Khi Catherine đến vào buổi hẹn tiếp theo một tuần sau đó, tôi đã sẵn sàng để bật cuốn băng của cuộc đối thoại khó tin vào tuần trước. Dù sao, cô đã mang lại cho tôi bài thơ của cõi trời ngoài việc nhớ lại kiếp trước. Tôi bảo cho cô ấy biết có thông tin liên quan đến cô từ trải nghiệm sau khi chết, thậm chí ngay cả khi cô không hề nhớ chút gì về trạng thái tâm linh hay trạng thái trung gian đó. Cô ngần ngại không muốn nghe. Tình trạng được cải thiện và cảm giác hạnh phúc đangtràn ngập, cô không có nhu cầu phải nghe chuyện này. Hơn nữa, tất cả những chuyện này hơi “kỳ quặc”. Tôi thuyết phục cô ấy lắng nghe. Đó là những điều tuyệt diệu, đẹp đẽ, khích lệ tinh thần và đều từ cô mà ra. Tôi muốn chia sẻ điều đó với cô. Cô ấy lắng nghe giọng thì thầm dịu dàng của mình trong băng chỉ vài phút rồi bảo tôi tắt đi. Cô bảo nó quá lạ lùng và khiến cô không thoải mái. Tôi lặng lẽ nhớ lại “điều này dành cho ông không phải cho cô ấy.”
Tôi tự hỏi không biết những buổi trị liệu này sẽ tiếp tục trong bao lâu vì cô ấy mỗi tuần lại thêm thuyên giảm. Giờ đây chỉ còn vài gợn sóng trong mặt hồ từng nổi bão tố của cô ấy. Cô vẫn còn sợ hãi những không gian đóng kín và mối quan hệ với Stuart vẫn đầy bất trắc. Ngoài hai điều đó thì tình trạng của cô tiến bộ rõ rệt.
Chúng tôi đã có những buổi tâm lý trị liệu không theo truyền thống trong nhiều tháng. Kiểu trị liệu đó không cần thiết. Chúng tôi có thể tán chuyện gẫu trong vài phút để nắm lại những sự kiện trong tuần, rồi nhanh chóng chuyển sang việc trở về quá khứ bằng thôi miên. Cho dù là nhờ thật sự nhớ lại những sang chấn lớn hay những sang chấn nhỏ tích tụ theo thời gian hoặc nhờ quá trình sống lại những kinh nghiệm trước đây thì rõ ràng Catherine cũng đang được chữa lành. Cô không còn sợ cái chết hay tình trạng hấp hối. Cô cũng không còn sợ tình trạng mất kiểm soát nữa. Hiện thời, những nhà tâm lý trị liệu thường dùng thuốc an thần liều cao và những dược phẩm chống trầm cảm để chữa cho những người có triệu chứng giống như của Catherine. Ngoài những dược phẩm này, bệnh nhân thường phải tuân theo các trị liệu tâm lý gắt gao hay tham dự những phiên chữa trị chứng sợ hãi theo nhóm. Nhiều bác sỹ tâm lý tin rằng những triệu chứng như của Catherine có nguồn gốc sinh học và đó là vì thiếu một hay vài hóa chất trong não.
Khi tôi thôi miên Catherine đến trạng thái xuất thần sâu, tôi nghĩ về sự kỳ diệu và tuyệt vời xảy ra chỉ trong vài tuần nay, không cần dùng thuốc, liệu pháp truyền thống hay liệu pháp nhóm, vậy mà cô ấy đã được chữa lành gần như hoàn toàn. Đây không phải là kìm nén các triệu chứng và cũng không phải là nghiến chặt răng để sống với nó, một cuộc sống chồng chất nỗi sợ. Đây là sự chữa lành, xóa sạch triệu chứng. Và cô ấy rạng rỡ, an lành, hạnh phúc vượt xa mong đợi ngông cuồng nhất của tôi.
Giọng cô lại thì thầm dịu dàng. “Tôi ở trong một tòa nhà, loại có trần dạng mái vòm. Trần nhà xanh dương và vàng kim. Có những người khác ở cùng tôi. Họ mặc… cũ … một loại váy, rất cũ và bẩn. Tôi không biết làm thế nào mà chúng tôi ở đó. Có rất nhiều tượng ở trong phòng. Có vài tác phẩm khác, một vài tác phẩm đặt trên cấu trúc bằng đá. Có một pho tượng lớn bằng vàng ở cuối phòng. Ông ấy hình như… ông ấy rất lớn, có cánh. Trông rất ma quái. Trong phòng rất nóng, rất nóng… Rất nóng vì không có khoảng mở nào. Chúng tôi phải ở xa làng. Chúng tôi đang gặp chuyện gì đó.”
“Cô bệnh phải không?”
