. Họ đang chơi trò gì đó như đánh cờ nhưng không phải. Bàn cờ tròn, không phải vuông. Họ chơi bằng những vật sắc bén, giống dao găm, gắn vừa vào những cái lỗ. Những vật này có đầu thú vật trên đó. Địa phận Kirustan [ghi theo phát âm]? Của Hà Lan khoảng năm 1473.”

Tôi hỏi cô tên vùng đất cô sống và liệu cô có thể thấy hay nghe đó là năm nào không. “Hiện tôi đang ở một cảng biển; đất chạy xuống tận biển. Có một pháo đài… và nước. Tôi thấy một túp lều… mẹ tôi đang nấu ăn trong một cái nồi đất. Tên tôi là Johan.”

Cô đang tiến dần đến cái chết của mình. Tại thời điểm này trong phiên trị liệu của chúng tôi, tôi vẫn đang tìm kiếm chỉ một sự kiện gây sang chấn chủ chốt có thể là nguyên nhân hay giải thích được những triệu chứng trong cuộc sống hiện tại của cô. Ngay cả khi những hình dung rất rõ ràng này là hoang tưởng và tôi cũng không chắc về điều đó thì những gì cô ấy tin hay nghĩ cũng vẫn là nền tảng cho những triệu chứng của cô ấy. Sau cùng, tôi đã từng thấy nhiều người bị sang chấn bởi chính những giấc mơ của họ. Một vài người không thể nhớ được là những sang chấn tuổi thơ của họ có thực sự xảy ra hay chỉ xảy đến trong giấc mơ, tuy nhiên ký ức của sang chấn đó vẫn ám ảnh cuộc sống trưởng thành của họ.

Điều tôi chưa hình dung được hoàn toàn là sức nặng của những tác động gốc rễ kéo dài trong nhiều ngày, chẳng hạn sự chỉ trích nặng nề của bố mẹ có thể gây ra những sang chấn tâm lý thậm chí còn nặng hơn một sự kiện nào đó. Vì những tác động hủy hoại này trộn lẫn vào cuộc sống hàng ngày nên chúng thậm chí còn khó nhớ lại hay loại bỏ hơn. Một đứa trẻ thường bị chỉ trích có thể mất đi sự tự tin và lòng tự trọng ngang với một người từng bị làm mất mặt trong một ngày kinh khủng nào đó. Một đứa trẻ trong gia đình nghèo khó và mỗi ngày đều thiếu thốn thức ăn cũng sẽ gặp phải những vấn đề tâm lý như một đứa trẻ đột nhiên trải qua một giai đoạn gần chết đói. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng trọng lượng của tác động tiêu cực mỗi ngày trong một thời gian dài phải được nhận biết và giải quyết với sự quan tâm không khác gì đối với một sự kiện gây sang chấn chính.

Catherine bắt đầu nói.

“Có những con thuyền, giống những chiếc ca nô, sơn màu sáng. Vùng Providence(1). Chúng tôi có vũ khí, giáo, ná bắn đá, cung và tên lớn hơn. Có những mái chèo to, lạ mắt trên thuyền… mọi người đều phải chèo. Chúng tôi có thể thua trận; trời rất tối. Không có ánh sáng. Tôi sợ. Có những chiếc thuyền khác đi cùng chúng tôi [rõ ràng là một đội đột kích]. Tôi sợ những con thú. Chúng tôi ngủ trên những tấm da thú hôi thối, bẩn thỉu. Chúng tôi đang tuần tra. Giày của tôi trông rất buồn cười, giống như cái túi… cột ở gót… bằng da thú. [Nghỉ lâu] Mặt tôi nóng vì lửa. Người phe tôi đang giết những người khác nhưng tôi thì không. Tôi không muốn giết chóc. Con dao nằm trong tay tôi.”

Thình lình cô ú ớ và há hốc miệng để thở. Cô cho biết một chiến binh bên địch đang siết cổ cô từ phía sau và cắt cổ cô bằng dao của hắn. Cô thấy khuôn mặt của kẻ giết mình trước khi chết. Đó là Stuart. Lúc đó anh ta trông khác hẳn nhưng cô biết đó là anh ta. Joan đã chết ở tuổi 21.

Tiếp đó cô thấy mình đang bay lơ lửng, quan sát khung cảnh bên dưới. Cô trôi dạt lên mây, cảm thấy lúng túng và xáo trộn. Thình lình, cô thấy mình đang bị kéo vào một nơi “nhỏ, ấm”. Cô sắp được sinh ra.

“Có ai đó đang giữ tôi”, cô thì thầm chậm rãi và mơ màng, “vài người đang đỡ đẻ. Cô ấy mặc y phục xanh lá với tạp dề trắng. Cô ấy đội nón trắng gấp ngược ra sau ở các góc. Căn phòng có những cửa sổ trông rất buồn cười… rất nhiều ngăn. Tòa nhà bằng đá. Mẹ tôi có mái tóc dài, sẫm màu. Bà ấy muốn bế tôi. Có một chiếc áo ngủ xù xì trên mình mẹ tôi. Cọ xát vào đó làm tôi đau. Thật tuyệt vì tôi lại được phơi nắng và cảm nhận sự ấm áp… Đó là… đó cũng là mẹ tôi bây giờ!”

Trong phiên trị liệu trước, tôi đã hướng dẫn cô quan sát kỹ những người quan trọng trong những kiếp sống đó để xem có thể nhận ra họ trong kiếp sống hiện tại của Catherine hay không. Theo hầu hết các tác giả thì một nhóm linh hồn thường có xu hướng đầu thai chung hết lần này đến lần khác, giải quyết cho xong nghiệp của họ (những ân oán đối với người khác và chính mình, những bài học cần phải học) trải dài trong nhiều kiếp sống.

Trong nỗ lực để hiểu vở kịch đặc biệt lạ lùng mà cả thế giới không hề biết đang xảy ra trong văn phòng yên tĩnh, mờ sáng của mình, tôi tìm cách xác nhận thông tin này. Tôi cảm thấy cần phải áp dụng những phương pháp khoa học mà tôi đã sử dụng nghiêm ngặt suốt 15 năm qua để đánh giá những điều lạ thường nhất thốt ra từ miệng của Catherine.

