Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Truyện Ngắn A.p. Chekhov

Thảo Nguyên – Phần 1

Tác giả: Anton Chekhov


(Chuyện một chuyến đi)

 

 

I.

VÀO BUỔI SÁNG SỚM một ngày tháng Bảy, có một chiếc xe ngựa không có dịp đã cũ nát rời thị trấn N. thuộc tỉnh Z. và lăn bánh ầm ầm trên con đường thiên lý. Đó là một trong những chiếc xe ngựa cổ lỗ mà ở Nga ngày nay chỉ những anh quản gia, những người lái buôn gia súc và những ông linh mục nghèo mới còn phải đi. Nó cứ kêu lọc xọc trên đường, và hễ trùng triềng một chút là cứ rít lên ken két. Một cái xô buộc sau thùng xe cất tiếng lạch cạch chán chường đệm theo. Chỉ cần nghe những âm thanh ấy và trông những mảnh da thuộc rách nát thảm hại lủng lẳng trên cái thân hình tiều tụy của nó cũng đủ thấy nó cũ quá đi rồi, chỉ còn chờ lúc được đem tấp vào đống đồ nát.

Ngồi trên xe có hai người vốn cư trú ở thị trấn N.: một thương nhân tên là Ivan Ivanứts Kudmitsốp, râu cạo nhẵn, đeo kính trắng, đầu đội mũ rơm, trông giống một ông công chức hơn là một người lái buôn; người kia là cha Khrixtophor Xirixki, cha xứ nhà thờ Nikôlai ở N., một cụ già nhỏ bé, tóc dài, mặc áo dài bằng vải bố màu xám, đội mũ lễ bánh thuẫn rộng vành, lưng thắt một dải nịt thêu màu. Người thứ nhất đang đăm chiêu suy nghĩ điều gì, chốc chốc lại lắc mạnh đầu mấy cái để xóa tan cơn buồn ngủ. Trên gương mặt ông ta, cái vẻ khô khan thường có của những người làm ăn chí thú xung khắc với cái vẻ hồn hậu của một người vừa chia tay gia quyến thân thuộc sau một bữa chén thỏa thuê; còn người thứ hai thì đưa đôi mắt nhỏ, ươn ướt bỡ ngỡ nhìn ra cảnh đất trời bao la của Chúa và nhoẻn rộng miệng ra cười, rộng đến nỗi có thể tưởng nụ cười ấy bao quát cả cái vành mũ. Mặt ông đỏ bừng, trông như bị lạnh. Cả hai người – Kudmitsốp cũng như cha Khrixtophor – đều đang đi bán lông cừu. Khi từ biệt người nhà, họ đã ăn no bánh mềm với kem sữa tươi, và tuy hãy còn sớm tinh mơ, họ đã uống khá nhiều rượu… Tinh thần cả hai người đều đang rất sảng khoái.

Ngoài hai người vừa được mô tả trên đây và anh xà ích Đenixka đang luôn tay quất roi lên lưng cặp ngựa hồng linh lợi, trên xe còn có một hành khách nữa là thằng bé lên chín, khuôn mặt nâu sạm đi vì rám nắng và ướt đẫm vì nước mắt. Đó là Iegoruska, cháu gọi ông Kudmitsốp bằng cậu. Được ông cậu cho phép và được cha Khrixtophor ban phép lành, nó đang ở trên đường đến trường trung học. Mẹ nó là bà Onga Ivanốpna, quả phụ của một ông thư ký hội đồng xã và là chị ruột ông Kudmitsốp. Bà vốn quý trọng những người có học thức và giới thượng lưu quý phái, đã khẩn khoản ông em nhân đi bán lông cừu hãy đem cháu đi một thể và gửi nó vào trường trung học. Thế là giờ đây thằng bé, chẳng hiểu mình đi đâu và để làm gì, phải ngồi trên ghế xà ích bên cạnh Đenixka, bám vào khuỷu tay anh ta cho khỏi ngã bật ra ngoài, người cứ rung lên như chiếc ấm trà đặt trên lò sưởi. Xe chạy nhanh làm cho chiếc áo sơ mi đỏ của nó căng phồng ra sau lưng như quả bóng và cái mũ mới kiểu xà ích cắm chiếc lông công chốc chốc lại tuột ra sau gáy. Nó cảm thấy mình là người tối bất hạnh, và chỉ muốn khóc òa lên.

Khi xe chạy qua nhà lao, Iegoruska nhìn mấy người lính canh đang thong thả đi lại dọc bức tường trắng, nhìn những khung cửa sổ hẹp có chấn song sắt, nhìn cây thánh giá lấp loáng trên mái, và nhớ lại rằng một tuần trước đây, nhân ngày lễ Đức mẹ Kadan, nó đã theo mẹ đến giáo đường của nhà lao để xem buổi lễ Ngôi. Với lại trước nữa, vào ngày lễ Phục Sinh, nó cũng đã đến nhà lao với chị bếp Luđmila và anh xà ích Đenixka, mang theo bánh mì, đường, trứng, chả rán và thịt bò rán; các phạm nhân đều cám ơn và làm dấu thánh, một người trong bọn họ có biếu Iegoruska mấy chiếc khuy cài tay bằng thiếc tự làm lấy.

Thằng bé náo nức nhìn lại những nơi quen thuộc trong khi chiếc xe đáng ghét chạy đi, bỏ mọi thứ lại ở sau lưng. Kế theo nhà lao là mấy cái lò rèn ám khói đen kịt loang loáng lướt về phía sau, rồi đến khu nghĩa địa xanh rờn, ấm cúng, có một bức tường xây bằng đá cuội lớn bao bọc xung quanh. Nấp trong đám lá anh đào xanh tốt, những cây thập tự và những tấm bia trắng muốt từ sau bức tường nghĩa địa vui vẻ dòm ra, trông xa như những cái vệt trắng. Iegoruska nhớ lại rằng vào tiết hoa anh đào nở, những cái vệt này hòa với màu hoa anh đào thành một biển trắng xóa, rồi đến mùa quả anh đào chín, bia và cây thập tự trong nghĩa địa đều điểm lấm tấm những chấm đỏ thắm như máu. Sau bức tường kia, bố Iegoruska và bà nội Đanilốpna của nó đêm ngày yên nghỉ.

Hồi bà nội chết, người ta bỏ bà vào một cái quan tài dài và hẹp, lấy hai đồng năm kôpếch đặt lên đôi mắt mãi không chịu nhắm lại. Trước khi chết, bà nội vẫn sống như mọi người, và đi chợ bà thường mua về cho nó những chiếc bánh mì vòng rắc hạt anh túc. Còn bây giờ thì bà đã ngủ yên, ngủ mãi mãi…

Sau nghĩa địa lại đến những lò nung gạch bốc khói. Khói đen dày đặc từ những tấm mái sậy dài và thấp lè tè cuộn lên từng đám lớn, uể oải bốc lên cao. Phía trên mấy cái lò gạch và khu nghĩa địa là một khoảng trời u ám, và những cái bóng rợp lớn do đám khói hắt xuống trườn trên cánh đồng, bò qua con đường cái. Trong đám khói tỏa quanh mái nhà vật vờ những bóng người và những con ngựa, mình phủ một lớp bụi đỏ…

Đi quá mấy cái lò nung gạch là hết địa phận của thị trấn, bắt đầu ra đồng ruộng. Iegoruska ngoái lại nhìn thị trấn lần cuối cùng, úp mặt vào khuỷu tay Đenixka và khóc nức nở…

– Kìa, khóc chưa đã hay sao, cái thằng nhè này! – Kudmitsốp nói. – Lại phun nhớt phun dãi ra rồi, hư thật. Không muốn đi thì ở lại. Có ai bắt mày đi đâu!

– Không sao đâu, anh bạn Iegoruska ạ, – cha Khrixtophor nói lắp bắp. – Không sao đâu anh bạn ạ… Cầu Chúa cứu giúp đi… Con đi là đi việc tốt lành chứ có phải đi đày đi ải gì mà khóc. Người ta đã nói học vấn là ánh sáng, thất học là bóng tối mà… Đúng như thế đấy.

– Cháu có muốn quay về không? – Kudmitsốp hỏi.

– Mu… muốn… – Iegoruska vừa nấc vừa đáp.

– Mà về cũng phải. Đằng nào thì đi cũng chẳng được cái gì, lại chỉ công cốc thôi.

– Không sao đâu mà, không sao đâu… – cha Khrixtophor nói tiếp. – Con cầu nguyện Chúa đi… Kìa như Lômônôxốp cũng phải đi đánh cá với bạn chài mãi(1) thế mà sau đã thành người nổi tiếng khắp châu Âu đấy. Trí tuệ mà đi với đức tin thì sẽ đem lại những kết quả đẹp lòng Chúa. Trong bài kinh nói thế nào nhỉ? Rạng danh cho đức Chúa, vui lòng cho mẹ cha, lợi cho giáo hội và Tổ quốc… Thế kia mà!

– Lợi cũng có dăm bảy đằng… – Kudmitsốp vừa nói vừa châm một điếu xì gà rẻ tiền. – Có người ăn học suốt hai mươi năm mà cũng chẳng làm nên tích sự gì.

– Cũng có khi thế thật.

– Người thì học vào có lợi, kẻ thì học vào chỉ đâm rối óc. Bà chị tôi là người ít hiểu biết, cái gì cũng thích làm như quý tộc, bà ta muốn cho thằng Iegoruska có học vấn, chứ không hiểu rằng với công việc làm ăn của tôi, tôi có thể làm cho Iegoruska sung sướng cả đời. Hơn nữa cũng xin thưa để ông rõ rằng nếu mọi người đều thành học giả hoặc lại là ông lớn cả thì lấy ai mà buôn bán và đi cày nữa. Rồi đến chết đói hết.

– Nhưng nếu ai cũng đi buôn và đi cày cả, thì còn ai thông hiểu học vấn nữa?

Cả hai người đều nghĩ rằng mình vừa nói ra một điều gì có trọng lượng và có sức thuyết phục lắm, làu bàu ra vẻ nghiêm trang và cùng đằng hắng một tiếng rõ đều. Đenixka lắng nghe hai người nói chuyện nhưng chẳng hiểu gì sốt, bèn lắc mạnh đầu một cái, nhỏm người dậy quất roi lên cả hai con ngựa hồng. Trên xe im lặng một lát.

Trong khi đó trước mặt mấy người đi đường đã trải ra một cánh bình nguyên rộng mênh mông có một dãy đồi vắt ngang chen chúc nhau, nhấp nhỏm dòm qua vai nhau, mấy ngọn đồi này dần dần nhập lại thành một hàng chạy dài từ vệ đường bên phải cho đến tận chân trời rồi mất hút trong khoảng không màu tím nhạt; xe cứ đi mãi mà vẫn không trông rõ được dãy đồi bắt đầu ở chỗ nào và chấm dứt ở chỗ nào… Mặt trời đã ló lên từ phía sau thị trấn và từ tốn, ung dung bắt tay vào việc. Lúc đầu, xa tắp phía trước mặt, nơi đất lẫn với trời, bên cạnh mấy cái gò và chòi xay gió trông xa như một thằng người nho nhỏ đang vung tay, có một dải nắng rộng màu vàng rực trườn đi trên mặt đất; một phút sau chính cái dải ấy ánh lên gần hơn, trườn sang bên phải và trùm lên dãy đồi; một cái gì âm ấm chạm vào lưng Iegoruska, và một vệt sáng từ phía sau len lên, chồm qua chiếc xe ngựa và cặp ngựa, lao tới gặp các dải sáng khác, và đột nhiên cả cánh thảo nguyên rộng mênh mông cởi bỏ tấm chăn tối mờ mờ của buổi sáng sớm, mỉm cười và bắt đầu phô ra muôn vàn giọt sương sớm long lanh.

Những cánh đồng tiểu mạch đã gặt xong, những đám cỏ dại, những bụi gai, những khóm đay dại – tất cả đều đã sém đi vì nắng, ngả sang màu hung nâu nâu và như chết dở, nhưng giờ đây, được làn sương mai tắm gội và được ánh nắng vuốt ve, đã lại hồi sinh để nở hoa trở lại. Trên mặt đường, những con chim “ông lão” cất tiếng hót tươi vui bay qua vun vút; trong đám cỏ, mấy con chuột nhảy gọi nhau, và xa xa đâu về phía bên trái, có tiếng nức nở của mấy con chim dẽ mào. Một đàn chim cun cút hoảng sợ trước chiếc xe ngựa cất cánh bay vụt lên và trong tiếng vỗ cánh rào rạo mềm mại rủ nhau bay về phía dãy đồi. Trong đám cỏ, châu chấu, cào cào, dế mèn, xén tóc thi nhau kéo dài điệu nhạc rả rích đơn điệu của chúng.

Nhưng chỉ một lát sau sương mai đã bốc hơi hết, không khí ngưng đọng lại, và cánh thảo nguyên bị mắc lừa lại trở lại với cái vẻ chán chường của tháng Bảy. Cỏ rũ xuống, sự sống lại lịm đi. Những dãy đồi rám nắng, gần thì màu hung pha lẫn màu xanh, xa thì màu tím, với những sắc độ điềm đạm như bóng tối, dải đồng bằng mờ dần ở phía xa, và bầu trời úp lên trên cánh thảo nguyên không có rừng và núi cao trông sâu thẳm và trong suốt đến phát sợ lên; tất cả bây giờ đều có vẻ vô cùng vô tận và lặng điếng đi nhớ nhung…

Sao mà ngột ngạt và buồn tẻ quá! Chiếc xe chạy mãi, và Iegoruska nhìn mãi cũng vẫn chỉ thấy có thế – bầu trời, dải đồng bằng, mấy dãy đồi… Điệu nhạc trong cỏ đã ngừng bặt. Chim “ông lão” đã bay đi, chim cun cút chẳng còn thấy đâu nữa. Trên lớp cỏ héo, mấy con quạ chẳng biết làm gì cho qua ngày cứ lượn qua lượn lại, con nào cũng giống hệt con nào, làm cho thảo nguyên càng đơn điệu hơn nữa.

Một con diều hâu bay là là sát mặt đất, cánh vỗ khoan thai, rồi bỗng nhiên dừng lại giữa khoảng không, như thể ngẫm nghĩ về sự tẻ nhạt của cuộc sống, rồi lại vỗ cánh lao như mũi tên trên thảo nguyên, và không sao hiểu được nó bay như thế để làm gì, nó cần cái gì. Xa xa, chiếc chòi xay gió vẫn vùng vẫy mấy cánh quạt…

Để cho quang cảnh đỡ đơn điệu, thỉnh thoảng trong đám cỏ dại lại thấp thoáng một cái sọ trắng hay một hòn đá; trong chốc lát thấy nhô lên một tảng đá lớn hình đàn bà hay một cây liễu trắng khô có một con chim sả màu xanh đậu ở cành cao nhất, một con chuột nhảy vụt qua đường, rồi đâu đấy lại như cũ: vẫn những đám cỏ dại, những dãy đồi, những con quạ…

Nhưng may thay từ phía trước đi lại một chiếc xe chở mấy bó lúa, có một cô con gái nằm vắt vẻo ở trên cùng. Buồn ngủ, mệt mỏi vì nóng nực, cô ta ngẩng đầu lên nhìn mấy người ngồi trên chiếc xe đi ngược lại. Đenixka ngẩn người ra nhìn cô gái, hai con ngựa ô vươn mõm về phía mấy bó lúa, chiếc xe rít lên, hôn chiếc xe thồ một cái, và những bông lúa sắc nhọn như cái chòi quệt lên cái mũ rộng vành của cha Khrixtophor.

– Đi đâm bừa vào người ta thế này, hả cô béo? – Đenixka quát. – Mặt thì phì bự ra như ong đốt thế kia kìa!

Cô gái uể oải mỉm cười, mấp máy đôi môi, rồi lại nằm xuống… A, kia, trên một ngọn đồi hiện ra một cây dương cô độc; ai trồng nó lên và nó đứng đấy để làm gì – có trời biết. Dáng cây cao dong dỏng, lá cây như một bộ trang phục xanh tươi, khó lòng rời mắt ra được. Đẹp như vậy, cây có sung sướng không? Mùa hè thì nắng như thiêu như đốt, mùa đông thì băng giá và bão tuyết, mùa thu thì những đêm dài hãi hùng, xung quanh chỉ thấy bóng tối dày đặc, chỉ nghe tiếng gió rú man dại, giận dữ, nhưng cái chính là một đời cô độc một mình… Sau cây dương là những dải lúa mì từ đỉnh đồi chạy dài xuống sát đường cái làm thành một tấm thảm vàng rực. Trên đồi lúa đã gặt hết và vun lại thành từng đống, còn ở phía dưới thì còn đang gặt dở… Sáu người thợ gặt đứng thành hàng ngang khoa đều mấy cái hái, và mấy cái hái cũng vui vẻ ánh lên đồng thanh kêu: “Sít! sít!” rất đều nhịp. Trông động tác của mấy người đàn bà đang bó lúa, trông vẻ mặt mấy người thợ gặt trong ánh loang loáng ở cây lưỡi hái, đều thấy rõ là nắng đang thiêu đốt họ và làm cho họ ngột ngạt. Một con chó đen, lưỡi thè lè, từ đám thợ gặt chạy về phía chiếc xe ngựa, chắc là định sủa, nhưng nửa đường bỗng đứng lại và thờ ơ nhìn Đenixka đang giơ roi lên dọa nó: sủa chỉ tổ nóng thêm! Một người đàn bà đứng dậy, hai tay ôm lấy cái lưng mỏi dừ, đưa mắt nhìn theo chiếc áo sơ mi đỏ của Iegoruska.

Không biết vì màu đỏ này vui mắt bà ta, hay vì bà ta nhớ đến mấy đứa con ở nhà, chỉ thấy bà ta đứng nhìn theo hồi lâu, không nhúc nhích…

Nhưng thửa lúa mì cũng đã lùi về phía sau. Hai bên lại rặt một dải đồng bằng cháy sém, lại những quả đồi rám nắng, lại bầu trời oi ả, lại con diều hâu bay là là trên mặt đất. Xa xa, cái chòi xay gió vẫn vung vẩy mấy cánh quạt như trước, và trông nó vẫn giống như một thằng người tí hon đang vung tay. Nhìn cái cối xay mà phát chán ra, hình như không bao giờ có thể đến tận chỗ nó, nó cứ lùi ra mãi, trốn chiếc xe ngựa.

Cha Khrixtophor và ông Kudmitsốp lặng thinh. Đenixka vẫn quất roi lên hai con ngựa và thỉnh thoảng cất tiếng quát giục. Còn Iegoruska thì không khóc nữa, chỉ thờ ơ nhìn sang hai bên đường. Khí trời nóng nực và nỗi buồn bao trùm lên thảo nguyên đã làm cho nó mỏi mệt. Nó có cảm giác đã đi như thế này từ lâu lắm, và nắng cũng đã xỉa xói vào lưng nó từ lâu. Xe đi chưa được mười vécxta mà nó đã nghĩ thầm: “Đã đến lúc nghỉ rồi!” Trên gương mặt ông cậu, vẻ hồn hậu đã dần dần mất đi, chỉ còn lại cái vẻ khô khan của người làm ăn chí thú, và trên khuôn mặt gầy gò, râu cạo nhẵn như thế, nhất là lại đeo kính và mũi và thái dương lại phủ đầy bụi, thì cái vẻ khô khan ấy lại mang thêm sắc thái khắc nghiệt tàn nhẫn. Còn cha Khrixtophor thì vẫn ngạc nhiên ngắm nhìn cảnh đất trời xung quanh và vẫn mỉm cười. Cha đang im lặng nghĩ đến một điều gì tốt lành, vui vẻ lắm, và nụ cười hiền hậu, chất phác đã ngưng đọng trên gương mặt của cha. Hình như cái ý nghĩ tốt lành, vui vẻ ấy cũng ngưng đọng lại trong óc cha vì khí trời nóng nực.

– Thế nào đây Đenixka, liệu hôm nay có đuổi kịp mấy cái xe chở hàng không? – ông Kudmitsốp hỏi.

Đenixka ngước mắt nhìn lên trời một cái, nhổm người quất ngựa rồi mới đáp:

– Nếu thuận trời thì đến đêm là đuổi kịp…

Có tiếng chó sủa. Một đàn sáu con chó khổng lồ, giống chó chăn cừu ở thảo nguyên, bỗng xồ ra như đã phục kích đấy từ trước, sủa rú lên dữ dội và nhất tề lao cả vào chiếc xe. Cả đàn chó hết sức hung hãn, mõm xù lông trông như mình nhện, mắt đỏ ngầu lên vì giận dữ, vây quanh chiếc xe, xô đẩy nhau như ganh ăn và cất tiếng rú khàn khàn. Chúng căm lắm thì phải, và hình như sẵn sàng xé tan ra từng mảnh cả xe lẫn người… Đenixka vốn thích chòng ghẹo và quất roi, nên rất mừng trước cái dịp may này. Anh làm ra một vẻ mặt hả hê đanh ác, cúi xuống quất roi vào một con chó chăn cừu trong đàn. Đàn chó càng rú lên dữ dội hơn, hai con ngựa phóng càng nhanh; và Iegoruska cứ nảy người lên bần bật chỉ chực bắn ra khỏi chiếc ghế xà ích. Nó hiểu rằng nó mà lăn xuống đất thì chỉ trong nháy mắt sẽ bị đàn chó xé tan ra từng mảnh, nhưng nó không thấy sợ; nó cũng nhìn một cách hả hê đanh ác như Đenixka, và lấy làm tiếc rằng trong tay mình không có cây roi ngựa.

Chiếc xe đã chạy đến ngang tầm một đàn cừu.

– Đứng lại! – Kudmitsốp quát. – Giữ ngựa lại!

Đenixka rướn hẳn người về phía sau để kìm đôi ngựa. Chiếc xe dừng lại.

– Lại đây! – ông Kudmitsốp gọi người chăn cừu. – Giữ mấy con chó chết tiệt ấy lại chứ!

Người chăn cừu, một ông lão rách rưới đi chân đất, đầu đội mũ chụp lông, trên đùi lủng lẳng một cái túi bẩn thỉu, tay cầm một cây sào dài có cái móc ở đầu – đúng hệt một nhân vật lụ khụ – xua đàn chó đi rồi cất mũ đến cạnh chiếc xe ngựa. Ở phía bên kia đàn cừu cũng có một bóng dáng lụ khụ y hệt như vậy đứng im không nhúc nhích, thản nhiên nhìn mấy người ngồi trên xe.

– Cừu của ai đây? – Kudmitsốp hỏi.

– Của Varlamốp đấy! – ông lão đáp rất to.

– Của Varlamốp đấy! – ông lão phía bên kia đàn cừu nhắc lại.

– Thế sao, hôm qua xe ông Varlamốp có đi qua đây không?

– Không… Có ông quản gia đi xe qua thì có…

– Thôi ta đi!

Xe lại chuyển bánh lăn đi, và hai ông lão chăn cừu với đàn chó lại tụt lại phía sau. Iegoruska miễn cưỡng nhìn về phía trước, vào khoảng không màu tím ở phía xa, và cậu bé đã bắt đầu có cảm giác là cái chòi xay gió đang vung mấy cánh quạt bây giờ đã dần dần nhích gần lại. Nó mỗi lúc một to ra, lớn hẳn lên, và đã có thể nhận rõ hai cái cánh quạt của nó. Một cánh thì đã cũ, chắp vá, còn cánh kia thì mới làm lại bằng gỗ mới, loang loáng dưới nắng.

Xe thì đi thẳng thế mà cái chòi xay gió không hiểu sao bắt đầu chuyển sang bên trái. Xe cứ đi, đi mãi, còn cái chòi xay gió thì cứ chuyển dần sang bên trái và mãi không khuất mắt.

– Lão Boltva xây cho con trai cái chòi xay gió tốt thật! – Đenixka nhận xét.

– Sao không thấy cái ấp của ông ta đâu nhỉ?

– Mãi tít đằng kia, sau cái khe kia.

Một lát sau cái ấp của Boltva cũng đã hiện ra, nhưng cái chòi xay gió mãi vẫn không lùi về phía sau, không chịu tụt lại, nó vẫn nhìn Iegoruska với cái cánh loang loáng và vẫn vậy. Thật là một lão phù thủy.

 

II.

VÀO KHOẢNG GIỮA TRƯA chiếc xe rời con đường cái lớn rẽ sang bên phải. Đenixka cho ngựa đi bước một quãng rồi dừng xe lại. Iegoruska nghe thấy tiếng róc rách khe khẽ, rất êm dịu, và cảm thấy một làn không khí gì khác hẳn chạm vào mặt nó như một làn nhung mát rượi. Từ một quả đồi do thiên nhiên lấy những tảng đá to tướng và gồ ghề xấu xí dán lại mà thành, qua một cái ống làm bằng gỗ độc sâm do một người hảo tâm vô danh nào đấy đặt, nước chảy thành một tia mảnh. Dòng nước rớt xuống đất, trong trẻo, vui tươi, long lanh dưới nắng, khe khẽ tuôn róc rách. Như thể muốn tưởng tượng mình là một dòng thác dũng mãnh và ào ạt, nó rẽ quặt sang bên trái và chảy đi đâu không rõ. Cách quả đồi không xa, một dòng nước nhỏ bò vào một vũng nước; những tia nắng nóng bỏng và mặt đất khô ran đã háo hức hút nước của nó, làm cho nó kiệt sức, nhưng hình như đi một quãng nữa nó lại hòa vào một dòng suối nhỏ khác y như thế, vì cách quá đồi chừng trăm bước xuôi theo chiều nước chảy thấy mọc lên một khóm bụi cây xanh rờn rậm rạp xum xuê, và khi xe đi gần đến, từ khóm bụi cây bay ra ba con chim mỏ nhái.

Bốn người dừng lại bên suối để nghỉ ngơi và cho ngựa ăn. Ông Kudmitsốp, cha Khrixtophor và Iegoruska ngồi xuống tấm dạ trải dưới cái bóng loang lổ do chiếc xe và hai con ngựa đã tháo khỏi càng hắt xuống và bắt đầu ăn lót dạ. Sau khi cha Khrixtophor uống nước thỏa thuê và ăn hết một quả trứng nướng, cái ý nghĩ tốt lành, vui vẻ đã vì khí trời nóng nực mà đọng lại trong óc cha từ lúc nãy, bây giờ bắt đầu đòi được tuôn ra ngoài. Cha âu yếm nhìn Iegoruska, nhai nhai mấy cái rồi mở đầu:

– Bản thân cha đây cũng đã từng đi học, con ạ. Ngay từ thuở trứng nước Chúa đã ban cho cha trí khôn và ý thức, thành thử cha không như kẻ khác, hồi mới bằng con, cha đã làm cho bố mẹ và các thầy vui lòng vì sự sáng dạ của cha. Chưa đến mười lăm tuổi cha đã nói và làm thơ bằng tiếng La tinh thông thạo như tiếng Nga. Cha còn nhớ là dạo ấy cha theo cầm thánh tượng cho đức cha chí thánh Khrixtophor. Có một hôm sau buổi lễ, bây giờ cha còn nhớ hôm ấy là ngày lễ tên thánh của Nga hoàng Alếchxanđrơ Páplovíts. Cả phước rất ngoan đạo(2), đức cha cởi bộ áo lễ, âu yếm nhìn và hỏi: “Puer bone, quam appellaris?”(3) Cha đáp: “Christophorus sumus”(4).