“Vâng, tất cả chúng tôi bị bệnh. Tôi không biết chúng tôi mắc bệnh gì nhưng da chúng tôi bị chết. Nó trở nên đen kịt. Tôi cảm thấy rất lạnh. Không khí rất khô, rất hôi. Chúng tôi không thể quay về làng. Chúng tôi phải cách ly. Một vài khuôn mặt bị biến dạng.”
Căn bệnh này nghe rất khủng khiếp, giống như hủi. nếu Catherine đã từng có một kiếp sống xa hoa thì chúng tôi chưa hề gặp được nó. “Cô phải ở đấy bao lâu?”
“Mãi mãi,” cô trả lời tuyệt vọng, “cho đến khi chúng tôi chết. Bệnh này không chữa được.”
“Cô có biết tên căn bệnh không? Nó được gọi là gì?”
“Không. Da trở nên rất khô và nhăn nhúm. Tôi đã ở đó nhiều năm. Cũng có những người chỉ vừa tới. Không có đường về. Chúng tôi bị trục xuất… đến chết.”
Cô ấy đã chịu đựng sự tồn tại cực tệ, sống trong hang.
“Chúng tôi phải săn tìm thức ăn. Tôi thấy một vài loại quái vật hoang dã mà chúng tôi đang săn… có nhiều sừng. Nó màu nâu có nhiều sừng, nhiều sừng lớn.”
“Có ai đến thăm cô không?”
“Không, họ không thể đến gần nếu không cũng sẽ mắc căn bệnh quỷ quái này. Chúng tôi bị nguyền rủa… vì những điều xấu chúng tôi đã làm. Đây là sự trừng phạt dành cho chúng tôi.” Dòng cát thần học của cô thường xuyên đảo chiều trong chiếc đồng hồ cát kiếp sống. Chỉ sau khi chết, ở trạng thái linh hồn mới lại thực sự có được sự chào đón và vững tin thường trực.
“Cô có biết năm nào không?”
“Chúng tôi mất khái niệm thời gian. Chúng tôi bệnh; chúng tôi chỉ chờ chết.”
“Vô vọng sao?” Cảm giác tuyệt vọng lan truyền đến tôi.
“Vô vọng. Tất cả chúng tôi sẽ chết. Và tay tôi rất đau. Toàn thân tôi yếu ớt. Tôi đã già. Tôi di chuyển khó khăn.”
“Chuyện gì xảy ra nếu cô không thể di chuyển nữa?”
“Ông sẽ bị chuyển sang hang khác và bị bỏ ở đó cho đến chết.”
“Họ làm gì với những xác chết này?”
“Họ niêm kín lối vào hang.”
“Có bao giờ họ niêm kín hang trước khi người đó chết không?” Tôi đang tìm kiếm bằng chứng cho nỗi sợ không gian đóng kín của Catherine.
“Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ ở đó. Tôi đang ở trong một căn phòng với những người khác. Rất nóng. Tôi tựa vào tường, chỉ nằm đó.”
“Căn phòng dùng làm gì?”
“Nó dùng để cầu nguyện… rất nhiều vị thần. Nó rất nóng.”
Tôi hướng dẫn cô tiến nhanh thời gian. “Tôi thấy thứ gì đó màu trắng. Tôi thấy thứ gì đó màu trắng, một loại mái che. Họ đang di chuyển ai đó.“
”Cô phải không?”
“Tôi không biết. Tôi rất muốn chết. Cơ thể tôi hết sức đau đớn.” Môi của Catherine mím chặt vì đau, cô cũng thở gấp vì sức nóng trong hang. Tôi hướng dẫn cô đến ngày chết của mình. Cô vẫn thở gấp.
“Khó thở lắm hả?” Tôi hỏi.
“Vâng, trong này rất nóng… cảm giác… quá nóng, rất tối. Tôi không thấy… và tôi không thể cử động.” Cô đang hấp hối, tê liệt và cô đơn trong một cái hang tối, nóng. Miệng hang đã bị niêm kín. Cô sợ hãi và đau khổ. Hơi thở ngày càng gấp và không đều, may mắn là cô đã chết, chấm dứt cuộc đời rất đau đớn.
“Tôi cảm thấy rất nhẹ… như là tôi đang lơ lửng. Ở đây rất sáng. Thật tuyệt vời!”
“Cô có đau không?”
“Không!” Cô tạm dừng và tôi chờ các Bậc thầy. Thế nhưng cô biến mất rất nhanh. “Tôi đang rơi rất nhanh. Tôi đang trở lại với một cơ thể!” dường như cô cũng ngạc nghiên không kém gì tôi.
“Tôi thấy những tòa nhà, những tòa nhà có cột tròn. Có rất nhiều tòa nhà. Chúng ta đang ở ngoài. Có cây cối – cây ô liu – xung quanh. Khung cảnh rất đẹp. Chúng ta đang ngắm nhìn thứ gì đó… Mọi người có những chiếc mặt nạ rất lạ; chúng che mặt họ. Đó là lễ hội. Họ mặc váy dài và che mặt bằng mặt nạ. Họ giả dạng những gì không phải là họ. Họ ở trên một cái bục… bên trên chỗ chúng ta ngồi.”
