Tuần lễ này nhanh chóng trôi qua. Tôi đã nghe đi nghe lại cuộn băng thu âm của phiên trị liệu tuần trước. Làm thế nào mà tôi có thể tiếp cận được trạng thái chuyển kiếp? Tôi không cảm thấy sự chứng ngộ đặc biệt nào. Và giờ đây những linh hồn được gửi về để giúp đỡ tôi. Nhưng tôi được dự định sẽ làm việc gì? Lúc nào thì tôi biết được điều đó? Liệu tôi có nên tùy thuộc vào nhiệm vụ này? Tôi biết là mình phải chờ đợi và kiên nhẫn. Tôi nhớ những lời của Bậc thầy thi ca.
“Kiên nhẫn và chờ đúng thời điểm… mọi sự sẽ đến khi nó phải đến… mọi sự sẽ sáng tỏ cho ông vào đúng thời điểm. Nhưng ông cần có thời gian để hấp thụ hoàn toàn tri thức mà chúng tôi đã trao cho ông.” Vì thế tôi chờ đợi.
Vào lúc bắt đầu phiên trị liệu này Catherine có đề cập đến một phần giấc mơ của cô cách đây vài đêm. Trong giấc mơ đó cô đang sống trong nhà bố mẹ mình và một ngọn lửa đã bùng lên trong đêm. Cô bình tĩnh, giúp mọi người thoát khỏi căn nhà nhưng cha cô vẫn chậm chạp và dường như không quan tâm trong tình huống khẩn cấp đó. Cô vội vã thúc ông ra ngoài. Lúc đó ông ấy nhớ ra thứ gì đó vẫn còn để trong nhà và bảo Catherine quay vào trong ngọn lửa dữ dội để lấy. Cô chẳng thể nhớ được đó là thứ gì. Tôi quyết định chưa diễn dịch giấc mơ mà chờ xem chuyện này có xảy đến khi cô được thôi miên không.
Cô nhanh chóng chìm vào trạng thái xuất thần sâu. “Tôi thấy một phụ nữ có mũ trùm đầu nhưng không che mặt, chỉ che tóc của bà ấy.” Rồi cô im lặng.
“Bây giờ cô có thấy nó không? Mũ trùm?”
“Tôi để mất dấu rồi… tôi thấy vài loại y phục đen, vải thêu kim tuyến với thiết kế bằng vàng trên đó… Tôi thấy một tòa nhà có vài cấu trúc nhọn trên đó… màu trắng.”
“Cô có nhận biết tòa nhà này không?”
“Không.”
“Tòa nhà có lớn không?”
“Không. Có một ngọn núi ở phía sau nhà và trên đỉnh có tuyết. Nhưng cỏ trong thung lũng vẫn xanh… chúng tôi ở đó.”
“Cô có thể vào trong tòa nhà không?”
“Được. Nó làm bằng một loại đá cẩm thạch nào đó… sờ vào rất lạnh.”
“Có phải là đền thờ hay kiến trúc tôn giáo không?”
“Tôi không biết. tôi nghĩ nó có thể là nhà tù.”
“Nhà tù?” tôi lặp lại. “Có người trong tòa nhà đó không? Hay quanh đó?”
“Có, vài người lính. Họ mặc đồng phục đen, màu đen với miếng đệm vai bằng vàng… những núm tua bằng vàng đeo lủng lẳng. Nón sắt màu đen có vài chi tiết bằng vàng… thứ gì đó nhọn và bằng vàng ở đỉnh… của nón sắt. Và có dây thắt lưng màu đỏ, dây thắt đỏ quanh eo.”
“Có người lính nào ở gần cô không?”
“Có hai hay ba gì đó.”
“Cô có ở đó không?”
“Tôi đang ở đâu đó nhưng không ở trong tòa nhà. Nhưng tôi ở gần đó.”
“Nhìn quanh thử. Xem có thể tìm thấy chính cô không…. Những ngọn núi ở đó và đồng cỏ… và tòa nhà màu trắng. Ở đó còn có tòa nhà khác không?”
“Nếu có những tòa nhà khác thì chúng không ở gần tòa nhà này. Tôi thấy một tòa… tách biệt, có vài bức tường ở đằng sau nó… một bức tường.”
“Cô có nghĩ rằng nó là một pháo đài hay một nhà tù hay thứ gì đại loại thế không?”
“Có thể nhưng… nó ở rất biệt lập.”
“Tại sao điều đó lại quan trọng đối với cô?” [nghỉ dài] “Cô có biết tên thành phố hay nước mà cô đang ở không? Những người lính này ở đâu?”
“Tôi đang tìm ‘Ukraine.’ “
“Ukraine?” tôi lập lại, hết sức thú vị vì sự đa dạng trong những kiếp sống của cô ấy. “Cô có thấy năm nào không? Cô có biết điều đó không? Hay một khoảng thời gian nào đó?”
“1717,” cô ngập ngừng trả lời rồi tự đính chính. “1758… 1758. Có rất nhiều lính. Tôi không biết mục đích của họ là gì. Với những thanh kiếm dài, cong.”
“Cô còn thấy hay nghe gì khác không?” Tôi dò hỏi.
“Tôi thấy một suối nước, suối nước nơi họ cho ngựa uống.”
“Những người lính có cưỡi ngựa không?”
“Có.”
“Những người lính này có tên gọi nào khác không? Họ có gọi nhau bằng cách đặc biệt nào không?” Cô lắng nghe.
“Tôi không nghe gì.”
“Cô có thuộc phe của họ không?”
“Không.” Câu trả lời của cô lại là của một đứa trẻ, ngắn và thường đơn âm. Tôi lại phải hết sức tích cực trong vai người phỏng vấn.
“Nhưng cô đang quan sát họ rất gần?”
“Vâng.”
“Cô có ở trên phố không?”
“Có.”
“Cô có sống ở đó không?”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Tốt. Xem thử cô có thể tìm thấy mình và nơi cô sống không.”
“Tôi thấy vài bộ y phục rách rưới. Tôi chỉ thấy một đứa bé, cậu bé. Y phục của cậu rách rưới. Cậu bị lạnh…”
“Cậu bé có nhà ở phố không?” Một khoảng lặng kéo dài.
“Tôi không thấy,” cô tiếp tục. Dường như cô gặp một vài khó khăn trong việc kết nối với kiếp sống này. Cô hơi mơ hồ khi trả lời, có phần không chắc chắn.
“Được rồi. Cô có biết tên cậu bé không?”
“Không.”
“Chuyện gì xảy ra với cậu bé vậy? Đi với cậu ấy. Xem thử chuyện gì đã xảy ra.”
“Người mà cậu ấy biết là một tù nhân.”
“Bạn? Họ hàng?”
“Tôi tin rằng đó là cha cậu bé.” Cô trả lời nhanh.
“Cô có phải là cậu ấy không?”
“Tôi không chắc.”
“Cô có biết cậu ấy cảm thấy thế nào về việc cha mình bị nhốt trong tù không?”
“Có… cậu ấy rất sợ, sợ rằng họ sẽ giết cha mình.”
“Cha cậu ấy đã làm gì?”
“Ông ấy đánh cắp thứ gì đó của những người lính, tài liệu hay thứ gì đó.”
“Cậu bé không hiểu hết mọi chuyện phải không?”
“Không. Cậu ấy có thể sẽ chẳng bao giờ gặp lại cha mình nữa.”
“Cậu ấy…”
“Không.”
“Họ có biết cha cậu sẽ ở trong tù bao lâu không? Hay liệu ông ấy có còn sống không?”
“Không!” Cô trả lời. Giọng cô run rẩy. Cô rất bối rối, rất buồn. Cô không cung cấp nhiều chi tiết, tuy nhiên cô vẫn kích động thấy rõ vì những sự kiện mà mình đang chứng kiến và trải qua.
“Cô có thể cảm nhận những gì cậu bé đang cảm thấy,” tôi tiếp tục, “nỗi sợ hãi và kích động. Cô có cảm thấy điều đó không?”
“Có.” cô lại im lặng.
“Chuyện gì vậy? Giờ hãy tiến nhanh thời gian. Tôi biết là rất khó khăn. Vượt nhanh thời gian. Chuyện gì đó xảy ra.”
“Cha cậu ấy bị hành hình.”
“Giờ đây, cậu ấy cảm thấy như thế nào?”
“Thực ra ông ấy chưa từng làm điều gì chúng nghĩ. Nhưng chúng hành hình mọi người mà chẳng cần lý do gì.”
“Cậu bé hẳn rất căm tức chuyện này.”
“Tôi không tin rằng cậu hoàn toàn hiểu hết… mọi chuyện đã xảy ra.”
“Cậu ấy còn có ai để nương tựa không?”
“Có, nhưng đời cậu ấy sẽ rất khó khăn.”
“Cậu bé sẽ trở thành gì?”
“Tôi không biết. Cậu ấy có thể sẽ chết…” giọng cô rất buồn. Cô lại im lặng, sau đó dường như đang nhìn quanh.
“Cô đang nhìn gì thế?” tôi hỏi.
“Không có gì… bóng tối.” Cô hoặc đã chết hay đã không còn kết nối với cậu bé buồn bã sống ở Ukraine cách đây hơn 200 năm.