Giữa những buổi trị liệu, bản thân Catherine ngày càng có thêm khả năng ngoại cảm. Cô ấy có những linh cảm đúng về con người và sự việc. Trong khi bị thôi miên, cô bắt đầu đoán biết những câu hỏi của tôi trước khi tôi kịp hỏi. Nhiều giấc mơ của cô ấy có khuynh hướng biết trước sự việc hay mang tính tiên tri.

Có một dịp nọ, khi bố mẹ cô ấy ghé thăm, cha cô ấy nghi ngờ về những gì đang xảy ra. Để chứng minh cho ông ấy thấy mọi chuyện là thật, cô dẫn ông đến một trường đua ngựa. Ở đó, ngay trước mắt ông, cô đã chọn đúng người thắng mỗi cuộc đua. Ông ấy đã kinh ngạc. Khi biết rằng mình đã chứng minh được điều mình muốn, cô lấy tất cả tiền thắng cược, ra khỏi trường đua và tặng cho người đi đường nghèo khổ đầu tiên mà mình gặp. Cô cảm thấy rằng sức mạnh tâm linh mới mà mình có được không thể dùng cho việc thu lợi tài chính. Đối với cô, chúng có ý nghĩa lớn lao hơn nhiều. Cô bảo tôi rằng trải nghiệm này làm cô hơi sợ hãi nhưng cô rất vui với những tiến bộ đạt được và nóng lòng tiếp tục với liệu pháp trở về quá khứ này. Tôi vừa sốc vừa cảm thấy hoang đường về khả năng ngoại cảm của cô, đặc biệt là chuyện xảy ra ở trường đua. Đó là một bằng chứng cụ thể. Cô đã chọn đúng vé thắng của từng cuộc đua. Đó không thể là chuyện ngẫu nhiên. Có chuyện gì đó rất lạ lùng đã xảy ra trong vài tuần qua và tôi phải đấu tranh để giữ vững quan điểm của mình. Tôi không thể bác bỏ khả năng tâm linh của cô ấy. Và nếu những khả năng này là thật và có thể chứng minh cụ thể thì phải chăng những cuộc đầu thai của cô trong những kiếp trước cũng là thật?

Giờ đây cô quay lại với kiếp sống mà cô vừa được sinh ra. Lần đầu thai này dường như rất gần đây nhưng cô không thể xác định được đó là năm nào. Tên cô là Elizabeth.

“Giờ tôi lớn hơn, có một em trai và hai em gái. Tôi thấy bàn ăn tối… cha tôi ở đó… ông ấy là Edward [vị bác sỹ nhi khoa, trở lại vai trò cha cô ấy một lần nữa]. Cha và mẹ tôi lại gây gổ. Thức ăn là khoai tây và đậu. Ông ấy tức giận vì thức ăn nguội lạnh. Họ cãi nhau rất thường xuyên. Ông ấy luôn uống rượu… ông ấy đánh mẹ tôi. [Giọng của Catherine sợ hãi và cô ấy run thấy rõ.] Ông ấy xô bọn trẻ. Ông ấy không giống như trước đây, không phải cùng một người. Tôi không thích ông ấy. Tôi mong ông ấy đi đi cho khuất mắt.” Cô ấy nói như một đứa trẻ.

Cách tôi hỏi cô ấy trong những buổi trị liệu này chắc chắn rất khác với những gì tôi thường dùng trong tâm lý trị liệu truyền thống. Tôi đóng vai trò thiên về hướng dẫn cho Catherine, cố để tìm hiểu một kiếp sống trong một hay hai giờ, tìm kiếm những sự kiện gây sang chấn và những kiểu mẫu chấn thương có thể giải thích cho những triệu chứng hiện tại của cô ấy. Phương pháp trị liệu truyền thống được tiến hành theo từng bước thoải mái và chi tiết hơn. Mỗi từ mà bệnh nhân chọn đều được phân tích sắc thái và ngụ ý. Mỗi biểu hiện trên gương mặt, mỗi cử động của cơ thể, mỗi biến chuyển trong giọng nói đều được xem xét và đánh giá. Từng biểu hiện cảm xúc được phân tích kỹ lưỡng. Những kiểu hành vi được ráp nối cẩn thận. Tuy nhiên, với Catherine, nhiều năm có thể bay vèo trong vài phút. Những buổi trị liệu của Catherine giống như vừa lái chiếc Indy 500(2) hết ga… vừa chọn lựa những khuôn mặt trong đám đông.

Tôi hướng sự chú ý trở lại với Catherine và yêu cầu cô đi nhanh hơn.

“Giờ tôi đã kết hôn. Nhà của tôi có một phòng lớn. Chồng tôi có mái tóc vàng. Tôi không biết anh ta. [Nghĩa là anh ấy không xuất hiện trong kiếp sống hiện tại của Catherine]. Chúng tôi chưa có con…. Anh ấy rất tốt với tôi. Chúng tôi yêu nhau và chúng tôi hạnh phúc.” Rõ ràng cô ấy đã thoát khỏi sự đàn áp trong ngôi nhà của bố mẹ mình. Tôi hỏi là liệu cô ấy có thể xác định được vùng đất mà mình đang sống không.

“Brennington?” Catherine ngần ngừ thì thầm. “Tôi thấy những cuốn sách với bìa cũ kĩ trông khá buồn cười. Cuốn lớn được cột lại bằng dây da. Đó là Kinh thánh. Có những chữ cái lớn hoa mỹ… chữ Gaelic(3).”

Tới đây cô nói vài từ mà tôi không thể xác định. Chúng có phải là tiếng Gaelic hay không tôi không biết.

“Chúng tôi sống sâu trong đất liền, không gần biển. Quận… Brennington? Tôi thấy một nông trại với heo và cừu. Đây là nông trại của chúng tôi.” Cô lại đi nhanh hơn. “Chúng tôi có hai con trai… Đứa lớn đang làm đám cưới. Tôi có thể thấy chóp nhọn của nhà thờ… một tòa nhà bằng đá rất cổ.” Thình lình đầu của cô bị thương và Catherine bị đau, ôm lấy thái dương bên trái. Cô cho biết là mình bị té trên những bậc thang bằng đá nhưng cô đã hồi phục. Cô chết già ở nhà cùng sự hiện diện của gia đình.