“Cô đang coi một vở kịch à?”
“Vâng.”
“Trông cô như thế nào? Tự nhìn mình xem.”
“Tóc tôi màu nâu. Thắt bím.” Cô tạm ngưng. Mô tả của cô về chính mình và sự hiện diện của những câu ô liu nhắc tôi nhớ lại kiếp sống giống người Hy Lạp của Catherine trước Thiên chúa giáng sinh 1500 năm, lúc tôi là thầy Diogenes của cô. Tôi quyết định điều tra.
“Cô có biết ngày tháng không?”
“Không.”
“Có ai ở với cô mà cô biết không?”
“Có, chồng tôi đang ngồi cạnh tôi. Tôi không biết anh ấy” [trong đời hiện tại của cô ấy].
“Cô có con không?”
“Hiện tôi đang ở với con mình.” Cách chọn từ của cô thật thú vị, hơi cổ xưa và không giống chút gì với kiểu cách của Catherine lúc bình thường.
“Cha cô có ở đó không?”
“Tôi không thấy ông ấy. Ông đang có mặt ở đó… nhưng không ở với tôi.” Vậy là tôi đoán đúng. Chúng tôi đang quay ngược về 35 thế kỷ trước.
“Tôi làm gì ở đó?”
“Ông chỉ quan sát, ông còn dạy học. Ông dạy… chúng tôi học với ông… hình vuông và hình tròn, những thứ lạ lùng. Diogenes, ông ở đó.”
“Cô còn biết gì về tôi nữa không?”
“Ông đã già. Chúng ta hình như có họ hàng… ông là anh mẹ tôi.”
“Cô có biết những người khác trong gia đình tôi không?”
“Tôi biết vợ ông… và con ông. Ông có con trai. Hai người đó lớn hơn tôi. Mẹ tôi đã mất; bà mất lúc còn rất trẻ.”
“Cha cô đã nuôi nấng cô?”
“Vâng, nhưng giờ tôi đã kết hôn.”
“Cô đang mong có con?”
“Vâng. Tôi sợ. Tôi không muốn chết khi đang sinh con.”
“Có phải điều đó đã xảy đến với mẹ cô?”
“Vâng.”
“Và cô sợ nó cũng sẽ xảy đến với cô?”
“Nó xảy ra nhiều lần.”
“Đây là con đầu lòng của cô à?”
“Vâng; tôi sợ. Tôi hy vọng chuyện này sẽ qua nhanh. Tôi rất mập. Tôi di chuyển rất bất tiện… trời lạnh.” Cô tự mình tiến nhanh về thời gian. Đứa bé sắp được sinh ra. Catherine chưa bao giờ sinh con còn tôi thì không đỡ đẻ ca nào trong 14 năm qua, kể từ những phiên trực sản khoa ở trường y.
“Cô đang ở đâu?” tôi hỏi.
“Tôi đang nằm trên một tảng đá. Nó rất lạnh. Tôi đang đau… Ai đó phải giúp tôi. Ai đó phảigiúp tôi.” Tôi bảo cô hãy thở sâu; đứa bé sẽ được sinh ra không đau đớn. Cơn chuyển dạ của cô kéo dài thêm một vài phút và rồi đứa bé được sinh ra. Cô có một đứa con gái.
“Giờ cô cảm thấy đỡ hơn chưa?”
“Rất yếu… rất nhiều máu!”
“Cô có biết mình sẽ đặt tên gì cho bé gái không?”
“Không, tôi mệt quá… Tôi muốn con của tôi.”
“Con cô đây,” tôi nói theo quán tính, “một bé gái.”
“Vâng, chồng tôi rất vui.” Cô kiệt sức. Tôi hướng dẫn cô ngủ một chút để có thể phục hồi khi tỉnh lại. Sau một hay hai phút, tôi đánh thức cô khỏi giấc ngủ.
“Giờ cô thấy khá hơn chứ?”
“Vâng… Tôi thấy thú vật. Chúng đang mang thứ gì đó trên lưng. Chúng đang mang những chiếc giỏ. Có rất nhiều thứ trong giỏ… thức ăn… vài trái cây màu đỏ…”
“Một vùng đất đẹp phải không?”
“Vâng, với nhiều thức ăn.”
“Cô có biết tên của vùng đất không? Cô gọi nó là gì khi có người lạ hỏi tên của ngôi làng?”
“Cathenia… Cathenia.”
“Nghe như một thị trấn Hy Lạp,” tôi gợi ý.
“Tôi không biết. Ông có biết không? Ông đã đi khỏi làng và quay về. Tôi thì không. ” Đây là điều tréo ngoe. Vì trong kiếp sống đó, tôi là cậu của cô ấy, già hơn và thông thái hơn, cô ấy đang hỏi tôi có biết câu trả lời cho chính câu hỏi của tôi không. Không may là tôi không thể truy cập thông tin đó.