“Cô đã rời khỏi cậu bé rồi à?”
“Vâng,” cô thì thầm. Cô đang nghỉ ngơi.
“Cô học được gì từ kiếp sống vừa rồi? Tại sao nó lại quan trọng?”
“Không được vội vã phán xét con người. Ông phải công bằng với mọi người. Nhiều cuộc đời bị hủy hoại vì sự phán xét vội vã của chúng ta.”
“Cuộc đời cậu bé ngắn ngủi và khó khăn vì sự phán xét như thế… đối với cha cậu.”
“Vâng.” Cô lại im lặng.
“Hiện giờ cô đang xem xét thứ gì khác không? Cô có nghe thấy điều gì không?”
“Không.” Lại một câu trả lời nhanh và rồi im lặng. Vì vài lý do, kiếp sống ngắn ngủi này lại hết sức nhọc nhằn. Tôi hướng dẫn cô nghỉ ngơi.
“Hãy nghỉ ngơi. Cảm thấy an bình. Cơ thể của cô sẽ tự chữa lành; tâm hồn cô đang nghỉ ngơi… cô thấy đỡ hơn chưa? Đã được nghỉ ngơi chưa? Thật là khó khăn cho cậu bé. Rất cực khổ. Nhưng giờ thì cô lại được nghỉ ngơi. Trí óc của cô có thể đưa cô đến những nơi khác, thời gian khác… ký ức khác. Cô có đang nghỉ ngơi không?”
“Có.” Tôi quyết định theo đuổi phần giấc mơ về ngôi nhà cháy, sự rề rà vô tâm của cha cô và việc ông ấy yêu cầu cô quay lại đám cháy để lấy vài thứ cho ông ấy.
“Giờ tôi có một câu hỏi về giấc mơ mà cô đã có… với cha mình. Giờ thì cô có thể nhớ lại, nó an toàn. Cô đang ở trong trạng thái thôi miên sâu. Cô có nhớ không?”
“Có.”
“Cô quay lại ngôi nhà để lấy thứ gì đó. Cô có nhớ điều đó không?”
“Có… đó là một chiếc hộp bằng kim loại.”
“Có gì trong đó mà ông ấy nằng nặc bằng mọi giá sai cô quay lại ngôi nhà đang cháy?”
“Tem và những đồng xu… mà ông đã cất giữ,” cô trả lời. Nhớ lại chi tiết nội dung giấc mơ khi bị thôi miên quả là trái ngược hoàn toàn với những chi tiết sơ lược khi cô tỉnh táo. Thôi miên là một công cụ mạnh mẽ, không chỉ mang lại khả năng truy cập đến những vùng xa xôi nhất, giấu kín nhất của trí óc mà còn cho phép cung cấp một trí nhớ chi tiết hơn rất nhiều.
“Có phải những con tem và đồng xu này rất quan trọng đối với ông ấy?”
“Đúng.”
“Nhưng liều lĩnh mạng sống của cô khi quay lại ngôi nhà đang cháy chỉ vì những con tem và đồng xu—”
“Ông không nghĩ là mình đang liều lĩnh gì cả.” Cô ấy ngắt lời tôi.
“Ông ấy cho rằng chuyện đó an toàn?”
“Đúng.”
“Vậy tại sao ông ấy không quay lại mà là cô?”
“Vì ông ấy nghĩ rằng tôi nhanh nhẹn hơn.”
“Tôi hiểu. Dù sao đó cũng là chuyện nguy hiểm đối với cô phải không?”
“Đúng, nhưng ông ấy không nhận ra điều đó.”
“Giấc mơ đó còn có ý nghĩa nào khác hơn cho cô không? Về mối quan hệ của cô với cha mình?”
“Tôi không biết.”
“Ông ấy dường như chẳng vội vã gì để ra khỏi ngôi nhà đang cháy.”
“Đúng vậy.”
“Tại sao ông ấy lại quá thong thả như vậy? Cô thì gấp gáp; cô thấy mối nguy hiểm.”
“Vì ông ấy cố trốn tránh mọi thứ.”
Tôi tóm lấy cơ hội này để diễn dịch phần nào giấc mơ. “Đúng, đó là kiểu cách trước đây của ông và cô phải làm mọi chuyện cho ông ấy, như lấy chiếc hộp. Tôi hy vọng ông ấy có thể học được từ cô. Tôi có cảm giác rằng ngọn lửa thể hiện thời gian đang hết, rằng cô thì nhận ra nguy hiểm còn ông ấy thì không. Khi ông ấy rề rà và bảo cô quay lại để lấy những thứ thuộc về vật chất thì cô hiểu biết nhiều hơn hẳn… và có rất nhiều thứ để dạy cho ông ấy nhưng dường như ông ấy cũng chả muốn học.”
“Không,” cô đồng ý. “Ông ấy không học.”
“Đó là cách tôi hiểu giấc mơ. Nhưng cô không thể ép ông ấy. Chỉ có ông ấy mới có thể nhận ra điều đó.”
“Đúng,” cô lại đồng ý và giọng của cô trở nên sâu và vang, “chẳng phải là chuyện quan trọng nếu cơ thể chúng ta bị đốt cháy khi chúng ta không cần chúng nữa…” Một Bậc thầy tâm linh đã soi sáng giấc mơ này bằng một góc nhìn hoàn toàn khác biệt. Tôi ngạc nghiên vì cách hiểu bất ngờ này đến nỗi chỉ có thể lặp lại suy nghĩ đó như vẹt, “chúng ta không cần thân thể của mình ư?”
“Không. Chúng ta đã trải qua rất nhiều trạng thái khi chúng ta ở đây. Chúng ta đã bỏ cơ thể của đứa bé để chuyển vào cơ thể một đứa trẻ, từ trẻ em thành người lớn và từ người lớn thành người già. Tại sao chúng ta không tiến thêm một bước để loại bỏ cơ thể trưởng thành và đi đến một chiều không gian tâm linh? Đó là những gì chúng ta làm. Chúng ta không ngừng lớn lên; chúng ta tiếp tục phát triển. Khi chúng ta đến không gian tâm linh, chúng ta cũng sẽ tiếp tục phát triển ở đó. Chúng ta sẽ trải qua nhiều trạng thái phát triển khác nhau. Khi chúng ta đã đạt thì chúng ta sẽ bị đốt bỏ. Chúng ta phải đi qua một trạng thái mới, giai đoạn học tập và giai đoạn ra quyết định. Chúng ta quyết định khi nào chúng ta cần trở lại, ở đâu và vì lý do gì. Một vài người chọn cách không trở lại. Họ chọn hướng tiếp tục tiến lên một trạng thái phát triển mới. Và họ sẽ ở trong hình thức linh hồn… một vài người sẽ ở lâu hơn những người khác trước khi quay trở lại. Đó hoàn toàn là do sự phát triển và học tập… phát triển liên tục. Cơ thể của chúng ta cũng chỉ như một cỗ xe để chúng ta dùng khi ở đây. Chính tâm hồn và linh hồn của chúng ta mới kéo dài mãi mãi.”
Tôi không nhận ra giọng nói hay phong cách này. Một Bậc thầy “mới” đang nói và nói về những tri thức quan trọng. Tôi muốn biết nhiều hơn về những thế giới tâm linh này.
“Không phải học hành ở trạng thái vật lý thì nhanh hơn sao? Đó có phải là lý do mà không phải tất cả mọi người đều muốn ở lại trong trạng thái tâm linh?”
“Không. Học hành ở trạng thái tâm linh nhanh hơn nhiều, nhanh hơn hẳn khi học ở trạng thái vật lý. Nhưng chúng ta chọn điều gì chúng ta cần học. Nếu chúng ta cần phải quay lại để hoàn thành một mối quan hệ thì chúng ta quay lại. Nếu hoàn thành việc đó thì chúng ta sẽ tiếp tục. Ở trạng thái linh hồn bạn có thể chọn cách luôn kết nối với những người đang ở trạng thái vật lý nếu muốn. Nhưng chỉ khi ở đó có những việc quan trọng… mà ông phải nói cho họ biết.”
“Làm thế nào cô tiếp xúc được? Làm thế nào mà thông điệp có thể truyền đi?”
Tôi ngạc nghiên khi thấy Catherine trả lời. Giọng thì thầm của cô nhanh hơn và khẳng định hơn. “Đôi lúc ông có thể xuất hiện trước người đó… cũng giống cách mà ông đang làm lúc này. Lúc khác ông chỉ cần tạo một tiếp xúc trong ý nghĩ. Thỉnh thoảng cũng có thông điệp bị mã hóa nhưng hầu hết trường hợp người đó biết nó muốn nhắc điều gì. Họ hiểu. Đó là tiếp xúc ý nghĩ với ý nghĩ.”
Tôi nói với Catherine. “Tri thức mà cô hiện có, thông tin này, sự thông thái này, rất quan trọng… tại sao nó lại không dùng được cho cô khi cô tỉnh dậy và trở lại trạng thái thông thường?”
“Tôi đoán là tôi không hiểu được nó. Tôi không có khả năng để hiểu nó.”