Đức cha bèn dạy: “Ergo connominati sumus” nghĩa là vậy chúng ta trùng tên nhau… Sau đó đức cha lại hỏi bằng tiếng La tinh: “Con là con ai?” Cha cũng trả lời bằng tiếng La tinh, rằng là con ông trợ tế Xirixki ở thôn Lebeđinxkoye. Thấy đối đáp linh lợi và rành mạch như thế, đức cha chí thánh ban phước cho cha rồi nói: “Con hãy viết thư về cho bố con nói rằng đức cha không quên bố con đâu, còn con thì đức cha sẽ chú ý tới”. Cha tiền lãnh và các linh mục lúc bấy giờ có mặt ở bàn thờ, nghe hai bên đối đáp nhau bằng tiếng La tinh như vậy, cũng ngạc nhiên không ít, và mỗi cha đều tỏ ý hài lòng khen ngợi cha. Con ạ, râu chưa bén cằm cha đã đọc được tiếng La tinh, tiếng Hy Lạp, tiếng Pháp, thông hiểu triết học, toán học, lịch sử thế tục và đủ mọi ngành khoa học. Chúa đã phú cho cha một trí nhớ rất lạ, có những đoạn đọc vài ba lần cha đã thuộc lòng. Các vị thầy và các ân nhân của cha đều lấy làm lạ và tiên đoán rằng cha sẽ trở thành một người tối uyên bác, một ngọn đuốc sáng của giáo hội. Chính cha cũng muốn lên Kiép tiếp tục học hành, nhưng bố mẹ cha không cho phép đi. Ông thân cha nói: “Con cứ học suốt đời như thế, bố mẹ biết đợi con đến bao giờ”. Nghe nói vậy, cha bèn bỏ học và ra nhận chức. Dĩ nhiên thế là cha đã không thành thông thái nhưng ngược lại cha đã vâng lời cha mẹ, yên ủi tuổi già hai người, chôn cất hai người chu đáo. Đức vâng lời còn quý hơn ăn chay và cầu nguyện.

– Chắc cha quên hết các khoa học rồi còn gì! – ông Kudmitsốp nhận xét.

– Làm sao mà không quên được? Đội ơn Chúa, nay đã gần tám mươi rồi. Triết học và tu từ học thì còn nhớ được ít nhiều, chứ các thứ tiếng với lại toán học thì đã quên sạch.

Cha Khrixtophor nheo nheo đôi mắt, ngẫm nghĩ một lát rồi nói khe khẽ:

– Bản thể là gì? Bản thể là một sự vật tự tại, không đòi hỏi một cái gì khác để thực hiện bản thân nó.

Cha lắc đầu rồi bật cười vì xúc động.

– Thức ăn tinh thần! – cha nói. – Đúng thế, vật chất nuôi dưỡng xác thịt, còn thức ăn tinh thần nuôi dưỡng linh hồn.

– Khoa học gì thì khoa học, – Kudmitsốp thở dài, – chứ không đuổi kịp Varlamốp thì chúng ta cũng hết cả khoa học.

– Con người có phải là cái kim đâu, rồi sẽ tìm thấy. Bây giờ ông ta chỉ quanh quẩn đâu đây thôi.

Ba con chim mỏ nhái quen biết bay qua khóm bụi rậm, và trong tiếng chiêm chiếp của nó có thể nghe rõ ý lo lắng và bực mình vì bị đuổi khỏi dòng suối. Hai con ngựa thong thả nhai và thở phì phò; Đenixka đi đi lại lại bên cạnh, cố làm ra vẻ hoàn toàn dửng dưng đối với những quả dưa chuột, những miếng chả rán, và những quả trứng mà mấy ông chủ đang ăn, bao nhiêu tâm trí đều dồn hết vào việc đập mấy con ruồi và mấy con nhặng đang bâu vào lưng, vào bụng ngựa. Anh thản nhiên đập, từ cổ họng phát ra một thứ âm thanh đặc biệt, vừa đắc thắng lại vừa tinh quái, và mỗi khi đập không trúng lại kêu lên giận dữ, nhìn mãi theo con bọ tốt số vừa thoát chết.

– Đenixka, đi đâu thế! Lại mà ăn đi! – ông Kudmitsốp nói đoạn thở ra một tiếng rõ dài để tỏ ra mình ăn đã no.

Đenixka rụt rè đến bên tấm dạ và chọn năm quả dưa chuột to và vàng, thường gọi là “dưa ủng” (chọn những quả bé hơn và non hơn thì anh thấy ngượng lắm), cầm lấy hai quả trứng nướng, vỏ đen thui và nứt nẻ ra cả, rồi rụt rè, như thể sợ người ta đánh vào bàn tay đang chìa ra, anh chạm ngón tay vào miếng chả rán.

– Cầm lấy, cầm lấy! – ông Kudmitsốp giục.

Đenixka quả quyết cầm lấy miếng chả, đi ra một quãng xa xa, rồi ngồi xuống đất, lưng quay về phía xe. Lập tức có tiếng nhai to đến nỗi cả hai con ngựa cũng phải ngoảnh lại, nhìn Đenixka có vẻ nghi hoặc.

Ăn xong, ông Kudmitsốp lấy trong xe ra một cái túi đựng gì không rõ và bảo Iegoruska:

– Tao ngủ một lát, mày trông đừng để ai lôi mất cái túi tao gối đầu đây.

Cha Khrixtophor bỏ chiếc áo chùng, tháo nịt và cởi áo ra, Iegoruska nhìn cha sửng sốt. Nó không hề ngờ rằng các cha cố lại mặc quần, ấy thế mà cha Khrixtophor lại mặc một cái quần bằng vải bố thực sự, ống đút vào đôi ủng cao, và ở phía trên là một cái áo chẽn sọc. Nhìn cha, Iegoruska nhận thấy rằng trong cách trang phục không ăn nhập với chức vị linh mục này, và với bộ tóc và bộ râu dài như vậy, trông cha rất giống Rôbinxơn Cruxô(5). Cởi hết áo ngoài, cha Khrixtophor và ông Kudmitsốp nằm dưới bóng xe, mặt quay vào nhau, và nhắm mắt lại. Đenixka đã nhai xong, nằm ngửa bụng ra giữa nắng và cũng nhắm mắt nốt.

– Trông đừng để ai dắt mất ngựa đi đấy nhớ! – anh bảo Iegoruska, đoạn ngủ thiếp đi ngay.

Im lặng. Chỉ nghe tiếng hai con ngựa nhai và thở phì phì, tiếng ngáy của mấy người đang ngủ; đâu ở xa xa có tiếng của một con dẽ mào, và chốc chốc lại vang lên tiếng kêu chiêm chiếp của ba con chim mỏ nhái bay đến xem thử đám khách không mời mà đến đã đi chưa. Con suối nhỏ chảy tiếng róc rách êm êm nghe như ngọng nghịu. Nhưng tất cả những âm thanh này không hề phá rối sự tĩnh mịch, không thức tỉnh làn không khí đã ngưng đọng lại, mà còn ru cho cảnh vật chìm sâu thêm vào giấc mơ màng.

Iegoruska ngạt thở vì khí trời oi ả, nhất là bây giờ, sau khi ăn, lại càng cảm thấy oi ả hơn nữa. Nó chạy tới khóm bụi rậm và từ đấy đưa mắt nhìn ra xung quanh. Cảnh vật vẫn giống như ban sáng: cánh đồng bằng, những dãy đồi, bầu trời, khoảng xa màu tím, chỉ có mấy quả đồi bây giờ đứng gần hơn một chút, và không trông thấy cái chòi xay gió đã lùi xa về phía sau. Phía sau quả đồi lởm chởm đã có con suối chạy, nhô lên một quả đồi khác, phẳng hơn và rộng hơn một chút; trên đồi có một xóm nhỏ gồm năm sáu nóc nhà. Quanh các nhà không thấy người, cũng không thấy cây, không một bóng rợp, tưởng chừng như cái xóm kia đã chết ngạt trong làn không khí rát bỏng và đã khô nỏ ra rồi. Chẳng có việc gì làm, Iegoruska bắt một con dế trong đám cỏ, để trong nắm tay đưa lên tai hồi lâu lắng nghe nó kéo vĩ cầm. Nghe nhạc đã chán chê, nó quay ra đuổi theo một đàn bướm vàng bay đến đây tìm nước uống, loanh quanh một lúc nó về đến chỗ để xe ngựa từ lúc nào không biết. Ông cậu và cha Khrixtophor đang ngủ say: họ phải ngủ hai ba tiếng nữa để cho ngựa nghỉ thật lại sức… Làm thế nào để giết chết được khoảng thời gian dài dằng dặc này, và trốn đi đâu cho đỡ nóng bây giờ? Thật nan giải… Thẫn thờ, Iegoruska ghé miệng vào dòng nước chảy từ trong cái ống con ra; trong miệng nó thấy lạnh hẳn đi và sực mùi độc sâm; lúc đầu nó uống rất ngon miệng, sau đó nó uống gắng gượng, uống cho đến khi cái cảm giác lạnh buốt trong miệng truyền đi khắp người và nước trào ra ướt cả áo sơ mi. Rồi nó đến cạnh chiếc xe và bắt đầu đứng ngắm mấy người đang ngủ. Gương mặt ông cậu có cái vẻ khô khan của người làm ăn chí thú như ban nãy. Vốn là một tín đồ cuồng nhiệt của công việc kinh doanh, ông Kudmitsốp lúc nào cũng nghĩ đến làm ăn, ngay cả trong giấc ngủ hay trong buổi lễ cầu nguyện ở nhà thờ, khi người ta đang hát bài “Các vị thiên thần” cũng vậy, không một phút nào ông có thể quên được công việc, và giờ đây chắc hẳn cũng đang mơ thấy những kiện lông cừu, những chuyến xe chở hàng, những giá cả, ông Varlamốp… Còn cha Khrixtophor, vốn là người hiền lành, nhẹ dạ và hay cười, suốt đời chưa từng có một công việc gì có thể như một con trăn gió quấn riệt lấy tâm hồn. Trong bao nhiêu công việc mà cha đã lĩnh lấy trong đời, cái làm cho cha say mê nhất không phải là bản thân công việc, mà là những lo lắng bận rộn và những sự tiếp xúc với người đời mà công việc nào cũng đòi hỏi. Như trong chuyến đi này chẳng hạn, cái làm cho cha thích thú nhất không phải là lông cừu, Varlamốp và giá cả, mà là cuộc hành trình kéo dài, những câu chuyện trao đổi trên đường đi, giấc ngủ dưới bóng xe ngựa, bữa ăn không đúng giờ giấc… Và giờ đây, trông vẻ mặt của cha, có thể đoán rằng cha đang mơ thấy đức cha chí thánh Khrixtophor, cuộc đối thoại bằng tiếng La tinh, bà vợ của cha, những chiếc bánh phết kem sữa tươi và tất cả những thứ gì mà Kudmitsốp không thể mơ thấy được.

Trong khi Iegoruska đứng ngắm mấy khuôn mặt đang ngủ kia, chợt nghe có tiếng hát khe khẽ. Đâu đây có một người đàn bà đang hát, nhưng cụ thể ở chỗ nào, từ phía nào thì khó lòng mà hiểu được. Tiếng hát khe khẽ, lê thê, buồn rười rượi, giống như tiếng khóc, vừa đủ để lọt vào tai, khi thì nghe như từ bên phải vẳng lại, khi thì nghe như từ bên trái, khi thì nghe như từ phía trên, khi thì nghe như từ dưới đất, tưởng chừng như có một thần linh vô hình đang quanh quẩn trên thảo nguyên mà hát. Iegoruska ngơ ngác nhìn quanh, không sao hiểu nổi tiếng hát từ đâu đưa lại; đến khi nó cố sức lắng tai nghe, nó có cảm giác như đấy là cỏ đang hát. Cỏ đang hấp hối, đã hết hy vọng sống sót, nó cất tiếng hát không lời nhưng ai oán và chân thành, phân trần tha thiết với ai đó rằng nó không có tội gì, ánh nắng thiêu đốt nó một cách oan uổng; nó tha thiết muốn sống, nó hãy còn non trẻ và lẽ ra xinh đẹp nếu không có ánh nắng nóng bỏng, không có hạn hán, nó chẳng có tội gì, nhưng vẫn van xin ai tha tội cho nó và thề thốt rằng nó đau đớn không sao chịu nổi, nó buồn khổ và tủi thân quá…

Iegoruska lắng nghe một lát, và nó bắt đầu có cảm giác là tiếng hát lê thê và buồn bã làm cho không khí ngột ngạt hơn, nóng nực hơn và im lìm hơn trước… Để át khúc hát kia đi, nó vừa cất tiếng hát nghêu ngao vừa chạy về phía đám bụi rậm, cố giậm chân thật mạnh. Từ đấy nó nhìn ra bốn phía và tìm được cái nguồn phát ra tiếng hát. Bên ngôi nhà ngoài cùng của cái xóm nhỏ có một người đàn bà nhà quê mặc chiếc váy, chân dài và khẳng khiu như chân chim diệc, đang đứng sàng cái gì không rõ; từ dưới cái sàng của chị ta, một làn bụi trắng uể oải bay xuống mặt gò. Bây giờ thì đã rõ là chính chị ta hát. Cách chị ta chừng một xagien(6) có một thằng bé chỉ mặc mỗi cái áo, không đội mũ, đứng yên không nhúc nhích. Như thể đã bị tiếng hát chài cho mụ mẫm đi, nó đứng trơ ra đấy, mắt nhìn đâu phía dưới, có lẽ nó nhìn cái áo sơ mi màu đỏ của Iegoruska.

Tiếng hát lặng đi. Iegoruska mon men lại gần chiếc xe rồi không biết làm gì, lại ra nghịch cái ống nước.

Thế rồi tiếng hát lại vẳng tới. Vẫn là giọng hát của người đàn bà khẳng khiu sau cái gò ở bên xóm. Nỗi buồn chán lại quay trở về với Iegoruska. Nó rời cái ống nước và ngước mắt lên. Cái cảnh tượng nó nhìn thấy khá bất ngờ, đến nỗi nó hơi hoảng. Phía trên đầu nó, đứng trên một tảng đá lớn hình thù xấu xí, có một thằng bé mặc mỗi chiếc áo sơ mi, mặt béo phúng phính, bụng to phưỡn, hai chân gầy mảnh, chính thằng bé lúc nãy đứng cạnh người đàn bà. Với một nỗi ngạc nhiên đần độn và không khỏi có phần sợ hãi, như thể đang trông thấy một vong hồn về đứng trước mặt, nó há hốc mồm nhìn không chớp mắt chiếc áo sơ mi màu đỏ của Iegoruska và chiếc xe ngựa. Màu đỏ của chiếc sơ mi thu hút và mơn trớn nó, còn chiếc xe và mấy người ngủ dưới bụng xe kích thích trí tò mò của nó; có lẽ chính nó cũng không nhận thấy là màu đỏ dễ chịu và trí tò mò đã xui khiến nó rời xóm lần xuống tận đây, và hình như bây giờ nó lấy làm lạ cho sự táo gan của mình. Iegoruska đứng nhìn nó hồi lâu, và nó cũng hồi lâu đứng nhìn Iegoruska. Cả hai cùng im lặng và cảm thấy hơi ngượng nghịu. Sau một quãng dài im lặng, Iegoruska hỏi:

– Mày tên là gì?

Hai cái má của thằng bé lạ mặt càng phinh phính ra nữa; nó áp lưng vào tảng đá, mặt nó lồi ra, môi nó mấp máy, phát ra một giọng trầm khàn khàn: “Tít”.

Hai thằng bé không nói với nhau một tiếng nào nữa. Lặng yên thêm một lát, mắt vẫn không rời Iegoruska, thằng Tít bí ẩn kia ghếch một chân lên tìm điểm tựa rồi trèo lên tảng đá; từ đấy nó cứ bước giật lùi, mắt nhìn Iegoruska trừng trừng như thể sợ thằng này đánh sau lưng, trèo lên một tảng đá nữa rồi cứ thế lần lên mãi cho đến khi khuất hẳn sau đỉnh gò.

Không nhìn theo thằng bé được nữa, Iegoruska quàng tay ôm lấy hai đầu gối và cúi đầu xuống… Những tia nắng rát bỏng xói vào gáy, vào cổ, vào lưng nó. Tiếng hát buồn bã khi tắt đi, khi lại văng vẳng trong làn không khí ngưng đọng ngạt thở, dòng suối vẫn chảy với tiếng róc rách đơn điệu, hai con ngựa vẫn nhai cỏ và thời gian kéo dài ra vô tận, tựa hồ nó cũng đã đọng lại, ngừng trôi, có thể tưởng chừng như từ sáng đến bây giờ đã qua một thế kỷ… Phải chăng thượng đế muốn Iegoruska, chiếc xe và hai con ngựa lịm đi trong làn không khí này, hóa thành đá và vĩnh viễn đứng yên một chỗ như những quả đồi?

Iegoruska ngửng đầu lên và đưa đôi mắt thiu thiu ngủ nhìn phía trước; khoảng không xa tắp màu tím nẫy giờ vẫn im lìm, thế mà bây giờ lại đung đưa nghiêng ngả và cùng với bầu trời lao đi đâu xa hơn nữa… Nó lôi theo cả lớp cỏ màu hung, cả khóm bụi rậm, và Iegoruska cũng lao theo chân trời đang chạy trốn với một tốc độ phi thường. Có một sức mạnh gì đang lặng lẽ lôi cuốn nó đi đâu không biết, và hơi nóng rát bỏng cùng tiếng hát lê thê cũng vun vút bay theo. Iegoruska ngoẹo đầu xuống và nhắm mắt lại…

Đenixka thức giấc trước tiên. Chắc có con gì cắn anh, vì thấy anh bật dậy, gãi lấy gãi để một bên vai và tuôn ra một tràng:

– Tiên sư mấy con quái trời đánh không chết này!

Đoạn anh ra suối uống nước và hì hục rửa ráy một hồi lâu. Tiếng anh thở phì phò và tiếng nước vỗ lép bép làm cho Iegoruska tỉnh giấc. Thằng bé nhìn cái mặt ướt đầm của Đenixka lấm tấm những giọt nước suối và những chấm tàn hương to tướng khiến cho mặt anh trông như cẩm thạch, và hỏi:

– Đã sắp đi chưa?

Đenixka nhìn mặt trời xem thử nó còn cao đến đâu, rồi đáp:

– Chắc sắp rồi đấy.

Anh lấy vạt áo sơ mi lau lau cái mặt một lúc, làm ra một vẻ mặt rất nghiêm trang rồi bắt đầu nhảy lò cò.

– Nào, xem ai nhảy đến đám bụi rậm kia trước nào! – anh nói.

Iegoruska đã mệt nhoài ra vì nóng và vì giấc ngủ chập chờn vừa qua, nhưng nó vẫn nhảy lò cò theo. Đenixka đã gần hai mươi tuổi, anh làm nghề xà ích và đang sắp sửa lấy vợ, nhưng vẫn chưa hết tính trẻ con. Anh rất thích thả diều, thả bồ câu, đánh cờ xương, chạy đuổi bắt và bao giờ cũng tham dự vào những trò chơi và những cuộc cãi cọ của trẻ con. Hễ chủ đi vắng hay ngủ một cái là anh lập tức bày trò nhảy lò cò hay ném sỏi gì đấy. Bất cứ ai là người lớn trông thấy cái vẻ vui sướng chân thành của anh trong khi chơi đùa với lũ nhóc con cũng khó lòng đừng thốt lên: “Rõ thằng gà tồ!” Còn lũ trẻ những khi thấy anh xà ích to gộc này đột nhập vào lĩnh vực của mình, chúng chẳng thấy có gì là lạ: ông tướng cứ việc chơi, miễn đừng choảng ai là được! Cũng đúng như những con chó con không lấy làm lạ khi có một con chó lớn thực thà xông vào chơi với chúng.

Đenixka đã vượt được Iegoruska, và hình như rất hài lòng với thắng lợi này. Anh nháy thằng bé một cái, rồi để tỏ rõ là mình có thể nhảy lò cò xa bao nhiêu cũng được, anh rủ Iegoruska nhảy ra đường cái rồi từ đấy nhảy về chỗ để xe không nghỉ. Iegoruska từ chối, vì nó nóng và mệt quá.

Bỗng vẻ mặt của Đenixka trở nên nghiêm trang chưa từng thấy bao giờ, dù là khi Kudmitsốp quở mắng anh hay giơ cao gậy lên toan nện anh cũng vậy; anh lắng tai nghe ngóng, từ từ quỳ một gối xuống, và gương mặt anh trở nên có cái vẻ nghiêm trang và sợ sệt như khi người ta nghe ai nói một điều tà ngụy. Mặt anh hướng vào một điểm, bàn tay anh khum khum lại thành hình chiếc thuyền úp, từ từ giơ lên, và anh bỗng ngã sấp xuống, đặt bàn tay úp chụp lên cỏ.

– Được rồi! – anh đắc thắng reo lên một tiếng khàn khàn, rồi đứng dậy đưa lên tận mắt Iegoruska một con châu chấu lớn.

Nghĩ rằng làm như thế con châu chấu sẽ thấy dễ chịu lắm, Iegoruska và Đenixka đưa mấy ngón tay vuốt lên cái lưng rộng màu xanh và khẽ vuốt hai cái râu của nó. Sau đó Đenixka lại bắt một con ruồi béo căng, đã hút máu no nê, đưa ra mời con châu chấu ăn. Con này, vẻ thản nhiên như thể đã quen biết Đenixka, cứ thế xoạc cái hàm to tướng giống như đôi càng bóng lộn rung lên loang loáng xuống cỏ và lập tức cất tiếng nó ra. Nó liền xòe đôi cánh ngoài để lộ lớp cánh màu hồng bóng lộn rung lên loang loáng xuống cỏ và lập tức cất tiếng gáy. Con ruồi cũng được thả nốt; nó vuốt lại đôi cánh cho trơn rồi chẳng cần nghĩ đến cái bụng đã mất, nó cứ thế bay về phía mấy con ngựa.

Từ phía dưới chiếc xe nghe có tiếng thở ra rõ dài. Đó là ông Kudmitsốp đã tỉnh dậy. Ông vụt ngẩng đầu lên, lo lắng nhìn ra xa, và chỉ riêng cái nhìn ấy thôi, bỏ quá Iegoruska và Đenixka một cách hoàn toàn dửng dưng, cũng đủ cho thấy là ông mới ngủ dậy đã nghĩ đến lông cừu và Varlamốp rồi.

– Cha Khrixtophor, dậy đi, muộn rồi! – ông nói giọng hớt hải. – Ngủ thế là đủ rồi, ngủ thế này công việc cũng đã nhỡ hết rồi còn gì. Đenixka, thắng ngựa vào!

Cha Khrixtophor thức dậy cũng với cái nụ cười như khi cha bắt đầu thiếp đi. Ngủ dậy, mặt cha nhàu đi, nhăn nheo và có vẻ như đã teo tóp lại chỉ còn một nửa. Rửa ráy và mặc quần áo ngoài xong, cha thong thả rút trong túi ra một cuốn thánh thi cáu bẩn, đứng quay mặt về phía đông và bắt đầu vừa lâm râm cầu nguyện vừa làm dấu thánh.

– Cha Khrixtophor! – Kudmitsôp nói, giọng trách móc. – Lên xe thôi, ngựa đã thắng xong mà ông còn…

– Xong ngay, xong ngay đây… – cha Khrixtophor lúng búng. – Phải đọc bài thánh thi tí đã… Hôm nay chưa đọc.

– Đọc bài thì để sau hẵng đọc cũng được.

– Ivan Ivanứts ạ, tôi phải hàng ngày… Không đọc không được.

– Chúa chẳng kèo nèo cha đâu.

Suốt mười lăm phút đồng hồ cha Khrixtophor đứng yên, hướng về phương Đông, môi lắp bắp, trong khi Kudmitsốp nhìn cha gần như căm thù và sốt ruột nhún vai. Ông ta giận nhất là những khi cha Khrixtophor, sau mỗi đoạn “Sáng danh” lại hít một hơi dài, nhanh nhẹn làm dấu thánh và nhắc lại ba lần rõ to để ai nấy đều biết mà làm dấu thánh theo cha:

– Alleluya, alleluya, alleluya, sáng danh Chúa!

Cuối cùng cha mỉm cười, ngước mắt nhìn lên trời và bỏ cuốn thánh thi vào túi nói:

Fini!(7)

Một phút sau chiếc xe chuyển bánh. Cứ như thể xe đi ngược trở lại chứ không phải đi đâu xa hơn, mấy người trên xe vẫn trông thấy một quang cảnh hệt như ban sáng. Những quả đồi vẫn chạy mãi về phía màu tím xa xăm, chẳng thấy đến đâu mới hết; vẫn những bãi cỏ dài, những hòn đá cuội, những cánh đồng đã cắt rạ, vẫn những con quạ và vẫn con diều hâu ấy đang ung dung vỗ cánh bay trên thảo nguyên. Không khí mỗi lúc một ngưng đọng hơn vì nóng bức và yên lặng, thiên nhiên nhẫn nhục nằm im lìm không nói năng… Không có lấy một hơi gió, không có lấy một âm thanh sinh động, tươi tắn, không có lấy một đám mây.

Nhưng rồi cuối cùng, khi mặt trời bắt đầu ngả về tây, thảo nguyên và làn không khí không còn chịu nổi cảnh ức hiếp nữa, sức kiên nhẫn của nó đã kiệt, nó khô quá rồi, phải cố sức trút bỏ cái ách nặng đang đè lên nó. Thì sau mấy quả đồi đột nhiên hiện ra một đám mây loăn xoăn màu tro. Nó đưa mắt ra hiệu cho thảo nguyên: tôi đã sẵn sàng rồi đây, và cau mặt lại. Trong làn không khí ngưng đọng chợt có một cái gì rách ra, gió bỗng thổi mạnh và rít lên ào ào quay cuồng trên thảo nguyên. Ngay tức khắc, cỏ và những bụi cây dại năm ngoái rung rinh hẳn lên, bụi trên đường xoáy thành vòng trôn ốc chạy qua thảo nguyên, cuốn theo những cọng rơm, những con chuồn chuồn và những chiếc lông chim, dựng thành đám đen ngòm xoáy tít lên trời và che mờ cả ánh nắng. Ngang dọc trên thảo nguyên, những cây cỏ thi nhau chạy, luôn luôn vấp váp và nhảy tung lên, rồi một cây lọt vào đám bụi đang xoáy tít, quay lộn vòng như con chim, bay lên trời, hóa thành một cái chấm đen rồi biến đi đâu mất. Sau đó lại đến một cây nữa, rồi lại một cây nữa, và Iegoruska trông thấy rõ hai ngọn cỏ lông chông chạm phải nhau trên khoảng màu thiên thanh, rồi quyện lấy nhau như đánh vật.