“Cô sống suốt đời trong ngôi làng này ư?” tôi hỏi.
“Vâng,” cô thì thầm, “nhưng ông thì đi đây đi đó nên ông biết những gì ông dạy. Ông đi khắp nơi để học, học về những vùng đất… những con đường giao thương khác nhau để ông có thể vẽ chúng và làm bản đồ… ông già rồi. Ông đi với những người trẻ hơn vì ông hiểu được bản đồ. Ông rất thông thái.”
“Cô muốn nói những bản đồ nào? Bản đồ các vì sao?”
“Ông, ông hiểu các ký hiệu. Ông có thể giúp họ để làm… giúp họ làm bản đồ.”
“Cô có nhận biết những người khác trong làng không?”
“Tôi không biết họ … nhưng tôi biết ông.”
“Được rồi. Mối quan hệ của chúng ta như thế nào?”
“Rất tốt. Ông rất tốt bụng. Tôi rất thích ngồi cạnh ông; rất thoải mái… Ông giúp chúng tôi. Ông đã giúp chị tôi…”
“Dù vậy thì cũng sẽ đến lúc tôi phải rời xa cô vì tôi đã già rồi.”
“Không.” Cô chưa sẵn sàng để đón nhận cái chết của tôi. “Tôi thấy vài loại bánh mì, bánh dẹt, rất dẹt và mỏng.”
“Có phải mọi người ăn loại bánh mì này không?”
“Đúng, cha tôi, chồng tôi và tôi. Cả những người khác trong làng nữa.”
“Đây là dịp gì vậy?”
“Đó là một vài… một vài lễ hội.”
“Cha cô có ở đó không?”
“Có.”
“Con cô có ở đó không?”
“Có nhưng con bé không ở với tôi. Nó ở với chị tôi.”
“Hãy nhìn kỹ chị cô,” tôi gợi ý, tìm cách nhận ra một nhân vật quan trọng trong kiếp sống hiện tại của Catherine.
“Vâng. Tôi không biết cô ấy.”
“Cô có nhận ra cha mình không?”
“Có… có… Edward. Có những cây sung, sung và ô liu… và trái cây màu đỏ. Có bánh mì dẹt. Và họ cũng giết một vài con cừu. Họ đang quay cừu.”Có một khoảng lặng khá lâu. “Tôi thấy thứ gì đó màu trắng….” Cô lại tự mình tiến nhanh về thời gian. “Nó màu trắng… đó là một chiếc hộp vuông. Đó là nơi người ta đặt người chết.”
“Có ai đã chết à?”
“Vâng… cha tôi. Tôi không thích nhìn vào ông ấy. Tôi không muốn thấy ông ấy.”
“Cô có phải nhìn không?”
“Có. Họ sẽ mang ông ấy đi mai táng. Tôi rất buồn.”
“Vâng, tôi biết. Cô có mấy người con?” Con người phóng viên trong tôi không để yên cho cô ấy đau buồn.
“Tôi có ba con, hai trai và một gái.” Sau khi trả lời rất trách nhiệm câu hỏi của tôi, cô quay về với nỗi đau của mình. “Họ đặt thi thể của ông bên dưới một thứ gì đó, bên dưới một loại tấm phủ…” Trông cô rất buồn.
“Có phải tôi cũng chết vào thời gian này không?”
“Không. Chúng ta đang uống nước nho, nước nho trong một chiếc tách.”
“Giờ đây tôi trông như thế nào?”
“Ông rất, rất già.”
“Cô cảm thấy khá hơn chưa?”
“Không! Khi ông chết tôi sẽ rất đơn độc.”
“Cô sống lâu hơn con của mình sao? Chúng sẽ chăm sóc cho cô.”
“Nhưng ông biết rất nhiều.” Giọng cô giống như của một bé gái.
“Cô sẽ vượt qua thôi. Rồi cô cũng sẽ biết nhiều mà. Cô sẽ ổn thôi.” Tôi trấn an cô và dường như cô ấy đang an tâm nghỉ ngơi.
“Giờ cô đang an bình hơn phải không? Hiện cô đang ở đâu?”
“Tôi không biết.” Rõ ràng cô đã chuyển qua trạng thái linh hồn, thậm chí dù cô không trải qua cái chết ở kiếp sống đó. Tuần này chúng tôi đã trải qua hai kiếp sống với nhiều chi tiết đáng kể. Tôi chờ các Bậc thầy nhưng Catherine tiếp tục nghỉ ngơi. Sau khi chờ đợi thêm vài phút, tôi hỏi cô ấy có thể trò chuyện với các Tâm linh Bậc thầy không.
“Tôi không đạt đến được không gian đó,” cô giải thích. “Tôi không thể nói khi chưa đến lúc.”
Cô đã không đạt đến không gian đó. Sau khi chờ đợi rất lâu, tôi đưa cô thoát khỏi trạng thái xuất thần.