“Thế thì, có lẽ tôi có thể dạy cô hiểu để nó không làm cô e sợ và nhờ vậy cô sẽ học hỏi thêm.”
“Vâng.”
“Khi cô nghe tiếng của các Bậc thầy, họ nói những chuyện giống như những gì cô đang nói cho tôi. Cô hẳn phải nhận được thông tin tuyệt vời.” Tôi rất quan tâm đến sự thông thái mà cô có được khi ở trong trạng thái này.
“Vâng,” cô trả lời giản dị.
“Và điều này đến từ trí tuệ của riêng cô?”
“Nhưng là do họ đã đặt vào đó.” Cô xác nhận đó là của các Bậc thầy.
“Vâng,” tôi công nhận. “Làm sao để tôi truyền đạt tốt nhất điều đó lại cho cô để cô cũng phát triển và dẹp bỏ nỗi sợ hãi?”
“Ông đã làm điều đó rồi,” cô trả lời nhẹ nhàng. Cô ấy đúng; những nỗi sợ của cô gần như đã biến mất. Kể từ khi thôi miên hồi quy bắt đầu, những cải thiện lâm sàng của cô nhanh đến không ngờ.
“Hiện giờ cô phải học bài học nào? Đâu là điều quan trọng nhất mà cô có thể học trong kiếp sống này để cô có thể tiếp tục phát triển và thành tựu?”
“Tin,” cô trả lời nhanh chóng. Cô đã biết nhiệm vụ chủ chốt của mình là gì.
“Tin?” tôi lập lại, ngạc nghiên vì sự đối đáp nhanh nhạy của cô.
“Đúng. Tôi phải học để có lòng trung thành nhưng cũng phải tin vào con người. Tôi đã không tin. Tôi nghĩ là mọi người đang cố lường gạt tôi. Điều đó đã làm tôi tránh xa con người và những tình huống mà lẽ ra tôi không được tránh xa. Điều đó cũng giữ tôi gần gũi với những người mà lẽ ra tôi phải lìa bỏ.”
Sự thấu hiểu của cô rất sâu sắc khi ở trạng thái siêu thức. Cô biết rõ điểm yếu và điểm mạnh của mình. Cô biết những lĩnh vực phải tập trung và thực hành và cô cũng biết phải làm gì để cải thiện vấn đề. Vấn đề duy nhất là những sự thấu hiểu này phải đến được với ý thức của cô và cần phải được áp dụng trong đời sống ý thức của cô ấy. Sự thấu hiểu ở trạng thái siêu thức tự nó chưa đủ để chuyển hóa cuộc sống của cô.
“Ai là những người mà cô phải tránh xa?” Tôi hỏi.
Cô tạm ngưng. “Tôi sợ Becky. Tôi sợ Stuart… vì một vài chuyện tệ hại sẽ đến với tôi… do họ.”
“Liệu cô có thể tránh xa điều đó?”
“Không hẳn nhưng cũng tránh được vài ý tưởng của họ, đúng vậy. Stuart đang cố kìm tỏa tôi và anh ta đang thành công. Anh ta biết là tôi sợ. Anh ta biết tôi sợ phải xa anh ta và dùng hiểu biết đó để giữ tôi lại.”
“Còn Becky?”
“Cô ấy đang liên tục muốn phá vỡ lòng trung thành của tôi với những người mà tôi đã tin tưởng. Khi tôi thấy điểm tốt thì cô ấy coi là xấu xa. Và cô ấy cố gieo những hạt giống này vào đầu tôi. Tôi đang học cách tin tưởng… con người mà tôi nên tin nhưng cô ấy gieo vào tôi đầy sự ngờ vực về họ. Và đó cũng là vấn đề của cô ấy. Tôi không để cho cô ấy làm cho mình phải nghĩ theo cách của cô ấy.”
Ở trạng thái siêu thức, Catherine có khả năng chỉ ra chính xác những khuyết điểm quan trọng trong tính cách của cả Becky lẫn Stuart. Catherine trong tình trạng thôi miên là một nhà tâm lý học xuất sắc, có trực giác mạnh mẽ và chính xác. Catherine ở trạng thái tỉnh thức lại không có được những đặc điểm này. Nhiệm vụ của tôi chính là xóa bỏ tình trạng này. Sự cải thiện mạnh mẽ về mặt lâm sàng của cô cho thấy tình trạng này đang được xóa bỏ dần. Tôi cố gắng hơn nữa để hợp nhất hai trạng thái trên.
“Cô có thể tin ai?” Tôi hỏi. “Hãy nghĩ xem. Ai là người cô có thể tin, học hỏi và thân cận. Họ là ai?”
“Tôi có thể tin ông,” cô thì thầm. Tôi biết điều này, nhưng tôi biết rằng cô thậm chí cần phải tin hơn vào những người khác trong cuộc sống thường nhật của cô.
“Đúng như cô nói. Cô có thể thân cận với tôi nhưng cô cũng phải thân cận với những người khác trong cuộc sống của cô nữa, những người có quan hệ gần gũi với cô nhiều hơn tôi.” Tôi muốn cô được hoàn thiện và độc lập, không phụ thuộc vào tôi.
“Tôi có thể tin tưởng chị tôi. Tôi không biết rõ những người khác. Tôi có thể tin Stuart nhưng chỉ ở một mức độ nào đó. Anh ấy thực sự quan tâm đến tôi nhưng lại lúng túng. Và trong sự lúng túng của mình anh ấy đã vô tình làm tổn thương tôi.”
“Đúng, đó là sự thật. Có người đàn ông nào khác mà cô có thể tin cậy?”
“Tôi có thể tin Robert,” cô trả lời. Anh ấy cũng là một bác sỹ trong bệnh viện của chúng tôi. Họ là bạn tốt của nhau.
“Đúng. Có thể cô cũng sẽ gặp nhiều người hơn… trong tương lai.”
“Vâng,” cô công nhận.
Ý nghĩ về khả năng hiểu biết tương lai hấp dẫn kỳ lạ. Cô ấy biết rất chính xác những điều trong quá khứ. Cô ấy, thông qua những Bậc thầy đã biết những sự kiện bí mật, đặc biệt. Liệu họ có biết cả những sự kiện trong tương lai không? Nếu vậy, chúng tôi có chia sẻ khả năng biết trước tương lai này không? Hàng ngàn câu hỏi bùng lên trong óc tôi.
“Khi cô tìm được sự tiếp xúc với tư duy siêu thức của mình như hiện thời và có được sự thông thái như hiện thời, có phải cô cũng phát triển khả năng siêu nhiên? Liệu cô có khả năng nhìn thấy tương lai không? Chúng ta đã làm được điều đó rất nhiều trong quá khứ.”
“Điều đó có thể,” cô công nhận, “nhưng hiện tôi không thấy gì cả.”
“Điều đó có thể ư?” tôi lặp lại.
“Tôi tin vậy.”
“Cô có thể làm điều đó mà không hề sợ hãi gì sao? Cô có thể đi vào tương lai và thu được thông tin về một điều bình thường không làm cho cô sợ hãi chứ? Cô có thể thấy trước tương lai không?”
Câu trả lời của cô tức thì. “Tôi không thấy điều đó. Họ sẽ không cho phép.” Tôi biết cô muốn nói là các Bậc thầy.
“Hiện họ có ở quanh cô không?”
“Có.”
“Họ có nói chuyện với cô không?”
“Không. Họ kiểm soát mọi thứ.” Do bị kiểm soát, cô không được phép nhìn vào tương lai. Có lẽ chúng tôi sẽ chẳng thu thập được gì về mặt cá nhân khi chỉ được nhìn thoáng như vậy. Có lẽ cuộc phiêu lưu này làm cho Catherine quá hồi hộp. Có lẽ chúng tôi chưa được chuẩn bị để hành xử với thông tin này. Tôi không muốn đẩy vấn đề xa hơn.
“Linh hồn thường ở quanh cô trước đây, Gideon…”
“Vâng.”
“Ông ấy cần gì? Tại sao lại ở gần vậy? Cô có biết ông ta không?”
“Không, tôi nghĩ mình không biết.”
“Nhưng ông ấy bảo vệ cô khỏi những nguy hiểm?”
“Vâng.”
“Những Bậc thầy….”
“Tôi không thấy họ.”
“Thỉnh thoảng họ gửi thông điệp cho tôi, những thông điệp đã giúp cho cô lẫn tôi. Những thông điệp này vẫn thường có cho cô ngay cả khi họ không nói? Có phải họ đưa những suy nghĩ này vào ý nghĩ của cô?”
“Vâng.”
“Họ có kiểm soát việc cô có thể đi bao xa không? Cô có thể nhớ điều gì?”
“Vâng.”
“Vậy thì phải có mục đích trong việc giảng giải kiếp sống này….”
“Vâng.”
“… Cho cô và cho tôi… để dạy chúng ta. Để mang chúng ta đến nơi vắng bặt sự sợ hãi.”