Sát cạnh đường cái, một con đa đa bay vụt lên. Cánh và đuôi loang loáng ánh nắng, trông nó giống như mồi giả lắp trên lưỡi câu hay con bướm ao hồ: mỗi khi bay vút qua mặt nước, cánh và râu của nó chập lại làm một, trông như thể râu nó mọc đủ bốn phía xung quanh người… Run rẩy trên không như một con bọ, phô trương cái thân hình lốm đốm của nó, con đa đa bay vút lên thành một đường thẳng, rồi chắc là sợ đám bụi, nó bay dạt sang một bên, và hồi lâu còn trông thấy nó thấp thoáng qua lại…

Rồi một con chim cuốc, hốt hoảng trước cái xoáy và không hiểu đầu đuôi ra sao, từ trông đám cỏ bay vụt ra. Nó bay theo gió chứ không bay ngược chiều như các loài chim khác; vì thế lông nó xù ra, cả người nó phồng to bằng con gà mái và trông nó có vẻ rất giận dữ, rất oai vệ. Chỉ có mấy con quạ đã sống già đời trên thảo nguyên và đã quen với những cảnh hỗn loạn ở đây là vẫn điềm tĩnh bay là là trên cỏ, hoặc giả cứ thản nhiên như không, chẳng thèm để ý gì đến xung quanh, đưa cái mỏ chắc nịch mổ xuống lớp đất khô đét.

Sau dãy đồi có tiếng sấm ì ầm; gió mát hẳn đi. Đenixka vui vẻ huýt lên một tiếng rồi quất ngựa. Cha Khrixtophor và ông Kudmitsốp vừa giữ lấy mũ cho khỏi bay vừa chú mục lên dãy đồi… Giá trời đổ được trận mưa thì hay quá!

Dường như chỉ cần ráng sức chút nữa, chịu khó chút nữa là thảo nguyên sẽ thắng thế. Nhưng cái sức mạnh vô hình vẫn đè nén mọi vật đã dần dần kìm hãm được gió và không khí, đè bẹp bụi xuống, và như thế không có gì xảy ra hết, thảo nguyên lại im phăng phắc. Đám mây ban nãy đã đi trốn, mấy quả đồi cháy sém cau mặt lại, không khí nhẫn nhục đứng yên, và đâu đây chỉ có mấy con chim dẽ mào sợ hãi khóc lóc và than thân trách phận…

Một lát sau trời tối sập xuống rất nhanh.

 

III.

TRONG BÓNG HOÀNG HÔN hiện ra một ngôi nhà một tầng rất to, cái mái tôn đã han gỉ, mấy khung cửa sổ tối mò. Ngôi nhà này là một cái quán trọ, không có sân, đứng chơ vơ giữa thảo nguyên xung quanh chẳng có rào. Cách ngôi nhà một quãng có một cái vườn anh đào nhỏ xơ xác, xung quanh có hàng rào đan, và dưới các cửa sổ, mấy cây hoa hướng dương đang đứng ngủ gật, những mái đầu nặng trĩu rủ xuống. Trong vườn nghe có tiếng lạch cạch của một cái chòi xay gió nhỏ, dựng lên cho có tiếng ồn để dọa thỏ hoang. Ngoài ra quanh ngôi nhà không còn trông thấy và nghe thấy gì ngoài cỏ với cỏ.

Chiếc xe ngựa vừa dừng lại bên cái thềm có mái hiên nhô ra thì trong nhà đã đưa ra những tiếng nói mừng rỡ – một giọng đàn ông và một giọng đàn bà – cánh cửa quay trên bản lề két lên một tiếng, và trong nháy mắt bên xe đã lù lù một bóng người cao và gầy, hai tay vung lên lia lịa, hai vạt áo đuôi ngoài cũng tung bắn lên theo. Đó là ông chủ quán Moixây Moixêíts, một người đã đứng tuổi, mặt xanh lướt, để bộ râu rất đẹp, đen như mực tàu. Ông ta mặc một chiếc áo đuôi tôm đen đã sờn, treo lùng nhùng trên đôi vai hẹp như treo trên mắc áo, và hai vạt áo ngoài cứ vung vẩy như hai cái cánh mỗi khi Moixây Moixêíts vui mừng hay sợ hãi mà vỗ hai bàn tay. Ngoài chiếc áo đuôi tôm ra, ông chủ quán còn mặc một cái quần rộng ống bỏ ra ngoài ủng và chiếc áo gilê bằng nhung điểm những hình hoa màu hung trông giống như những con rệp khổng lồ.

Nhận ra mấy người ngồi trên xe, Moixây Moixêíts thoạt tiên đớ người ra vì xúc động quá, rồi vỗ tay đánh đét một cái và rên lên một tiếng. Chiếc áo vung vẩy hai vạt đuôi tôm, cái lưng khom xuống thành hình vòng cung, và trên gương mặt xanh xao nở một nụ cười rạng rỡ như thể trông thấy cái xe đối với ông ta không phải chỉ là một điều thú vị mà còn là một niềm khoái lạc vô biên.

– Ôi, trời ơi, trời ơi! – ông ta nói, giọng thanh thanh và ngân nga như hát, vừa nói vừa thở hổn hển, cuống quít nhặng xị lên ở bên xe làm cho mấy người hành khách không sao xuống được. – Hôm nay thật là một ngày đại cát của tôi! Chao ôi, tôi phải làm gì bây giờ! Ivan Ivanứts! Cha Khrixtophor! Lại có cậu ấm nào ngồi trên kia trông xinh quá, lạy Chúa tha tội. Ôi, lạy Chúa, lạy Chúa, nhưng sao tôi lại đứng đực ra đây không mời khách vào nhà? Xin mời, xin kính mời… xin các vị quá bộ vào đây! Đưa các thứ đây tôi cầm cho… Ôi, lạy Chúa!

Moixây Moixêíts đang vục đầu vào xe lục lọi hành lý và giúp hành khách xuống xe, bỗng quay phắt lại và cất tiếng kêu thất thanh, giọng man dại, như thể ông ta sắp chết đuối phải kêu cứu:

– Xolomon! Xolomon!

– Xolomon! Xolomon! – cái giọng đàn bà ở trong nhà nhắc lại.

Cánh cửa lại mở đánh két một tiếng, và trên ngưỡng cửa hiện ra một thanh niên Do Thái bé nhỏ, mũi to và khoặm như mỏ diều, giữa đám tóc hung quăn và cứng có một khoảng hói trụi. Hắn mặc một chiếc áo veston ngắn cũ rích, đuôi áo cắt tròn, ống tay ngắn cũn cỡn, quần ngắn bằng len đan, thành thử trông hắn cũng ngắn cũn cỡn và loắt choắt như con chim bị vặt lông. Đó là Xolomon, em trai ông Moixây Moixêíts. Hắn cứ lặng thinh, chẳng chào hỏi ai, chỉ mỉm một nụ cười kỳ dị, đến cạnh chiếc xe.

– Ivan Ivanứts và cha Khrixtophor đến đây này – Moixây Moixêíts nói với cái giọng như thể sợ thằng em không tin. – Chao ôi, thật lạ lùng, mấy khi có những vị khách quý hóa thế này ghé lại! Này, cầm lấy, Xolomon, cầm lấy đồ đạc! Mời các quý khách vào nhà.

Một lát sau ông Kudmitsốp, cha Khrixtophor và Iegoruska đã ngồi trong căn phòng rộng, tối tăm và trống trải quanh một cái bàn gỗ sồi cũ kỹ. Cái bàn này gần như cô độc, vì trong căn phòng rộng thênh thang này, ngoài nó, một chiếc đivăng rộng vải lợp đã thủng lỗ chỗ và ba cái ghế tựa ra, không còn có thứ bàn ghế gì khác. Vả chăng ngay cả ba cái ghế ấy nữa, không phải ai cũng dám cả quyết gọi nó là ghế tựa. Đó là một thứ gì nom chỉ hao hao giống với bàn ghế, vải lợp đã hết thời từ lâu, lưng tựa ưỡn hẳn ra phía sau một cách phi tự nhiên, làm cho mấy cái ghế trông rất giống những chiếc xe lết của trẻ con. Khó lòng hiểu nổi ông thợ mộc khuyết danh nào đấy muốn đi tìm thứ tiện nghi gì trong khi uốn mấy cái lưng ghế một cách nhẫn tâm như vậy, và người ta bất giác muốn nghĩ rằng lỗi đây không phải tại ông thợ mộc, mà tại một tay lực sĩ nào đi qua đây, muốn khoe sức đã bẻ lưng ghế ra sau đó lại uốn thẳng lại, rồi lại bẻ ngửa ra thêm. Gian phòng có vẻ tối tăm ảm đạm. Vách phòng màu xám, trần và các thành gờ đều ám khói đen kịt, trên sàn có những khe nứt và những cái lỗ không rõ nguyên do (có lẽ chính tay lực sĩ đã dùng gót giày đột thủng) và người ta có cảm giác là dù có treo một chục cái đèn trong phòng này, nó vẫn cứ tối như thường. Trên tường cũng như trên các cửa sổ đều không có một cái gì có thể tạm gọi là trang trí. Tuy vậy trên một bức tường, trong khung bằng gỗ, có mấy quy tắc gì đấy viết dưới một con chim đại bàng hai đầu(8), và trên một bức tường khác, cũng đóng khung như vậy, có treo một bức tranh khắc gỗ đề là “Sự thờ ơ của người đời”. “Người đời” thờ ơ với cái gì thì không sao hiểu được, vì bức tranh cũ quá đã xỉn lại và ruồi đậu đen kịt. Trong phòng phảng phất một mùi mốc chua chua.

Sau khi đưa khách vào phòng, Moixây Moixêíts vẫn cúi lom khom, vỗ tay đen đét, co rúm người lại và thốt lên những tiếng reo mừng, tất cả những việc đó ông ta đều thấy cần phải làm để tỏ ra đặc biệt lễ độ và ân cần.

– Xe chở hàng của chúng tôi đi qua đây từ hôm nào? – Kudmitsốp hỏi ông chủ quán.

– Một tốp đi qua từ sáng, còn tốp kia, thưa ông Ivan Ivanứts, nghỉ lại đây ăn trưa, đến chiều thì đi.

– Thế còn… Varlamốp đã đi qua đây chưa?

– Thưa ông chưa ạ. Sáng hôm qua ông Grigori Iegorứts quản gia nhà ông ấy, có đi qua đây và có nói là chắc hôm nay ông ấy ghé xóm người theo đạo Kytô.

– Tốt lắm. Thế tức là bây giờ ta sẽ đuổi kịp đoàn xe chở hàng, rồi sau đó ghé luôn xóm người theo đạo Kytô.

– Tại sao, ông Ivan Ivanứts! – Moixây Moixêíts kinh hãi rụng rời, vỗ tay vào nhau đánh đét một tiếng. – Đêm hôm thế này ông còn định đi đâu nữa? Xin các vị xơi bữa tối ở đây cho khỏe và ngủ lại đây, rồi đến sớm mai, ơn Chúa, các vị sẽ ra đi và tha hồ muốn đuổi kịp ai thì đuổi!

– Không có thì giờ, không có thì giờ!… Xin lỗi ông Moixây Moixêíts nhé, thôi để khi khác, chứ bây giờ chẳng phải lúc ăn uống gì. Chúng tôi ngồi độ mười lăm phút rồi chúng tôi đi thôi, còn ngủ lại thì đến xóm người theo đạo Kytô ngủ cũng được.

– Mười lăm phút! – ông Moixây Moixêíts rít lên. – Ông cũng phải nể Chúa với chứ, ông Ivan Ivanứts! Ông lại bắt tôi phải giấu mũ của ông đi và khóa trái cửa lại hay sao? Ít ra ông cũng ăn chút gì qua loa, uống tí nước chè đã chứ.

– Chúng tôi thì giờ đâu mà uống chè! – Kudmitsốp nói.

Moixây Moixêíts ngoẹo đầu sang một bên, khuỵu gối xuống và giơ hai lòng bàn tay ra phía trước như đỡ đòn, rồi nở nụ cười cầu tài ngọt lịm, bắt đầu van nài:

– Ông Ivan Ivanứts! Cha Khrixtophor! Xin hai vị làm phúc uống cho tôi một chén trà! Chả nhẽ tôi là người tệ mạt đến nỗi không thể uống ở nhà tôi một chén trà sao? Ông Ivan Ivanứts!

– Thôi, uống tí trà thì được, – cha Khrixtophor thở dài thương hại. – Cũng chẳng mất bao nhiêu thì giờ.

– Thôi được! – ông Kudmitsốp đồng ý.

Moixây Moixêíts tỉnh hẳn người ra, á lên một tiếng mừng rỡ và người co ro như thể vừa từ dưới nước lạnh nhảy lên chỗ ấm, ông ta chạy ra cửa và thét lên thất thanh, giọng cũng man dại như ban nãy khi gọi Xolomon:

– Roda! Roda! Đem ấm lò lên!

Một phút sau, cánh cửa mở ra và Xolomon bước vào tay bưng một chiếc khay lớn. Trong khi đặt khay lên bàn, mắt hắn cứ nhìn sang một bên, vẫn với cái vẻ ngạo nghễ và nụ cười kỳ dị như ban nãy. Bây giờ dưới ánh đèn đã có thể trông rõ nụ cười ấy; nó rất phức tạp và biểu hiện rất nhiều cảm xúc, nhưng chiếm ưu thế ở đây chỉ có một sự khinh bỉ ra mặt. Hắn như thể đang nghĩ đến một cái gì buồn cười và ngu xuẩn, đang ghét cay ghét đắng và khinh miệt một người nào đấy, đang vui mừng vì một chuyện gì đấy và chỉ đợi lúc thuận tiện là ném thẳng ra một câu nhạo báng và cười lên ha hả. Cái mũi dài, đôi môi dày mọng và đôi mắt lồi tinh anh của hắn hình như đều căng thẳng lên vì buồn cười. Nhìn vẻ mặt hắn, Kudmitsôp cười ngạo nghễ và hỏi:

– Xolomon, tại sao mùa hè năm nay anh không đến chợ phiên Do Thái ở N. để biểu diễn cho chúng tôi xem?

Iegoruska cũng còn nhớ rõ là hai năm trước đây, ở chợ phiên N., Xolomon có lên một sân khấu ngoài trời kể lại những chuyện lấy trong sinh hoạt của người Do Thái và rất được hoan nghênh. Câu hỏi thăm nhắc nhở đến việc này không gây được ở Xolomon một ấn tượng nào hết. Hắn lặng thinh không đáp, bỏ ra ngoài và một lát sau bưng ấm lò vào.

Đặt ấm lò bên bàn, hắn đứng ra một bên, khoanh tay trước ngực, đứng chân trước chân sau và giương đôi mắt ngạo nghễ nhìn chăm chăm vào cha Khrixtophor. Trong tư thế của hắn có một cái gì thách thức, trịch thượng và khinh mạn, nhưng đồng thời lại có một cái gì hết sức tội nghiệp và khôi hài, vì kiểu đứng của hắn càng oai vệ bao nhiêu thì càng nổi bật lên tiền cảnh cái quần ngắn cũn cỡn, cái áo chật ních, cái mũi đầy phong vị biếm họa và cả cái dáng dấp giống như con chim bị vặt lông của hắn.

Moixây Moixêíts lấy một chiếc ghế đẩu ở phòng bên sang và ngồi xuống cách cái bàn một quãng.

– Chúc ăn ngon miệng! Mời các vị xơi nước chè đường! – ông ta bắt đầu tiếp chuyện khách. – Mời các vị xơi cho ấm bụng. Thật quý hóa quá, cha Khrixtophor thì đã năm năm nay con không được gặp. À, mà không có vị nào vui lòng nói cho tôi biết cậu xinh đẹp này là con ai à? – ông ta vừa hỏi vừa âu yếm nhìn Iegoruska.

– Con trai bà chị tôi, bà Onga Ivanốpna đấy, – ông Kudmitsốp đáp.

– Thế cậu ấy đi đâu?

– Đi học. Chúng tôi đưa cháu vào trường đây.

Moixây Moixêíts vì lịch sự, làm ra một vẻ mặt kinh ngạc và nghiêng nghiêng cái đầu ra vẻ quan trọng.

– Ồ, tốt lắm, tốt lắm! – ông ta vừa nói vừa giơ ngón tay ra dọa cái ấm lò. – Tốt lắm! Học ở trường ra là thành một ông lớn oai đến nỗi tất cả chúng tôi đều phải ngả mũ chào. Cậu sẽ thành một người thông minh, giàu có, tự trọng, mẹ cậu sẽ tha hồ vui mừng. Chà quý hóa thật!

Ông ta im lặng một lát, vuốt vuốt lên hai đầu gối rồi nói tiếp, giọng đùa cợt một cách cung kính:

– Xin cha bỏ quá cho con, cha Khrixtophor ạ, chứ con đang định viết giấy cho đức giám mục để thưa là cha đang cắt mất miếng ăn của bọn lái buôn chúng con. Con sẽ lấy giấy tín chỉ viết rằng như thế là cha Khrixtophor có bấy nhiêu tiền vẫn chưa thấy đủ, thành thử cha bèn làm thương mại và bắt đầu mang lông cừu đi bán.

– Phải, già rồi cha mới nghĩ ra cái sự này… cha Khrixtophor nói đoạn cười ha hả. – Cha bỏ nghề linh mục tín chỉ sang làm lái buôn đấy anh bạn ạ. Giờ này đáng lẽ được ngồi nhà mà cầu nguyện thì cha lại rong ruổi như ông Pharaôn(9) trên xa giá đấy… Thật là vất vả!

– Nhưng cha lại được nhiều tiền!

– Lấy đâu ra tiền! Chỉ ăn cái bánh vẽ chứ làm gì có tiền. Hàng có phải của cha đâu, của thằng Mikhailo con rể cha đấy!

– Sao anh ta lại không tự đi bán lấy?

– Ấy cũng vì… Miệng nó còn hơi sữa mà. Mua lông cừu thì mua rồi, nhưng đem bán thì không đủ trí khôn, còn trẻ lắm. Bao nhiêu tiền riêng đều tiêu hết sạch, muốn kiếm chác thêm, muốn hư trương thanh thế, nhưng đi đây đi đó mãi mà chẳng ai trả được ngang giá vốn. Anh chàng cứ chạy vạy như thế dễ có đến một năm, rồi đến tìm cha, nói: “Bố ơi, bố làm phúc đi bán lông cừu đi! Con chẳng hiểu chút gì về những chuyện này!” Ấy cơ sự nó thế đấy. Hễ động có chuyện gì là y như rằng gọi bố ơi, chứ khi trước thì không có bố cũng xong. Khi mua thì không hỏi, nhưng bây giờ thì lại bố ơi. Còn bố thì sao? Bố mà không có ông Ivan Ivanứts thì bố cũng chẳng được cái việc gì. Thật đến vất vả với chúng nó!

– Phải, vất vả vì con cái lắm, để con nói cha nghe! – Moixây Moixêíts thở dài. – Bản thân con đây có sáu đứa. Đứa thì phải dạy, đứa thì phải chữa thuốc, đứa thì bế trên tay, rồi đến khi chúng nó lớn lên lại càng vất vả. Mà không phải chỉ thời bây giờ, trong Kinh Thánh cũng đã nói thế rồi. Khi Iakốp(10) có con nhỏ, ông ta khóc, rồi đến khi con lớn lên, ông lại càng khóc tợn!

– Hừm phải… – cha Khrixtophor tán thành, mắt nhìn cái cốc có chiều tư lự. – Nói cho đúng ra, cha bây giờ cũng chẳng có thể làm gì đến nỗi để Chúa phải giận, cha đã sắp hết đời rồi, cũng chẳng thua kém gì ai… Mấy đứa con gái cha đều đã lấy chồng tốt bụng, mấy đứa con trai thì cha đã dạy dỗ thành người cả, bây giờ thì cha đã thảnh thơi, việc cha cha đã làm xong, muốn đi đâu cũng được. Cha sống với bà nó ở nhà cũng êm thấm, ăn, uống rồi ngủ nghê, vui với lũ cháu và cầu nguyện Chúa, còn ngoài ra chẳng thiết gì hơn thế nữa. Cha bây giờ thật ung dung thư thái, chẳng cần biết đến ai nữa. Cha chẳng hề bao giờ có gì buồn phiền, và đến bây giờ giả sử như Nga hoàng có hỏi: “Ngươi cần gì? Ngươi muốn gì?” thì cha sẽ đáp: nào kẻ bày tôi có cần gì đâu! Cái gì kẻ bày tôi cũng đủ và cái gì kẻ bày tôi cũng nhờ ơn Chúa mà có được. Trong cả thị trấn không có người nào sung sướng hơn cha. Chỉ có điều là tội cha nhiều lắm, vả chăng nói làm gì, chỉ một mình Chúa là không có tội mà thôi. Có đúng không nào?

– Thế thì đúng rồi.

– Ấy, dĩ nhiên răng không còn, lưng còng vì tuổi tác, lại thêm chứng này tật nọ, bị khó thở này kia, thôi thì đủ… Cha đau ốm luôn, sức lực chẳng còn, nhưng ông cũng biết đấy, sống đủ rồi! Sắp tám mươi tuổi! Không thể sống mãi được đâu, cũng phải biết điều chứ.

Cha Khrixtophor bỗng sực nhớ ra điều gì, phì cười bắn cả vào cốc rồi bật ho lên vì cười. Moixây Moixêíts vì phép lịch sự, cũng phì cười và bật ho lên.

– Buồn cười quá! – cha Khrixtophor khoát tay nói. – Thằng Gavrila, con cả cha vẫn thường đến thăm cha. Hắn vốn ngành y tế, làm bác sĩ của hội đồng tự quản tỉnh Tsernigốp(11)… Thôi được… Cha mới nói với hắn ta: “Đây này, bố lại thêm chứng này tật nọ… Anh là bác sĩ, anh hãy chữa cho bố đi!” Hắn ta lập tức cởi áo cha ra gõ gõ, nghe nghe làm đủ điều… nắn cả bụng nữa, rồi nói: “Bố ạ, bố phải chữa bằng hơi ép”.

Cha Khrixtophor cười ngặt nghẽo, cười đến ứa nước mắt ra rồi, đứng dậy.

– Cha mới nói với hắn: “Bố cũng xin vái cái hơi ép của mày thôi!” – cha vừa nói vừa cười, cả hai tay vung lên. – Bố xin vái cái hơi ép của mày thôi!

Moixây Moixêíts cũng đứng dậy ôm bụng cười the thé lên như tiếng chó sủa.

– Bố xin vái cái hơi ép của mày! – cha Khrixtophor vừa cười vừa nhắc lại.

Moixây Moixêíts bắt giọng cao hơn và cười ngặt nghẽo đến nỗi chỉ chực ngã.

– Trời ơi là trời… – ông ta rên rỉ giữa tiếng cười. – Cho tôi thở với… Buồn cười quá chừng, đến nước này thì… ôi… đến chết mất.

Ông ta vừa cười vừa nói, nhưng đồng thời cũng e sợ và ngờ vực liếc về phía Xolomon. Xolomon vẫn đứng nguyên ở tư thế cũ, và cười nụ. Cứ trông đôi mắt và nụ cười của hắn, có thể thấy là hắn khinh bỉ và căm ghét thực sự, nhưng tâm trạng đó ít ăn nhập với cái dáng chim bị vặt lông của hắn đến nỗi Iegoruska có cảm giác là hắn cố ý chọn cái tư thế có vẻ khiêu khích như vậy, cái vẻ mặt chua cay, khinh bỉ như vậy để đóng vai hề mua vui cho các khách quý.

Sau khi im lặng uống hết khoảng sáu chén trà, ông Kudmitsốp dọn sạch một khoảng trên bàn ở trước mặt ông ta, lấy một cái túi ra – chính cái túi mà ông dùng để gối đầu khi nằm ngủ dưới chiếc xe ngựa – cởi nút dây buộc và rũ ngược nó xuống. Từ trong túi đổ xuống bàn một đống giấy bạc buộc thành từng xấp.

– Trong khi hãy còn thì giờ, ta thử đếm một chút đi cha Khrixtophor ạ, – Kudmitsốp nói.

Trong thấy tiền, Moixây Moixêíts ngượng nghịu đứng dậy và ra điều mình là người tế nhị không muốn biết những điều bí mật của kẻ khác, ông ta rón rén ra khỏi phòng, hai tay đung đưa. Xolomon vẫn đứng nguyên chỗ cũ.

– Giấy một rúp thì mỗi xấp bao nhiêu? – cha Khrixtophor mở đầu.

– Mỗi xấp năm mươi rúp… Giấy ba rúp thì mỗi xấp chín mươi rúp… Giấy hai mươi nhăm và một trăm thì mỗi xấp một nghìn rúp. Cha đếm độ bảy nghìn tám trăm rúp cho Varlamốp, còn tôi sẽ đếm cho Guxevíts. Nhưng cha xem cẩn thận đừng đếm nhầm đấy…

Iegoruska chưa hề bao giờ trông thấy nhiều tiền như thế ở trên bàn. Số tiền chắc nhiều lắm, vì cái xấp có bảy nghìn tám trăm rúp mà cha Khrixtophor để riêng ra cho Varlamốp so với cả đống có vẻ rất nhỏ. Giá phải lúc khác chắc một khối tiền như thế phải khiến Iegoruska kinh ngạc và gợi cho nó suy tính xem thử ngần ấy tiền có thể mua bao nhiêu bánh mì vòng, bao nhiêu cờ xương, bao nhiêu bánh rắc hạt anh túc? Nhưng bây giờ thì nó nhìn đồng tiền một cách dửng dưng và chỉ ngửi thấy cái mùi quả táo thối và mùi dầu hỏa rất khó chịu từ đống tiền bốc lên. Nó đã mệt lả vì bị xóc xe và chỉ muốn ngủ. Đầu nó cứ trĩu xuống, mắt nó cứ ríu lại, và ý nghĩ của nó rối tung như nắm chỉ. Giá có thể, nó sẽ khoái trá gục đầu xuống bàn, nhắm mắt lại để khỏi trông thấy ngọn đèn và những ngón tay đang cử động trên đống tiền, và sẽ để cho những ý nghĩ uể oải, chập chờn của nó rối tung lên hơn nữa. Khi nó cố cưỡng lại giấc ngủ đang lấn tới thì ngọn đèn, mấy cái chén và mấy ngón tay kia đều tách ra thành hai, cái ấm lò thì nghiêng ngả, còn mùi táo thối có vẻ như nồng nặc hơn và khó chịu hơn nữa.

– Chà, tiền với bạc! – cha Khrixtophor mỉm cười thở dài. – Đến khổ vì mày! Bây giờ thằng Mikhailo nhà tôi chắc đang nằm mơ thấy tôi đưa về cho nó một đống tiền như thế này.

– Cái anh Mikhailo của cha là một người chẳng hiểu biết được bao lăm, – Kudmitsốp nói khe khẽ, – anh ta xông vào một việc chẳng hợp với mình, còn cha thì cha hiểu rõ và có thể suy xét được. Tốt hơn là cha cứ giao chỗ lông cừu của cha cho tôi, như tôi đã bàn, còn cha thì cứ quay trở về, tôi sẽ trả cha hơn giá vốn nửa rúp cũng được, mà như thế chẳng qua cũng vì kính nể cha…

– Không, ông Ivan Ivanứts ạ, – cha Khrixtophor thở dài. – Xin cám ơn ông đã có lòng quan tâm… Dĩ nhiên, nếu tôi có thể làm theo ý riêng thì còn nói chuyện làm gì, đằng này ông cũng biết là hàng chẳng phải của tôi…

Moixây Moixêíts rón rén đi vào. Vì tế nhị, ông ta cố gắng không nhìn vào đống tiền, mon men đến cạnh Iegoruska và kéo vạt áo của cậu bé một cái.