Cô lại bay lơ lửng ngoài cơ thể sau khi chết nhưng lần này cô không e ngại hay bối rối.

“Tôi nhận ra một vùng sáng rực rỡ. Nó thật kỳ diệu; tôi nhận năng lượng từ nguồn sáng này.” Cô ấy nghỉ ngơi sau khi chết, giữa hai kiếp sống. Nhiều phút yên lặng trôi qua. Thình lình cô ấy nói nhưng không phải với giọng thì thầm chậm rãi như thường dùng trước đây. Giọng cô giờ đây khàn và lớn, không chút ngập ngừng.

“Nhiệm vụ của chúng ta là học tập để trở nên giống như Thượng đế thông qua tri thức. Chúng ta hiểu biết quá ít. Ông ở đây để làm thầy của tôi. Tôi có rất nhiều thứ phải học. Thông qua tri thức chúng ta sẽ đến gần Thượng đế và lúc đó chúng ta có thể nghỉ ngơi. Rồi chúng ta quay lại để dạy dỗ và giúp những người khác.”

Tôi không thốt nên lời. Đây là một bài học từ sau cái chết của cô ấy, ở trạng thái giữa hai kiếp sống. Nguồn gốc của điều này là gì? Người này hoàn toàn không có chút gì giống với Catherine. Cô ấy không bao giờ nói như thế, dùng từ như thế, diễn đạt như thế. Thậm chí âm sắc giọng nói của cô cũng hoàn toàn khác.

Vào thời điểm đó tôi không nhận ra rằng dù Catherine thốt ra những từ đó nhưng nguồn gốc của những ý tưởng đó không phải là từ cô. Cô chỉ truyền lại những gì đang được nghe. Sau đó cô xác định những Bậc thầy, những linh hồn đã tiến hóa cao không trình hiện qua cơ thể, chính là người nói. Những vị ấy nói với tôi thông qua cô ấy. Catherine không những quay lại với những kiếp sống trước đây mà giờ đây cô còn có thể truyền tri thức từ những gì vượt ra ngoài thế giới của mình. Tôi đấu tranh để giữ vững sự khách quan của mình.

Một chiều không gian mới đã được thêm vào. Catherine chưa bao giờ đọc những nghiên cứu của BS. Elisabeth Kübler-Ross hay BS. Raymond Moody, cả hai đều viết về những trải nghiệm cận tử. Cô cũng chưa từng nghe đến Tử thư Tây Tạng (Tibetan Book of the Death). Tuy nhiên cô đang thấy những trải nghiệm tương tự những gì được mô tả trong những công trình này. Đây cũng là chứng cớ. Chỉ cần có nhiều dữ kiện hơn, những chi tiết cụ thể hơn là tôi có thể khẳng định. Chủ nghĩa hoài nghi của tôi bị dao động nhưng vẫn còn nguyên. Có thể cô ấy đã đọc về những nghiên cứu cận tử trong một bài báo hay đã xem một cuộc phỏng vấn trên chương trình truyền hình. Dù cô ấy bác bỏ bất kỳ trí nhớ có ý thức nào về một bài báo hay chương trình truyền hình như thế nhưng chắc cô đã lưu giữ những ký ức tiềm thức. Tuy nhiên cô còn vượt ra ngoài những ghi chép trước đây và truyền tải một thông điệp từ trạng thái ở giữa sự sống và cái chết. Tôi ước gì mình có được nhiều dữ kiện hơn.

Sau khi tỉnh lại, Catherine nhớ mọi chi tiết về kiếp sống trước của mình như mọi lần. Tuy nhiên, cô ấy không thể nhớ bất cứ điều gì xảy ra sau cái chết của mình khi là Elizabeth. Trong tương lai cô cũng không bao giờ nhớ bất kỳ chi tiết nào khi ở trạng thái giữa hai kiếp. Cô chỉ nhớ những kiếp sống mà thôi.

“Bằng tri thức chúng ta sẽ đến với Thượng đế.” Chúng ta đang đi trên con đường của mình.

Một tuần sau, Catherine ào vào văn phòng của tôi để tiến hành buổi thôi miên tiếp theo. Vốn đã xinh đẹp, giờ đây trong cô còn rạng ngời hơn bao giờ hết. Cô sung sướng thông báo rằng nỗi sợ chết đuối của đời cô đã biến mất. Nỗi sợ ngạt thở của cô gần như bị loại bỏ. Giấc ngủ của cô không còn bị ngắt quãng vì cơn ác mộng về chiếc cầu gãy. Mặc dù cô đã nhớ lại những chi tiết trong ký ức về kiếp trước của mình, cô vẫn chưa thật sự chấp nhận chúng.

Khái niệm về kiếp trước và đầu thai hoàn toàn xa lạ với thế giới quan của cô, thế nhưng những ký ức đó quá sinh động, hình ảnh, âm thanh và hương vị hết sức rõ ràng; ý thức rằng cô có ở đó quá mạnh và tức thời đến nỗi cô cảm thấy mình phải thực sự đã từng ở đó. Cô không nghi ngờ về điều này; những ký ức đó cực kỳ mạnh mẽ. Điều cô băn khoăn là làm thế nào để điều này có thể phù hợp với nền giáo dục và đức tin của mình.

Trong suốt tuần đó tôi đã xem lại giáo trình môn tôn giáo so sánh mà mình đã học trong năm thứ nhất ở đại học Columbia. Tân Ước và Cựu Ước thực sự có đề cập đến hiện tượng đầu thai. Năm 325, hoàng đế La Mã là Constantine Đại đế cùng với mẹ của mình là Helena đã xóa bỏ phần đề cập đến hiện tượng đầu thai trong Tân Ước. Hội đồng Constantinople Đệ nhị họp vào năm 553 khẳng định hành động này và tuyên bố quan điểm đầu thai là tà giáo. Rõ ràng, họ nghĩ rằng quan niệm này sẽ làm suy yếu sức mạnh đang lên của giáo hội khi mang lại cho con người quá nhiều thời gian tìm kiếm sự cứu rỗi. Tuy vậy những thông tin gốc vẫn còn ở đó; những Đức cha đầu tiên của giáo hội đã chấp nhận quan niệm về đầu thai. Gnostics – Clement xứ Alexandria, Origen, thánh Jerome và nhiều vị khác – tin rằng họ đã từng sống trước đó và sẽ tiếp tục sống kiếp khác.