Khi Catherine đến vào buổi hẹn tiếp theo một tuần sau đó, tôi đã sẵn sàng để bật cuốn băng của cuộc đối thoại khó tin vào tuần trước. Dù sao, cô đã mang lại cho tôi bài thơ của cõi trời ngoài việc nhớ lại kiếp trước. Tôi bảo cho cô ấy biết có thông tin liên quan đến cô từ trải nghiệm sau khi chết, thậm chí ngay cả khi cô không hề nhớ chút gì về trạng thái tâm linh hay trạng thái trung gian đó. Cô ngần ngại không muốn nghe. Tình trạng được cải thiện và cảm giác hạnh phúc đangtràn ngập, cô không có nhu cầu phải nghe chuyện này. Hơn nữa, tất cả những chuyện này hơi “kỳ quặc”. Tôi thuyết phục cô ấy lắng nghe. Đó là những điều tuyệt diệu, đẹp đẽ, khích lệ tinh thần và đều từ cô mà ra. Tôi muốn chia sẻ điều đó với cô. Cô ấy lắng nghe giọng thì thầm dịu dàng của mình trong băng chỉ vài phút rồi bảo tôi tắt đi. Cô bảo nó quá lạ lùng và khiến cô không thoải mái. Tôi lặng lẽ nhớ lại “điều này dành cho ông không phải cho cô ấy.”
Tôi tự hỏi không biết những buổi trị liệu này sẽ tiếp tục trong bao lâu vì cô ấy mỗi tuần lại thêm thuyên giảm. Giờ đây chỉ còn vài gợn sóng trong mặt hồ từng nổi bão tố của cô ấy. Cô vẫn còn sợ hãi những không gian đóng kín và mối quan hệ với Stuart vẫn đầy bất trắc. Ngoài hai điều đó thì tình trạng của cô tiến bộ rõ rệt.
Chúng tôi đã có những buổi tâm lý trị liệu không theo truyền thống trong nhiều tháng. Kiểu trị liệu đó không cần thiết. Chúng tôi có thể tán chuyện gẫu trong vài phút để nắm lại những sự kiện trong tuần, rồi nhanh chóng chuyển sang việc trở về quá khứ bằng thôi miên. Cho dù là nhờ thật sự nhớ lại những sang chấn lớn hay những sang chấn nhỏ tích tụ theo thời gian hoặc nhờ quá trình sống lại những kinh nghiệm trước đây thì rõ ràng Catherine cũng đang được chữa lành. Cô không còn sợ cái chết hay tình trạng hấp hối. Cô cũng không còn sợ tình trạng mất kiểm soát nữa. Hiện thời, những nhà tâm lý trị liệu thường dùng thuốc an thần liều cao và những dược phẩm chống trầm cảm để chữa cho những người có triệu chứng giống như của Catherine. Ngoài những dược phẩm này, bệnh nhân thường phải tuân theo các trị liệu tâm lý gắt gao hay tham dự những phiên chữa trị chứng sợ hãi theo nhóm. Nhiều bác sỹ tâm lý tin rằng những triệu chứng như của Catherine có nguồn gốc sinh học và đó là vì thiếu một hay vài hóa chất trong não.
Khi tôi thôi miên Catherine đến trạng thái xuất thần sâu, tôi nghĩ về sự kỳ diệu và tuyệt vời xảy ra chỉ trong vài tuần nay, không cần dùng thuốc, liệu pháp truyền thống hay liệu pháp nhóm, vậy mà cô ấy đã được chữa lành gần như hoàn toàn. Đây không phải là kìm nén các triệu chứng và cũng không phải là nghiến chặt răng để sống với nó, một cuộc sống chồng chất nỗi sợ. Đây là sự chữa lành, xóa sạch triệu chứng. Và cô ấy rạng rỡ, an lành, hạnh phúc vượt xa mong đợi ngông cuồng nhất của tôi.
Giọng cô lại thì thầm dịu dàng. “Tôi ở trong một tòa nhà, loại có trần dạng mái vòm. Trần nhà xanh dương và vàng kim. Có những người khác ở cùng tôi. Họ mặc… cũ … một loại váy, rất cũ và bẩn. Tôi không biết làm thế nào mà chúng tôi ở đó. Có rất nhiều tượng ở trong phòng. Có vài tác phẩm khác, một vài tác phẩm đặt trên cấu trúc bằng đá. Có một pho tượng lớn bằng vàng ở cuối phòng. Ông ấy hình như… ông ấy rất lớn, có cánh. Trông rất ma quái. Trong phòng rất nóng, rất nóng… Rất nóng vì không có khoảng mở nào. Chúng tôi phải ở xa làng. Chúng tôi đang gặp chuyện gì đó.”
“Cô bệnh phải không?”