– Ra đây, cậu, – ông ta nói khe khẽ, – ra đây mà xem con gấu! Khiếp lắm, dữ lắm! Chà!

Iegoruska đã buồn ngủ lắm rồi. Nó uể oải đứng dậy lê gót theo Moixây Moixêíts để đi xem gấu. Nó bước vào một căn phòng nhỏ: ở đây, chưa trông thấy gì nó đã thấy khó thở vì một mùi gì chua và mốc, ở đây còn nồng nặc hơn ở ngoài phòng lớn nhiều, và có lẽ chính từ chỗ này mà nó lan ra khắp nhà. Một nửa căn buồng bị một cái giường lớn choán hết, trên giường phủ một tấm chăn bông chần thô cáu bẩn, nửa kia thì dành cho một cái tủ ngăn và mấy đống quần áo cũ đủ các loại, từ những chiếc váy hồ cứng cho chí những cái quần và dải treo quần của trẻ con. Trên tủ ngăn có một ngọn nến mỡ bò cháy leo lét.

Thay cho con gấu đã hứa, Iegoruska trông thấy một bà Do Thái to béo, tóc xõa lòa xòa, mặc áo phơlanen màu đỏ có chấm đen, bà ta đang vần cái thân hình một cách nặng nhọc trong cái khoảng hở giữa cái giường và cái tủ ngăn, phát ra những tiếng thở kéo dài, rên rỉ, như thể bà ta đang đau răng vậy. Trông thấy Iegoruska, bà ta làm ra một vẻ mặt mếu máo như khóc, thở một tiếng rõ dài, và nó chưa kịp định thần thì bà đã đưa vào sát mồm nó một mẩu bánh mì phết mật.

– Ăn đi cậu bé, ăn đi! – bà ta nói. – Cậu ở đây chẳng có mẹ, chẳng có ai cho cậu ăn cả. Cậu ăn đi.

Iegoruska cầm lấy ăn, tuy sau những miếng đường phèn và những chiếc bánh rắc hạt anh túc mà nó vẫn ăn hàng ngày ở nhà, nó chẳng thấy có gì ngon trong chút mật có lẫn cả sáp ong và cánh ong đến một nửa. Nó ăn, còn Moixây Moixêíts và bà Do Thái thì nhìn nó và thở dài.

– Cậu đi đâu thế cậu bé? – bà Do Thái hỏi.

– Đi học ạ, – Iegoruska nói.

– Mẹ cậu được bao nhiêu các cậu các cô?

– Chỉ có một mình cháu. Ngoài ra không còn ai nữa.

– Ồ! – bà Do Thái thở dài rồi ngước mắt lên trần. – Tội nghiệp cho mẹ cậu quá! Thế thì bà ấy tha hồ mà buồn, mà khóc! Một năm nữa chúng tôi cũng đưa thằng Naum nhà tôi đi học! Ồ!

– Chà, Naum, Naum! – Moixây Moixêíts thở dài, và lớp da xanh xao trên mặt ông giật lên từng đợt. – Nó ốm thế kia thì…

Cái chăn cáu bẩn động đậy, và từ dưới chăn ló ra một cái đầu trẻ con tóc xoăn tít trên một cái cổ rất mảnh; hai con mắt đen láy sáng lên long lanh, và tò mò nhìn chằm chằm vào Iegoruska. Moixây Moixêíts và bà Do Thái, vẫn không thôi thở dài, đến đứng cạnh tủ ngăn và bắt đầu nói chuyện gì bằng tiếng Do Thái. Moixây Moixêíts nói khe khẽ tiếng rất trầm, và nói chung những câu Do Thái của ông ta nghe như một tràng “gal-gal-gal-gal…” liên tục, còn bà vợ thì trả lời bằng một tiếng gà tây nheo nhéo, phát ra một chuỗi gì như thể “tu-tu-tu-tu”. Trong khi hai vợ chồng bàn bạc với nhau như vậy, từ dưới tấm chăn cáu bẩn thò ra một cái đầu tóc quăn cổ ngẳng nữa, rồi một cái thứ ba, rồi lại một cái thứ tư… Giá Iegoruska có được một trí tưởng tượng phong phú, nó có thể tưởng đâu dưới tấm chăn có một con rắn trăm đầu.

– Gal-gal-gal-gal… – Moixây Moixêíts nói.

– Tu-tu-tu-tu… – bà Do Thái đáp.

Cuộc đàm luận kết thúc bằng một tiếng thở dài thườn thượt của bà Do Thái, đồng thời bà ta chúi đầu vào cái tủ ngăn, giở một gói vải xanh xanh và lấy ra một chiếc bánh nướng rất to hình quả tim làm bằng lúa mì đen.

– Cầm lấy cậu, – bà vừa nói vừa đưa bánh cho Iegoruska. – Bây giờ cậu chẳng có mẹ, chẳng có ai mua bánh kẹo cho mà ăn.

Iegoruska đút chiếc bánh vào túi và lùi ra phía cửa, vì nó không còn thở nổi cái không khí mốc meo và chua loét trong buồng các chủ nhân nữa. Trở về gian phòng lớn, nó ngồi bó gối trên chiếc đivăng cho thật thoải mái và không còn kìm hãm dòng suy tư của mình nữa.

Ông Kudmitsốp vừa đếm tiền xong và đang bỏ tiền vào túi. Ông ta tỏ ra không lấy gì làm coi trọng đống tiền cho lắm, cứ vứt bừa vào cái túi bẩn một cách cẩu thả, vẻ thờ ơ, như thể đó không phải là tiền, mà là giấy lộn.

Cha Khrixtophor nói chuyện với Xolomon.

– Thế nào, chú Xolomon? – cha vừa hỏi vừa ngáp và làm dấu thánh lên miệng. – Công việc ra sao rồi?

– Cha muốn hỏi việc gì kia ạ? – Xolomon hỏi rồi nhìn cha một cách quỷ quyệt như thể cha vừa ám chỉ một tội ác nào của hắn.

– Nói chung ấy… Chú mày hiện đang làm gì?

– Tôi đang làm gì ấy à? – Xolomon hỏi lại rồi nhún vai. – Cũng như mọi người thôi… Cha cũng thấy đấy: tôi là thằng hầu. Tôi làm thằng hầu cho anh tôi, anh tôi làm thằng hầu cho khách qua đường, khách qua đường làm thằng hầu cho Varlamốp, và nếu tôi có được mười triệu thì Varlamốp sẽ làm thằng hầu cho tôi.

– Tại sao ông ta lại sẽ làm thằng hầu cho chú mày?

– Tại sao ấy à? Tại vì không có một ông chủ hay một nhà triệu phú nào mà lại không sẵn lòng liếm tay một thằng Do Thái bẩn thỉu để kiếm lấy một kôpếch lãi. Tôi bây giờ là một thằng Do Thái bẩn thỉu và nghèo đói, mọi người đều coi tôi như con chó, nhưng nếu tôi có tiền thì Varlamốp cũng sẽ bò lăn bò kềnh ra trước mặt tôi đúng như anh Moixây tôi trước mặt các ông.

Cha Khrixtophor và ông Kudmitsốp đưa mắt nhìn nhau. Cả hai đều không hiểu Xolomon nói gì. Kudmitsốp nghiêm nghị và lạnh lùng nhìn hắn rồi hỏi:

– Sao chú mày lại dám đặt mình ngang hàng với Varlamốp hả đồ ngốc?

– Tôi chưa ngốc đến nỗi tự đặt mình ngang hàng với Varlamốp, – Xolomon vừa đáp vừa nhìn qua những người tiếp chuyện một lượt, vẻ ngạo nghễ. – Varlamốp tuy là người Nga, nhưng tâm hồn thì lại là một gã Do Thái bẩn thỉu; suốt đời ông ta chỉ toàn là tiền với lãi, còn tôi thì tôi ném tiền vào lò sưởi. Tôi chẳng cần tiền, chẳng cần đất, chẳng cần cừu, tôi cũng chẳng cần người ta sợ tôi và bỏ mũ chào tôi khi tôi đi xe qua. Thế tức là tôi thông minh hơn cái ông Varlamốp của các ông và giống con người hơn!

Một lát sau, Iegoruska nửa mê nửa tỉnh nghe thấy Xolomon nói gì về người Do Thái mà giọng khản đi và rít lại vì một mối căm thù đang làm cho hắn nghẹt thở. Hắn nói hấp tấp giọng đơn đớt, lúc đầu còn nói đúng tiếng Nga, nhưng rồi lại chuyển sang giọng những người kể chuyện sinh hoạt Do Thái, bắt đầu nói như dạo nọ ở chợ phiên, cố ý dùng một giọng lơ lớ Do Thái xuyên tạc.

– Khoan đã, – cha Khrixtophor ngắt lời hắn. – Nếu chú mày không ưa cái tín ngưỡng của chú mày thì cứ theo đạo khác, chứ chế nhạo như thế là có tội đấy; kẻ nào báng bổ tín ngưỡng của mình thì kẻ ấy là đồ mạt hạng.

– Cha không hiểu gì hết! – Xolomon ngắt lời cha một cách thô lỗ. – Tôi nói một đằng, cha hiểu ra một nẻo.

– Đấy, có thể thấy rõ ngay chú mày là một thằng ngốc, – cha Khrixtophor thở dài. – Cha biết gì khuyên nấy, thế mà chú mày lại giận. Cha nói với chú như một người già cả, cha nói từ tốn, thế mà chú mày lại quang quác quang quác lên như con gà tây! Đồ gàn, thật đấy…

Moixây Moixêíts bước vào. Ông lo sợ nhìn Xolomon và nhìn mấy vị khách, rồi da mặt ông ta lại co giật. Iegoruska lắc mạnh mái đầu và đưa mắt nhìn quanh; trong một thoáng, nó trông thấy Xolomon đúng vào lúc cái mặt của hắn quay ba phần tư về phía mình và bóng cái mũi dài ngoằng của hắn vắt chéo ngang má trái hắn; nụ cười khinh bỉ pha lẫn với cái bóng này, đôi mắt ngạo nghễ long lên sáng quắc, vẻ mặt giễu cợt và tất cả cái dáng chim bị vặt lông của hắn, trông như nhân đôi và chập chờn trước mặt Iegoruska, khiến cho hắn bây giờ không giống một thằng hề nữa, mà giống như một cái gì đôi khi nằm mơ mới thấy, có lẽ giống một con yêu quái.

– Chú Xolomon nhà ông như bị ma ám ấy, ông Mơixây Moixêíts ạ, Chúa phù hộ cho hắn! – cha Khrixtophor mỉm cười nói. – Lẽ ra ông nên thu xếp cho hắn làm ăn ở đây hay cưới vợ cho hắn đi chứ… Trông chẳng ra người…

Kudmitsốp cau mày giận dữ. Moixây Moixêíts lại lo lắng nhìn thằng em và nhìn khách có ý dò hỏi.

– Xolomon, ra ngoài kia! – ông ta nói, giọng nghiêm khắc. – Ra đi!

Đoạn ông nói thêm mấy câu gì bằng tiếng Do Thái nữa. Xolomon cười sằng sặc và bỏ ra ngoài.

– Có chuyện gì thế ạ? – Moixây Moixêíts lo sợ hỏi cha Khrixtophor.

– Hắn quên hết cả phép tắc, – Kudmitsôp đáp. – Ăn nói thô lỗ, chẳng coi ai ra gì.

– Biết ngay mà! – Moixây Moixêíts hoảng hốt lên, vỗ tay đánh đét một cái. – Ôi lạy Chúa, lạy Chúa! – ông ta thều thào. – Thôi xin các vị làm phúc bỏ qua cho nó, đừng giận. Người gì mà lạ quá, lạ quá! Trời ơi, trời ơi! Nó là em ruột tôi thật, nhưng chỉ rặt làm khổ tôi, chứ chẳng được cái gì. Vì rằng, thưa cha với lại ông Kudmitsốp…

Moixây Moixêíts ngoáy ngoáy ngón tay bên thái dương và nói tiếp:

– Nó dở người đấy… nó hỏng rồi. Tôi chẳng còn biết làm thế nào nữa! Nó chẳng quý ai, chẳng nể ai, chẳng sợ ai hết… Thưa cha mấy lại… ai nó cũng chế nhạo, ăn nói toàn những chuyện tầm bậy, ai nó cũng châm chọc. Cha mấy lại ông đây không biết chứ có lần ông Varlamốp đến đây, không biết nó nói gì mà ông ấy lấy roi ngựa quất cả nó lẫn tôi… Nhưng tôi có tội tình gì? Có phải tại tôi đâu? Trời lấy mất trí khôn của nó, thế thì đó là ý trời, chứ có phải lỗi tại tôi đâu?

Dễ đến mười phút sau Moixây Moixêíts vẫn còn nói thều thào và thở dài thườn thượt:

– Ban đêm nó không ngủ, cứ nằm mà suy với nghĩ mãi, nhưng nó nghĩ những gì thì có trời biết. Đang đêm đến gần nó là nó nổi giận và cười khẩy. Tôi nó cũng không ưa… Mà nó chẳng mong muốn cái gì hết! Ông cụ tôi khi chết đi có để lại cho hai anh em mỗi đứa sáu nghìn rúp. Tôi mua cái quán, lấy vợ đến bây giờ đã có con, còn nó thì vứt tiền vào lò sưởi đốt hết. Tiếc đứt ruột đi, tiếc quá chừng! Đốt đi làm gì? Không cần thì cho anh, chứ sao lại đốt đi?

Bỗng cánh cửa mở đánh két một tiếng và sàn nhà rung lên dưới những bước chân người. Một luồng gió nhẹ phả vào người Iegoruska, và nó có cảm giác như có một con chim lớn màu đen huyền vừa bay qua và vỗ cánh ngay sát mặt nó. Nó mở mắt ra… Ông cậu nó, tay cầm cái túi sẵn sàng lên đường, đang đứng cạnh chiếc đivăng. Cha Khrixtophor, tay cầm chiếc mũ lễ rộng vành, đang cúi chào ai và mỉm cười, không phải dịu dàng và hiền hậu như mọi khi, mà lại là một nụ cười cung kính và gượng gạo, rất không ăn ý với vẻ mặt của cha. Còn Moixây Moixêíts thì người như gãy làm ba khúc, đang nghiêng ngả đung đưa và cố dùng đủ mọi cách để khỏi rời hẳn ra từng mảnh. Chỉ riêng Xolomon vẫn đứng yên ở góc nhà như không có chuyện gì xảy ra cả, tay khoanh trước ngực, môi vẫn mỉm cười khinh bỉ như trước.

– Thưa bà, xin bà thứ lỗi cho, nhà chúng tôi không được sạch! – Moixây Moixêíts rên rỉ với nụ cười cực lạc trên môi; lúc bấy giờ ông ta không còn để ý gì đến Kudmitsốp và cha Khrixtophor nữa, chỉ lo đung đưa cả người để khỏi rời ra từng mảnh. – Chúng tôi là kẻ hèn mọn, thưa bà!

Iegoruska dụi mắt. Quả nhiên có một bà đang đứng giữa phòng. Đó là một thiếu phụ còn trẻ măng, rất đẹp, người đầy đặn, mình mặc áo dài đen, đầu đội mũ rơm. Trước khi Iegoruska có đủ thì giờ nhìn kỹ nét mặt của bà, không hiểu sao nó cứ hồi tưởng lại cây dương thanh tú mà chiều hôm nay nó vừa trông thấy đứng cô độc trên ngọn đồi.

– Hôm nay Varlamôp đã đi qua đây chưa? – một giọng phụ nữ hỏi.

– Thưa bà chưa ạ! – Moixây Moixêíts đáp.

– Nếu ngày mai ông có gặp thì bảo ông ấy ghé qua tôi một chút nhé.

Bỗng nhiên, hoàn toàn bất ngờ, cách mắt nó chỉ độ nửa gang tay, Iegoruska trông thấy một đôi lông mày đen dịu như nhung, hai con mắt to màu nâu nhạt và đôi má đàn bà mịn màng có lúm đồng tiền, và từ hai cái lúm này, như những tia nắng tỏa rát từ vầng thái dương, một nụ cười tươi tắn tỏa ra khắp gương mặt. Không khí thoang thoảng một mùi hương huyền diệu.

– Chú bé xinh quá! – bà nói. – Con ai thế này? Kadimirơ Mikhailôvíts xem này, kháu quá đi mất! Trời ơi, nó ngủ! Chú bé mũm mĩm trông yêu quá!…

Bà mệnh phụ hôn thật mạnh lên hai má của Iegoruska. Nó mỉm cười, và tưởng mình đang ngủ, nó nhắm mắt lại. Bản lề cánh cửa ra vào lại két lên, và có tiếng ai bước vội vã: một người nào đó vừa đi vào, rồi lại ra ngay.

– Iegoruska, Iegoruska! – có tiếng thì thào rất to của hai người cùng gọi một lúc. – Dậy mà đi lên xe!

Có một người nào đấy, có lẽ là Đenixka, dựng Iegoruska dậy và cầm tay nó dắt đi; dọc đường nó mở hé mắt ra và một lần nữa lại trông thấy người thiếu phụ kiều diễm mặc áo đen vừa hôn nó. Bà ấy đang đứng ở giữa phòng nhìn theo nó, mỉm cười và thân ái gật đầu chào nó. Ra gần đến cửa, nó trông thấy một người đàn ông tóc đen vạm vỡ đẹp trai, đội mũ nồi, chân đi ủng. Chắc đó là người tùy tòng của bà mệnh phụ.

– Prrr!… – trong sân có ai giục ngựa.

Bên thềm Iegoruska trông thấy một chiếc xe song mã sang trọng màu đen mới tinh, và một cặp ngựa ô. Ngồi trên ghế xà ích là một người hành bộc mặc áo dấu, tay cầm một cây roi ngựa dài. Ra tiễn mấy người lên đường chỉ có một mình Xolomon. Mặt hắn căng thẳng vì buồn cười; hắn trông như thể rất nóng lòng chờ cho khách đi khỏi để cười họ cho thật thỏa thuê.

– Bá tước phu nhân Đranítxkaia đấy, – cha Khrixtophor vừa thì thầm vừa leo lên xe.

– Vâng, bá tước phu nhân Đranítxkaia đấy, – ông Kudmitsốp cũng thì thầm nhắc lại.

Sự xuất hiện của bá tước phu nhân chắc phải gây nên một ấn tượng rất mạnh, vì ngay đến Đenixka cũng nói thì thầm và chỉ dám bắt đầu quất roi và quất ngựa khi chiếc xe đã đi được một phần tư vécxta, và xa xa, ở chỗ cái quán trọ, chỉ còn trông thấy một đốm lửa lờ mờ.

 

IV.

THẾ THÌ RỐT CỤC cái ông Varlamốp ấy là ai mà bí ẩn, khó gặp thế? Là ai mà người ta nhắc nhở nhiều thế, là ai mà Xolomon khinh bỉ, nhưng ngay đến bà bá tước xinh đẹp kia cũng cần đến? Ngồi bên cạnh Đenixka trên chiếc ghế xà ích, Iegoruska trong khi chập chờn nửa mê nửa tỉnh chỉ nghĩ đến con người ấy. Nó chưa bao giờ trông thấy ông ta, nhưng rất hay nghe người ta nói đến và đã nhiều lần tưởng tượng hình dáng ông ta trong trí óc. Nó được biết rằng ông Varlamốp có mấy chục ngàn đêxiachina(12) đất, khoảng chục vạn con cừu và rất nhiều tiền, về nếp sinh hoạt và công việc của ông ta thì Iegoruska chỉ biết là ông ta bao giờ cũng “quanh quẩn đâu đây” và lúc nào người ta cũng đi tìm ông.

Ở nhà, Iegoruska cũng được nghe nói nhiều về bá tước phu nhân Đranítxkaia. Phu nhân cũng có mấy chục ngàn đêxiachina đất, rất nhiều cừu, một trại nuôi ngựa, tiền bạc như nước, nhưng lại không “quanh quẩn”, mà chỉ ở nhà, trong một tòa dinh thự tráng lệ. Về tòa dinh thự này những người quen và Ivan Ivanứts vốn đã có việc đến nhà phu nhân mấy lần, có kể lại rất nhiều điều kỳ diệu; chẳng hạn, họ nói rằng trong phòng khách của phu nhân có treo chân dung của tất cả các nhà vua Ba Lan, lại có một chiếc đồng hồ rất lớn hình một tảng đá trên có một con ngựa bằng vàng mắt kim cương đứng chổng hai vó trước lên, và trên lưng ngựa có một kỵ sĩ bằng vàng, cứ mỗi lần đồng hồ điểm giờ thì lại vung gươm chém sang phải một nhát, rồi chém sang trái một nhát. Họ còn kể rằng cứ mỗi năm hai lần bá tước phu nhân mở vũ hội mời những người quý tộc và công chức khắp tỉnh về dự, và ngay cả Varlamốp cũng đến. Khách khứa đều uống trà đun trong những chiếc ấm lò bằng bạc, toàn ăn những món phi thường (chẳng hạn vào mùa đông, nhân lễ Giáng Sinh, họ dọn quả mâm xôi và dâu tây tươi ra mời khách), và nhảy múa theo tiếng nhạc ngày đêm không lúc nào ngớt…

“Mà sao bà ấy đẹp thế!” – Iegoruska nghĩ khi nhớ lại gương mặt và nụ cười của bà.

Ông Kudmitsốp hình như cũng đang nghĩ tới bá tước phu nhân, vì khi xe đã đi được khoảng hai vécxta, ông nói:

– Nói chứ cái thằng cha Kadimirơ Mikhailôvíts ấy bòn của bà ta cũng đã lắm của! Hai năm trước đây, hồi tôi đến mua lông cừu của bà ấy, cha có nhớ không, chỉ riêng món của tôi hắn đã bỏ túi được khoảng ba nghìn.

– Cái quân Ba Lan ấy thì còn phải nói, – cha Khrixtophor nói.

– Mà bà ấy thì biết đâu đến những chuyện đó. Người ta vẫn nói, trẻ nhưng mà ngu. Nhẹ dạ chết đi ấy mà!

Không hiểu sao Iegoruska chỉ muốn nghĩ đến Varlamốp và bá tước phu nhân, đặc biệt là bá tước phu nhân thôi. Bộ óc đang buồn ngủ của cậu bé khước từ hẳn những ý nghĩ thông thường, nó lu mờ đi và chỉ giữ lại những hình ảnh thần tiên, huyền hoặc, vốn có cái tiện là mỗi hình ảnh như thế đều tự nhiên, hiện ra trong óc, không cần người nghĩ phải mất công chút nào, và cũng tự khắc biến đi không để lại một dấu vết – chỉ cần lắc đầu một cái rõ mạnh. Vả lại, cảnh vật xung quanh cũng không gợi cho nó những ý nghĩ thông thường. Ở bên phải lù lù những quả đồi tối đen có vẻ như đang che giấu ở phía sau một cái gì bí ẩn và ở bên trái, cả khoảng phía trên chân trời đều ửng lên thành một cái ráng màu huyết dụ, và khó lòng có thể hiểu được đấy là ánh lửa của một đám cháy ở đâu đây, hay là ở phía ấy trăng sắp lên. Khoảng xa cũng nom thấy rõ như ban chiều, nhưng cái màu tím dịu của nó bị bóng đêm xóa mờ đi và đã mất hẳn, và cả thảo nguyên đều nấp vào bóng tối như mấy đứa con của Moixây Moixêíts nấp dưới tấm chăn vậy.

Vào những buổi tối và những đêm tháng Bảy không còn có tiếng cun cút và chim cuốc kêu nữa, họa mi không hót trong những khe rừng, không có mùi hương của các loài hoa, nhưng thảo nguyên vẫn đẹp và đầy sức sống. Mặt trời mới lặn và mặt đất vừa chìm trong bóng tối thì nỗi u buồn của buổi ban ngày đã bị quên lãng ngay đi, tất cả đều được tha thứ, và thảo nguyên thở nhẹ nhõm, căng hết cả lồng ngực rộng mênh mông lên. Như thể vì trong bóng tối cỏ không trông rõ được cái già nua của mình, nó phát ra những âm thanh rộn rã, tươi vui và trẻ trung mà ban ngày không hề nghe thấy; tiếng răng rắc, tiếng huýt gió, tiếng sột soạt, những giọng trầm, giọng trung và giọng bổng của thảo nguyên – tất cả đều hòa lẫn lại thành một tiếng rì rầm liên tục đơn điệu, một tiếng nhạc đệm rất dễ chịu cho những kỷ niệm và những ý nghĩ buồn buồn. Tiếng lách tách đơn điệu ru hồn ta như một điệu hát ru con; ta ngồi trên xe, cảm thấy mình thiu thiu dần, nhưng từ một phía nào lại nổi lên tiếng kêu đứt quãng, lo lắng của một con chim đang thức hay vẳng lại một âm thanh mơ hồ giống như một giọng người đang ngạc nhiên kêu lên: “a!”, nhưng rồi giấc ngủ thiu thiu lại hạ mi mắt ta xuống. Cũng có khi xe chạy ngang một cái khe nhỏ mọc đầy những bụi rậm, ta nghe thấy tiếng một con chim mà dân thảo nguyên gọi là “chim ngủ”, đang phân trần với ai: “Tôi ngủ! Ngủ! Ngủ!” hay tiếng một con chim khác cười khanh khách hay khóc lên nức nở: đó là con cú. Chúng nó kêu lên với ai, ai nghe nó trên dải đồng bằng này thì có trời biết được, nhưng trong tiếng kêu của nó chứa chan nỗi buồn và ý than vãn… Thoang thoảng mùi rơm rạ, mùi cỏ khô và mùi hoa nở muộn, nhưng mùi hương ấy nồng đậm, ngòn ngọt và dịu dàng.

Qua màn đêm có thể trông thấy mọi vật, nhưng khó nhận ra màu sắc và đường nét của từng cái một. Cái gì cũng hiện ra dưới một dáng vẻ khác thật. Xe đang đi, thì ta chợt thấy phía trước bên vệ đường có một bóng đen giống như ông tu sĩ; ông ta đứng yên không nhúc nhích, dáng chờ đợi, tay lăm lăm một vật gì… Kẻ cướp chăng? Cái bóng người nhích gần tới, to dần lên, và đã đến ngay tầm xe, lúc bấy giờ ta mới thấy rằng đó không phải là một con người, mà là một bụi cây đứng cô độc hay một tảng đá. Những bóng đen im lìm, dáng chờ đợi ai như thế thường thấy trên những quả đồi, nấp sau những gò đất, lấp ló sau một bụi rậm, và tất cả đều giống như những bóng người và đều khiến ta phải nghi ngại.