Tuy nhiên, tôi không bao giờ tin vào đầu thai. Thực sự, tôi chưa bao giờ dành nhiều thời gian để nghĩ về điều này. Mặc dù giáo dục tôn giáo ban đầu của tôi dạy một vài thứ về sự tồn tại mơ hồ của “linh hồn” sau khi chết nhưng tôi không bị thuyết phục bởi quan niệm này.

Tôi là anh cả trong một gia đình có bốn người con, tất cả đều cách nhau ba tuổi. Chúng tôi thuộc về một nhà thờ Do Thái giáo bảo thủ ở Red Bank – một thành phố nhỏ gần bờ biển New Jersey. Tôi là người hòa giải và là chính khách của gia đình. Cha tôi chú trọng đến tôn giáo hơn bất kỳ điều gì. Ông cực kỳ nghiêm túc trong chuyện này, như cách ông nhìn nhận mọi mặt của cuộc sống. Thành quả học tập của những đứa con là niềm vui lớn nhất đời ông. Ông dễ cáu kỉnh với những bất hòa trong nhà và sẽ rút lui để mặc cho tôi giải quyết. Điều này hóa ra lại là bước chuẩn bị tuyệt vời cho nghề trị liệu tâm thần, nhưng nhìn lại, tuổi thơ của tôi nặng nề và nhiều trách nhiệm hơn tôi mong muốn. Tôi trở thành một thanh niên cực kỳ nghiêm túc vốn quen với việc gánh lấy quá nhiều trách nhiệm.

Mẹ của tôi luôn thể hiện tình cảm của mình. Không điều gì có thể ngăn cản bà. Là người đơn giản hơn cha tôi, bà thường dùng cảm giác tội lỗi, thánh tử đạo, giới hạn của sự xấu hổ, tên tuổi gia đình như những công cụ điều khiển con cái không chút dao động. Tuy nhiên, bà hiếm khi buồn bã và chúng tôi luôn có thể dựa vào tình yêu và sự giúp đỡ của mẹ.

Cha tôi có một công việc tốt là nhà nhiếp ảnh và mặc dù chúng tôi luôn có nhiều thực phẩm nhưng tiền bạc lại rất hạn hẹp. Peter, em út của tôi được sinh ra khi tôi lên chín. Sáu người chúng tôi sống trong một căn hộ nhỏ có vườn và hai phòng ngủ.

Cuộc sống trong căn hộ nhỏ này ồn ào, náo nhiệt và tôi đã trốn trong những cuốn sách của mình. Tôi đọc không ngừng khi không chơi bóng rổ hay bóng ném – niềm đam mê thuở nhỏ của tôi. Tôi biết rằng học hành là cách thoát khỏi thành phố nhỏ này, vì thế tôi luôn đứng hạng nhất hay hạng nhì trong lớp.

Khi nhận được học bổng toàn phần của đại học Columbia, tôi là một thanh niên nghiêm túc và chăm chỉ. Thành công học thuật tiếp tục đến một cách dễ dàng. Tôi học khoa Hóa và tốt nghiệp với bằng danh dự. Tôi quyết định trở thành bác sỹ tâm lý vì lĩnh vực này kết hợp được sự quan tâm của tôi với khoa học và niềm say mê làm việc với trí óc của con người. Ngoài ra, nghề nghiệp trong lĩnh vực y khoa cũng cho phép tôi thể hiện mối quan tâm và sự đồng cảm với người khác. Trong thời gian đó tôi gặp Carole trong một kỳ nghỉ hè ở khách sạn Catskill Mountain, nơi tôi làm công việc rửa chén và cô là một vị khách. Cả hai đều cảm thấy bị hấp dẫn, có cảm giác hết sức quen thuộc và thoải mái với nhau. Chúng tôi đã hòa hợp, hẹn hò, yêu nhau và đính hôn vào năm thứ ba của tôi ở đại học Columbia. Cô ấy vừa tươi tắn vừa xinh đẹp. Mọi thứ dường như được sắp đặt đâu vào đấy. Hiếm có chàng trai trẻ nào lo lắng về sự sống và cái chết cũng như cuộc sống sau khi chết và tôi cũng không phải là ngoại lệ. Tôi đã trở thành một nhà khoa học và học cách suy nghĩ lô-gíc, không hề cảm tính và “thực chứng” .

Trường Y và cuộc sống ở đại học Yale càng mài sắc thêm phương pháp khoa học này. Luận án nghiên cứu của tôi là về hóa học não và vai trò của những chất dẫn truyền tín hiệu thần kinh– những tác nhân truyền thông điệp theo cơ chế hóa học trong các mô não.

Tôi gia nhập ngành mới là tâm thần sinh học, những bác sĩ này phối hợp lý thuyết và kỹ thuật tâm thần truyền thống với ngành khoa học mới về hóa học não. Tôi viết nhiều báo cáo khoa học, thuyết trình tại những hội nghị địa phương lẫn quốc gia và trở thành chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực của mình. Tôi có phần nào dễ bị ám ảnh, tập trung cao độ và cứng rắn nhưng đây là những đặc điểm cần thiết của một bác sỹ. Tôi cảm thấy hoàn toàn sẵn sàng để trị liệu cho bất kỳ ai bước vào văn phòng của mình.

Thế rồi Catherine trở thành Aronda, một cô gái trẻ sống vào năm 1963 trước Công nguyên. Hay phải nói ngược lại nhỉ? Và rồi cô ấy lại xuất hiện ở đây, hạnh phúc hơn bao giờ hết.

Tôi đã từng lo rằng Catherine có thể sợ phải tiếp tục trị liệu. Tuy nhiên, cô đã nóng lòng chuẩn bị cho việc thôi miên và nhanh chóng đi vào trạng thái xuất thần.