“Vâng, tất cả chúng tôi bị bệnh. Tôi không biết chúng tôi mắc bệnh gì nhưng da chúng tôi bị chết. Nó trở nên đen kịt. Tôi cảm thấy rất lạnh. Không khí rất khô, rất hôi. Chúng tôi không thể quay về làng. Chúng tôi phải cách ly. Một vài khuôn mặt bị biến dạng.”
Căn bệnh này nghe rất khủng khiếp, giống như hủi. nếu Catherine đã từng có một kiếp sống xa hoa thì chúng tôi chưa hề gặp được nó. “Cô phải ở đấy bao lâu?”
“Mãi mãi,” cô trả lời tuyệt vọng, “cho đến khi chúng tôi chết. Bệnh này không chữa được.”
“Cô có biết tên căn bệnh không? Nó được gọi là gì?”
“Không. Da trở nên rất khô và nhăn nhúm. Tôi đã ở đó nhiều năm. Cũng có những người chỉ vừa tới. Không có đường về. Chúng tôi bị trục xuất… đến chết.”
Cô ấy đã chịu đựng sự tồn tại cực tệ, sống trong hang.
“Chúng tôi phải săn tìm thức ăn. Tôi thấy một vài loại quái vật hoang dã mà chúng tôi đang săn… có nhiều sừng. Nó màu nâu có nhiều sừng, nhiều sừng lớn.”
“Có ai đến thăm cô không?”
“Không, họ không thể đến gần nếu không cũng sẽ mắc căn bệnh quỷ quái này. Chúng tôi bị nguyền rủa… vì những điều xấu chúng tôi đã làm. Đây là sự trừng phạt dành cho chúng tôi.” Dòng cát thần học của cô thường xuyên đảo chiều trong chiếc đồng hồ cát kiếp sống. Chỉ sau khi chết, ở trạng thái linh hồn mới lại thực sự có được sự chào đón và vững tin thường trực.
“Cô có biết năm nào không?”
“Chúng tôi mất khái niệm thời gian. Chúng tôi bệnh; chúng tôi chỉ chờ chết.”
“Vô vọng sao?” Cảm giác tuyệt vọng lan truyền đến tôi.
“Vô vọng. Tất cả chúng tôi sẽ chết. Và tay tôi rất đau. Toàn thân tôi yếu ớt. Tôi đã già. Tôi di chuyển khó khăn.”
“Chuyện gì xảy ra nếu cô không thể di chuyển nữa?”
“Ông sẽ bị chuyển sang hang khác và bị bỏ ở đó cho đến chết.”
“Họ làm gì với những xác chết này?”
“Họ niêm kín lối vào hang.”
“Có bao giờ họ niêm kín hang trước khi người đó chết không?” Tôi đang tìm kiếm bằng chứng cho nỗi sợ không gian đóng kín của Catherine.
“Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ ở đó. Tôi đang ở trong một căn phòng với những người khác. Rất nóng. Tôi tựa vào tường, chỉ nằm đó.”
“Căn phòng dùng làm gì?”
“Nó dùng để cầu nguyện… rất nhiều vị thần. Nó rất nóng.”
Tôi hướng dẫn cô tiến nhanh thời gian. “Tôi thấy thứ gì đó màu trắng. Tôi thấy thứ gì đó màu trắng, một loại mái che. Họ đang di chuyển ai đó.“
”Cô phải không?”
“Tôi không biết. Tôi rất muốn chết. Cơ thể tôi hết sức đau đớn.” Môi của Catherine mím chặt vì đau, cô cũng thở gấp vì sức nóng trong hang. Tôi hướng dẫn cô đến ngày chết của mình. Cô vẫn thở gấp.
“Khó thở lắm hả?” Tôi hỏi.
“Vâng, trong này rất nóng… cảm giác… quá nóng, rất tối. Tôi không thấy… và tôi không thể cử động.” Cô đang hấp hối, tê liệt và cô đơn trong một cái hang tối, nóng. Miệng hang đã bị niêm kín. Cô sợ hãi và đau khổ. Hơi thở ngày càng gấp và không đều, may mắn là cô đã chết, chấm dứt cuộc đời rất đau đớn.
“Tôi cảm thấy rất nhẹ… như là tôi đang lơ lửng. Ở đây rất sáng. Thật tuyệt vời!”
“Cô có đau không?”
“Không!” Cô tạm dừng và tôi chờ các Bậc thầy. Thế nhưng cô biến mất rất nhanh. “Tôi đang rơi rất nhanh. Tôi đang trở lại với một cơ thể!” dường như cô cũng ngạc nghiên không kém gì tôi.
“Tôi thấy những tòa nhà, những tòa nhà có cột tròn. Có rất nhiều tòa nhà. Chúng ta đang ở ngoài. Có cây cối – cây ô liu – xung quanh. Khung cảnh rất đẹp. Chúng ta đang ngắm nhìn thứ gì đó… Mọi người có những chiếc mặt nạ rất lạ; chúng che mặt họ. Đó là lễ hội. Họ mặc váy dài và che mặt bằng mặt nạ. Họ giả dạng những gì không phải là họ. Họ ở trên một cái bục… bên trên chỗ chúng ta ngồi.”