Và khi trăng lên, đêm trở nên nhợt nhạt và uể oải. Sương mù như không còn nữa. Không khí trong suốt, tươi lành và ấm áp, có thể nhìn rõ mọi phía, và còn có thể thấy được cả từng thân từng nhánh của những bụi cây mọc sát vệ đường. Trong một khoảng khá xa có thể trông rõ những cái sọ súc vật và những tảng đá. Những bóng đen khả nghi giống như những ông tu sĩ, bây giờ nổi lên trên cái nền sáng của đêm trăng, trông lại càng đen hơn và có vẻ ảm đạm hơn. Tiếng “a-a!” ngạc nhiên của ai đó và tiếng kêu của một con chim đang thao thức hay đang mê ngủ gì đấy bây giờ vang lên mau hơn giữa tiếng lách tách đơn điệu, khua động làn không khí im lìm. Có những cái bóng rộng chờn vờn trên mặt cỏ phẳng lặng như những đám mây trôi trên trời, và trong khoảng không xa tắp, nếu nhìn thật kỹ thì thấy nổi lên cao và chồng chất lên nhau những hình ảnh mơ hồ cổ quái… Ta thấy hơi rờn rợn, phải nhìn lên bầu trời màu lục nhạt lốm đốm sao, không có một đám mây, một vết gợn nào, ta mới hiểu tại sao làn không khí ấm áp lại im lìm, tại sao thiên nhiên lại thủ thế không dám động đậy: nó thấy sợ và tiếc, không nỡ để mất dù chỉ là một khoảnh khắc của cuộc đời. Chỉ ở ngoài biển hay trên thảo nguyên vào một đêm trăng mới có thể lường được chiều sâu vô tận và chiều rộng vô biên của bầu trời. Bầu trời ấy đáng sợ, đẹp đẽ và âu yếm, nó nhìn ta đắm đuối và quyến rũ ta về với nó, và sự mơn trớn của nó làm cho ta thấy chóng mặt nôn nao.

Xe đi được một vài giờ gì đấy… Trên đường đi thỉnh thoảng lại gặp một ngọn gò già nua thầm lặng hay một tảng đá hình mụ đàn bà, có trời biết, do ai đặt đấy, và đặt tự bao giờ, một con chim đêm bay trên cao không một tiếng động, và dần dần trong ký ức lại hiện lên những truyền thuyết về thảo nguyên, những mẩu chuyện của những người gặp ở giữa đường, những câu chuyện cổ tích của các bà vú em vùng thảo nguyên và tất cả những gì mà ta đã thấy được, mà tâm hồn ta đã hiểu thấu. Đến lúc bấy giờ trong tiếng lách tách râm ran của côn trùng, trong những bóng đen khả nghi, và trong những gò đất, trong bầu trời cao, trong ánh trăng, trong dáng bay của con chim ăn đêm, trong tất cả những gì mà ta nghe, ta thấy đều như hiện rõ sự toàn thắng của cái đẹp của sự trẻ trung, của sức mạnh tràn trề và sự khát khao tha thiết đối với cuộc sống; tâm hồn lên tiếng đáp lại tiếng gọi của quê hương diễm lệ, khắc khổ, và ta thấy thèm được bay trên thảo nguyên như con chim ăn đêm. Và trong sự toàn thắng của cái đẹp, trong hạnh phúc tràn trề ta cảm thấy có sự khắc khoải và nhớ nhung, tựa hồ như thảo nguyên tự biết rằng mình cô độc, rằng sự phong phú và nguồn cảm hứng mà nó chứa đựng sẽ bị thế gian để cho mai một đi một cách phí hoài, không được ai ca ngợi và không có ích gì cho ai, và qua tiếng râm ran vui vẻ của nó ta nghe thấy một lời kêu gợi u hoài và tuyệt vọng: người ca ngợi đâu? Người ca ngợi đâu rồi?

– Prrr! Chào cụ Pantelây! Bình an cả chứ?

– Nhờ ơn Chúa, ông Ivan Ivanứts ạ!

– Anh em có gặp ông Varlamốp không?

– Không ạ, không gặp.

Iegoruska bừng tỉnh, mở mắt ra. Chiếc xe đã đỗ lại. Bên phải đường đi, đoàn xe chở hàng nối đuôi nhau kéo dài, mãi ra phía trước, bên đoàn xe có những bóng người lăng xăng đi đi lại lại. Xe nào cũng chở những kiện lông cừu lớn, thành thử trông cao ngồn ngộn, còn ngựa thì trông như bé loắt choắt chân thấp lè tè.

– Thế thì bây giờ ta sẽ đến xóm người theo đạo Kytô! – Kudmitsốp nói to. – Lão Do Thái nói là Varlamốp ngủ lại ở xóm người theo đạo Kytô. Vậy chào anh em nhé. Cầu Chúa phù hộ!

– Chào ông Ivan Ivanứts! – có tiếng mấy người đáp lại.

– Anh em ạ, bây giờ thế này nhé, – ông Kudmitsốp nói nhanh, – bây giờ anh em trông hộ thằng bé nhà tôi! Việc gì cứ bắt nó chạy đi chạy lại với chúng tôi? Bác Pantelây ạ, bác cho nó lên xe bác, cứ đi dần đi, chúng tôi đuổi theo sau. Cháu sang đi, Iegoruska, đi đi, không sao đâu!…

Iegoruska rời ghế xà ích tụt xuống. Mấy cánh tay nhấc bổng nó lên cao, và nó thấy mình ngất nghểu trên một đống gì to, mềm và hơi ẩm vì sương. Bây giờ nó có cảm giác là trời gần nó hơn, mà mặt đất thì xa đi.

– Này, cầm lấy cái áo khoác của mày! – Đenixka quát đâu ở tít dưới xa.

Chiếc áo khoác và chiếc tay nải được ném từ phía dưới lên rơi phịch xuống cạnh Iegoruska. Lúc bấy giờ nó không muốn nghĩ đến việc gì hết. Nó đút nhanh cái tay nải xuống dưới đầu, lấy cái áo khoác đắp lên người, và duỗi thẳng đôi chân ra, người so ro vì sương xuống lạnh, và cất tiếng cười khoái trá.

“Bây giờ thì ngủ, ngủ, ngủ…” – nó nghĩ.

– Nhưng mấy ông quỷ sứ chớ có xúc phạm nó đấy nhé! – có tiếng Đenixka ở phía dưới.

– Chào anh em nhé! Cầu Chúa phù hộ! – ông Kudmitsốp nói to. – Tôi trông cậy ở anh em đấy!

– Ông cứ yên tâm, ông Ivan Ivanứts ạ!

Đenixka quát ngựa, chiếc xe rít lên và chuyển bánh, nhưng không đi trên đường cái nữa, mà rẽ sang một bên. Trong khoảng hai phút im ắng hẳn đi, như thể đoàn xe chở hàng đã ngủ yên, chỉ nghe tiếng loảng xoảng của cái xô treo ở phía sau xe xa dần rồi tắt hẳn. Nhưng rồi ở phía trước đoàn xe có ai quát lên:

– Kiriukha, đi thôi!

Chiếc xe chở hàng đi đầu cọt kẹt chuyển bánh, rồi đến chiếc thứ hai, thứ ba… Iegoruska cảm thấy chiếc xe nó nằm lắc lư và cũng kêu lên cọt kẹt. Đoàn xe lên đường, Iegoruska nắm thật chặt sợi dây thừng ràng các bó lông cừu, lại cười lên một tiếng khoái trá, nắn lại cho ngay cái bánh nướng ở trong túi và bắt đầu thiếp đi như thường khi vẫn ngủ trên giường ở nhà…

Khi Iegoruska thức giấc thì mặt trời đã mọc; một cái gò che lấp nó đi, còn nó thì cố phun ánh sáng lên khắp thế gian, lên gân bắn thật mạnh các tia nắng ra khắp bốn phía và rót đầy vàng lên chân trời. Iegoruska có cảm giác là nó mọc không đúng chỗ, vì hôm qua nó mọc sau lưng chứ không phải chếch hẳn sang bên trái như bây giờ… Vả lại quang cảnh ở xung quanh cũng không giống như hôm qua. Chẳng thấy đồi đụn gì nữa, nhìn đi đâu cũng thấy một dải đồng bằng màu nâu hung khắc khổ trải rộng bát ngát; lác đác trên đồng bằng thấy những nấm đất nhô nhô lên và mấy con quạ hôm qua bay lượn. Xa xa ở phía trước thấy trăng trắng mấy cái tháp chuông và những ngôi nhà gỗ của một làng nào đấy: hôm nay là ngày chủ nhật, dân Ucraina ngồi nhà nấu nướng các thức ăn – có thể thấy rõ như vậy khi nhìn những làn khói bốc lên từ tất cả các ống khói và hòa lại thành một tấm màn trong suốt màu xám xanh lơ lửng trên thôn. Ở những khoảng cách giữa các nhà và phía sau nhà thờ thấy xanh xanh một dòng sông, và bên kia sông, cảnh vật chìm dần trong sương mù. Nhưng không có cái gì khác hôm qua cho bằng con đường. Thay cho con đường là một cái gì rộng rãi, phóng khoáng, dũng mãnh phi thường chạy dài trên thảo nguyên; đó là một dải thẳng màu xám, phẳng phiu và phủ bụi như mọi con đường khác, nhưng rộng đến mấy chục mét. Chiều rộng thênh thang của nó khiến cho Iegoruska băn khoăn và gợi lên trong trí nó những ý nghĩ hoang đường. Ai vẫn thường đi trên con đường này? Ai đi mà đường phải rộng như thế? Thật khó hiểu và kỳ dị. Quả có thể nghĩ rằng ở trên đất Nga này vẫn còn những con người khổng lồ như Ilya Murométx và Xolovây Radbôiních(13), và những con tuấn mã khổng lồ của các tráng sĩ vẫn chưa tuyệt giống. Iegoruska nhìn con đường mà mường tượng như nghe tiếng bánh xe lăn ầm ầm của sáu chiếc xe ngựa cao như kiểu xe trên những hình vẽ trong cuốn thánh sử đang xếp thành hàng ngang phóng nhanh; mỗi chiếc xe như vậy thắng sau con ngựa bất kham phi lồng lên, những đôi bánh xe cao tung bụi mù trời, và người cầm cương là những nhân vật mà ta vẫn thường trông thấy trong những giấc mơ hay ta vẫn tưởng tượng ra khi đang có một tâm tư huyền thoại. Vả lại những hình ảnh sẽ ăn ý biết bao nhiêu với thảo nguyên và con đường rộng thênh thang này, nếu những nhân vật ấy có thật!

Bên phải, suốt dọc đường đều có những cột điện tín hai dây. Càng xa càng nhỏ dần đi, dãy cột điện tín này chạy đến làng thì mất hút sau các ngôi nhà và các rặng cây, rồi lại hiện ra trong khoảng xa màu tím nhạt thành những cái que nhỏ và mảnh giống như những cây bút chì cắm xuống đất. Trên dây điện có những con ó, những con chim cắt và những con quạ đậu rải rác thản nhiên nhìn đoàn xe đang tiến tới.

Iegoruska nằm trên chiếc xe cuối đoàn cho nên có thể nhìn thấy cả đoàn xe. Cả đoàn xe có khoảng hai mươi chiếc, và cứ ba chiếc lại có một người áp tải. Bên cạnh chiếc xe sau, tức là chiếc của Iegoruska, có một ông già râu bạc, cũng gầy gò nhỏ bé như cha Khrixtophor, nhưng da mặt nâu sạm đi vì nắng, vẻ mặt nghiêm khắc và tư lự. Rất có thể ông già này chẳng nghiêm khắc mà cũng chẳng tư lự gì hết, nhưng đôi mi mắt đỏ và cái mũi dài nhọn hoắt của ông khiến cho gương mặt ông có cái vẻ nghiêm khắc, khô khan thường thấy ở những người đã quen luôn nghĩ đến những việc nghiêm trang và suy tưởng một mình. Cũng như cha Khrixtophor, ông đội một chiếc mũ lễ rộng vành, nhưng không phải loại mũ của các ông lớn, mà làm bằng dạ thô màu hung, trông giống một hình nón cụt hơn là một hình trụ. Ông đi chân không. Có lẽ vì một thói quen bắt đầu có từ những đêm đông giá lạnh đã nhiều lần phải đứng tê cóng bên cạnh chiếc xe, ông ta vừa đi vừa vỗ đùi đen đét và giẫm chân thật mạnh. Thấy Iegoruska đã thức dậy, ông nhìn nó và nói, người co ro như bị lạnh:

– À, cậu bé dậy rồi đấy à? Cậu là con trai ông Ivan Ivanứts phải không?

– Không ạ, cháu là cháu gọi ông ấy bằng cậu.

– Cháu của ông Ivan Ivanứts ấy à? Còn tôi thì tôi đã cởi giày đi chân không đây này. Chân tôi đau lắm, cóng hết rồi, không đi ủng thì dễ chịu hơn… Dễ hơn đấy cậu ạ… Nghĩa là nếu không đi ủng ấy… Thế cậu là cháu ông ấy? Ông ấy là người tốt, khá lắm… Cầu Chúa cho ông ấy được sức khỏe… Khá lắm… Ấy là tôi nói Ivan Ivanứts ấy… Ông ấy đến xóm người theo đạo Kytô rồi… Lạy Chúa phù hộ!

Ông già nói với cái giọng điệu như thể đang rét lắm, nói ngắt quãng và không buồn mở miệng cho hẳn hoi, các phụ âm phát âm bằng môi thì lạc hẳn đi vì môi cứ ríu lại như thể bị cóng. Trong khi nói với Iegoruska, ông không mỉm cười lần nào và trông có vẻ nghiêm nghị.

Cách hai xe nữa về phía trước có một người cầm roi ngựa mặc chiếc áo khoác dài màu hung đỏ, đội chiếc mũ lưỡi trai, chân đi đôi ủng tụt ống. Hắn ta chưa già, tuổi chỉ độ bốn mươi. Khi hắn ta ngoảnh lại, Iegoruska trông thấy một khuôn mặt dài, đỏ gay, có bộ râu dê thưa thớt và ở dưới mắt bên phải có một cái mụn cóc xôm xốp. Ngoài cái mụn cóc rất xấu này, hắn ta còn có một đặc điểm nổi bật nữa, đập ngay vào mắt: tay trái hắn ta cầm roi ngựa, còn tay phải huơ huơ lên như thể đang chỉ huy một đội hợp xướng vô hình. Chốc chốc hắn ta lại cặp roi vào nách: những lúc ấy hắn ta đánh nhịp bằng cả hai tay và hát ư ử trong mồm.

Người đánh xe đi trước nữa là một cái bóng dài và thẳng đuột, vai rất xuôi, và lưng thẳng như tấm ván. Người hắn ta thẳng đơ như thể đang đi ắc ê hay như thể vừa nuốt một cái thước, tay không đánh đàng xa, mà cứ buông thẳng xuống như hai cái gậy thẳng đuột, và dáng đi cứng đờ theo kiểu con rối hầu như không cong đầu gối và cố xoạc cho thật rộng bước; trong khi ông già hay cái ông có mụn cóc kia bước hai bước thì hắn chỉ có đủ thì giờ bước một bước, cho nên có thể tưởng như hắn đi chậm hơn mọi người và đang tụt dần lại sau. Mặt hắn quấn một mảnh giẻ và trên đầu có một cái gì như thể cái mũ chụp của tu sĩ; hắn mặc một chiếc áo ngắn kiểu Ucraina, loang lổ những miếng vá, một cái quần xanh rộng bỏ ngoài ủng, chân đi dép đan bằng thứ vỏ cây.

Những người đi trước nữa thì Iegoruska không nhìn rõ được. Nó nằm sấp trên đống hàng, xoi một cái lỗ trên bó lông cừu và tản mạn se lông cừu lại thành từng sợi dây dài dài. Ông già đang đi ở phía dưới té ra không đến nỗi khắc nghiệt và nghiêm trang như người ta có thể phán đoán qua bộ mặt của ông. Khi đã mở đầu câu chuyện rồi, ông ta cứ thế nói tiếp mãi.

– Thế cậu đi đâu? – ông ta vừa hỏi vừa giậm chân lạch bạch.

– Đi học ạ, – Iegoruska đáp.

– Đi học? Ái chà chà… Ấy, thế thì cầu Chúa trời cứu giúp. Được. Tam ngu thành hiền. Người thì Chúa phú cho một trí khôn, người thì Chúa cho hai, có người lại được những ba… Đúng thế, có người lại được những ba. Một trí khôn có sẵn từ khi mẹ sinh ra, một nữa là do học hành, còn trí khôn thứ ba là sống một cuộc đời tốt đẹp mà có. Thế cho nên ai mà có được ba trí khôn thì tốt lắm cậu ạ. Người như thế thì sống dễ chịu đã đành, nhưng chết cũng nhẹ nhõm hơn. Chết ấy… Mà phàm chúng ta ai cũng phải chết.

Ông già gãi trán, ngước đôi mắt đỏ hoe nhìn Iegoruska và nói tiếp:

– Ông Mắcxim Nikôlaíts, một ông chủ ở Xlavianoxerbxkơ, năm ngoái cũng cho cậu con trai đi học. Lão không biết cậu ta có học vấn ra sao, chứ cậu con thì khá lắm… Cầu Chúa ban cho sức khỏe, nhà ông ấy tốt lắm. Ấy, ông ấy cũng đưa con đi học… Ở Xlavianoxerbxkơ không có thứ trường để học cho ra học, hẳn thế. Không có đâu… Nhưng thị trấn ấy cũng khá… Trường thì có loại thông thường, cũng đủ để đỗ đạt xoàng xoàng, nhưng muốn có học thức cao thì không có… Không có, đúng thế. Cậu tên là gì nhỉ?

– Iegoruska.

– À, tức là Iegori… Ngày lễ thánh Đại Phước lộc tuẫn đạo Iegori Chiến thắng là ngày hai mươi ba tháng Tư. Còn tên lão là Pantelây. Lão là con trai ông Dakharơ… Họ nhà lão là họ Kholođốp… Lão sinh ở Tim, cậu có lẽ biết thị trấn ấy, thuộc tỉnh Kurxkơ. Các anh lão đều thành thị dân cả, đi làm nghề ở thành phố, còn lão thì vẫn là mugích… Bảy năm về trước lão có về đấy – tức là về quê ấy. Lão đã từng ở cả nông thôn lẫn thị trấn… Lão trước ở Tim mà. Lúc bấy giờ người nhà còn sống và khỏe mạnh cả, còn bây giờ ra sao thì lão không biết… Có lẽ cũng có người sống kẻ chết… Mà chết thì cũng là phải lúc, vì đều già cả rồi, nhiều người còn già hơn lão đây nữa. Chết thì chẳng sao, chết là tốt, dĩ nhiên miễn là đừng chết chưa xưng tội. Không có cái gì tệ hại hơn là chết chưa được rửa tội. Chết như thế là quỷ Sa tăng nó mừng lắm đấy. Mà muốn cho mình chết có rửa tội hẳn hoi, tức là để khỏi bị cấm cửa thiên đường, thì phải cầu nguyện bà thánh Đại phước lộc Varvara tuẫn đạo. Bà thánh ấy hay cứu giúp chúng sinh lắm. Bà ấy thế đấy… Chúa đã ban cho bà ở trên tầng lời một địa vị gần gụi Chúa, đặng ai nấy đều có đủ quyền cầu xin bà ấy lo chạy cho.

Lão Pantelây cứ thế nói lẩm bẩm, và hình như không cần biết Iegoruska có nghe lão hay không. Lão nói uể oải, tiếng cứ lúng búng trong miệng, giọng đều đều, không lúc nào to lên hay khẽ bớt, và chỉ một khoảng ngắn mà đã có đủ thì giờ nói được rất nhiều chuyện. Tất cả những câu chuyện của lão kể đều gồm từng mẩu đứt quãng, rất ít liên hệ với nhau, và chẳng có gì thú vị đối với Iegoruska. Có lẽ lão nói chỉ để, sau một đêm im lặng, kiểm tra lại những ý nghĩ trong đầu mình, xem lão có thể suy nghĩ không? Nói xong câu chuyện rửa tội, lão quay lại với cái ông Mắcxim Nikôlaíts nào đấy ở Xlavianoxerbxkơ:

– Phải, ông ta đã đưa con đi học… Đúng thế…

Một trong những người áp tải đi tít phía trước bỗng đâm bổ sang bên đường và lấy roi quất liên hồi xuống đất. Đó là một gã cao lớn, vai rộng, khoảng ba mươi tuổi, tóc quăn màu vàng sẫm, trông rất khỏe mạnh. Cứ trông những động tác của đôi vai gã và của chiếc roi, cứ trông cái tư thế hăm hở của hắn, có thể đoán hắn đang đánh một con gì ấy. Một người áp tải khác chạy đến cạnh hắn. Đó là một người thấp lùn, to ngang, có bộ râu đen xồm xoàm, mặc một chiếc sơ mi bỏ thõng và một chiếc áo gilê. Người này cất tiếng cười ồ ồ nghe như tiếng ho sù sụ, rồi reo lên:

– Anh em ơi, Đưmốp giết được con rắn! Thật đấy!

Có những người mà chỉ nghe giọng nói và tiếng cười thì cũng có thể biết chắc được mức thông minh. Gã râu đen chính là thuộc về cái hạng người may mắn ấy: qua giọng nói tiếng cười của hắn có thể biết ngay hắn là người có bộ óc u mê kín đặc. Quất roi xong, gã Đưmốp tóc màu vàng sẫm nhặt roi lên và vừa cười vừa ném về phía đoàn xe một cái gì giống như đoạn thừng.

Không phải con rắn đâu, con mòng(14) đấy, – có ai nói to.

Người có dáng đi cứng đờ và có miếng giẻ quấn trên mặt rảo bước đến cạnh con rắn vừa bị giết chết, nhìn nó một lát, rồi vỗ hai bàn tay khẳng khiu vào nhau đánh đét một tiếng.

– Đồ tù khổ sai! – hắn kêu lên giọng âm âm như khóc. – Việc gì mày lại đi giết con mòng này? Nó làm gì mày mà mày giết nó, đồ chết rấp? Con mòng thế kia mà đem giết đi kia chứ! Thế có ai đánh chết mày đi như thế thì mày bảo sao hả?

– Giết mòng là không được, đúng thế… – lão Pantelây điềm tĩnh nói. – Không được… Nó có phải là rắn độc đâu. Nó tuy trong giống con rắn, nhưng nó là giống hiền lành, vô hại… Nó thích người… Mòng ấy mà…

Đưmốp và gã râu đen chắc thấy ngượng, vì cả hai đều cười hô hố, không trả lời những câu phản đối xôn xao, và uể oải trở về xe. Khi chiếc xe cuối đoàn đi ngang chỗ con mòng chết, người buộc giẻ đứng lại nhìn rồi ngoảnh về phía lão Pantelây hỏi, giọng như khóc:

– Ông cụ ơi, sao hắn lại giết con mòng?

Bây giờ Iegoruska mới thấy rõ đôi mắt hắn nhỏ ti hí, mờ đục, da mặt xám ngoét, ốm yếu và trông như cũng mờ đục, còn cái cằm thì đỏ ong và sưng phình ra.

– Ông cụ ơi, sao hắn lại giết? – hắn nhắc lại trong khi bước bên cạnh lão Pantelây.

– Hắn là người ngu, hắn ngứa tay thì hắn giết, – ông già nói. – Còn như giết mòng thì không được… Đúng thế… Đưmốp thì ai cũng biết là thằng hay nghịch xằng, cái gì vào tay hắn cũng giết, còn thằng Kiriukha thì không can hắn. Lẽ ra phải can chứ, đằng này nó chỉ hố hố hố mấy lại há há há… Nhưng anh cũng đừng giận, anh Vaxia ạ… Giận làm gì? Nó giết thì thôi, kệ nó… Thằng Đưmốp thì nghịch, thằng Kiriukha thì ngu… Chẳng sao, chúng nó ngu, chúng nó không hiểu gì thì mặc thây chúng nó. Như Emelian kia thì không bao giờ động đến cái gì không nên động đến. Không bao giờ, đúng thế… Vì anh ta là người có học, còn bọn kia thì ngu dốt… Emelian ấy mà… Anh ấy thì không bao giờ.

Người áp tải mặc chiếc áo khoác hung có cái mụn cóc đang chỉ huy đội hợp xướng vô hình, nghe nhắc đến tên mình liền dừng lại và đợi cho lão Pantelây và Vaxia lên đến nơi rồi cùng đi bên cạnh họ.

– Đang nói chuyện gì thế? – hắn hỏi, giọng phều phào như nghẹt thở.

– Ấy Vaxia đang giận đấy, – lão Pantelây nói. – Lão đang khuyên nhủ này nọ cho anh ta bớt giận đấy mà… Chao đôi chân đau quá, tệ quá! Chao ôi! Ngày chủ nhật, ngày lễ Chúa nên nó buốt điên lên!

– Vì đi bộ đấy! – Vaxia nhận xét.

– Không, anh bạn ạ, không phải tại đi bộ đâu. Khi tôi đi thì nghe như dễ chịu hơn, chứ khi nằm ấm thì tưởng đến chết mất. Đi thì thấy thoải mái hơn.

Emelian mặc áo khoác hung đứng giữa lão Pantelây và Vaxia huơ huơ đôi tay như thể hai người kia sắp sửa hát. Huơ được một lát, hắn buông tay xuống và rên lên một tràng tuyệt vọng.

– Không hát được! – hắn nói. – Hỏng thật. Suốt đêm hôm qua và sáng hôm nay tôi cứ mường tượng nghe bài “Lạy Chúa tha tội” ba giọng mà hồi lễ cưới ở nhà Marinốpxki chúng tôi đã hát; nó đã có sẵn trong đầu và trong cổ nữa… tưởng cứ thế hát ngay ra được, thế nhưng không sao hát nổi! Không ra tiếng!

Hắn im lặng một lát, suy nghĩ điều gì, rồi nói tiếp:

– Tôi ở trong đội ca đã mười lăm năm, trong cả tỉnh Luganxkơ có lẽ không một người nào có được giọng hát như tôi, thế nhưng hai năm trước, từ khi tôi tắm ở sông Đônét lên là không sao hát được một tiếng nào cho ra hồn. Họng bị cảm lạnh hỏng rồi. Mà không có giọng hát thì tôi chẳng khác nào anh thợ cụt tay.

– Đúng thế, – lão Pantelây tán đồng.

– Tôi cho tôi là người bỏ đi, chẳng hơn chẳng kém.

Lúc bấy giờ Vaxia tình cờ trông thấy Iegoruska. Mắt hắn ướt đi và càng bé hơn trước.

– Cả cậu chủ cũng đi với ta đây à! – hắn nói đoạn lấy ống tay áo che mũi như xấu hổ. – Trông như anh xà ích, oai thật! Cậu ở lại với chúng tôi, đi với đoàn xe chở lông cừu nhé.

Ý chừng hắn cho rằng cậu chủ và anh xà ích mà kết hợp vào một người là điều rất ngộ nghĩnh và dí dỏm, vì thấy hắn cười rất to và cứ tiếp tục phát triển cái ý này. Emelian cũng ngẩng lên nhìn Iegoruska, nhưng chỉ nhìn thoáng qua, có vẻ lạnh lùng. Hắn đang bận tâm với những ý nghĩ riêng, và ví thử không có Vaxia thì hắn không nhận thấy có Iegoruska trên xe. Chưa quá năm phút hắn đã lại huơ tay, rồi vừa tả lại cho hai người bạn đường nghe về cái đẹp của bài “Lạy Chúa tha tội” hát trong lễ thành hôn mà đêm qua hắn đã hồi tưởng lại, vừa đút cây roi vào nách và huơ cả hai tay lên.