“Có rất nhiều cách giao tiếp. Họ chọn rất nhiều… để thể hiện rằng họ thật sự tồn tại.” Cho dù Catherine có đang nghe tiếng nói của họ, hình dung những khung cảnh và hình ảnh trong quá khứ, trải nghiệm hiện tượng siêu hình hay suy nghĩ, ý tưởng được đưa vào ý nghĩ của cô thì mục đích vẫn vậy – cho thấy họ thật sự tồn tại và thậm chí còn hơn thế nữa là giúp đỡ chúng ta, để hỗ trợ chúng ta trên con đường riêng bằng cách cung cấp hiểu biết sâu xa và tri thức nhằm giúp chúng ta trở nên giống Thượng đế nhờ sự thông thái.
“Cô có biết tại sao họ lại chọn cô…”
“Không.”
“… Là kênh truyền?”
Đây là câu hỏi tế nhị vì khi tỉnh thức Catherine không thể nghe các cuộn băng ghi âm từ những buổi trị liệu. “Không,” cô dịu dàng thì thầm.
“Nó có làm cô sợ hãi không?”
“Thỉnh thoảng.”
“Những lần khác thì không à?”
“Đúng vậy.”
“Điều này có thể trấn an,” tôi nói thêm. “Giờ đây chúng ta biết rằng chúng ta tồn tại mãi, thế nên chúng ta không còn sợ cái chết.”
“Đúng,” cô đồng ý. Tạm ngưng. “Tôi phải học cách tin tưởng.” Cô quay lại với bài học chính trong kiếp sống của mình. “Khi tôi được bảo điều gì, tôi phải học cách tin rằng tôi đang được dạy dỗ… nhất là khi người nói là người hiểu biết sâu rộng.”
“Chắc chắn sẽ có những người không nên tin,” tôi nói thêm.
“Đúng nhưng tôi đã lẫn lộn. Và những người mà tôi biết là tôi nên tin thì tôi lại đấu tranh để chống lại cảm giác đó. Và tôi không muốn tin bất kỳ ai.” Cô lại im lặng khi tôi lại một lần nữa khâm phục sự thấu hiểu của cô.
“Lần trước chúng ta nói về cô khi còn là một đứa trẻ trong một khu vườn có những con ngựa. Cô có nhớ không? Đám cưới chị cô?”
“Một chút.”
“Có thể thu nhiều thông tin hơn từ thời gian đó phải không? Cô biết không?”
“Có.”
“Giờ có nên quay lại đó để khai thác tiếp không?”
“Hiện không thể quay lại đó. Có rất nhiều thứ trong một kiếp sống… có rất nhiều tri thức phải thu nạp… từ mỗi kiếp sống. Đúng, chúng ta phải khai thác nhưng hiện thời thì không thể quay lại đó.”
Vì thế tôi quay lại với trục trặc của cô ấy trong mối quan hệ với cha mình. “Mối quan hệ với cha cô là một lĩnh vực khác, điều đã ảnh hưởng sâu sắc đến cô trong cuộc sống này.”
“Đúng,” cô trả lời đơn giản.
“Đó là một lĩnh vực khác cũng phải tìm hiểu. Cô có nhiều điều phải học từ mối quan hệ này. Hãy so sánh nó với cậu bé ở Ukraine, mất cha khi còn rất nhỏ. Sự mất mát này không đến với cô lần này. Tuy nhiên…
“Lại là một gánh nặng khác,” cô kết luận. “Ý nghĩ…” cô nói thêm, “những ý nghĩ….”
“Ý nghĩ nào?” Tôi cảm nhận cô đã ở trong một vùng đất mới.
“Về sự gây mê. Khi người ta gây mê ông, ông vẫn nghe được phải không? Ông có thể vẫn nghe!” cô trả lời câu hỏi của chính mình. Giờ đây cô thì thầm rất nhanh và trở nên kích động. “Trí óc của ông biết rất rõ những gì đang xảy ra. Họ nó về sự ngạt thở của tôi, về khả năng tôi bị nghẹt thở khi họ tiến hành phẫu thuật cổ họng tôi.”
Tôi nhớ lại cuộc phẫu thuật dây thanh đới của Catherine, được thực hiện chỉ một tháng trước cuộc hẹn đầu tiên của cô ấy với tôi. Cô đã rất hồi hộp trước khi giải phẫu và hoàn toàn khiếp sợ khi tỉnh lại trong phòng hồi sức. Y tá đã phải mất nhiều giờ mới làm cô bình tĩnh trở lại. Giờ đây dường như những gì mà các bác sỹ phẫu thuật đã nói trong thời gian cô ở trong trạng thái bị gây mê sâu đã dẫn đến sự khiếp sợ của cô. Trí óc tôi nhảy về với trường y và những ca phẫu thuật của tôi. Tôi nhớ lại những cuộc trò chuyện thông thường trong khi giải phẫu, lúc bệnh nhân đã được gây mê. Tôi nhớ những lời đùa cợt, nguyền rủa, tranh luận và những cơn giận vô cớ của bác sỹ giải phẫu. Những bệnh nhân đã nghe được gì khi ở trong trạng thái tiềm thức? Những gì họ ghi nhận được đã ảnh hưởng như thế nào đến ý nghĩ và cảm xúc của họ, nỗi sợ và bất an sau khi họ tỉnh lại? Có phải quá trình hậu phẫu, chính trong quá trình phục hồi của bệnh nhân sau phẫu thuật đã bị ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực bởi những nhận xét trong quá trình giải phẫu? Có ai tử vong vì nghe được những tiên lượng xấu trong quá trình giải phẫu không? Có phải họ do cảm thấy không còn hy vọng nên đã đầu hàng?
“Cô có nhớ những gì họ nói không?” tôi hỏi.
“Rằng họ sẽ đặt ống. Khi họ lấy ống ra, cổ họng tôi có thể bị sưng lên. Họ không nghĩ rằng tôi có thể nghe được.”
“Nhưng cô nghe.”
“Vâng. Đó là lý do tại sao tôi gặp phải tất cả những vấn đề đó.” Sau phiên trị liệu hôm nay, Catherine sẽ không còn bất kỳ nỗi sợ nào khi nuốt hay bị nghẹt thở. Đơn giản vậy thôi. “Tất cả nỗi lo lắng…” cô tiếp tục, “là tôi sợ mình bị nghẹt thở.”
“Cô thấy thoải mái chưa?” tôi hỏi.
“Vâng. Ông có thể đảo ngược những gì họ đã làm.”
“Tôi ư?”
“Đúng. Chính ông… Họ nên hết sức thận trọng với lời nói của mình. Giờ tôi vẫn còn nhớ. Họ đặt một chiếc ống trong họng tôi. Và rồi sau đó tôi không thể nói gì để có thể báo cho họ biết.”
“Giờ đây cô đã được giải phóng… cô thực sự nghe thấy họ.”
“Vâng, tôi nghe họ nói chuyện…” cô rơi vào im lặng trong một hay hai phút, rồi bắt đầu quay đầu từ bên này sang bên kia. Dường như cô đang lắng nghe điều gì đó.
“Dường như cô đang nghe thông điệp. Cô có biết thông điệp đó xuất phát từ đâu không? Tôi hy vọng những Bậc thầy sẽ xuất hiện.”
“Ai đó nói với tôi”, cô trả lời bí ẩn.
“Ai đó đang nói với cô à?”
“Nhưng họ đi rồi.” Tôi cố đưa họ trở lại.
“Thử xem cô có thể mang về những linh hồn có thông điệp cho chúng ta… để giúp chúng ta.”
“Họ chỉ đến khi họ muốn đến chứ không phải khi tôi muốn,” cô trả lời chắc chắn.
“Cô không có chút quyền hạn nào ư?”
“Không.”
“Được rồi,” tôi chấp nhận, “nhưng thông điệp về tình trạng hôn mê rất quan trọng đối với cô. Đó là nguồn gốc tình trạng nghẹt thở của cô.”
“Điều đó quan trọng đối với ông chứ không phải tôi,” cô đáp. Câu trả lời của cô vang vọng trong tâm trí tôi. Cô ấy sẽ được chữa lành nỗi sợ nghẹt thở, tuy nhiên tiết lộ này lại quan trọng đối với tôi hơn là với cô ấy. Tôi là người làm công việc chữa trị. Câu trả lời đơn giản của cô chứa rất nhiều tầng nghĩa. Tôi cảm nhận rằng nếu tôi thật sự hiểu được những tầng nghĩa này, những quãng tám ngân vang ngữ nghĩa, tôi sẽ có bước tiến nhảy vọt trong sự hiểu biết những mối quan hệ của con người. Có lẽ việc giúp đỡ quan trọng hơn là việc chữa lành.
“Dành cho tôi để giúp cô ư?” tôi hỏi.
“Vâng. Ông có thể đảo ngược những gì họ đã làm. Ông đang trả ngược lại những gì họ đã làm….” Cô rơi vào trạng thái nghỉ ngơi. Cả hai chúng tôi đã học được một bài học lớn lao.
***
Ngay sau sinh nhật ba tuổi, con gái tôi, Amy, đã chạy ào đến ôm chân tôi. Con bé nhìn lên và nói, “Bố, con yêu bố suốt 40000 năm.” Tôi nhìn xuống khuôn mặt bé nhỏ và cảm thấy hết sức, hết sức hạnh phúc.