“Cô đang coi một vở kịch à?”
“Vâng.”
“Trông cô như thế nào? Tự nhìn mình xem.”
“Tóc tôi màu nâu. Thắt bím.” Cô tạm ngưng. Mô tả của cô về chính mình và sự hiện diện của những câu ô liu nhắc tôi nhớ lại kiếp sống giống người Hy Lạp của Catherine trước Thiên chúa giáng sinh 1500 năm, lúc tôi là thầy Diogenes của cô. Tôi quyết định điều tra.
“Cô có biết ngày tháng không?”
“Không.”
“Có ai ở với cô mà cô biết không?”
“Có, chồng tôi đang ngồi cạnh tôi. Tôi không biết anh ấy” [trong đời hiện tại của cô ấy].
“Cô có con không?”
“Hiện tôi đang ở với con mình.” Cách chọn từ của cô thật thú vị, hơi cổ xưa và không giống chút gì với kiểu cách của Catherine lúc bình thường.
“Cha cô có ở đó không?”
“Tôi không thấy ông ấy. Ông đang có mặt ở đó… nhưng không ở với tôi.” Vậy là tôi đoán đúng. Chúng tôi đang quay ngược về 35 thế kỷ trước.
“Tôi làm gì ở đó?”
“Ông chỉ quan sát, ông còn dạy học. Ông dạy… chúng tôi học với ông… hình vuông và hình tròn, những thứ lạ lùng. Diogenes, ông ở đó.”
“Cô còn biết gì về tôi nữa không?”
“Ông đã già. Chúng ta hình như có họ hàng… ông là anh mẹ tôi.”
“Cô có biết những người khác trong gia đình tôi không?”
“Tôi biết vợ ông… và con ông. Ông có con trai. Hai người đó lớn hơn tôi. Mẹ tôi đã mất; bà mất lúc còn rất trẻ.”
“Cha cô đã nuôi nấng cô?”
“Vâng, nhưng giờ tôi đã kết hôn.”
“Cô đang mong có con?”
“Vâng. Tôi sợ. Tôi không muốn chết khi đang sinh con.”
“Có phải điều đó đã xảy đến với mẹ cô?”
“Vâng.”
“Và cô sợ nó cũng sẽ xảy đến với cô?”
“Nó xảy ra nhiều lần.”
“Đây là con đầu lòng của cô à?”
“Vâng; tôi sợ. Tôi hy vọng chuyện này sẽ qua nhanh. Tôi rất mập. Tôi di chuyển rất bất tiện… trời lạnh.” Cô tự mình tiến nhanh về thời gian. Đứa bé sắp được sinh ra. Catherine chưa bao giờ sinh con còn tôi thì không đỡ đẻ ca nào trong 14 năm qua, kể từ những phiên trực sản khoa ở trường y.
“Cô đang ở đâu?” tôi hỏi.
“Tôi đang nằm trên một tảng đá. Nó rất lạnh. Tôi đang đau… Ai đó phải giúp tôi. Ai đó phảigiúp tôi.” Tôi bảo cô hãy thở sâu; đứa bé sẽ được sinh ra không đau đớn. Cơn chuyển dạ của cô kéo dài thêm một vài phút và rồi đứa bé được sinh ra. Cô có một đứa con gái.
“Giờ cô cảm thấy đỡ hơn chưa?”
“Rất yếu… rất nhiều máu!”
“Cô có biết mình sẽ đặt tên gì cho bé gái không?”
“Không, tôi mệt quá… Tôi muốn con của tôi.”
“Con cô đây,” tôi nói theo quán tính, “một bé gái.”
“Vâng, chồng tôi rất vui.” Cô kiệt sức. Tôi hướng dẫn cô ngủ một chút để có thể phục hồi khi tỉnh lại. Sau một hay hai phút, tôi đánh thức cô khỏi giấc ngủ.
“Giờ cô thấy khá hơn chứ?”
“Vâng… Tôi thấy thú vật. Chúng đang mang thứ gì đó trên lưng. Chúng đang mang những chiếc giỏ. Có rất nhiều thứ trong giỏ… thức ăn… vài trái cây màu đỏ…”
“Một vùng đất đẹp phải không?”
“Vâng, với nhiều thức ăn.”
“Cô có biết tên của vùng đất không? Cô gọi nó là gì khi có người lạ hỏi tên của ngôi làng?”
“Cathenia… Cathenia.”
“Nghe như một thị trấn Hy Lạp,” tôi gợi ý.
“Tôi không biết. Ông có biết không? Ông đã đi khỏi làng và quay về. Tôi thì không. ” Đây là điều tréo ngoe. Vì trong kiếp sống đó, tôi là cậu của cô ấy, già hơn và thông thái hơn, cô ấy đang hỏi tôi có biết câu trả lời cho chính câu hỏi của tôi không. Không may là tôi không thể truy cập thông tin đó.