Cách làng một cây số đoàn xe đỗ lại cạnh một cái giếng có gàu kéo nước. Thả gàu xuống múc nước, gã Kiriukha râu đen vắt người lên thành giếng, cái đầu bờm xờm, hai vai và một phần thân hình hắn lấp hẳn trong cái miệng giếng đen ngòm, thành thử Iegoruska chỉ còn trông thấy đôi chân ngắn cũn cỡn của hắn chỉ chạm hờ xuống đất, trông thấy bóng cái đầu của mình phản chiếu dưới đáy giếng, hắn vui mừng cất tiếng cười ồ ồ, và tiếng vang từ đáy giếng dội lên đáp lại hắn. Khi hắn ngẩng lên, mặt và cổ hắn đỏ gắt như hoa mào gà. Người đầu tiên chạy lại uống nước là Đưmốp. Hắn vừa uống vừa cười, chốc chốc lại ngừng uống ngẩng đầu lên kể cho Kiriukha nghe một chuyện gì chắc buồn cười lắm, rồi quay người lại và quát vang cả thảo nguyên năm tiếng chửi tục tằn. Iegoruska không hiểu nghĩa mấy tiếng này, nhưng nó biết chắc đó là những tiếng rất tục. Nó biết là vì mỗi khi nghe những tiếng như vậy, những người thân thuộc và quen biết thường im lặng và có ý ghê tởm; không hiểu tại sao nó cũng thấy ghê lợm như thế, và đã quen nghĩ rằng chỉ có những kẻ say rượu hay hạng người vong mạng lắm mới có được cái đặc quyền nói to những tiếng này lên. Nó nhớ lại con mòng bị đánh chết, lắng nghe tiếng cười của Đưmốp và cảm thấy gần như thù ghét con người này. Và như thể cố ý, đúng vào lúc ấy, Đưmốp trông thấy Iegoruska đang tụt xuống xe đi về phía giếng. Hắn vừa cười ông ổng vừa reo lên:

– Anh em ơi, lão già ấy đêm qua mới đẻ được thằng con trai kia kìa!

Kiriukha cười ông ổng một tràng, đến phát ho lên. Còn có một người nào khác cũng cười theo. Iegoruska đỏ mặt, và trong bụng khẳng định dứt khoát rằng Đưmốp là một tay đại ác.

Với mái tóc vàng sẫm quăn tít, đầu để trần, áo sơ mi phanh ngực, Đưmốp trông đẹp trai và khỏe mạnh phi thường, trong mỗi động tác của hắn đều có thể thấy rõ hắn là một tay lực sĩ tinh nghịch biết rõ giá trị của mình. Hắn xoay vai, chống hai tay lên cạnh sườn, nói và cười to hơn ai hết và trông như thể đang sắp sửa dùng một tay nâng bổng một vật gì rất nặng làm cho cả thiên hạ phải ngạc nhiên. Đôi mắt tinh nghịch giễu cợt của hắn nhìn lướt qua con đường cái, qua đoàn xe, không dừng lại ở một chỗ nào, và hình như đang tìm xem có con gì để mà giết cho đỡ buồn không, hay có cái gì để mà chế giễu không. Hình như hắn không sợ gì hết, và chắc hắn không hề quan tâm chút nào đến ý kiến của Iegoruska… Còn Iegoruska thì lúc bấy giờ đã ghét cay ghét đắng cái đầu vàng sẫm, cái mặt sạch sẽ và cái sức vóc lực lưỡng của Đưmốp. Nó ghê tởm và sợ hãi lắng nghe tiếng cười của Đưmốp và cố nghĩ ra một câu chửi gì thật đích đáng để trả đũa hắn.

Lão Pantelây cũng đến cạnh cái gàu. Lão rút ở trong túi ra một cái cốc con màu xanh lục vốn dùng để đựng dầu làm đèn thờ, lấy một miếng giẻ lau cho sạch rồi vục vào gàu múc nước uống, uống hết lại múc nữa, đoạn bọc cái cốc trong miếng giẻ và lại cho vào túi.

– Ông ơi, sao ông lại uống bằng cốc đèn thờ hả ông? – Iegoruska ngạc nhiên hỏi.

– Ô, cũng có người uống bằng gàu, cũng có người uống bằng cốc đèn, – ông già đáp miễn cưỡng cho qua chuyện. – Mỗi người một cách… Cậu uống bằng gàu thì cứ uống đi cho khỏe…

– Trời ơi, đẹp quá, con bé đẹp quá, – Vaxia bỗng nói nựng, giọng dịu dàng âu yếm, nghe gần như khóc. – Xinh quá đi mất.

Mắt Vaxia nhìn tận phía xa tít, nó sáng lên dìu dịu, nó tươi cười, và gương mặt hắn lại có cái vẻ như lúc nãy khi nhìn Iegoruska.

– Cậu nói với ai thế? – Kiriukha hỏi.

– Con cáo ấy… một con cáo… nằm ngửa ra đùa nghịch, y như con chó nhà…

Mọi người bắt đầu nhìn ra phía xa, cố tìm cho ra con cáo, nhưng chẳng ai trông thấy gì. Chỉ có Vaxia, với đôi mắt xám đùng đục của hắn ta, trông thấy cái cảnh thú vị kia và hân hoan một mình, như về sau Iegoruska sẽ có dịp thấy rõ, mắt của Vaxia tinh lạ lùng. Hắn tinh mắt đến nỗi cảnh thảo nguyên vắng vẻ một màu nâu đơn điệu kia đối với hắn bao giờ cũng tràn đầy sự sống, tràn đầy nội dung. Hắn chỉ cần phóng tầm mắt nhìn ra phía xa là thế nào cũng trông thấy một con cáo, một con thỏ, một con chim lớn sống ở thảo nguyên hay một con vật nào khác thường xa lánh bóng người. Trông thấy một con thỏ đang bỏ chạy hay một con chim lớn sống ở thảo nguyên đang bay đi thì chẳng có gì là khó, bất cứ ai đi qua thảo nguyên cũng đều có thể trông thấy được, – nhưng không phải ai cũng có dịp nhìn thấy những con thú hoang trong sinh hoạt hàng ngày của chúng, khi chúng không bỏ chạy, không lẩn trốn và không thảng thốt nhìn quanh. Thế mà Vaxia thì luôn luôn trông thấy những con cáo đang giỡn nô, những con thỏ đang rửa mặt bằng hai chân trước, những con chim lớn sống ở thảo nguyên đang dang rộng cánh. Nhờ có đôi mắt tinh như vậy, ngoài cái thế giới mà mọi người đều trông thấy, Vaxia còn có một thế giới khác, của riêng hắn, không ai có thể lọt vào được, và có lẽ là một thế giới rất tốt đẹp, vì những khi hắn ta ngắm nhìn và hân hoan lên như vậy thì người ta thật khó lòng mà không thấy ganh tị với hắn.

Khi đoàn xe lại chuyển bánh lên đường, nhà thờ đã gióng chuông gọi con chiên đến xem lễ.

 

V.

ĐOÀN XE ĐỖ LẠI cách thôn một quãng, bên một bờ sông. Nắng vẫn thiêu đốt như hôm qua, không khí cũng im lìm và uể oải. Trên bờ có mấy cây liễu, nhưng bóng cây không hắt xuống mặt đất mà lại ngả xuống dòng nước một cách phí hoài, còn trong bóng râm ở phía dưới mấy chiếc xe thì ngột ngạt mà chán lắm. Dòng nước sông, xanh biếc vì phản chiếu màu trời, có sức hấp dẫn mãnh liệt.

Có một anh đánh xe trẻ mà bây giờ Iegoruska mới để ý tới là Xtépka, một thanh niên người Ucraina mới mười tám tuổi, mặc áo sơ mi vạt dài, không thắt lưng, quần rộng ống không cho vào ủng nên khi đi nó cứ bay lất phất như hai lá cờ. Anh ta nhanh nhẹn cởi áo quần, chạy theo bờ sông dốc đứng và nhảy tùm xuống sông. Anh ta ngụp xuống nước ba lần, rồi ngoi lên nằm ngửa trên mặt nước và nhắm mắt lại, vẻ khoái chí. Gương mặt anh ta vừa tươi cười vừa nhăn nhó, như thể đang vừa buồn nhột, vừa đau lại vừa buồn cười.

Vào một ngày nóng nực, khi người ta không biết chui vào đâu cho đỡ nóng và đỡ ngạt, tiếng nước vỗ róc rách và tiếng thở phì phò của người đang tắm nghe dễ chịu như một điệu nhạc du dương. Đưmốp và Kiriukha nhìn Xtépka, nhanh nhẹn cởi áo quần; rồi cất tiếng cười hớn hở thưởng thức trước cái thú sắp tới, và lần lượt lao xuống nước. Thế là con sông yên tĩnh, bình lặng bỗng vang ầm tiếng thở phì phò, tiếng nước khua động và tiếng reo hò của họ. Kiriukha ho sặc sụa, cười và la hét inh ỏi như thể đang bị ai dìm nước, còn Đưmốp thì đuổi theo hắn và cố bắt lấy chân hắn.

– Hê hê hê! – Đưmốp quát. – Bắt lấy nó, giữ nó lại!

Kiriukha cười, ra chiều thích thú lắm, nhưng vẻ mặt của hắn vẫn như hồi nãy ở trên cạn: đờ đẫn, ngơ ngác, trông như thể có ai vừa lén tới sau lưng hắn và nện chày vồ lên đầu hắn. Iegoruska cũng cởi áo quần, nhưng không tụt xuống theo lối bờ sông, mà lại chạy lấy đà lao mình xuống nước từ một chỗ cao một xagien rưỡi. Nó lao mình thành một đường vòng cung trên không rồi đâm đầu xuống nước. Nó chìm xuống khá sâu nhưng vẫn không chạm đáy; một sức mạnh mát mẻ và êm ái dễ chịu trùm lấy nó và nâng nó trở lên mặt nước. Nó nhô lên, thở phì phì phun ra một đám bong bóng, rồi mở mắt; nhưng vừa sát mắt nó, ánh mặt trời loang loáng phản chiếu trên mặt nước. Ban đầu là những tia sáng chói lòa, rồi đến những chiếc cầu vồng ngũ sắc và những vệt tối diễn qua tròng mắt nó; nó vội vã ngụp xuống mở mắt ở dưới nước và trông thấy một cái gì xanh đùng đục, giống như bầu trời vào một đêm trăng. Cái sức mạnh ban nãy lại không để nó lặn xuống đến tận đáy cho mát một chút, cứ nâng nó lên, nó đành ngoi lên khỏi mặt nước và thở một hơi dài đến nỗi không những trong lồng ngực mà ngay cả trong bụng cũng thấy mát rợi. Rồi để tận hưởng tất cả những gì nước sông có thế đem lại cho nó, Iegoruska tự cho phép mình làm đủ trò sang trọng: nó nằm ngửa ra trên mặt nước và uể oải lắng nghe cái cảm giác đê mê đang thấm vào người, nó đẩy cho nước bắn tung lên trời, rồi lộn vòng, bơi sấp, bơi nghiêng, bơi ngửa, bơi đứng – cứ thế tha hồ mãi cho đến khi mệt lử ra mới thôi. Bờ sông bên kia lau mọc rất dày, óng ả dưới ánh nắng, và những bông lau xinh đẹp nghiêng mình, trên dòng nước trông như những ngòi bút lông. Bỗng ở một nơi thấy khóm lau rung động, hoa rạp xuống, kêu răng rắc – đó là Xtépka và Kiriukha đang đánh tôm.

– Tôm đây! Anh em trông này: con tôm! – Kiriukha hân hoan reo lên và đưa ra một con tôm thật.

Iegoruska bơi về phía khóm lau, lặn xuống và bắt đầu sờ soạng quanh các gốc lau. Lần mò trong lớp bùn loãng nhầy nhụa, nó chạm tay phải một cái gì sắc nhọn và ghê ghê, có lẽ là một con tôm thật, nhưng vừa lúc ấy có ai nắm lấy chân nó kéo lên trên. Ho sặc sụa vì hớp phải nước, Iegoruska mở mắt nhìn và trông thấy cái mặt ướt át đang cười nhăn nhó của Đưmốp tinh nghịch. Hắn thở phì phò rất mạnh, và cứ nhìn vào mắt hắn cũng có thể thấy rõ là hắn còn muốn bày trò nghịch ngợm nữa. Hắn nắm chân Iegoruska rõ chắc và đã giơ tay kia ra để nắm lấy cổ nó, nhưng Iegoruska sợ hãi như thể gặp phải một vật gì kinh tởm và như có ý lo rằng tên vũ phu này sẽ dìm nó chết mất, nó vùng vẫy cố gỡ ra và nói luôn một thôi:

– Đồ mất dạy! Tao đánh vỡ mõm ra bây giờ!

Cảm thấy nói như vậy chưa đủ diễn đạt nỗi căm ghét, nó lại nghĩ một lát và nói thêm:

– Đồ khốn nạn! Đồ chó đẻ!

Nhưng Đưmốp lúc bấy giờ đã lại thản nhiên như không, hình như không còn để ý gì đến Iegoruska nữa. Hắn bơi về phía Kiriukha kêu to lên:

– Ê-ê-ê này! Ta đánh cá đi! Anh em ơi, đánh cá nào!

– Chứ còn gì nữa? – Kiriukha tán đồng. – Ở đây chắc nhiều cá lắm…

– Xtépka, chạy vào làng mượn cái lưới đi!

– Họ chẳng cho mượn đâu.

– Cho đấy! Cậu nói khó một chút! Cậu cứ bảo là họ hãy vì Chúa mà cho chúng mình mượn, vì chúng mình cũng như kẻ hành hương.

– Đúng đấy!

Xtépka lên bờ, nhanh nhẹn mặc quần áo vào và đầu không đội mũ, hai ống quần rộng thùng thình tung lên phấp phới, hắn chạy vào làng.

Sau cuộc xung đột với Đưmốp, Iegoruska không còn thấy nước có gì là thú vị nữa. Nó lên bờ và bắt đầu mặc quần áo.

Lão Pantelây và Vaxia ngồi trên bờ sông dốc đứng, chân buông thõng xuống, nhìn mấy người đang tắm. Emelian trần truồng đứng ở sát bờ, nước lên đến đầu gối, một tay túm lấy bụi cỏ cho khỏi ngã, còn tay kia vuốt vuốt lên mình. Với hai cái xương bả vai nhô rõ ra, với cái mụn cóc ở dưới con mắt, người cúi lom khom và rõ ràng là có ý sợ nước, anh ta làm thành một hình ảnh khá buồn cười. Vẻ mặt anh ta nghiêm trang, khắc khổ. Anh ta nhìn dòng nước một cách cau có như thể sắp sửa chửi mắng nó về cái tội đã làm cho anh ta cảm lạnh ở sông Đônét, mất cả giọng hát.

– Sao chú không tắm hả chú? – Iegoruska hỏi Vaxia.

– Chẳng sao cả… Không thích… – Vaxia đáp.

– Sao cằm chú sưng lên thế?

– Nó bị đau… Trước tôi làm ở nhà máy diêm, cậu ạ… Ông bác sĩ có nói rằng chính vì làm ở đấy mà tôi bị sưng hàm lên thế này. Không khí ở đấy độc lắm. Ngoài tôi ra còn có ba cậu bị sưng hàm, một cậu hàm bị thối loét cả ra.

Một lát sau Xtépka mang lưới về. Đưmốp và Kiriukha ngâm nước quá lâu, người tím lại, giọng khản đặc, nhưng vẫn hào hứng xông vào đánh cá. Lúc đầu hai người đi theo chỗ nước sâu, dọc đám sậy, Đưmốp thì nước ngập ngang cổ, còn Kiriukha người thấp bé, thì nước lút đầu; hắn cứ sặc sụa, phun ra từng đám bong bóng trong khi Đưmốp vấp chân phải những cái rễ cây gai góc, chốc chốc lại ngã và vướng vào lưới. Cả hai gã đều vùng vẫy nhặng xị lên, rốt cục cái cuộc đánh cá của họ chung qui chỉ là một trò đùa nghịch.

– Sâu quá, – Kiriukha nói, giọng khản đặc. – Chẳng bắt được con nào đâu!

– Đừng có kéo, đồ quỷ! – Đưmốp quát, cố cầm cái lưới cho đúng chiều. – Phải cầm hai tay chứ!

– Đánh ở đấy thì chẳng được con nào đâu! – lão Pantelây đứng trên bờ quát mắng. – Chỉ tổ làm cho cá nó sợ, rõ ngốc. Đi sang bên trái ấy! Ở đấy cạn hơn!

Có một lần trên chiếc lưới thấy một con cá khá to nhảy hoảng lên; ai nấy đều ồ lên một tiếng. Đưmốp giáng quả đấm vào cái chỗ con cá vừa lặn xuống, gương mặt lộ vẻ bực bội.

– Chà! – lão Pantelây giẫm chân thốt lên. – Để sổng con cá rô rồi! Thế là mất!

Rẽ sang bên trái, Đưmốp và Kiriukha dần dần đi ra chỗ nông, và đến đây mới bắt đầu một cuộc đánh bắt thực sự. Họ kéo lưới đi chừng ba trăm bước, có thể thấy rõ họ im lặng nhích đi từng tí một, cố rê lưới thật sâu và thật gần đám sậy, vừa kéo vừa đập nắm tay xuống nước và xua vào lau sột soạt để cho cá sợ mà chạy vào lưới. Từ khóm sậy họ chuyển sang bờ bên kia kéo lưới, rồi có vẻ thất vọng quay trở lại đám sậy, cứ mỗi bước lại nhảy cao đầu gối lên. Họ vừa đi vừa nói với nhau những gì không nghe rõ. Nắng dọi vào lưng họ, ruồi nhặng bâu vào cắn họ, và mình mẩy họ đang màu tím chuyển sang màu đỏ thắm. Xtépka cầm cái gàu đi theo sau lưng họ, áo sơ mi vén lên tận nách, miệng cắn vạt áo cho khỏi tuột xuống. Cứ được mẻ gì là họ giơ cao con cá vừa bắt được, lúc lắc cho nó ánh lên dưới nắng, reo to:

– Xem con cá rô to không này! Đã bắt được năm con như thế rồi đấy!

Có thể thấy rõ Đưmốp, Kiriukha và Xtépka cứ sau mỗi mẻ lưới lại bới bới hồi lâu trong bùn, bỏ cái gì vào xô, vứt ra ngoài những vật gì đấy; thỉnh thoảng họ lại lấy cái gì ở trong lưới ra chuyền tay nhau xem xem ngắm ngắm có vẻ tò mò, rồi cũng vứt đi nốt…

– Cái gì đấy hả! – Ở trên bờ quát to lên hỏi họ.

Xtépka trả lời một câu gì đấy, nhưng khó mà nghe hắn nói gì. Thế rồi hắn leo lên bờ, bưng cái xô bằng cả hai tay, quên buông vạt áo xuống. Hắn chạy tới chỗ đoàn xe.

– Đầy rồi, – hắn vừa nói vừa thở hổn hển. – Cho cái nữa đây!

Iegoruska nhìn vào cái xô. Nó đã đầy ắp. Từ dưới nước ngoi lên cái mõm xấu xí của một con cá măng còn non, xung quanh lúc nhúc những con tôm và những con cá nhép. Iegoruska vục tay xuống tận đáy xô và khuấy nước lên; con cá măng lẩn xuống dưới đám tôm tép. Thế chân cho nó trên miệng xô là một con cá rô vược và một con cá hanh. Vaxia cũng nhòm vào xô. Mắt anh ta long lên, và gương mặt anh ta lại có cái vẻ âu yếm dịu dàng như khi trông thấy con cáo đang rỡn nô. Anh ta lấy trong xô ra một vật gì, bỏ vào mồm nhai rau ráu.

– Anh em ơi, – Xtépka ngạc nhiên kêu lên, – Vaxia nó ăn cá bống sống! Eo ôi kinh quá!

– Không phải là cá bống mà là cá lèn, – Vaxia bình thản trả lời và cứ nhai tiếp.

Hắn rút trong miệng ra một cái đuôi cá nhỏ, âu yếm ngắm nó rồi lại bỏ vào mồm. Trong khi hắn nhai cá rau ráu, Iegoruska có cảm giác hắn không phải là người nữa. Cái cằm sưng vù của Vaxia, đôi mắt đùng đục, cái nhìn tinh tường lạ lùng của hắn, cái đuôi cá, và cái vẻ âu yếm của hắn trong khi nhai con cá sống khiến cho hắn giống như một con vật.

Iegoruska đứng bên Vaxia đã thấy chán. Vả lại cuộc đánh cá cũng đã kết thúc. Nó đi dọc theo đoàn xe, bâng khuâng nghĩ ngợi, rồi chẳng biết làm gì cho đỡ chán, nó rẽ về phía làng.

Một lát sau nó đã đứng trong nhà thờ, và trán tì vào lưng một người nào đấy sực nức mùi gai dầu, nó lắng nghe tiếng hát trên chỗ ban hát vẳng xuống. Buổi lễ đã gần kết thúc. Iegoruska vốn không biết nghe hát lễ. Nó dửng dưng nghe một lát, ngáp dài rồi bắt đầu đưa mắt ngắm gáy và lưng những người xem lễ. Có một cái gáy màu hung đỏ, hãy còn ướt vì mới tắm xong. Nó nhận ra đó là gáy của Emelian. Cái gáy húi thành vòng cung và húi hơi cao quá; hai bên thái dương cũng húi quá cao, thành thử hai cái tai đỏ ối của Emelien cứ vểnh ra như hai cái lá ngưu bàng và hình như cảm thấy mình mọc không đúng chỗ. Nhìn cái gáy và hai cái tai ấy, không hiểu tại sao Iegoruska cứ nghĩ rằng chắc hẳn Emelian rất khổ sở. Nó nhớ lại những động tác đánh nhịp của Emelian, cái giọng khản đặc của anh ta, cái vẻ e dè của anh ta khi tắm, và cảm thấy thương hại anh ta. Nó muốn nói một câu gì thật ôn tồn thân ái với anh:

– Tôi đứng đây này! – nó kéo ống tay áo Emelian nói.

Những người hát giọng nam cao hay giọng trầm trong dàn hợp xướng, nhất là những người đã từng chỉ huy hợp xướng dù cả đời chỉ được một lần, thường có thói quen nhìn trẻ con một cách nghiêm khắc và thiếu thân thiện. Sau khi bỏ nghề hát họ cũng vẫn giữ cái thói quen này. Ngoảnh về phía Iegoruska, Emelian gườm gườm nhìn cậu bé nói:

– Trong nhà thờ không được quấy!

Một lát sau, Iegoruska mon men nhích gần đến chỗ đặt các tượng thánh. Ở đây nó được trông thấy những con người rất lạ mắt. Đứng ở hàng đầu, trên tấm thảm ở bên phải có hai ông bà quý phái. Sau lưng họ có hai chiếc ghế tựa để sẵn cho họ ngồi. Người đàn ông mặc một bộ quần áo đũi mới là, đứng im phăng phắc như một quân nhân đang bồng chào, cái cằm cạo xanh biếc vểnh cao lên. Trong cái cổ cồn dựng đứng, trong cái cằm xanh biếc, trong cái đầu hơi hói và trong chiếc can ông ta cầm, người ta cảm thấy có rất nhiều khí thế uy nghi. Vì quá uy nghi như vậy cho nên cái cổ ông ta rướn thẳng, cái cằm ông ta vểnh lên một cách mãnh liệt đến nỗi người ta có cảm giác như đầu ông ta chỉ chực hễ có dịp là sẽ rứt ra khỏi người và bay vút lên. Còn người đàn bà quý phái thì béo tốt và đã có tuổi, vai khoác chiếc khăn san bằng lụa trắng, đầu nghiêng sang một bên, trông như thể vừa mới giúp ai việc gì và đang muốn nói: “Ồ, có gì đâu mà phải cảm ơn cho phiền. Tôi không thích thế đâu…” Xung quanh tấm thảm, đám người Ucraina đứng chen nhau thành một bức thành dày đặc.

Iegoruska mon men lại gần chỗ đặt các tranh tượng và bắt đầu hôn các tượng thánh địa phương. Trước mỗi bức tượng nó đều thong thả cúi lạy sát đất, nhân thể liếc nhìn những người đứng ở phía sau, rồi mới đứng dậy hôn. Cho trán chạm xuống sàn nhà thờ mát lạnh, nó thấy thích lắm. Khi từ sau bàn thờ ông khán tay cầm cái kẹp dài bước ra để tắt nến, Iegoruska nhanh nhẹn đứng phắt dậy và chạy đến cạnh ông hỏi:

– Đã phát bánh thánh chưa thế bác?

– Chưa, chưa… – ông khán làu bàu. – Mày còn ở đây làm gì…

Buổi lễ đã xong. Iegoruska thong thả ra khỏi nhà thờ và đi lang thang lên quảng trường. Từ bé nó đã được trông thấy không ít những làng mạc, quảng trường và nông dân cho nên những cảnh giờ đây bày ra trước mắt nó, không hề làm cho nó thấy thú vị chút nào. Chẳng biết làm gì cho qua thì giờ, nó ghé vào một cửa hiệu trên cửa có treo một tấm biển rộng màu đỏ tươi. Cái cửa hiệu chia ra làm hai gian rộng và tối; một gian bán vải và hàng tạp hóa, còn gian kia thì bày những cái thùng tròn đựng hắc ín, trên trần treo những cái vòng cổ ngựa; từ gian này bốc lên mùi da và mùi hắc ín dễ chịu. Sàn cửa hiệu vừa được té nước; người té nước chắc phải là một tay tài tử khá ngông nghênh, vì nước được té thành những hoa văn ngoằn ngoèo và những dấu hiệu bí ẩn trông như bùa chú. Sau cái quầy hàng có một ông chủ hiệu béo tốt tỳ bụng vào quầy, khuôn mặt rộng, râu quai nón tỉa thành vòng cung, hình như là người Nga. Ông ta đang uống trà có nhấp đường, cứ uống một ngụm lại thở ra một hơi rõ dài. Mặt ông ta tỏ vẻ bình thản hoàn toàn, nhưng trong mỗi tiếng thở dài đều có thể nghe rõ cái ý: “Liệu hồn rồi sẽ biết tay ta!”

– Cho tôi một kôpếch hạt hướng dương! – Iegoruska nói với ông chủ.

Ông chủ nhướng đôi lông mày lên, rồi quay đi ra phía ngoài và trút vào túi Iegoruska một kôpếch hạt hướng dương đong bằng cái bình đựng sáp bôi môi cũ. Iegoruska chưa muốn đi. Nó ngắm nghía hồi lâu những chiếc thùng đựng bánh nướng, ngẫm nghĩ một lát rồi chỉ mấy chiếc bánh nướng được làm ở thị trấn Viadma nhỏ, để lâu năm đã mốc cả ra:

– Bánh này bán bao nhiêu?

– Một kôpếch một đôi.

Iegoruska thò tay vào túi lấy ra cái bánh nướng của mụ Do Thái cho tối hôm qua, hỏi:

– Thế loại bánh như thế này thì ông bán bao nhiêu?

Ông chủ hiệu cầm lấy chiếc bánh, ngắm đủ bốn phía rồi giương cao một bên lông mày trái lên.

– Bánh này, – ông chủ hỏi lại.

Sau đó ông chủ nhướng cao bên lông mày phải lên, suy nghĩ và đáp lại:

– Ba kôpếch một đôi…

Hai bên im lặng một lát.

– Cậu là con nhà ai? – ông chủ hiệu vừa hỏi vừa rót trà trong cái bình bằng đồng đỏ ra chén để uống tiếp.

– Tôi là cháu ông Ivan Ivanứts.