“Tôi đang ném những vòng hoa xuống nước. Đây là một buổi lễ. Tóc tôi màu vàng và được tết lại. Tôi mặc váy nâu dát vàng và giày xăng đan. Một vài người đã qua đời, một vài người trong hoàng cung… người mẹ. Tôi là một nô tì trong hoàng cung và tôi phục vụ thức ăn. Chúng tôi ngâm những thi thể này 30 ngày trong nước muối. Chúng được làm khô và nội tạng được lấy ra ngoài. Tôi có thể ngửi nó, mùi của các thi thể.”

Cô ấy đã tự động quay lại kiếp sống của Aronda nhưng ở một giai đoạn khác, lúc nhiệm vụ của cô là xử lí các thi thể sau khi chết.

“Trong một tòa nhà khác”, Catherine tiếp tục, “tôi có thể thấy những thi thể này. Chúng tôi đang tẩm liệm các thi thể. Linh hồn đang chuyển tiếp. Ông sẽ mang theo những gì mình sở hữu, được chuẩn bị cho kiếp sống mới vĩ đại hơn.” Cô ấy đang diễn tả những thứ dường như là quan niệm của người Ai Cập về cái chết và kiếp sau, khác hẳn với niềm tin của chúng ta. Trong tôn giáo đó, bạn có thể mang nó theo mình.

Cô rời khỏi kiếp sống đó và nghỉ ngơi. Cô tạm nghỉ vài phút trước khi đi vào một thời kỳ rất cổ xưa.

“Tôi thấy băng tuyết, treo trong một cái hang… những tảng đá…” Cô mô tả một cách mơ hồ một nơi tối tăm cực khổ và trông cô khó chịu thấy rõ. Sau đó cô mô tả những gì đã thấy về chính mình. “Tôi xấu xí, dơ dáy và hôi hám.” Cô chuyển đến một thời gian khác.

“Có vài tòa nhà và một chiếc xe kéo có bánh bằng đá. Tóc tôi màu nâu và có một chiếc khăn trên đó. Chiếc xe có chất rơm. Tôi đang hạnh phúc. Cha tôi ở đó… Ông ấy đang ôm tôi. Đó là… đó là Edward [vị bác sỹ nhi khoa đã khăng khăng bảo cô gặp tôi]. Ông ấy là cha tôi. Chúng tôi sống trong một thung lũng có cây cối. Có những cây sung và ô liu trong sân. Mọi người viết trên giấy. Trên đó có những dấu hiệu buồn cười, trông như những chữ cái. Mọi người viết suốt ngày, xây dựng một thư viện. Đó là năm 1536 trước công nguyên. Đất đai cằn cỗi. Cha tôi tên là Perseus.”

Tuy năm không trùng khớp chính xác nhưng tôi chắc chắn cô ấy đang ở trong cùng kiếp sống mà cô đã tường thuật ở buổi trị liệu tuần trước. Tôi hướng dẫn cô vượt nhanh thời gian nhưng vẫn ở trong kiếp đó.

“Cha tôi biết ông [nghĩa là tôi]. Ông và cha tôi nói chuyện về mùa màng, luật pháp và nhà nước. Ông ấy bảo rằng ông rất thông minh và tôi phải nghe lời ông.” Tôi hướng dẫn cô tiếp tục đẩy thời gian đi xa hơn.

“Ông ấy [cha] đang nằm trong một căn phòng tối tăm. Ông ấy già và bệnh. Trời lạnh… Tôi cảm thấy hết sức trống rỗng.” Cô tiến tới thời gian mình chết. “Giờ tôi đã già và rất yếu. Con gái tôi cũng ở đó, cạnh giường tôi. Chồng của tôi đã chết rồi. Chồng của con gái tôi cũng ở đó, có cả con cái của chúng nữa. Có rất nhiều người vây quanh tôi.”

Lần này cái chết của cô thật yên lành. Cô đang bay lơ lửng. Lơ lửng? Điều này nhắc tôi nhớ đến những nghiên cứu của bác sỹ Raymond Moody về những nạn nhân trải qua cận tử. Những đối tượng nghiên cứu đó cũng nhớ lại tình trạng bay lơ lửng, sau đó bị kéo ngược về thân thể của họ. Tôi đã đọc cuốn sách của ông ta nhiều năm trước và giờ đây tự nhắc mình đọc lại nó. Tôi tự hỏi Catherine có thể nhớ thêm được điều gì sau khi cô ấy chết nhưng cô ấy chỉ nói “Tôi chỉ bay lơ lửng”. Tôi đánh thức cô và kết thúc buổi trị liệu.

Với niềm khao khát vô tận mới, tôi săn lùng bất kỳ báo cáo khoa học nào đã từng xuất bản về sự đầu thai khắp các thư viện y khoa. Tôi đã nghiên cứu những công trình của Ian Stevenson, tiến sỹ y khoa, giáo sư tâm thần học danh tiếng của đại học Virginia, người đã xuất bản rất nhiều sách trong y văn tâm thần học. Bác sỹ Stevenson đã thu thập hơn hai ngàn trường hợp những đứa trẻ có trí nhớ và trải nghiệm kiểu đầu thai. Rất nhiều em thể hiện khả năng nói một ngoại ngữ mà mình chưa hề tiếp xúc (xenoglossy). Những báo cáo của ông được thực hiện hết sức thận trọng, thấu đáo và rất đáng tin cậy.

Tôi đã đọc một bài tổng quan khoa học xuất sắc của Edgar Mitchell. Tôi đã hết sức quan tâm xem xét những dữ liệu ngoại cảm của đại học Duke và những bài viết của giáo sư C. J. Ducasse ở đại học Brown và chú tâm phân tích những nghiên cứu của BS. Martin Ebon, BS. Helen Wambach, BS. Gertrude Schmeidler, BS. Frederick Lenz và BS. Edith Fiore. Càng đọc tôi càng muốn đọc thêm nữa. Tôi bắt đầu nhận ra rằng dù tôi tự cho là mình được giáo dục tốt về mọi khía cạnh của trí tuệ nhưng nền tảng giáo dục của tôi vẫn còn rất hạn hẹp. Có những thư viện chứa đầy nghiên cứu và y văn như thế mà rất ít người biết đến. Rất nhiều nghiên cứu đã được các bác sỹ lâm sàng và nhà khoa học tiến hành, xác nhận và lặp lại. Lẽ nào tất cả bọn họ đều sai lầm và bị đánh lừa? Tuy các bằng chứng tỏ ra cực kỳ thuyết phục, tôi vẫn cứ nghi ngờ. Dù có nhiều hay không có bằng chứng thì tôi thấy vẫn khó tin.