Tuần lễ này nhanh chóng trôi qua. Tôi đã nghe đi nghe lại cuộn băng thu âm của phiên trị liệu tuần trước. Làm thế nào mà tôi có thể tiếp cận được trạng thái chuyển kiếp? Tôi không cảm thấy sự chứng ngộ đặc biệt nào. Và giờ đây những linh hồn được gửi về để giúp đỡ tôi. Nhưng tôi được dự định sẽ làm việc gì? Lúc nào thì tôi biết được điều đó? Liệu tôi có nên tùy thuộc vào nhiệm vụ này? Tôi biết là mình phải chờ đợi và kiên nhẫn. Tôi nhớ những lời của Bậc thầy thi ca.
“Kiên nhẫn và chờ đúng thời điểm… mọi sự sẽ đến khi nó phải đến… mọi sự sẽ sáng tỏ cho ông vào đúng thời điểm. Nhưng ông cần có thời gian để hấp thụ hoàn toàn tri thức mà chúng tôi đã trao cho ông.” Vì thế tôi chờ đợi.
Vào lúc bắt đầu phiên trị liệu này Catherine có đề cập đến một phần giấc mơ của cô cách đây vài đêm. Trong giấc mơ đó cô đang sống trong nhà bố mẹ mình và một ngọn lửa đã bùng lên trong đêm. Cô bình tĩnh, giúp mọi người thoát khỏi căn nhà nhưng cha cô vẫn chậm chạp và dường như không quan tâm trong tình huống khẩn cấp đó. Cô vội vã thúc ông ra ngoài. Lúc đó ông ấy nhớ ra thứ gì đó vẫn còn để trong nhà và bảo Catherine quay vào trong ngọn lửa dữ dội để lấy. Cô chẳng thể nhớ được đó là thứ gì. Tôi quyết định chưa diễn dịch giấc mơ mà chờ xem chuyện này có xảy đến khi cô được thôi miên không.
Cô nhanh chóng chìm vào trạng thái xuất thần sâu. “Tôi thấy một phụ nữ có mũ trùm đầu nhưng không che mặt, chỉ che tóc của bà ấy.” Rồi cô im lặng.
“Bây giờ cô có thấy nó không? Mũ trùm?”
“Tôi để mất dấu rồi… tôi thấy vài loại y phục đen, vải thêu kim tuyến với thiết kế bằng vàng trên đó… Tôi thấy một tòa nhà có vài cấu trúc nhọn trên đó… màu trắng.”
“Cô có nhận biết tòa nhà này không?”
“Không.”
“Tòa nhà có lớn không?”
“Không. Có một ngọn núi ở phía sau nhà và trên đỉnh có tuyết. Nhưng cỏ trong thung lũng vẫn xanh… chúng tôi ở đó.”
“Cô có thể vào trong tòa nhà không?”
“Được. Nó làm bằng một loại đá cẩm thạch nào đó… sờ vào rất lạnh.”
“Có phải là đền thờ hay kiến trúc tôn giáo không?”
“Tôi không biết. tôi nghĩ nó có thể là nhà tù.”
“Nhà tù?” tôi lặp lại. “Có người trong tòa nhà đó không? Hay quanh đó?”
“Có, vài người lính. Họ mặc đồng phục đen, màu đen với miếng đệm vai bằng vàng… những núm tua bằng vàng đeo lủng lẳng. Nón sắt màu đen có vài chi tiết bằng vàng… thứ gì đó nhọn và bằng vàng ở đỉnh… của nón sắt. Và có dây thắt lưng màu đỏ, dây thắt đỏ quanh eo.”
“Có người lính nào ở gần cô không?”
“Có hai hay ba gì đó.”
“Cô có ở đó không?”
“Tôi đang ở đâu đó nhưng không ở trong tòa nhà. Nhưng tôi ở gần đó.”
“Nhìn quanh thử. Xem có thể tìm thấy chính cô không…. Những ngọn núi ở đó và đồng cỏ… và tòa nhà màu trắng. Ở đó còn có tòa nhà khác không?”
“Nếu có những tòa nhà khác thì chúng không ở gần tòa nhà này. Tôi thấy một tòa… tách biệt, có vài bức tường ở đằng sau nó… một bức tường.”
“Cô có nghĩ rằng nó là một pháo đài hay một nhà tù hay thứ gì đại loại thế không?”
“Có thể nhưng… nó ở rất biệt lập.”
“Tại sao điều đó lại quan trọng đối với cô?” [nghỉ dài] “Cô có biết tên thành phố hay nước mà cô đang ở không? Những người lính này ở đâu?”
“Tôi đang tìm ‘Ukraine.’ “
“Ukraine?” tôi lập lại, hết sức thú vị vì sự đa dạng trong những kiếp sống của cô ấy. “Cô có thấy năm nào không? Cô có biết điều đó không? Hay một khoảng thời gian nào đó?”
“1717,” cô ngập ngừng trả lời rồi tự đính chính. “1758… 1758. Có rất nhiều lính. Tôi không biết mục đích của họ là gì. Với những thanh kiếm dài, cong.”
“Cô còn thấy hay nghe gì khác không?” Tôi dò hỏi.
“Tôi thấy một suối nước, suối nước nơi họ cho ngựa uống.”
“Những người lính có cưỡi ngựa không?”
“Có.”
“Những người lính này có tên gọi nào khác không? Họ có gọi nhau bằng cách đặc biệt nào không?” Cô lắng nghe.
“Tôi không nghe gì.”
“Cô có thuộc phe của họ không?”
“Không.” Câu trả lời của cô lại là của một đứa trẻ, ngắn và thường đơn âm. Tôi lại phải hết sức tích cực trong vai người phỏng vấn.
“Nhưng cô đang quan sát họ rất gần?”
“Vâng.”
“Cô có ở trên phố không?”
“Có.”
“Cô có sống ở đó không?”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Tốt. Xem thử cô có thể tìm thấy mình và nơi cô sống không.”
“Tôi thấy vài bộ y phục rách rưới. Tôi chỉ thấy một đứa bé, cậu bé. Y phục của cậu rách rưới. Cậu bị lạnh…”
“Cậu bé có nhà ở phố không?” Một khoảng lặng kéo dài.
“Tôi không thấy,” cô tiếp tục. Dường như cô gặp một vài khó khăn trong việc kết nối với kiếp sống này. Cô hơi mơ hồ khi trả lời, có phần không chắc chắn.
“Được rồi. Cô có biết tên cậu bé không?”
“Không.”
“Chuyện gì xảy ra với cậu bé vậy? Đi với cậu ấy. Xem thử chuyện gì đã xảy ra.”
“Người mà cậu ấy biết là một tù nhân.”
“Bạn? Họ hàng?”
“Tôi tin rằng đó là cha cậu bé.” Cô trả lời nhanh.
“Cô có phải là cậu ấy không?”
“Tôi không chắc.”
“Cô có biết cậu ấy cảm thấy thế nào về việc cha mình bị nhốt trong tù không?”
“Có… cậu ấy rất sợ, sợ rằng họ sẽ giết cha mình.”
“Cha cậu ấy đã làm gì?”
“Ông ấy đánh cắp thứ gì đó của những người lính, tài liệu hay thứ gì đó.”
“Cậu bé không hiểu hết mọi chuyện phải không?”
“Không. Cậu ấy có thể sẽ chẳng bao giờ gặp lại cha mình nữa.”
“Cậu ấy…”
“Không.”
“Họ có biết cha cậu sẽ ở trong tù bao lâu không? Hay liệu ông ấy có còn sống không?”
“Không!” Cô trả lời. Giọng cô run rẩy. Cô rất bối rối, rất buồn. Cô không cung cấp nhiều chi tiết, tuy nhiên cô vẫn kích động thấy rõ vì những sự kiện mà mình đang chứng kiến và trải qua.
“Cô có thể cảm nhận những gì cậu bé đang cảm thấy,” tôi tiếp tục, “nỗi sợ hãi và kích động. Cô có cảm thấy điều đó không?”
“Có.” cô lại im lặng.
“Chuyện gì vậy? Giờ hãy tiến nhanh thời gian. Tôi biết là rất khó khăn. Vượt nhanh thời gian. Chuyện gì đó xảy ra.”
“Cha cậu ấy bị hành hình.”
“Giờ đây, cậu ấy cảm thấy như thế nào?”
“Thực ra ông ấy chưa từng làm điều gì chúng nghĩ. Nhưng chúng hành hình mọi người mà chẳng cần lý do gì.”
“Cậu bé hẳn rất căm tức chuyện này.”
“Tôi không tin rằng cậu hoàn toàn hiểu hết… mọi chuyện đã xảy ra.”
“Cậu ấy còn có ai để nương tựa không?”
“Có, nhưng đời cậu ấy sẽ rất khó khăn.”
“Cậu bé sẽ trở thành gì?”
“Tôi không biết. Cậu ấy có thể sẽ chết…” giọng cô rất buồn. Cô lại im lặng, sau đó dường như đang nhìn quanh.
“Cô đang nhìn gì thế?” tôi hỏi.
“Không có gì… bóng tối.” Cô hoặc đã chết hay đã không còn kết nối với cậu bé buồn bã sống ở Ukraine cách đây hơn 200 năm.