– Ivan Ivanứts cũng có dăm bảy loại khác nhau, – ông chủ hiệu thở dài, ông ta nhìn ra cửa qua đầu Iegoruska, im lặng một lát rồi hỏi – Cậu có uống trà không?

– Có lẽ có… – Iegoruska ưng thuận một cách hơi miễn cưỡng, tuy đang thèm chén trà buổi sớm.

Ông chủ hiệu rót cho nó một cốc và đưa thêm cho nó một miếng đường đã gặm dở. Iegoruska ngồi lên chiếc ghế xếp và bắt đầu uống. Nó còn muốn hỏi xem một lạng hạnh nhân ngào đường bán bao nhiêu, nhưng nó mới ướm hỏi thì có khách đến mua hàng, ông chủ hiệu đặt chén trà sang một bên ra tiếp. Ông ta đưa người khách vào gian có mùi hắc ín và bàn bạc với khách một hồi lâu, không biết chuyện gì. Ông khách này chắc là người rất ương ngạnh và tự thị, cứ lắc đầu quầy quậy tỏ ý bất đồng và chỉ chực quay gót bỏ đi. Ông chủ khuyên nhủ người khách và bắt đầu đổ kiều mạch vào bao to.

– Kiều mạch mà thế này à? – ông khách nói tiếng Ucraina, giọng buồn rười rượi. – Không phải kiều mạch, mà là kiều mạch cặn, gà nó cũng thèm vào… Thôi, đành đến hiệu Bonđalenkô vậy!

Khi Iegoruska trở ra sông, trên bờ đã có một bếp lửa bốc khói nghi ngút. Ấy là mấy người đi áp tải đoàn xe đang nấu bữa trưa. Xtépka đang đứng giữa đám khói cầm cái muôi mẻ khuấy khuấy trong cái nồi. Cách đấy một quãng Kiriukha và Vaxia, mắt đỏ hoe vì cay khói, đang ngồi làm cá. Trước mặt hai người là một cái lưới dính đầy những rong và bùn, bên trên lấp lánh một mớ cá, có cả những con tôm đang bò.

Emelian mới ở nhà thờ về ngồi cạnh lão Pantelây, khua tay đánh nhịp khẽ cất cái giọng khản đặc hát “Chúng con ca ngợi Chúa…” Đưmốp đi vẩn vơ bên mấy con ngựa.

Làm cá xong, Kiriukha và Vaxia hốt cá và tôm sống cho vào cái xô, tráng qua tráng lại rồi đổ cả xô vào nồi nước đang sôi.

– Cho mỡ vào nhé? – Xtépka vừa hỏi vừa lấy cái muôi vớt bọt ra.

– Cho mỡ làm gì? Nước cá cũng đã béo chán, – Kiriukha đáp.

Trước khi bắc xuống, Xtépka bỏ vào nồi ba nắm kê và một thìa muối; để kết thúc, hắn nếm thử, chép chép cái miệng, liếm cái thìa, đằng hắng một tiếng tỏ ý tự mãn – như thế có nghĩa là cháo đã nấu xong.

Mọi người, trừ lão Pantelây ra, đều ngồi quây quanh cái nồi và bắt đầu múc lấy múc để.

– Này, đưa cho cậu bé cái thìa chứ! – lão Pantelây nói, giọng nghiêm khắc. – Chắc cậu ấy cũng muốn ăn đấy.

– Món của chúng tôi là cái món nhà quê ấy mà… – Kiriukha thở dài.

– Nhà quê thì nhà quê, ăn cũng khỏe người đấy, miễn là muốn ăn.

Họ đưa cho Iegoruska cái thìa. Nó bắt đầu ăn, nhưng không ngồi xuống, mà đứng ngay cạnh cái nồi, vừa ăn vừa nhìn xuống nồi như nhìn xuống hồ. Cháo bốc lên một mùi tanh khá đậm, lác đác trong kê có những cái vẩy cá; tôm mà múc bằng thìa thì nó cứ trượt đi, thành thử cử tọa cứ thọc hẳn tay vào nồi mà lấy; về việc này Vaxia đặc biệt tự tiện, hắn không chút ngần ngại, nhúng cả bàn tay vào cháo đã đành, nhưng lại còn nhúng cả ống tay áo vào nữa. Tuy vậy Iegoruska cũng thấy cháo rất ngon. Nó nhớ đến món súp tôm mà ở nhà mẹ nó vẫn thường nấu vào những ngày ăn chay. Lão Pantelây ngồi riêng ra một bên nhai bánh mì.

(Chuyện một chuyến đi)

 

 

I.

VÀO BUỔI SÁNG SỚM một ngày tháng Bảy, có một chiếc xe ngựa không có dịp đã cũ nát rời thị trấn N. thuộc tỉnh Z. và lăn bánh ầm ầm trên con đường thiên lý. Đó là một trong những chiếc xe ngựa cổ lỗ mà ở Nga ngày nay chỉ những anh quản gia, những người lái buôn gia súc và những ông linh mục nghèo mới còn phải đi. Nó cứ kêu lọc xọc trên đường, và hễ trùng triềng một chút là cứ rít lên ken két. Một cái xô buộc sau thùng xe cất tiếng lạch cạch chán chường đệm theo. Chỉ cần nghe những âm thanh ấy và trông những mảnh da thuộc rách nát thảm hại lủng lẳng trên cái thân hình tiều tụy của nó cũng đủ thấy nó cũ quá đi rồi, chỉ còn chờ lúc được đem tấp vào đống đồ nát.

Ngồi trên xe có hai người vốn cư trú ở thị trấn N.: một thương nhân tên là Ivan Ivanứts Kudmitsốp, râu cạo nhẵn, đeo kính trắng, đầu đội mũ rơm, trông giống một ông công chức hơn là một người lái buôn; người kia là cha Khrixtophor Xirixki, cha xứ nhà thờ Nikôlai ở N., một cụ già nhỏ bé, tóc dài, mặc áo dài bằng vải bố màu xám, đội mũ lễ bánh thuẫn rộng vành, lưng thắt một dải nịt thêu màu. Người thứ nhất đang đăm chiêu suy nghĩ điều gì, chốc chốc lại lắc mạnh đầu mấy cái để xóa tan cơn buồn ngủ. Trên gương mặt ông ta, cái vẻ khô khan thường có của những người làm ăn chí thú xung khắc với cái vẻ hồn hậu của một người vừa chia tay gia quyến thân thuộc sau một bữa chén thỏa thuê; còn người thứ hai thì đưa đôi mắt nhỏ, ươn ướt bỡ ngỡ nhìn ra cảnh đất trời bao la của Chúa và nhoẻn rộng miệng ra cười, rộng đến nỗi có thể tưởng nụ cười ấy bao quát cả cái vành mũ. Mặt ông đỏ bừng, trông như bị lạnh. Cả hai người – Kudmitsốp cũng như cha Khrixtophor – đều đang đi bán lông cừu. Khi từ biệt người nhà, họ đã ăn no bánh mềm với kem sữa tươi, và tuy hãy còn sớm tinh mơ, họ đã uống khá nhiều rượu… Tinh thần cả hai người đều đang rất sảng khoái.

Ngoài hai người vừa được mô tả trên đây và anh xà ích Đenixka đang luôn tay quất roi lên lưng cặp ngựa hồng linh lợi, trên xe còn có một hành khách nữa là thằng bé lên chín, khuôn mặt nâu sạm đi vì rám nắng và ướt đẫm vì nước mắt. Đó là Iegoruska, cháu gọi ông Kudmitsốp bằng cậu. Được ông cậu cho phép và được cha Khrixtophor ban phép lành, nó đang ở trên đường đến trường trung học. Mẹ nó là bà Onga Ivanốpna, quả phụ của một ông thư ký hội đồng xã và là chị ruột ông Kudmitsốp. Bà vốn quý trọng những người có học thức và giới thượng lưu quý phái, đã khẩn khoản ông em nhân đi bán lông cừu hãy đem cháu đi một thể và gửi nó vào trường trung học. Thế là giờ đây thằng bé, chẳng hiểu mình đi đâu và để làm gì, phải ngồi trên ghế xà ích bên cạnh Đenixka, bám vào khuỷu tay anh ta cho khỏi ngã bật ra ngoài, người cứ rung lên như chiếc ấm trà đặt trên lò sưởi. Xe chạy nhanh làm cho chiếc áo sơ mi đỏ của nó căng phồng ra sau lưng như quả bóng và cái mũ mới kiểu xà ích cắm chiếc lông công chốc chốc lại tuột ra sau gáy. Nó cảm thấy mình là người tối bất hạnh, và chỉ muốn khóc òa lên.

Khi xe chạy qua nhà lao, Iegoruska nhìn mấy người lính canh đang thong thả đi lại dọc bức tường trắng, nhìn những khung cửa sổ hẹp có chấn song sắt, nhìn cây thánh giá lấp loáng trên mái, và nhớ lại rằng một tuần trước đây, nhân ngày lễ Đức mẹ Kadan, nó đã theo mẹ đến giáo đường của nhà lao để xem buổi lễ Ngôi. Với lại trước nữa, vào ngày lễ Phục Sinh, nó cũng đã đến nhà lao với chị bếp Luđmila và anh xà ích Đenixka, mang theo bánh mì, đường, trứng, chả rán và thịt bò rán; các phạm nhân đều cám ơn và làm dấu thánh, một người trong bọn họ có biếu Iegoruska mấy chiếc khuy cài tay bằng thiếc tự làm lấy.

Thằng bé náo nức nhìn lại những nơi quen thuộc trong khi chiếc xe đáng ghét chạy đi, bỏ mọi thứ lại ở sau lưng. Kế theo nhà lao là mấy cái lò rèn ám khói đen kịt loang loáng lướt về phía sau, rồi đến khu nghĩa địa xanh rờn, ấm cúng, có một bức tường xây bằng đá cuội lớn bao bọc xung quanh. Nấp trong đám lá anh đào xanh tốt, những cây thập tự và những tấm bia trắng muốt từ sau bức tường nghĩa địa vui vẻ dòm ra, trông xa như những cái vệt trắng. Iegoruska nhớ lại rằng vào tiết hoa anh đào nở, những cái vệt này hòa với màu hoa anh đào thành một biển trắng xóa, rồi đến mùa quả anh đào chín, bia và cây thập tự trong nghĩa địa đều điểm lấm tấm những chấm đỏ thắm như máu. Sau bức tường kia, bố Iegoruska và bà nội Đanilốpna của nó đêm ngày yên nghỉ.

Hồi bà nội chết, người ta bỏ bà vào một cái quan tài dài và hẹp, lấy hai đồng năm kôpếch đặt lên đôi mắt mãi không chịu nhắm lại. Trước khi chết, bà nội vẫn sống như mọi người, và đi chợ bà thường mua về cho nó những chiếc bánh mì vòng rắc hạt anh túc. Còn bây giờ thì bà đã ngủ yên, ngủ mãi mãi…

Sau nghĩa địa lại đến những lò nung gạch bốc khói. Khói đen dày đặc từ những tấm mái sậy dài và thấp lè tè cuộn lên từng đám lớn, uể oải bốc lên cao. Phía trên mấy cái lò gạch và khu nghĩa địa là một khoảng trời u ám, và những cái bóng rợp lớn do đám khói hắt xuống trườn trên cánh đồng, bò qua con đường cái. Trong đám khói tỏa quanh mái nhà vật vờ những bóng người và những con ngựa, mình phủ một lớp bụi đỏ…

Đi quá mấy cái lò nung gạch là hết địa phận của thị trấn, bắt đầu ra đồng ruộng. Iegoruska ngoái lại nhìn thị trấn lần cuối cùng, úp mặt vào khuỷu tay Đenixka và khóc nức nở…

– Kìa, khóc chưa đã hay sao, cái thằng nhè này! – Kudmitsốp nói. – Lại phun nhớt phun dãi ra rồi, hư thật. Không muốn đi thì ở lại. Có ai bắt mày đi đâu!

– Không sao đâu, anh bạn Iegoruska ạ, – cha Khrixtophor nói lắp bắp. – Không sao đâu anh bạn ạ… Cầu Chúa cứu giúp đi… Con đi là đi việc tốt lành chứ có phải đi đày đi ải gì mà khóc. Người ta đã nói học vấn là ánh sáng, thất học là bóng tối mà… Đúng như thế đấy.

– Cháu có muốn quay về không? – Kudmitsốp hỏi.

– Mu… muốn… – Iegoruska vừa nấc vừa đáp.

– Mà về cũng phải. Đằng nào thì đi cũng chẳng được cái gì, lại chỉ công cốc thôi.

– Không sao đâu mà, không sao đâu… – cha Khrixtophor nói tiếp. – Con cầu nguyện Chúa đi… Kìa như Lômônôxốp cũng phải đi đánh cá với bạn chài mãi(1) thế mà sau đã thành người nổi tiếng khắp châu Âu đấy. Trí tuệ mà đi với đức tin thì sẽ đem lại những kết quả đẹp lòng Chúa. Trong bài kinh nói thế nào nhỉ? Rạng danh cho đức Chúa, vui lòng cho mẹ cha, lợi cho giáo hội và Tổ quốc… Thế kia mà!

– Lợi cũng có dăm bảy đằng… – Kudmitsốp vừa nói vừa châm một điếu xì gà rẻ tiền. – Có người ăn học suốt hai mươi năm mà cũng chẳng làm nên tích sự gì.

– Cũng có khi thế thật.

– Người thì học vào có lợi, kẻ thì học vào chỉ đâm rối óc. Bà chị tôi là người ít hiểu biết, cái gì cũng thích làm như quý tộc, bà ta muốn cho thằng Iegoruska có học vấn, chứ không hiểu rằng với công việc làm ăn của tôi, tôi có thể làm cho Iegoruska sung sướng cả đời. Hơn nữa cũng xin thưa để ông rõ rằng nếu mọi người đều thành học giả hoặc lại là ông lớn cả thì lấy ai mà buôn bán và đi cày nữa. Rồi đến chết đói hết.

– Nhưng nếu ai cũng đi buôn và đi cày cả, thì còn ai thông hiểu học vấn nữa?

Cả hai người đều nghĩ rằng mình vừa nói ra một điều gì có trọng lượng và có sức thuyết phục lắm, làu bàu ra vẻ nghiêm trang và cùng đằng hắng một tiếng rõ đều. Đenixka lắng nghe hai người nói chuyện nhưng chẳng hiểu gì sốt, bèn lắc mạnh đầu một cái, nhỏm người dậy quất roi lên cả hai con ngựa hồng. Trên xe im lặng một lát.

Trong khi đó trước mặt mấy người đi đường đã trải ra một cánh bình nguyên rộng mênh mông có một dãy đồi vắt ngang chen chúc nhau, nhấp nhỏm dòm qua vai nhau, mấy ngọn đồi này dần dần nhập lại thành một hàng chạy dài từ vệ đường bên phải cho đến tận chân trời rồi mất hút trong khoảng không màu tím nhạt; xe cứ đi mãi mà vẫn không trông rõ được dãy đồi bắt đầu ở chỗ nào và chấm dứt ở chỗ nào… Mặt trời đã ló lên từ phía sau thị trấn và từ tốn, ung dung bắt tay vào việc. Lúc đầu, xa tắp phía trước mặt, nơi đất lẫn với trời, bên cạnh mấy cái gò và chòi xay gió trông xa như một thằng người nho nhỏ đang vung tay, có một dải nắng rộng màu vàng rực trườn đi trên mặt đất; một phút sau chính cái dải ấy ánh lên gần hơn, trườn sang bên phải và trùm lên dãy đồi; một cái gì âm ấm chạm vào lưng Iegoruska, và một vệt sáng từ phía sau len lên, chồm qua chiếc xe ngựa và cặp ngựa, lao tới gặp các dải sáng khác, và đột nhiên cả cánh thảo nguyên rộng mênh mông cởi bỏ tấm chăn tối mờ mờ của buổi sáng sớm, mỉm cười và bắt đầu phô ra muôn vàn giọt sương sớm long lanh.

Những cánh đồng tiểu mạch đã gặt xong, những đám cỏ dại, những bụi gai, những khóm đay dại – tất cả đều đã sém đi vì nắng, ngả sang màu hung nâu nâu và như chết dở, nhưng giờ đây, được làn sương mai tắm gội và được ánh nắng vuốt ve, đã lại hồi sinh để nở hoa trở lại. Trên mặt đường, những con chim “ông lão” cất tiếng hót tươi vui bay qua vun vút; trong đám cỏ, mấy con chuột nhảy gọi nhau, và xa xa đâu về phía bên trái, có tiếng nức nở của mấy con chim dẽ mào. Một đàn chim cun cút hoảng sợ trước chiếc xe ngựa cất cánh bay vụt lên và trong tiếng vỗ cánh rào rạo mềm mại rủ nhau bay về phía dãy đồi. Trong đám cỏ, châu chấu, cào cào, dế mèn, xén tóc thi nhau kéo dài điệu nhạc rả rích đơn điệu của chúng.

Nhưng chỉ một lát sau sương mai đã bốc hơi hết, không khí ngưng đọng lại, và cánh thảo nguyên bị mắc lừa lại trở lại với cái vẻ chán chường của tháng Bảy. Cỏ rũ xuống, sự sống lại lịm đi. Những dãy đồi rám nắng, gần thì màu hung pha lẫn màu xanh, xa thì màu tím, với những sắc độ điềm đạm như bóng tối, dải đồng bằng mờ dần ở phía xa, và bầu trời úp lên trên cánh thảo nguyên không có rừng và núi cao trông sâu thẳm và trong suốt đến phát sợ lên; tất cả bây giờ đều có vẻ vô cùng vô tận và lặng điếng đi nhớ nhung…

Sao mà ngột ngạt và buồn tẻ quá! Chiếc xe chạy mãi, và Iegoruska nhìn mãi cũng vẫn chỉ thấy có thế – bầu trời, dải đồng bằng, mấy dãy đồi… Điệu nhạc trong cỏ đã ngừng bặt. Chim “ông lão” đã bay đi, chim cun cút chẳng còn thấy đâu nữa. Trên lớp cỏ héo, mấy con quạ chẳng biết làm gì cho qua ngày cứ lượn qua lượn lại, con nào cũng giống hệt con nào, làm cho thảo nguyên càng đơn điệu hơn nữa.

Một con diều hâu bay là là sát mặt đất, cánh vỗ khoan thai, rồi bỗng nhiên dừng lại giữa khoảng không, như thể ngẫm nghĩ về sự tẻ nhạt của cuộc sống, rồi lại vỗ cánh lao như mũi tên trên thảo nguyên, và không sao hiểu được nó bay như thế để làm gì, nó cần cái gì. Xa xa, chiếc chòi xay gió vẫn vùng vẫy mấy cánh quạt…

Để cho quang cảnh đỡ đơn điệu, thỉnh thoảng trong đám cỏ dại lại thấp thoáng một cái sọ trắng hay một hòn đá; trong chốc lát thấy nhô lên một tảng đá lớn hình đàn bà hay một cây liễu trắng khô có một con chim sả màu xanh đậu ở cành cao nhất, một con chuột nhảy vụt qua đường, rồi đâu đấy lại như cũ: vẫn những đám cỏ dại, những dãy đồi, những con quạ…

Nhưng may thay từ phía trước đi lại một chiếc xe chở mấy bó lúa, có một cô con gái nằm vắt vẻo ở trên cùng. Buồn ngủ, mệt mỏi vì nóng nực, cô ta ngẩng đầu lên nhìn mấy người ngồi trên chiếc xe đi ngược lại. Đenixka ngẩn người ra nhìn cô gái, hai con ngựa ô vươn mõm về phía mấy bó lúa, chiếc xe rít lên, hôn chiếc xe thồ một cái, và những bông lúa sắc nhọn như cái chòi quệt lên cái mũ rộng vành của cha Khrixtophor.

– Đi đâm bừa vào người ta thế này, hả cô béo? – Đenixka quát. – Mặt thì phì bự ra như ong đốt thế kia kìa!

Cô gái uể oải mỉm cười, mấp máy đôi môi, rồi lại nằm xuống… A, kia, trên một ngọn đồi hiện ra một cây dương cô độc; ai trồng nó lên và nó đứng đấy để làm gì – có trời biết. Dáng cây cao dong dỏng, lá cây như một bộ trang phục xanh tươi, khó lòng rời mắt ra được. Đẹp như vậy, cây có sung sướng không? Mùa hè thì nắng như thiêu như đốt, mùa đông thì băng giá và bão tuyết, mùa thu thì những đêm dài hãi hùng, xung quanh chỉ thấy bóng tối dày đặc, chỉ nghe tiếng gió rú man dại, giận dữ, nhưng cái chính là một đời cô độc một mình… Sau cây dương là những dải lúa mì từ đỉnh đồi chạy dài xuống sát đường cái làm thành một tấm thảm vàng rực. Trên đồi lúa đã gặt hết và vun lại thành từng đống, còn ở phía dưới thì còn đang gặt dở… Sáu người thợ gặt đứng thành hàng ngang khoa đều mấy cái hái, và mấy cái hái cũng vui vẻ ánh lên đồng thanh kêu: “Sít! sít!” rất đều nhịp. Trông động tác của mấy người đàn bà đang bó lúa, trông vẻ mặt mấy người thợ gặt trong ánh loang loáng ở cây lưỡi hái, đều thấy rõ là nắng đang thiêu đốt họ và làm cho họ ngột ngạt. Một con chó đen, lưỡi thè lè, từ đám thợ gặt chạy về phía chiếc xe ngựa, chắc là định sủa, nhưng nửa đường bỗng đứng lại và thờ ơ nhìn Đenixka đang giơ roi lên dọa nó: sủa chỉ tổ nóng thêm! Một người đàn bà đứng dậy, hai tay ôm lấy cái lưng mỏi dừ, đưa mắt nhìn theo chiếc áo sơ mi đỏ của Iegoruska.

Không biết vì màu đỏ này vui mắt bà ta, hay vì bà ta nhớ đến mấy đứa con ở nhà, chỉ thấy bà ta đứng nhìn theo hồi lâu, không nhúc nhích…

Nhưng thửa lúa mì cũng đã lùi về phía sau. Hai bên lại rặt một dải đồng bằng cháy sém, lại những quả đồi rám nắng, lại bầu trời oi ả, lại con diều hâu bay là là trên mặt đất. Xa xa, cái chòi xay gió vẫn vung vẩy mấy cánh quạt như trước, và trông nó vẫn giống như một thằng người tí hon đang vung tay. Nhìn cái cối xay mà phát chán ra, hình như không bao giờ có thể đến tận chỗ nó, nó cứ lùi ra mãi, trốn chiếc xe ngựa.

Cha Khrixtophor và ông Kudmitsốp lặng thinh. Đenixka vẫn quất roi lên hai con ngựa và thỉnh thoảng cất tiếng quát giục. Còn Iegoruska thì không khóc nữa, chỉ thờ ơ nhìn sang hai bên đường. Khí trời nóng nực và nỗi buồn bao trùm lên thảo nguyên đã làm cho nó mỏi mệt. Nó có cảm giác đã đi như thế này từ lâu lắm, và nắng cũng đã xỉa xói vào lưng nó từ lâu. Xe đi chưa được mười vécxta mà nó đã nghĩ thầm: “Đã đến lúc nghỉ rồi!” Trên gương mặt ông cậu, vẻ hồn hậu đã dần dần mất đi, chỉ còn lại cái vẻ khô khan của người làm ăn chí thú, và trên khuôn mặt gầy gò, râu cạo nhẵn như thế, nhất là lại đeo kính và mũi và thái dương lại phủ đầy bụi, thì cái vẻ khô khan ấy lại mang thêm sắc thái khắc nghiệt tàn nhẫn. Còn cha Khrixtophor thì vẫn ngạc nhiên ngắm nhìn cảnh đất trời xung quanh và vẫn mỉm cười. Cha đang im lặng nghĩ đến một điều gì tốt lành, vui vẻ lắm, và nụ cười hiền hậu, chất phác đã ngưng đọng trên gương mặt của cha. Hình như cái ý nghĩ tốt lành, vui vẻ ấy cũng ngưng đọng lại trong óc cha vì khí trời nóng nực.

– Thế nào đây Đenixka, liệu hôm nay có đuổi kịp mấy cái xe chở hàng không? – ông Kudmitsốp hỏi.

Đenixka ngước mắt nhìn lên trời một cái, nhổm người quất ngựa rồi mới đáp:

– Nếu thuận trời thì đến đêm là đuổi kịp…

Có tiếng chó sủa. Một đàn sáu con chó khổng lồ, giống chó chăn cừu ở thảo nguyên, bỗng xồ ra như đã phục kích đấy từ trước, sủa rú lên dữ dội và nhất tề lao cả vào chiếc xe. Cả đàn chó hết sức hung hãn, mõm xù lông trông như mình nhện, mắt đỏ ngầu lên vì giận dữ, vây quanh chiếc xe, xô đẩy nhau như ganh ăn và cất tiếng rú khàn khàn. Chúng căm lắm thì phải, và hình như sẵn sàng xé tan ra từng mảnh cả xe lẫn người… Đenixka vốn thích chòng ghẹo và quất roi, nên rất mừng trước cái dịp may này. Anh làm ra một vẻ mặt hả hê đanh ác, cúi xuống quất roi vào một con chó chăn cừu trong đàn. Đàn chó càng rú lên dữ dội hơn, hai con ngựa phóng càng nhanh; và Iegoruska cứ nảy người lên bần bật chỉ chực bắn ra khỏi chiếc ghế xà ích. Nó hiểu rằng nó mà lăn xuống đất thì chỉ trong nháy mắt sẽ bị đàn chó xé tan ra từng mảnh, nhưng nó không thấy sợ; nó cũng nhìn một cách hả hê đanh ác như Đenixka, và lấy làm tiếc rằng trong tay mình không có cây roi ngựa.

Chiếc xe đã chạy đến ngang tầm một đàn cừu.

– Đứng lại! – Kudmitsốp quát. – Giữ ngựa lại!

Đenixka rướn hẳn người về phía sau để kìm đôi ngựa. Chiếc xe dừng lại.

– Lại đây! – ông Kudmitsốp gọi người chăn cừu. – Giữ mấy con chó chết tiệt ấy lại chứ!

Người chăn cừu, một ông lão rách rưới đi chân đất, đầu đội mũ chụp lông, trên đùi lủng lẳng một cái túi bẩn thỉu, tay cầm một cây sào dài có cái móc ở đầu – đúng hệt một nhân vật lụ khụ – xua đàn chó đi rồi cất mũ đến cạnh chiếc xe ngựa. Ở phía bên kia đàn cừu cũng có một bóng dáng lụ khụ y hệt như vậy đứng im không nhúc nhích, thản nhiên nhìn mấy người ngồi trên xe.

– Cừu của ai đây? – Kudmitsốp hỏi.

– Của Varlamốp đấy! – ông lão đáp rất to.

– Của Varlamốp đấy! – ông lão phía bên kia đàn cừu nhắc lại.

– Thế sao, hôm qua xe ông Varlamốp có đi qua đây không?

– Không… Có ông quản gia đi xe qua thì có…

– Thôi ta đi!