Cả Catherine và tôi – theo một cách riêng – đều đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của trải nghiệm này. Catherine tiến bộ về cảm xúc, còn tôi thì mở rộng chân trời tư duy của mình. Catherine đã bị nỗi sợ giày vò trong nhiều năm và cuối cùng cô cũng đang cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Dù đó là trí nhớ thật hay ảo tưởng sống động thì tôi cũng đã tìm được cách để giúp đỡ cô ấy và tôi sẽ không ngừng lại lúc này.

Trong một khoảnh khắc tôi đã nghĩ về tất cả những điều đó khi Catherine chìm vào trạng thái xuất thần trong lúc bắt đầu buổi trị liệu tiếp theo. Trước khi tiến hành thôi miên, cô đề cập đến giấc mơ về một trò chơi diễn ra trên những bậc cấp cũ bằng đá, bàn cờ có những lỗ trên đó. Giấc mơ hình như đặc biệt sống động đối với cô. Giờ đây tôi bảo cô quay lại vượt ngoài những giới hạn không gian và thời gian thông thường, hãy quay lại và xem thử giấc mơ của cô có nguồn gốc trong một kiếp sống nào trước đây không.

“Tôi thấy những bậc cấp dẫn đến một cái tháp… nhìn bao quát cả núi và biển. Tôi là một cậu bé… Tóc tôi vàng… mái tóc lạ lùng. Y phục của tôi ngắn, nâu và trắng, làm bằng da thú. Một vài người đàn ông đang ở trên đỉnh tháp, đang quan sát… lính gác. Họ rất dơ bẩn. Họ đang chơi trò gì đó như đánh cờ nhưng không phải. Bàn cờ tròn, không phải vuông. Họ chơi bằng những vật sắc bén, giống dao găm, gắn vừa vào những cái lỗ. Những vật này có đầu thú vật trên đó. Địa phận Kirustan [ghi theo phát âm]? Của Hà Lan khoảng năm 1473.”

Tôi hỏi cô tên vùng đất cô sống và liệu cô có thể thấy hay nghe đó là năm nào không. “Hiện tôi đang ở một cảng biển; đất chạy xuống tận biển. Có một pháo đài… và nước. Tôi thấy một túp lều… mẹ tôi đang nấu ăn trong một cái nồi đất. Tên tôi là Johan.”

Cô đang tiến dần đến cái chết của mình. Tại thời điểm này trong phiên trị liệu của chúng tôi, tôi vẫn đang tìm kiếm chỉ một sự kiện gây sang chấn chủ chốt có thể là nguyên nhân hay giải thích được những triệu chứng trong cuộc sống hiện tại của cô. Ngay cả khi những hình dung rất rõ ràng này là hoang tưởng và tôi cũng không chắc về điều đó thì những gì cô ấy tin hay nghĩ cũng vẫn là nền tảng cho những triệu chứng của cô ấy. Sau cùng, tôi đã từng thấy nhiều người bị sang chấn bởi chính những giấc mơ của họ. Một vài người không thể nhớ được là những sang chấn tuổi thơ của họ có thực sự xảy ra hay chỉ xảy đến trong giấc mơ, tuy nhiên ký ức của sang chấn đó vẫn ám ảnh cuộc sống trưởng thành của họ.

Điều tôi chưa hình dung được hoàn toàn là sức nặng của những tác động gốc rễ kéo dài trong nhiều ngày, chẳng hạn sự chỉ trích nặng nề của bố mẹ có thể gây ra những sang chấn tâm lý thậm chí còn nặng hơn một sự kiện nào đó. Vì những tác động hủy hoại này trộn lẫn vào cuộc sống hàng ngày nên chúng thậm chí còn khó nhớ lại hay loại bỏ hơn. Một đứa trẻ thường bị chỉ trích có thể mất đi sự tự tin và lòng tự trọng ngang với một người từng bị làm mất mặt trong một ngày kinh khủng nào đó. Một đứa trẻ trong gia đình nghèo khó và mỗi ngày đều thiếu thốn thức ăn cũng sẽ gặp phải những vấn đề tâm lý như một đứa trẻ đột nhiên trải qua một giai đoạn gần chết đói. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng trọng lượng của tác động tiêu cực mỗi ngày trong một thời gian dài phải được nhận biết và giải quyết với sự quan tâm không khác gì đối với một sự kiện gây sang chấn chính.

Catherine bắt đầu nói.

“Có những con thuyền, giống những chiếc ca nô, sơn màu sáng. Vùng Providence(1). Chúng tôi có vũ khí, giáo, ná bắn đá, cung và tên lớn hơn. Có những mái chèo to, lạ mắt trên thuyền… mọi người đều phải chèo. Chúng tôi có thể thua trận; trời rất tối. Không có ánh sáng. Tôi sợ. Có những chiếc thuyền khác đi cùng chúng tôi [rõ ràng là một đội đột kích]. Tôi sợ những con thú. Chúng tôi ngủ trên những tấm da thú hôi thối, bẩn thỉu. Chúng tôi đang tuần tra. Giày của tôi trông rất buồn cười, giống như cái túi… cột ở gót… bằng da thú. [Nghỉ lâu] Mặt tôi nóng vì lửa. Người phe tôi đang giết những người khác nhưng tôi thì không. Tôi không muốn giết chóc. Con dao nằm trong tay tôi.”

Thình lình cô ú ớ và há hốc miệng để thở. Cô cho biết một chiến binh bên địch đang siết cổ cô từ phía sau và cắt cổ cô bằng dao của hắn. Cô thấy khuôn mặt của kẻ giết mình trước khi chết. Đó là Stuart. Lúc đó anh ta trông khác hẳn nhưng cô biết đó là anh ta. Joan đã chết ở tuổi 21.