“Cô đã rời khỏi cậu bé rồi à?”
“Vâng,” cô thì thầm. Cô đang nghỉ ngơi.
“Cô học được gì từ kiếp sống vừa rồi? Tại sao nó lại quan trọng?”
“Không được vội vã phán xét con người. Ông phải công bằng với mọi người. Nhiều cuộc đời bị hủy hoại vì sự phán xét vội vã của chúng ta.”
“Cuộc đời cậu bé ngắn ngủi và khó khăn vì sự phán xét như thế… đối với cha cậu.”
“Vâng.” Cô lại im lặng.
“Hiện giờ cô đang xem xét thứ gì khác không? Cô có nghe thấy điều gì không?”
“Không.” Lại một câu trả lời nhanh và rồi im lặng. Vì vài lý do, kiếp sống ngắn ngủi này lại hết sức nhọc nhằn. Tôi hướng dẫn cô nghỉ ngơi.
“Hãy nghỉ ngơi. Cảm thấy an bình. Cơ thể của cô sẽ tự chữa lành; tâm hồn cô đang nghỉ ngơi… cô thấy đỡ hơn chưa? Đã được nghỉ ngơi chưa? Thật là khó khăn cho cậu bé. Rất cực khổ. Nhưng giờ thì cô lại được nghỉ ngơi. Trí óc của cô có thể đưa cô đến những nơi khác, thời gian khác… ký ức khác. Cô có đang nghỉ ngơi không?”
“Có.” Tôi quyết định theo đuổi phần giấc mơ về ngôi nhà cháy, sự rề rà vô tâm của cha cô và việc ông ấy yêu cầu cô quay lại đám cháy để lấy vài thứ cho ông ấy.
“Giờ tôi có một câu hỏi về giấc mơ mà cô đã có… với cha mình. Giờ thì cô có thể nhớ lại, nó an toàn. Cô đang ở trong trạng thái thôi miên sâu. Cô có nhớ không?”
“Có.”
“Cô quay lại ngôi nhà để lấy thứ gì đó. Cô có nhớ điều đó không?”
“Có… đó là một chiếc hộp bằng kim loại.”
“Có gì trong đó mà ông ấy nằng nặc bằng mọi giá sai cô quay lại ngôi nhà đang cháy?”
“Tem và những đồng xu… mà ông đã cất giữ,” cô trả lời. Nhớ lại chi tiết nội dung giấc mơ khi bị thôi miên quả là trái ngược hoàn toàn với những chi tiết sơ lược khi cô tỉnh táo. Thôi miên là một công cụ mạnh mẽ, không chỉ mang lại khả năng truy cập đến những vùng xa xôi nhất, giấu kín nhất của trí óc mà còn cho phép cung cấp một trí nhớ chi tiết hơn rất nhiều.
“Có phải những con tem và đồng xu này rất quan trọng đối với ông ấy?”
“Đúng.”
“Nhưng liều lĩnh mạng sống của cô khi quay lại ngôi nhà đang cháy chỉ vì những con tem và đồng xu—”
“Ông không nghĩ là mình đang liều lĩnh gì cả.” Cô ấy ngắt lời tôi.
“Ông ấy cho rằng chuyện đó an toàn?”
“Đúng.”
“Vậy tại sao ông ấy không quay lại mà là cô?”
“Vì ông ấy nghĩ rằng tôi nhanh nhẹn hơn.”
“Tôi hiểu. Dù sao đó cũng là chuyện nguy hiểm đối với cô phải không?”
“Đúng, nhưng ông ấy không nhận ra điều đó.”
“Giấc mơ đó còn có ý nghĩa nào khác hơn cho cô không? Về mối quan hệ của cô với cha mình?”
“Tôi không biết.”
“Ông ấy dường như chẳng vội vã gì để ra khỏi ngôi nhà đang cháy.”
“Đúng vậy.”
“Tại sao ông ấy lại quá thong thả như vậy? Cô thì gấp gáp; cô thấy mối nguy hiểm.”
“Vì ông ấy cố trốn tránh mọi thứ.”
Tôi tóm lấy cơ hội này để diễn dịch phần nào giấc mơ. “Đúng, đó là kiểu cách trước đây của ông và cô phải làm mọi chuyện cho ông ấy, như lấy chiếc hộp. Tôi hy vọng ông ấy có thể học được từ cô. Tôi có cảm giác rằng ngọn lửa thể hiện thời gian đang hết, rằng cô thì nhận ra nguy hiểm còn ông ấy thì không. Khi ông ấy rề rà và bảo cô quay lại để lấy những thứ thuộc về vật chất thì cô hiểu biết nhiều hơn hẳn… và có rất nhiều thứ để dạy cho ông ấy nhưng dường như ông ấy cũng chả muốn học.”
“Không,” cô đồng ý. “Ông ấy không học.”
“Đó là cách tôi hiểu giấc mơ. Nhưng cô không thể ép ông ấy. Chỉ có ông ấy mới có thể nhận ra điều đó.”
“Đúng,” cô lại đồng ý và giọng của cô trở nên sâu và vang, “chẳng phải là chuyện quan trọng nếu cơ thể chúng ta bị đốt cháy khi chúng ta không cần chúng nữa…” Một Bậc thầy tâm linh đã soi sáng giấc mơ này bằng một góc nhìn hoàn toàn khác biệt. Tôi ngạc nghiên vì cách hiểu bất ngờ này đến nỗi chỉ có thể lặp lại suy nghĩ đó như vẹt, “chúng ta không cần thân thể của mình ư?”
“Không. Chúng ta đã trải qua rất nhiều trạng thái khi chúng ta ở đây. Chúng ta đã bỏ cơ thể của đứa bé để chuyển vào cơ thể một đứa trẻ, từ trẻ em thành người lớn và từ người lớn thành người già. Tại sao chúng ta không tiến thêm một bước để loại bỏ cơ thể trưởng thành và đi đến một chiều không gian tâm linh? Đó là những gì chúng ta làm. Chúng ta không ngừng lớn lên; chúng ta tiếp tục phát triển. Khi chúng ta đến không gian tâm linh, chúng ta cũng sẽ tiếp tục phát triển ở đó. Chúng ta sẽ trải qua nhiều trạng thái phát triển khác nhau. Khi chúng ta đã đạt thì chúng ta sẽ bị đốt bỏ. Chúng ta phải đi qua một trạng thái mới, giai đoạn học tập và giai đoạn ra quyết định. Chúng ta quyết định khi nào chúng ta cần trở lại, ở đâu và vì lý do gì. Một vài người chọn cách không trở lại. Họ chọn hướng tiếp tục tiến lên một trạng thái phát triển mới. Và họ sẽ ở trong hình thức linh hồn… một vài người sẽ ở lâu hơn những người khác trước khi quay trở lại. Đó hoàn toàn là do sự phát triển và học tập… phát triển liên tục. Cơ thể của chúng ta cũng chỉ như một cỗ xe để chúng ta dùng khi ở đây. Chính tâm hồn và linh hồn của chúng ta mới kéo dài mãi mãi.”
Tôi không nhận ra giọng nói hay phong cách này. Một Bậc thầy “mới” đang nói và nói về những tri thức quan trọng. Tôi muốn biết nhiều hơn về những thế giới tâm linh này.
“Không phải học hành ở trạng thái vật lý thì nhanh hơn sao? Đó có phải là lý do mà không phải tất cả mọi người đều muốn ở lại trong trạng thái tâm linh?”
“Không. Học hành ở trạng thái tâm linh nhanh hơn nhiều, nhanh hơn hẳn khi học ở trạng thái vật lý. Nhưng chúng ta chọn điều gì chúng ta cần học. Nếu chúng ta cần phải quay lại để hoàn thành một mối quan hệ thì chúng ta quay lại. Nếu hoàn thành việc đó thì chúng ta sẽ tiếp tục. Ở trạng thái linh hồn bạn có thể chọn cách luôn kết nối với những người đang ở trạng thái vật lý nếu muốn. Nhưng chỉ khi ở đó có những việc quan trọng… mà ông phải nói cho họ biết.”
“Làm thế nào cô tiếp xúc được? Làm thế nào mà thông điệp có thể truyền đi?”
Tôi ngạc nghiên khi thấy Catherine trả lời. Giọng thì thầm của cô nhanh hơn và khẳng định hơn. “Đôi lúc ông có thể xuất hiện trước người đó… cũng giống cách mà ông đang làm lúc này. Lúc khác ông chỉ cần tạo một tiếp xúc trong ý nghĩ. Thỉnh thoảng cũng có thông điệp bị mã hóa nhưng hầu hết trường hợp người đó biết nó muốn nhắc điều gì. Họ hiểu. Đó là tiếp xúc ý nghĩ với ý nghĩ.”
Tôi nói với Catherine. “Tri thức mà cô hiện có, thông tin này, sự thông thái này, rất quan trọng… tại sao nó lại không dùng được cho cô khi cô tỉnh dậy và trở lại trạng thái thông thường?”
“Tôi đoán là tôi không hiểu được nó. Tôi không có khả năng để hiểu nó.”