“Cô sống suốt đời trong ngôi làng này ư?” tôi hỏi.
“Vâng,” cô thì thầm, “nhưng ông thì đi đây đi đó nên ông biết những gì ông dạy. Ông đi khắp nơi để học, học về những vùng đất… những con đường giao thương khác nhau để ông có thể vẽ chúng và làm bản đồ… ông già rồi. Ông đi với những người trẻ hơn vì ông hiểu được bản đồ. Ông rất thông thái.”
“Cô muốn nói những bản đồ nào? Bản đồ các vì sao?”
“Ông, ông hiểu các ký hiệu. Ông có thể giúp họ để làm… giúp họ làm bản đồ.”
“Cô có nhận biết những người khác trong làng không?”
“Tôi không biết họ … nhưng tôi biết ông.”
“Được rồi. Mối quan hệ của chúng ta như thế nào?”
“Rất tốt. Ông rất tốt bụng. Tôi rất thích ngồi cạnh ông; rất thoải mái… Ông giúp chúng tôi. Ông đã giúp chị tôi…”
“Dù vậy thì cũng sẽ đến lúc tôi phải rời xa cô vì tôi đã già rồi.”
“Không.” Cô chưa sẵn sàng để đón nhận cái chết của tôi. “Tôi thấy vài loại bánh mì, bánh dẹt, rất dẹt và mỏng.”
“Có phải mọi người ăn loại bánh mì này không?”
“Đúng, cha tôi, chồng tôi và tôi. Cả những người khác trong làng nữa.”
“Đây là dịp gì vậy?”
“Đó là một vài… một vài lễ hội.”
“Cha cô có ở đó không?”
“Có.”
“Con cô có ở đó không?”
“Có nhưng con bé không ở với tôi. Nó ở với chị tôi.”
“Hãy nhìn kỹ chị cô,” tôi gợi ý, tìm cách nhận ra một nhân vật quan trọng trong kiếp sống hiện tại của Catherine.
“Vâng. Tôi không biết cô ấy.”
“Cô có nhận ra cha mình không?”
“Có… có… Edward. Có những cây sung, sung và ô liu… và trái cây màu đỏ. Có bánh mì dẹt. Và họ cũng giết một vài con cừu. Họ đang quay cừu.”Có một khoảng lặng khá lâu. “Tôi thấy thứ gì đó màu trắng….” Cô lại tự mình tiến nhanh về thời gian. “Nó màu trắng… đó là một chiếc hộp vuông. Đó là nơi người ta đặt người chết.”
“Có ai đã chết à?”
“Vâng… cha tôi. Tôi không thích nhìn vào ông ấy. Tôi không muốn thấy ông ấy.”
“Cô có phải nhìn không?”
“Có. Họ sẽ mang ông ấy đi mai táng. Tôi rất buồn.”
“Vâng, tôi biết. Cô có mấy người con?” Con người phóng viên trong tôi không để yên cho cô ấy đau buồn.
“Tôi có ba con, hai trai và một gái.” Sau khi trả lời rất trách nhiệm câu hỏi của tôi, cô quay về với nỗi đau của mình. “Họ đặt thi thể của ông bên dưới một thứ gì đó, bên dưới một loại tấm phủ…” Trông cô rất buồn.
“Có phải tôi cũng chết vào thời gian này không?”
“Không. Chúng ta đang uống nước nho, nước nho trong một chiếc tách.”
“Giờ đây tôi trông như thế nào?”
“Ông rất, rất già.”
“Cô cảm thấy khá hơn chưa?”
“Không! Khi ông chết tôi sẽ rất đơn độc.”
“Cô sống lâu hơn con của mình sao? Chúng sẽ chăm sóc cho cô.”
“Nhưng ông biết rất nhiều.” Giọng cô giống như của một bé gái.
“Cô sẽ vượt qua thôi. Rồi cô cũng sẽ biết nhiều mà. Cô sẽ ổn thôi.” Tôi trấn an cô và dường như cô ấy đang an tâm nghỉ ngơi.
“Giờ cô đang an bình hơn phải không? Hiện cô đang ở đâu?”
“Tôi không biết.” Rõ ràng cô đã chuyển qua trạng thái linh hồn, thậm chí dù cô không trải qua cái chết ở kiếp sống đó. Tuần này chúng tôi đã trải qua hai kiếp sống với nhiều chi tiết đáng kể. Tôi chờ các Bậc thầy nhưng Catherine tiếp tục nghỉ ngơi. Sau khi chờ đợi thêm vài phút, tôi hỏi cô ấy có thể trò chuyện với các Tâm linh Bậc thầy không.
“Tôi không đạt đến được không gian đó,” cô giải thích. “Tôi không thể nói khi chưa đến lúc.”
Cô đã không đạt đến không gian đó. Sau khi chờ đợi rất lâu, tôi đưa cô thoát khỏi trạng thái xuất thần.