Tiếp đó cô thấy mình đang bay lơ lửng, quan sát khung cảnh bên dưới. Cô trôi dạt lên mây, cảm thấy lúng túng và xáo trộn. Thình lình, cô thấy mình đang bị kéo vào một nơi “nhỏ, ấm”. Cô sắp được sinh ra.

“Có ai đó đang giữ tôi”, cô thì thầm chậm rãi và mơ màng, “vài người đang đỡ đẻ. Cô ấy mặc y phục xanh lá với tạp dề trắng. Cô ấy đội nón trắng gấp ngược ra sau ở các góc. Căn phòng có những cửa sổ trông rất buồn cười… rất nhiều ngăn. Tòa nhà bằng đá. Mẹ tôi có mái tóc dài, sẫm màu. Bà ấy muốn bế tôi. Có một chiếc áo ngủ xù xì trên mình mẹ tôi. Cọ xát vào đó làm tôi đau. Thật tuyệt vì tôi lại được phơi nắng và cảm nhận sự ấm áp… Đó là… đó cũng là mẹ tôi bây giờ!”

Trong phiên trị liệu trước, tôi đã hướng dẫn cô quan sát kỹ những người quan trọng trong những kiếp sống đó để xem có thể nhận ra họ trong kiếp sống hiện tại của Catherine hay không. Theo hầu hết các tác giả thì một nhóm linh hồn thường có xu hướng đầu thai chung hết lần này đến lần khác, giải quyết cho xong nghiệp của họ (những ân oán đối với người khác và chính mình, những bài học cần phải học) trải dài trong nhiều kiếp sống.

Trong nỗ lực để hiểu vở kịch đặc biệt lạ lùng mà cả thế giới không hề biết đang xảy ra trong văn phòng yên tĩnh, mờ sáng của mình, tôi tìm cách xác nhận thông tin này. Tôi cảm thấy cần phải áp dụng những phương pháp khoa học mà tôi đã sử dụng nghiêm ngặt suốt 15 năm qua để đánh giá những điều lạ thường nhất thốt ra từ miệng của Catherine.

Giữa những buổi trị liệu, bản thân Catherine ngày càng có thêm khả năng ngoại cảm. Cô ấy có những linh cảm đúng về con người và sự việc. Trong khi bị thôi miên, cô bắt đầu đoán biết những câu hỏi của tôi trước khi tôi kịp hỏi. Nhiều giấc mơ của cô ấy có khuynh hướng biết trước sự việc hay mang tính tiên tri.

Có một dịp nọ, khi bố mẹ cô ấy ghé thăm, cha cô ấy nghi ngờ về những gì đang xảy ra. Để chứng minh cho ông ấy thấy mọi chuyện là thật, cô dẫn ông đến một trường đua ngựa. Ở đó, ngay trước mắt ông, cô đã chọn đúng người thắng mỗi cuộc đua. Ông ấy đã kinh ngạc. Khi biết rằng mình đã chứng minh được điều mình muốn, cô lấy tất cả tiền thắng cược, ra khỏi trường đua và tặng cho người đi đường nghèo khổ đầu tiên mà mình gặp. Cô cảm thấy rằng sức mạnh tâm linh mới mà mình có được không thể dùng cho việc thu lợi tài chính. Đối với cô, chúng có ý nghĩa lớn lao hơn nhiều. Cô bảo tôi rằng trải nghiệm này làm cô hơi sợ hãi nhưng cô rất vui với những tiến bộ đạt được và nóng lòng tiếp tục với liệu pháp trở về quá khứ này. Tôi vừa sốc vừa cảm thấy hoang đường về khả năng ngoại cảm của cô, đặc biệt là chuyện xảy ra ở trường đua. Đó là một bằng chứng cụ thể. Cô đã chọn đúng vé thắng của từng cuộc đua. Đó không thể là chuyện ngẫu nhiên. Có chuyện gì đó rất lạ lùng đã xảy ra trong vài tuần qua và tôi phải đấu tranh để giữ vững quan điểm của mình. Tôi không thể bác bỏ khả năng tâm linh của cô ấy. Và nếu những khả năng này là thật và có thể chứng minh cụ thể thì phải chăng những cuộc đầu thai của cô trong những kiếp trước cũng là thật?

Giờ đây cô quay lại với kiếp sống mà cô vừa được sinh ra. Lần đầu thai này dường như rất gần đây nhưng cô không thể xác định được đó là năm nào. Tên cô là Elizabeth.

“Giờ tôi lớn hơn, có một em trai và hai em gái. Tôi thấy bàn ăn tối… cha tôi ở đó… ông ấy là Edward [vị bác sỹ nhi khoa, trở lại vai trò cha cô ấy một lần nữa]. Cha và mẹ tôi lại gây gổ. Thức ăn là khoai tây và đậu. Ông ấy tức giận vì thức ăn nguội lạnh. Họ cãi nhau rất thường xuyên. Ông ấy luôn uống rượu… ông ấy đánh mẹ tôi. [Giọng của Catherine sợ hãi và cô ấy run thấy rõ.] Ông ấy xô bọn trẻ. Ông ấy không giống như trước đây, không phải cùng một người. Tôi không thích ông ấy. Tôi mong ông ấy đi đi cho khuất mắt.” Cô ấy nói như một đứa trẻ.

Cách tôi hỏi cô ấy trong những buổi trị liệu này chắc chắn rất khác với những gì tôi thường dùng trong tâm lý trị liệu truyền thống. Tôi đóng vai trò thiên về hướng dẫn cho Catherine, cố để tìm hiểu một kiếp sống trong một hay hai giờ, tìm kiếm những sự kiện gây sang chấn và những kiểu mẫu chấn thương có thể giải thích cho những triệu chứng hiện tại của cô ấy. Phương pháp trị liệu truyền thống được tiến hành theo từng bước thoải mái và chi tiết hơn. Mỗi từ mà bệnh nhân chọn đều được phân tích sắc thái và ngụ ý. Mỗi biểu hiện trên gương mặt, mỗi cử động của cơ thể, mỗi biến chuyển trong giọng nói đều được xem xét và đánh giá. Từng biểu hiện cảm xúc được phân tích kỹ lưỡng. Những kiểu hành vi được ráp nối cẩn thận. Tuy nhiên, với Catherine, nhiều năm có thể bay vèo trong vài phút. Những buổi trị liệu của Catherine giống như vừa lái chiếc Indy 500(2) hết ga… vừa chọn lựa những khuôn mặt trong đám đông.