“Thế thì, có lẽ tôi có thể dạy cô hiểu để nó không làm cô e sợ và nhờ vậy cô sẽ học hỏi thêm.”
“Vâng.”
“Khi cô nghe tiếng của các Bậc thầy, họ nói những chuyện giống như những gì cô đang nói cho tôi. Cô hẳn phải nhận được thông tin tuyệt vời.” Tôi rất quan tâm đến sự thông thái mà cô có được khi ở trong trạng thái này.
“Vâng,” cô trả lời giản dị.
“Và điều này đến từ trí tuệ của riêng cô?”
“Nhưng là do họ đã đặt vào đó.” Cô xác nhận đó là của các Bậc thầy.
“Vâng,” tôi công nhận. “Làm sao để tôi truyền đạt tốt nhất điều đó lại cho cô để cô cũng phát triển và dẹp bỏ nỗi sợ hãi?”
“Ông đã làm điều đó rồi,” cô trả lời nhẹ nhàng. Cô ấy đúng; những nỗi sợ của cô gần như đã biến mất. Kể từ khi thôi miên hồi quy bắt đầu, những cải thiện lâm sàng của cô nhanh đến không ngờ.
“Hiện giờ cô phải học bài học nào? Đâu là điều quan trọng nhất mà cô có thể học trong kiếp sống này để cô có thể tiếp tục phát triển và thành tựu?”
“Tin,” cô trả lời nhanh chóng. Cô đã biết nhiệm vụ chủ chốt của mình là gì.
“Tin?” tôi lập lại, ngạc nghiên vì sự đối đáp nhanh nhạy của cô.
“Đúng. Tôi phải học để có lòng trung thành nhưng cũng phải tin vào con người. Tôi đã không tin. Tôi nghĩ là mọi người đang cố lường gạt tôi. Điều đó đã làm tôi tránh xa con người và những tình huống mà lẽ ra tôi không được tránh xa. Điều đó cũng giữ tôi gần gũi với những người mà lẽ ra tôi phải lìa bỏ.”
Sự thấu hiểu của cô rất sâu sắc khi ở trạng thái siêu thức. Cô biết rõ điểm yếu và điểm mạnh của mình. Cô biết những lĩnh vực phải tập trung và thực hành và cô cũng biết phải làm gì để cải thiện vấn đề. Vấn đề duy nhất là những sự thấu hiểu này phải đến được với ý thức của cô và cần phải được áp dụng trong đời sống ý thức của cô ấy. Sự thấu hiểu ở trạng thái siêu thức tự nó chưa đủ để chuyển hóa cuộc sống của cô.
“Ai là những người mà cô phải tránh xa?” Tôi hỏi.
Cô tạm ngưng. “Tôi sợ Becky. Tôi sợ Stuart… vì một vài chuyện tệ hại sẽ đến với tôi… do họ.”
“Liệu cô có thể tránh xa điều đó?”
“Không hẳn nhưng cũng tránh được vài ý tưởng của họ, đúng vậy. Stuart đang cố kìm tỏa tôi và anh ta đang thành công. Anh ta biết là tôi sợ. Anh ta biết tôi sợ phải xa anh ta và dùng hiểu biết đó để giữ tôi lại.”
“Còn Becky?”
“Cô ấy đang liên tục muốn phá vỡ lòng trung thành của tôi với những người mà tôi đã tin tưởng. Khi tôi thấy điểm tốt thì cô ấy coi là xấu xa. Và cô ấy cố gieo những hạt giống này vào đầu tôi. Tôi đang học cách tin tưởng… con người mà tôi nên tin nhưng cô ấy gieo vào tôi đầy sự ngờ vực về họ. Và đó cũng là vấn đề của cô ấy. Tôi không để cho cô ấy làm cho mình phải nghĩ theo cách của cô ấy.”
Ở trạng thái siêu thức, Catherine có khả năng chỉ ra chính xác những khuyết điểm quan trọng trong tính cách của cả Becky lẫn Stuart. Catherine trong tình trạng thôi miên là một nhà tâm lý học xuất sắc, có trực giác mạnh mẽ và chính xác. Catherine ở trạng thái tỉnh thức lại không có được những đặc điểm này. Nhiệm vụ của tôi chính là xóa bỏ tình trạng này. Sự cải thiện mạnh mẽ về mặt lâm sàng của cô cho thấy tình trạng này đang được xóa bỏ dần. Tôi cố gắng hơn nữa để hợp nhất hai trạng thái trên.
“Cô có thể tin ai?” Tôi hỏi. “Hãy nghĩ xem. Ai là người cô có thể tin, học hỏi và thân cận. Họ là ai?”
“Tôi có thể tin ông,” cô thì thầm. Tôi biết điều này, nhưng tôi biết rằng cô thậm chí cần phải tin hơn vào những người khác trong cuộc sống thường nhật của cô.
“Đúng như cô nói. Cô có thể thân cận với tôi nhưng cô cũng phải thân cận với những người khác trong cuộc sống của cô nữa, những người có quan hệ gần gũi với cô nhiều hơn tôi.” Tôi muốn cô được hoàn thiện và độc lập, không phụ thuộc vào tôi.
“Tôi có thể tin tưởng chị tôi. Tôi không biết rõ những người khác. Tôi có thể tin Stuart nhưng chỉ ở một mức độ nào đó. Anh ấy thực sự quan tâm đến tôi nhưng lại lúng túng. Và trong sự lúng túng của mình anh ấy đã vô tình làm tổn thương tôi.”
“Đúng, đó là sự thật. Có người đàn ông nào khác mà cô có thể tin cậy?”
“Tôi có thể tin Robert,” cô trả lời. Anh ấy cũng là một bác sỹ trong bệnh viện của chúng tôi. Họ là bạn tốt của nhau.
“Đúng. Có thể cô cũng sẽ gặp nhiều người hơn… trong tương lai.”
“Vâng,” cô công nhận.
Ý nghĩ về khả năng hiểu biết tương lai hấp dẫn kỳ lạ. Cô ấy biết rất chính xác những điều trong quá khứ. Cô ấy, thông qua những Bậc thầy đã biết những sự kiện bí mật, đặc biệt. Liệu họ có biết cả những sự kiện trong tương lai không? Nếu vậy, chúng tôi có chia sẻ khả năng biết trước tương lai này không? Hàng ngàn câu hỏi bùng lên trong óc tôi.
“Khi cô tìm được sự tiếp xúc với tư duy siêu thức của mình như hiện thời và có được sự thông thái như hiện thời, có phải cô cũng phát triển khả năng siêu nhiên? Liệu cô có khả năng nhìn thấy tương lai không? Chúng ta đã làm được điều đó rất nhiều trong quá khứ.”
“Điều đó có thể,” cô công nhận, “nhưng hiện tôi không thấy gì cả.”
“Điều đó có thể ư?” tôi lặp lại.
“Tôi tin vậy.”
“Cô có thể làm điều đó mà không hề sợ hãi gì sao? Cô có thể đi vào tương lai và thu được thông tin về một điều bình thường không làm cho cô sợ hãi chứ? Cô có thể thấy trước tương lai không?”
Câu trả lời của cô tức thì. “Tôi không thấy điều đó. Họ sẽ không cho phép.” Tôi biết cô muốn nói là các Bậc thầy.
“Hiện họ có ở quanh cô không?”
“Có.”
“Họ có nói chuyện với cô không?”
“Không. Họ kiểm soát mọi thứ.” Do bị kiểm soát, cô không được phép nhìn vào tương lai. Có lẽ chúng tôi sẽ chẳng thu thập được gì về mặt cá nhân khi chỉ được nhìn thoáng như vậy. Có lẽ cuộc phiêu lưu này làm cho Catherine quá hồi hộp. Có lẽ chúng tôi chưa được chuẩn bị để hành xử với thông tin này. Tôi không muốn đẩy vấn đề xa hơn.
“Linh hồn thường ở quanh cô trước đây, Gideon…”
“Vâng.”
“Ông ấy cần gì? Tại sao lại ở gần vậy? Cô có biết ông ta không?”
“Không, tôi nghĩ mình không biết.”
“Nhưng ông ấy bảo vệ cô khỏi những nguy hiểm?”
“Vâng.”
“Những Bậc thầy….”
“Tôi không thấy họ.”
“Thỉnh thoảng họ gửi thông điệp cho tôi, những thông điệp đã giúp cho cô lẫn tôi. Những thông điệp này vẫn thường có cho cô ngay cả khi họ không nói? Có phải họ đưa những suy nghĩ này vào ý nghĩ của cô?”
“Vâng.”
“Họ có kiểm soát việc cô có thể đi bao xa không? Cô có thể nhớ điều gì?”
“Vâng.”
“Vậy thì phải có mục đích trong việc giảng giải kiếp sống này….”
“Vâng.”
“… Cho cô và cho tôi… để dạy chúng ta. Để mang chúng ta đến nơi vắng bặt sự sợ hãi.”