Tôi hướng sự chú ý trở lại với Catherine và yêu cầu cô đi nhanh hơn.

“Giờ tôi đã kết hôn. Nhà của tôi có một phòng lớn. Chồng tôi có mái tóc vàng. Tôi không biết anh ta. [Nghĩa là anh ấy không xuất hiện trong kiếp sống hiện tại của Catherine]. Chúng tôi chưa có con…. Anh ấy rất tốt với tôi. Chúng tôi yêu nhau và chúng tôi hạnh phúc.” Rõ ràng cô ấy đã thoát khỏi sự đàn áp trong ngôi nhà của bố mẹ mình. Tôi hỏi là liệu cô ấy có thể xác định được vùng đất mà mình đang sống không.

“Brennington?” Catherine ngần ngừ thì thầm. “Tôi thấy những cuốn sách với bìa cũ kĩ trông khá buồn cười. Cuốn lớn được cột lại bằng dây da. Đó là Kinh thánh. Có những chữ cái lớn hoa mỹ… chữ Gaelic(3).”

Tới đây cô nói vài từ mà tôi không thể xác định. Chúng có phải là tiếng Gaelic hay không tôi không biết.

“Chúng tôi sống sâu trong đất liền, không gần biển. Quận… Brennington? Tôi thấy một nông trại với heo và cừu. Đây là nông trại của chúng tôi.” Cô lại đi nhanh hơn. “Chúng tôi có hai con trai… Đứa lớn đang làm đám cưới. Tôi có thể thấy chóp nhọn của nhà thờ… một tòa nhà bằng đá rất cổ.” Thình lình đầu của cô bị thương và Catherine bị đau, ôm lấy thái dương bên trái. Cô cho biết là mình bị té trên những bậc thang bằng đá nhưng cô đã hồi phục. Cô chết già ở nhà cùng sự hiện diện của gia đình.

Cô lại bay lơ lửng ngoài cơ thể sau khi chết nhưng lần này cô không e ngại hay bối rối.

“Tôi nhận ra một vùng sáng rực rỡ. Nó thật kỳ diệu; tôi nhận năng lượng từ nguồn sáng này.” Cô ấy nghỉ ngơi sau khi chết, giữa hai kiếp sống. Nhiều phút yên lặng trôi qua. Thình lình cô ấy nói nhưng không phải với giọng thì thầm chậm rãi như thường dùng trước đây. Giọng cô giờ đây khàn và lớn, không chút ngập ngừng.

“Nhiệm vụ của chúng ta là học tập để trở nên giống như Thượng đế thông qua tri thức. Chúng ta hiểu biết quá ít. Ông ở đây để làm thầy của tôi. Tôi có rất nhiều thứ phải học. Thông qua tri thức chúng ta sẽ đến gần Thượng đế và lúc đó chúng ta có thể nghỉ ngơi. Rồi chúng ta quay lại để dạy dỗ và giúp những người khác.”

Tôi không thốt nên lời. Đây là một bài học từ sau cái chết của cô ấy, ở trạng thái giữa hai kiếp sống. Nguồn gốc của điều này là gì? Người này hoàn toàn không có chút gì giống với Catherine. Cô ấy không bao giờ nói như thế, dùng từ như thế, diễn đạt như thế. Thậm chí âm sắc giọng nói của cô cũng hoàn toàn khác.

Vào thời điểm đó tôi không nhận ra rằng dù Catherine thốt ra những từ đó nhưng nguồn gốc của những ý tưởng đó không phải là từ cô. Cô chỉ truyền lại những gì đang được nghe. Sau đó cô xác định những Bậc thầy, những linh hồn đã tiến hóa cao không trình hiện qua cơ thể, chính là người nói. Những vị ấy nói với tôi thông qua cô ấy. Catherine không những quay lại với những kiếp sống trước đây mà giờ đây cô còn có thể truyền tri thức từ những gì vượt ra ngoài thế giới của mình. Tôi đấu tranh để giữ vững sự khách quan của mình.

Một chiều không gian mới đã được thêm vào. Catherine chưa bao giờ đọc những nghiên cứu của BS. Elisabeth Kübler-Ross hay BS. Raymond Moody, cả hai đều viết về những trải nghiệm cận tử. Cô cũng chưa từng nghe đến Tử thư Tây Tạng (Tibetan Book of the Death). Tuy nhiên cô đang thấy những trải nghiệm tương tự những gì được mô tả trong những công trình này. Đây cũng là chứng cớ. Chỉ cần có nhiều dữ kiện hơn, những chi tiết cụ thể hơn là tôi có thể khẳng định. Chủ nghĩa hoài nghi của tôi bị dao động nhưng vẫn còn nguyên. Có thể cô ấy đã đọc về những nghiên cứu cận tử trong một bài báo hay đã xem một cuộc phỏng vấn trên chương trình truyền hình. Dù cô ấy bác bỏ bất kỳ trí nhớ có ý thức nào về một bài báo hay chương trình truyền hình như thế nhưng chắc cô đã lưu giữ những ký ức tiềm thức. Tuy nhiên cô còn vượt ra ngoài những ghi chép trước đây và truyền tải một thông điệp từ trạng thái ở giữa sự sống và cái chết. Tôi ước gì mình có được nhiều dữ kiện hơn.

Sau khi tỉnh lại, Catherine nhớ mọi chi tiết về kiếp sống trước của mình như mọi lần. Tuy nhiên, cô ấy không thể nhớ bất cứ điều gì xảy ra sau cái chết của mình khi là Elizabeth. Trong tương lai cô cũng không bao giờ nhớ bất kỳ chi tiết nào khi ở trạng thái giữa hai kiếp. Cô chỉ nhớ những kiếp sống mà thôi.

“Bằng tri thức chúng ta sẽ đến với Thượng đế.” Chúng ta đang đi trên con đường của mình.

Bình luận