“Có rất nhiều cách giao tiếp. Họ chọn rất nhiều… để thể hiện rằng họ thật sự tồn tại.” Cho dù Catherine có đang nghe tiếng nói của họ, hình dung những khung cảnh và hình ảnh trong quá khứ, trải nghiệm hiện tượng siêu hình hay suy nghĩ, ý tưởng được đưa vào ý nghĩ của cô thì mục đích vẫn vậy – cho thấy họ thật sự tồn tại và thậm chí còn hơn thế nữa là giúp đỡ chúng ta, để hỗ trợ chúng ta trên con đường riêng bằng cách cung cấp hiểu biết sâu xa và tri thức nhằm giúp chúng ta trở nên giống Thượng đế nhờ sự thông thái.
“Cô có biết tại sao họ lại chọn cô…”
“Không.”
“… Là kênh truyền?”
Đây là câu hỏi tế nhị vì khi tỉnh thức Catherine không thể nghe các cuộn băng ghi âm từ những buổi trị liệu. “Không,” cô dịu dàng thì thầm.
“Nó có làm cô sợ hãi không?”
“Thỉnh thoảng.”
“Những lần khác thì không à?”
“Đúng vậy.”
“Điều này có thể trấn an,” tôi nói thêm. “Giờ đây chúng ta biết rằng chúng ta tồn tại mãi, thế nên chúng ta không còn sợ cái chết.”
“Đúng,” cô đồng ý. Tạm ngưng. “Tôi phải học cách tin tưởng.” Cô quay lại với bài học chính trong kiếp sống của mình. “Khi tôi được bảo điều gì, tôi phải học cách tin rằng tôi đang được dạy dỗ… nhất là khi người nói là người hiểu biết sâu rộng.”
“Chắc chắn sẽ có những người không nên tin,” tôi nói thêm.
“Đúng nhưng tôi đã lẫn lộn. Và những người mà tôi biết là tôi nên tin thì tôi lại đấu tranh để chống lại cảm giác đó. Và tôi không muốn tin bất kỳ ai.” Cô lại im lặng khi tôi lại một lần nữa khâm phục sự thấu hiểu của cô.
“Lần trước chúng ta nói về cô khi còn là một đứa trẻ trong một khu vườn có những con ngựa. Cô có nhớ không? Đám cưới chị cô?”
“Một chút.”
“Có thể thu nhiều thông tin hơn từ thời gian đó phải không? Cô biết không?”
“Có.”
“Giờ có nên quay lại đó để khai thác tiếp không?”
“Hiện không thể quay lại đó. Có rất nhiều thứ trong một kiếp sống… có rất nhiều tri thức phải thu nạp… từ mỗi kiếp sống. Đúng, chúng ta phải khai thác nhưng hiện thời thì không thể quay lại đó.”
Vì thế tôi quay lại với trục trặc của cô ấy trong mối quan hệ với cha mình. “Mối quan hệ với cha cô là một lĩnh vực khác, điều đã ảnh hưởng sâu sắc đến cô trong cuộc sống này.”
“Đúng,” cô trả lời đơn giản.
“Đó là một lĩnh vực khác cũng phải tìm hiểu. Cô có nhiều điều phải học từ mối quan hệ này. Hãy so sánh nó với cậu bé ở Ukraine, mất cha khi còn rất nhỏ. Sự mất mát này không đến với cô lần này. Tuy nhiên…
“Lại là một gánh nặng khác,” cô kết luận. “Ý nghĩ…” cô nói thêm, “những ý nghĩ….”
“Ý nghĩ nào?” Tôi cảm nhận cô đã ở trong một vùng đất mới.
“Về sự gây mê. Khi người ta gây mê ông, ông vẫn nghe được phải không? Ông có thể vẫn nghe!” cô trả lời câu hỏi của chính mình. Giờ đây cô thì thầm rất nhanh và trở nên kích động. “Trí óc của ông biết rất rõ những gì đang xảy ra. Họ nó về sự ngạt thở của tôi, về khả năng tôi bị nghẹt thở khi họ tiến hành phẫu thuật cổ họng tôi.”
Tôi nhớ lại cuộc phẫu thuật dây thanh đới của Catherine, được thực hiện chỉ một tháng trước cuộc hẹn đầu tiên của cô ấy với tôi. Cô đã rất hồi hộp trước khi giải phẫu và hoàn toàn khiếp sợ khi tỉnh lại trong phòng hồi sức. Y tá đã phải mất nhiều giờ mới làm cô bình tĩnh trở lại. Giờ đây dường như những gì mà các bác sỹ phẫu thuật đã nói trong thời gian cô ở trong trạng thái bị gây mê sâu đã dẫn đến sự khiếp sợ của cô. Trí óc tôi nhảy về với trường y và những ca phẫu thuật của tôi. Tôi nhớ lại những cuộc trò chuyện thông thường trong khi giải phẫu, lúc bệnh nhân đã được gây mê. Tôi nhớ những lời đùa cợt, nguyền rủa, tranh luận và những cơn giận vô cớ của bác sỹ giải phẫu. Những bệnh nhân đã nghe được gì khi ở trong trạng thái tiềm thức? Những gì họ ghi nhận được đã ảnh hưởng như thế nào đến ý nghĩ và cảm xúc của họ, nỗi sợ và bất an sau khi họ tỉnh lại? Có phải quá trình hậu phẫu, chính trong quá trình phục hồi của bệnh nhân sau phẫu thuật đã bị ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực bởi những nhận xét trong quá trình giải phẫu? Có ai tử vong vì nghe được những tiên lượng xấu trong quá trình giải phẫu không? Có phải họ do cảm thấy không còn hy vọng nên đã đầu hàng?
“Cô có nhớ những gì họ nói không?” tôi hỏi.
“Rằng họ sẽ đặt ống. Khi họ lấy ống ra, cổ họng tôi có thể bị sưng lên. Họ không nghĩ rằng tôi có thể nghe được.”
“Nhưng cô nghe.”
“Vâng. Đó là lý do tại sao tôi gặp phải tất cả những vấn đề đó.” Sau phiên trị liệu hôm nay, Catherine sẽ không còn bất kỳ nỗi sợ nào khi nuốt hay bị nghẹt thở. Đơn giản vậy thôi. “Tất cả nỗi lo lắng…” cô tiếp tục, “là tôi sợ mình bị nghẹt thở.”
“Cô thấy thoải mái chưa?” tôi hỏi.
“Vâng. Ông có thể đảo ngược những gì họ đã làm.”
“Tôi ư?”
“Đúng. Chính ông… Họ nên hết sức thận trọng với lời nói của mình. Giờ tôi vẫn còn nhớ. Họ đặt một chiếc ống trong họng tôi. Và rồi sau đó tôi không thể nói gì để có thể báo cho họ biết.”
“Giờ đây cô đã được giải phóng… cô thực sự nghe thấy họ.”
“Vâng, tôi nghe họ nói chuyện…” cô rơi vào im lặng trong một hay hai phút, rồi bắt đầu quay đầu từ bên này sang bên kia. Dường như cô đang lắng nghe điều gì đó.
“Dường như cô đang nghe thông điệp. Cô có biết thông điệp đó xuất phát từ đâu không? Tôi hy vọng những Bậc thầy sẽ xuất hiện.”
“Ai đó nói với tôi”, cô trả lời bí ẩn.
“Ai đó đang nói với cô à?”
“Nhưng họ đi rồi.” Tôi cố đưa họ trở lại.
“Thử xem cô có thể mang về những linh hồn có thông điệp cho chúng ta… để giúp chúng ta.”
“Họ chỉ đến khi họ muốn đến chứ không phải khi tôi muốn,” cô trả lời chắc chắn.
“Cô không có chút quyền hạn nào ư?”
“Không.”
“Được rồi,” tôi chấp nhận, “nhưng thông điệp về tình trạng hôn mê rất quan trọng đối với cô. Đó là nguồn gốc tình trạng nghẹt thở của cô.”
“Điều đó quan trọng đối với ông chứ không phải tôi,” cô đáp. Câu trả lời của cô vang vọng trong tâm trí tôi. Cô ấy sẽ được chữa lành nỗi sợ nghẹt thở, tuy nhiên tiết lộ này lại quan trọng đối với tôi hơn là với cô ấy. Tôi là người làm công việc chữa trị. Câu trả lời đơn giản của cô chứa rất nhiều tầng nghĩa. Tôi cảm nhận rằng nếu tôi thật sự hiểu được những tầng nghĩa này, những quãng tám ngân vang ngữ nghĩa, tôi sẽ có bước tiến nhảy vọt trong sự hiểu biết những mối quan hệ của con người. Có lẽ việc giúp đỡ quan trọng hơn là việc chữa lành.
“Dành cho tôi để giúp cô ư?” tôi hỏi.
“Vâng. Ông có thể đảo ngược những gì họ đã làm. Ông đang trả ngược lại những gì họ đã làm….” Cô rơi vào trạng thái nghỉ ngơi. Cả hai chúng tôi đã học được một bài học lớn lao.
***
Ngay sau sinh nhật ba tuổi, con gái tôi, Amy, đã chạy ào đến ôm chân tôi. Con bé nhìn lên và nói, “Bố, con yêu bố suốt 40000 năm.” Tôi nhìn xuống khuôn mặt bé nhỏ và cảm thấy hết sức, hết sức hạnh phúc.