Xe lại chuyển bánh lăn đi, và hai ông lão chăn cừu với đàn chó lại tụt lại phía sau. Iegoruska miễn cưỡng nhìn về phía trước, vào khoảng không màu tím ở phía xa, và cậu bé đã bắt đầu có cảm giác là cái chòi xay gió đang vung mấy cánh quạt bây giờ đã dần dần nhích gần lại. Nó mỗi lúc một to ra, lớn hẳn lên, và đã có thể nhận rõ hai cái cánh quạt của nó. Một cánh thì đã cũ, chắp vá, còn cánh kia thì mới làm lại bằng gỗ mới, loang loáng dưới nắng.

Xe thì đi thẳng thế mà cái chòi xay gió không hiểu sao bắt đầu chuyển sang bên trái. Xe cứ đi, đi mãi, còn cái chòi xay gió thì cứ chuyển dần sang bên trái và mãi không khuất mắt.

– Lão Boltva xây cho con trai cái chòi xay gió tốt thật! – Đenixka nhận xét.

– Sao không thấy cái ấp của ông ta đâu nhỉ?

– Mãi tít đằng kia, sau cái khe kia.

Một lát sau cái ấp của Boltva cũng đã hiện ra, nhưng cái chòi xay gió mãi vẫn không lùi về phía sau, không chịu tụt lại, nó vẫn nhìn Iegoruska với cái cánh loang loáng và vẫn vậy. Thật là một lão phù thủy.

 

II.

VÀO KHOẢNG GIỮA TRƯA chiếc xe rời con đường cái lớn rẽ sang bên phải. Đenixka cho ngựa đi bước một quãng rồi dừng xe lại. Iegoruska nghe thấy tiếng róc rách khe khẽ, rất êm dịu, và cảm thấy một làn không khí gì khác hẳn chạm vào mặt nó như một làn nhung mát rượi. Từ một quả đồi do thiên nhiên lấy những tảng đá to tướng và gồ ghề xấu xí dán lại mà thành, qua một cái ống làm bằng gỗ độc sâm do một người hảo tâm vô danh nào đấy đặt, nước chảy thành một tia mảnh. Dòng nước rớt xuống đất, trong trẻo, vui tươi, long lanh dưới nắng, khe khẽ tuôn róc rách. Như thể muốn tưởng tượng mình là một dòng thác dũng mãnh và ào ạt, nó rẽ quặt sang bên trái và chảy đi đâu không rõ. Cách quả đồi không xa, một dòng nước nhỏ bò vào một vũng nước; những tia nắng nóng bỏng và mặt đất khô ran đã háo hức hút nước của nó, làm cho nó kiệt sức, nhưng hình như đi một quãng nữa nó lại hòa vào một dòng suối nhỏ khác y như thế, vì cách quá đồi chừng trăm bước xuôi theo chiều nước chảy thấy mọc lên một khóm bụi cây xanh rờn rậm rạp xum xuê, và khi xe đi gần đến, từ khóm bụi cây bay ra ba con chim mỏ nhái.

Bốn người dừng lại bên suối để nghỉ ngơi và cho ngựa ăn. Ông Kudmitsốp, cha Khrixtophor và Iegoruska ngồi xuống tấm dạ trải dưới cái bóng loang lổ do chiếc xe và hai con ngựa đã tháo khỏi càng hắt xuống và bắt đầu ăn lót dạ. Sau khi cha Khrixtophor uống nước thỏa thuê và ăn hết một quả trứng nướng, cái ý nghĩ tốt lành, vui vẻ đã vì khí trời nóng nực mà đọng lại trong óc cha từ lúc nãy, bây giờ bắt đầu đòi được tuôn ra ngoài. Cha âu yếm nhìn Iegoruska, nhai nhai mấy cái rồi mở đầu:

– Bản thân cha đây cũng đã từng đi học, con ạ. Ngay từ thuở trứng nước Chúa đã ban cho cha trí khôn và ý thức, thành thử cha không như kẻ khác, hồi mới bằng con, cha đã làm cho bố mẹ và các thầy vui lòng vì sự sáng dạ của cha. Chưa đến mười lăm tuổi cha đã nói và làm thơ bằng tiếng La tinh thông thạo như tiếng Nga. Cha còn nhớ là dạo ấy cha theo cầm thánh tượng cho đức cha chí thánh Khrixtophor. Có một hôm sau buổi lễ, bây giờ cha còn nhớ hôm ấy là ngày lễ tên thánh của Nga hoàng Alếchxanđrơ Páplovíts. Cả phước rất ngoan đạo(2), đức cha cởi bộ áo lễ, âu yếm nhìn và hỏi: “Puer bone, quam appellaris?”(3) Cha đáp: “Christophorus sumus”(4).

Đức cha bèn dạy: “Ergo connominati sumus” nghĩa là vậy chúng ta trùng tên nhau… Sau đó đức cha lại hỏi bằng tiếng La tinh: “Con là con ai?” Cha cũng trả lời bằng tiếng La tinh, rằng là con ông trợ tế Xirixki ở thôn Lebeđinxkoye. Thấy đối đáp linh lợi và rành mạch như thế, đức cha chí thánh ban phước cho cha rồi nói: “Con hãy viết thư về cho bố con nói rằng đức cha không quên bố con đâu, còn con thì đức cha sẽ chú ý tới”. Cha tiền lãnh và các linh mục lúc bấy giờ có mặt ở bàn thờ, nghe hai bên đối đáp nhau bằng tiếng La tinh như vậy, cũng ngạc nhiên không ít, và mỗi cha đều tỏ ý hài lòng khen ngợi cha. Con ạ, râu chưa bén cằm cha đã đọc được tiếng La tinh, tiếng Hy Lạp, tiếng Pháp, thông hiểu triết học, toán học, lịch sử thế tục và đủ mọi ngành khoa học. Chúa đã phú cho cha một trí nhớ rất lạ, có những đoạn đọc vài ba lần cha đã thuộc lòng. Các vị thầy và các ân nhân của cha đều lấy làm lạ và tiên đoán rằng cha sẽ trở thành một người tối uyên bác, một ngọn đuốc sáng của giáo hội. Chính cha cũng muốn lên Kiép tiếp tục học hành, nhưng bố mẹ cha không cho phép đi. Ông thân cha nói: “Con cứ học suốt đời như thế, bố mẹ biết đợi con đến bao giờ”. Nghe nói vậy, cha bèn bỏ học và ra nhận chức. Dĩ nhiên thế là cha đã không thành thông thái nhưng ngược lại cha đã vâng lời cha mẹ, yên ủi tuổi già hai người, chôn cất hai người chu đáo. Đức vâng lời còn quý hơn ăn chay và cầu nguyện.

– Chắc cha quên hết các khoa học rồi còn gì! – ông Kudmitsốp nhận xét.

– Làm sao mà không quên được? Đội ơn Chúa, nay đã gần tám mươi rồi. Triết học và tu từ học thì còn nhớ được ít nhiều, chứ các thứ tiếng với lại toán học thì đã quên sạch.

Cha Khrixtophor nheo nheo đôi mắt, ngẫm nghĩ một lát rồi nói khe khẽ:

– Bản thể là gì? Bản thể là một sự vật tự tại, không đòi hỏi một cái gì khác để thực hiện bản thân nó.

Cha lắc đầu rồi bật cười vì xúc động.

– Thức ăn tinh thần! – cha nói. – Đúng thế, vật chất nuôi dưỡng xác thịt, còn thức ăn tinh thần nuôi dưỡng linh hồn.

– Khoa học gì thì khoa học, – Kudmitsốp thở dài, – chứ không đuổi kịp Varlamốp thì chúng ta cũng hết cả khoa học.

– Con người có phải là cái kim đâu, rồi sẽ tìm thấy. Bây giờ ông ta chỉ quanh quẩn đâu đây thôi.

Ba con chim mỏ nhái quen biết bay qua khóm bụi rậm, và trong tiếng chiêm chiếp của nó có thể nghe rõ ý lo lắng và bực mình vì bị đuổi khỏi dòng suối. Hai con ngựa thong thả nhai và thở phì phò; Đenixka đi đi lại lại bên cạnh, cố làm ra vẻ hoàn toàn dửng dưng đối với những quả dưa chuột, những miếng chả rán, và những quả trứng mà mấy ông chủ đang ăn, bao nhiêu tâm trí đều dồn hết vào việc đập mấy con ruồi và mấy con nhặng đang bâu vào lưng, vào bụng ngựa. Anh thản nhiên đập, từ cổ họng phát ra một thứ âm thanh đặc biệt, vừa đắc thắng lại vừa tinh quái, và mỗi khi đập không trúng lại kêu lên giận dữ, nhìn mãi theo con bọ tốt số vừa thoát chết.

– Đenixka, đi đâu thế! Lại mà ăn đi! – ông Kudmitsốp nói đoạn thở ra một tiếng rõ dài để tỏ ra mình ăn đã no.

Đenixka rụt rè đến bên tấm dạ và chọn năm quả dưa chuột to và vàng, thường gọi là “dưa ủng” (chọn những quả bé hơn và non hơn thì anh thấy ngượng lắm), cầm lấy hai quả trứng nướng, vỏ đen thui và nứt nẻ ra cả, rồi rụt rè, như thể sợ người ta đánh vào bàn tay đang chìa ra, anh chạm ngón tay vào miếng chả rán.

– Cầm lấy, cầm lấy! – ông Kudmitsốp giục.

Đenixka quả quyết cầm lấy miếng chả, đi ra một quãng xa xa, rồi ngồi xuống đất, lưng quay về phía xe. Lập tức có tiếng nhai to đến nỗi cả hai con ngựa cũng phải ngoảnh lại, nhìn Đenixka có vẻ nghi hoặc.

Ăn xong, ông Kudmitsốp lấy trong xe ra một cái túi đựng gì không rõ và bảo Iegoruska:

– Tao ngủ một lát, mày trông đừng để ai lôi mất cái túi tao gối đầu đây.

Cha Khrixtophor bỏ chiếc áo chùng, tháo nịt và cởi áo ra, Iegoruska nhìn cha sửng sốt. Nó không hề ngờ rằng các cha cố lại mặc quần, ấy thế mà cha Khrixtophor lại mặc một cái quần bằng vải bố thực sự, ống đút vào đôi ủng cao, và ở phía trên là một cái áo chẽn sọc. Nhìn cha, Iegoruska nhận thấy rằng trong cách trang phục không ăn nhập với chức vị linh mục này, và với bộ tóc và bộ râu dài như vậy, trông cha rất giống Rôbinxơn Cruxô(5). Cởi hết áo ngoài, cha Khrixtophor và ông Kudmitsốp nằm dưới bóng xe, mặt quay vào nhau, và nhắm mắt lại. Đenixka đã nhai xong, nằm ngửa bụng ra giữa nắng và cũng nhắm mắt nốt.

– Trông đừng để ai dắt mất ngựa đi đấy nhớ! – anh bảo Iegoruska, đoạn ngủ thiếp đi ngay.

Im lặng. Chỉ nghe tiếng hai con ngựa nhai và thở phì phì, tiếng ngáy của mấy người đang ngủ; đâu ở xa xa có tiếng của một con dẽ mào, và chốc chốc lại vang lên tiếng kêu chiêm chiếp của ba con chim mỏ nhái bay đến xem thử đám khách không mời mà đến đã đi chưa. Con suối nhỏ chảy tiếng róc rách êm êm nghe như ngọng nghịu. Nhưng tất cả những âm thanh này không hề phá rối sự tĩnh mịch, không thức tỉnh làn không khí đã ngưng đọng lại, mà còn ru cho cảnh vật chìm sâu thêm vào giấc mơ màng.

Iegoruska ngạt thở vì khí trời oi ả, nhất là bây giờ, sau khi ăn, lại càng cảm thấy oi ả hơn nữa. Nó chạy tới khóm bụi rậm và từ đấy đưa mắt nhìn ra xung quanh. Cảnh vật vẫn giống như ban sáng: cánh đồng bằng, những dãy đồi, bầu trời, khoảng xa màu tím, chỉ có mấy quả đồi bây giờ đứng gần hơn một chút, và không trông thấy cái chòi xay gió đã lùi xa về phía sau. Phía sau quả đồi lởm chởm đã có con suối chạy, nhô lên một quả đồi khác, phẳng hơn và rộng hơn một chút; trên đồi có một xóm nhỏ gồm năm sáu nóc nhà. Quanh các nhà không thấy người, cũng không thấy cây, không một bóng rợp, tưởng chừng như cái xóm kia đã chết ngạt trong làn không khí rát bỏng và đã khô nỏ ra rồi. Chẳng có việc gì làm, Iegoruska bắt một con dế trong đám cỏ, để trong nắm tay đưa lên tai hồi lâu lắng nghe nó kéo vĩ cầm. Nghe nhạc đã chán chê, nó quay ra đuổi theo một đàn bướm vàng bay đến đây tìm nước uống, loanh quanh một lúc nó về đến chỗ để xe ngựa từ lúc nào không biết. Ông cậu và cha Khrixtophor đang ngủ say: họ phải ngủ hai ba tiếng nữa để cho ngựa nghỉ thật lại sức… Làm thế nào để giết chết được khoảng thời gian dài dằng dặc này, và trốn đi đâu cho đỡ nóng bây giờ? Thật nan giải… Thẫn thờ, Iegoruska ghé miệng vào dòng nước chảy từ trong cái ống con ra; trong miệng nó thấy lạnh hẳn đi và sực mùi độc sâm; lúc đầu nó uống rất ngon miệng, sau đó nó uống gắng gượng, uống cho đến khi cái cảm giác lạnh buốt trong miệng truyền đi khắp người và nước trào ra ướt cả áo sơ mi. Rồi nó đến cạnh chiếc xe và bắt đầu đứng ngắm mấy người đang ngủ. Gương mặt ông cậu có cái vẻ khô khan của người làm ăn chí thú như ban nãy. Vốn là một tín đồ cuồng nhiệt của công việc kinh doanh, ông Kudmitsốp lúc nào cũng nghĩ đến làm ăn, ngay cả trong giấc ngủ hay trong buổi lễ cầu nguyện ở nhà thờ, khi người ta đang hát bài “Các vị thiên thần” cũng vậy, không một phút nào ông có thể quên được công việc, và giờ đây chắc hẳn cũng đang mơ thấy những kiện lông cừu, những chuyến xe chở hàng, những giá cả, ông Varlamốp… Còn cha Khrixtophor, vốn là người hiền lành, nhẹ dạ và hay cười, suốt đời chưa từng có một công việc gì có thể như một con trăn gió quấn riệt lấy tâm hồn. Trong bao nhiêu công việc mà cha đã lĩnh lấy trong đời, cái làm cho cha say mê nhất không phải là bản thân công việc, mà là những lo lắng bận rộn và những sự tiếp xúc với người đời mà công việc nào cũng đòi hỏi. Như trong chuyến đi này chẳng hạn, cái làm cho cha thích thú nhất không phải là lông cừu, Varlamốp và giá cả, mà là cuộc hành trình kéo dài, những câu chuyện trao đổi trên đường đi, giấc ngủ dưới bóng xe ngựa, bữa ăn không đúng giờ giấc… Và giờ đây, trông vẻ mặt của cha, có thể đoán rằng cha đang mơ thấy đức cha chí thánh Khrixtophor, cuộc đối thoại bằng tiếng La tinh, bà vợ của cha, những chiếc bánh phết kem sữa tươi và tất cả những thứ gì mà Kudmitsốp không thể mơ thấy được.

Trong khi Iegoruska đứng ngắm mấy khuôn mặt đang ngủ kia, chợt nghe có tiếng hát khe khẽ. Đâu đây có một người đàn bà đang hát, nhưng cụ thể ở chỗ nào, từ phía nào thì khó lòng mà hiểu được. Tiếng hát khe khẽ, lê thê, buồn rười rượi, giống như tiếng khóc, vừa đủ để lọt vào tai, khi thì nghe như từ bên phải vẳng lại, khi thì nghe như từ bên trái, khi thì nghe như từ phía trên, khi thì nghe như từ dưới đất, tưởng chừng như có một thần linh vô hình đang quanh quẩn trên thảo nguyên mà hát. Iegoruska ngơ ngác nhìn quanh, không sao hiểu nổi tiếng hát từ đâu đưa lại; đến khi nó cố sức lắng tai nghe, nó có cảm giác như đấy là cỏ đang hát. Cỏ đang hấp hối, đã hết hy vọng sống sót, nó cất tiếng hát không lời nhưng ai oán và chân thành, phân trần tha thiết với ai đó rằng nó không có tội gì, ánh nắng thiêu đốt nó một cách oan uổng; nó tha thiết muốn sống, nó hãy còn non trẻ và lẽ ra xinh đẹp nếu không có ánh nắng nóng bỏng, không có hạn hán, nó chẳng có tội gì, nhưng vẫn van xin ai tha tội cho nó và thề thốt rằng nó đau đớn không sao chịu nổi, nó buồn khổ và tủi thân quá…

Iegoruska lắng nghe một lát, và nó bắt đầu có cảm giác là tiếng hát lê thê và buồn bã làm cho không khí ngột ngạt hơn, nóng nực hơn và im lìm hơn trước… Để át khúc hát kia đi, nó vừa cất tiếng hát nghêu ngao vừa chạy về phía đám bụi rậm, cố giậm chân thật mạnh. Từ đấy nó nhìn ra bốn phía và tìm được cái nguồn phát ra tiếng hát. Bên ngôi nhà ngoài cùng của cái xóm nhỏ có một người đàn bà nhà quê mặc chiếc váy, chân dài và khẳng khiu như chân chim diệc, đang đứng sàng cái gì không rõ; từ dưới cái sàng của chị ta, một làn bụi trắng uể oải bay xuống mặt gò. Bây giờ thì đã rõ là chính chị ta hát. Cách chị ta chừng một xagien(6) có một thằng bé chỉ mặc mỗi cái áo, không đội mũ, đứng yên không nhúc nhích. Như thể đã bị tiếng hát chài cho mụ mẫm đi, nó đứng trơ ra đấy, mắt nhìn đâu phía dưới, có lẽ nó nhìn cái áo sơ mi màu đỏ của Iegoruska.

Tiếng hát lặng đi. Iegoruska mon men lại gần chiếc xe rồi không biết làm gì, lại ra nghịch cái ống nước.

Thế rồi tiếng hát lại vẳng tới. Vẫn là giọng hát của người đàn bà khẳng khiu sau cái gò ở bên xóm. Nỗi buồn chán lại quay trở về với Iegoruska. Nó rời cái ống nước và ngước mắt lên. Cái cảnh tượng nó nhìn thấy khá bất ngờ, đến nỗi nó hơi hoảng. Phía trên đầu nó, đứng trên một tảng đá lớn hình thù xấu xí, có một thằng bé mặc mỗi chiếc áo sơ mi, mặt béo phúng phính, bụng to phưỡn, hai chân gầy mảnh, chính thằng bé lúc nãy đứng cạnh người đàn bà. Với một nỗi ngạc nhiên đần độn và không khỏi có phần sợ hãi, như thể đang trông thấy một vong hồn về đứng trước mặt, nó há hốc mồm nhìn không chớp mắt chiếc áo sơ mi màu đỏ của Iegoruska và chiếc xe ngựa. Màu đỏ của chiếc sơ mi thu hút và mơn trớn nó, còn chiếc xe và mấy người ngủ dưới bụng xe kích thích trí tò mò của nó; có lẽ chính nó cũng không nhận thấy là màu đỏ dễ chịu và trí tò mò đã xui khiến nó rời xóm lần xuống tận đây, và hình như bây giờ nó lấy làm lạ cho sự táo gan của mình. Iegoruska đứng nhìn nó hồi lâu, và nó cũng hồi lâu đứng nhìn Iegoruska. Cả hai cùng im lặng và cảm thấy hơi ngượng nghịu. Sau một quãng dài im lặng, Iegoruska hỏi:

– Mày tên là gì?

Hai cái má của thằng bé lạ mặt càng phinh phính ra nữa; nó áp lưng vào tảng đá, mặt nó lồi ra, môi nó mấp máy, phát ra một giọng trầm khàn khàn: “Tít”.

Hai thằng bé không nói với nhau một tiếng nào nữa. Lặng yên thêm một lát, mắt vẫn không rời Iegoruska, thằng Tít bí ẩn kia ghếch một chân lên tìm điểm tựa rồi trèo lên tảng đá; từ đấy nó cứ bước giật lùi, mắt nhìn Iegoruska trừng trừng như thể sợ thằng này đánh sau lưng, trèo lên một tảng đá nữa rồi cứ thế lần lên mãi cho đến khi khuất hẳn sau đỉnh gò.

Không nhìn theo thằng bé được nữa, Iegoruska quàng tay ôm lấy hai đầu gối và cúi đầu xuống… Những tia nắng rát bỏng xói vào gáy, vào cổ, vào lưng nó. Tiếng hát buồn bã khi tắt đi, khi lại văng vẳng trong làn không khí ngưng đọng ngạt thở, dòng suối vẫn chảy với tiếng róc rách đơn điệu, hai con ngựa vẫn nhai cỏ và thời gian kéo dài ra vô tận, tựa hồ nó cũng đã đọng lại, ngừng trôi, có thể tưởng chừng như từ sáng đến bây giờ đã qua một thế kỷ… Phải chăng thượng đế muốn Iegoruska, chiếc xe và hai con ngựa lịm đi trong làn không khí này, hóa thành đá và vĩnh viễn đứng yên một chỗ như những quả đồi?

Iegoruska ngửng đầu lên và đưa đôi mắt thiu thiu ngủ nhìn phía trước; khoảng không xa tắp màu tím nẫy giờ vẫn im lìm, thế mà bây giờ lại đung đưa nghiêng ngả và cùng với bầu trời lao đi đâu xa hơn nữa… Nó lôi theo cả lớp cỏ màu hung, cả khóm bụi rậm, và Iegoruska cũng lao theo chân trời đang chạy trốn với một tốc độ phi thường. Có một sức mạnh gì đang lặng lẽ lôi cuốn nó đi đâu không biết, và hơi nóng rát bỏng cùng tiếng hát lê thê cũng vun vút bay theo. Iegoruska ngoẹo đầu xuống và nhắm mắt lại…

Đenixka thức giấc trước tiên. Chắc có con gì cắn anh, vì thấy anh bật dậy, gãi lấy gãi để một bên vai và tuôn ra một tràng:

– Tiên sư mấy con quái trời đánh không chết này!

Đoạn anh ra suối uống nước và hì hục rửa ráy một hồi lâu. Tiếng anh thở phì phò và tiếng nước vỗ lép bép làm cho Iegoruska tỉnh giấc. Thằng bé nhìn cái mặt ướt đầm của Đenixka lấm tấm những giọt nước suối và những chấm tàn hương to tướng khiến cho mặt anh trông như cẩm thạch, và hỏi:

– Đã sắp đi chưa?

Đenixka nhìn mặt trời xem thử nó còn cao đến đâu, rồi đáp:

– Chắc sắp rồi đấy.

Anh lấy vạt áo sơ mi lau lau cái mặt một lúc, làm ra một vẻ mặt rất nghiêm trang rồi bắt đầu nhảy lò cò.

– Nào, xem ai nhảy đến đám bụi rậm kia trước nào! – anh nói.

Iegoruska đã mệt nhoài ra vì nóng và vì giấc ngủ chập chờn vừa qua, nhưng nó vẫn nhảy lò cò theo. Đenixka đã gần hai mươi tuổi, anh làm nghề xà ích và đang sắp sửa lấy vợ, nhưng vẫn chưa hết tính trẻ con. Anh rất thích thả diều, thả bồ câu, đánh cờ xương, chạy đuổi bắt và bao giờ cũng tham dự vào những trò chơi và những cuộc cãi cọ của trẻ con. Hễ chủ đi vắng hay ngủ một cái là anh lập tức bày trò nhảy lò cò hay ném sỏi gì đấy. Bất cứ ai là người lớn trông thấy cái vẻ vui sướng chân thành của anh trong khi chơi đùa với lũ nhóc con cũng khó lòng đừng thốt lên: “Rõ thằng gà tồ!” Còn lũ trẻ những khi thấy anh xà ích to gộc này đột nhập vào lĩnh vực của mình, chúng chẳng thấy có gì là lạ: ông tướng cứ việc chơi, miễn đừng choảng ai là được! Cũng đúng như những con chó con không lấy làm lạ khi có một con chó lớn thực thà xông vào chơi với chúng.

Đenixka đã vượt được Iegoruska, và hình như rất hài lòng với thắng lợi này. Anh nháy thằng bé một cái, rồi để tỏ rõ là mình có thể nhảy lò cò xa bao nhiêu cũng được, anh rủ Iegoruska nhảy ra đường cái rồi từ đấy nhảy về chỗ để xe không nghỉ. Iegoruska từ chối, vì nó nóng và mệt quá.

Bỗng vẻ mặt của Đenixka trở nên nghiêm trang chưa từng thấy bao giờ, dù là khi Kudmitsốp quở mắng anh hay giơ cao gậy lên toan nện anh cũng vậy; anh lắng tai nghe ngóng, từ từ quỳ một gối xuống, và gương mặt anh trở nên có cái vẻ nghiêm trang và sợ sệt như khi người ta nghe ai nói một điều tà ngụy. Mặt anh hướng vào một điểm, bàn tay anh khum khum lại thành hình chiếc thuyền úp, từ từ giơ lên, và anh bỗng ngã sấp xuống, đặt bàn tay úp chụp lên cỏ.

– Được rồi! – anh đắc thắng reo lên một tiếng khàn khàn, rồi đứng dậy đưa lên tận mắt Iegoruska một con châu chấu lớn.

Nghĩ rằng làm như thế con châu chấu sẽ thấy dễ chịu lắm, Iegoruska và Đenixka đưa mấy ngón tay vuốt lên cái lưng rộng màu xanh và khẽ vuốt hai cái râu của nó. Sau đó Đenixka lại bắt một con ruồi béo căng, đã hút máu no nê, đưa ra mời con châu chấu ăn. Con này, vẻ thản nhiên như thể đã quen biết Đenixka, cứ thế xoạc cái hàm to tướng giống như đôi càng bóng lộn rung lên loang loáng xuống cỏ và lập tức cất tiếng nó ra. Nó liền xòe đôi cánh ngoài để lộ lớp cánh màu hồng bóng lộn rung lên loang loáng xuống cỏ và lập tức cất tiếng gáy. Con ruồi cũng được thả nốt; nó vuốt lại đôi cánh cho trơn rồi chẳng cần nghĩ đến cái bụng đã mất, nó cứ thế bay về phía mấy con ngựa.

Từ phía dưới chiếc xe nghe có tiếng thở ra rõ dài. Đó là ông Kudmitsốp đã tỉnh dậy. Ông vụt ngẩng đầu lên, lo lắng nhìn ra xa, và chỉ riêng cái nhìn ấy thôi, bỏ quá Iegoruska và Đenixka một cách hoàn toàn dửng dưng, cũng đủ cho thấy là ông mới ngủ dậy đã nghĩ đến lông cừu và Varlamốp rồi.

– Cha Khrixtophor, dậy đi, muộn rồi! – ông nói giọng hớt hải. – Ngủ thế là đủ rồi, ngủ thế này công việc cũng đã nhỡ hết rồi còn gì. Đenixka, thắng ngựa vào!

Cha Khrixtophor thức dậy cũng với cái nụ cười như khi cha bắt đầu thiếp đi. Ngủ dậy, mặt cha nhàu đi, nhăn nheo và có vẻ như đã teo tóp lại chỉ còn một nửa. Rửa ráy và mặc quần áo ngoài xong, cha thong thả rút trong túi ra một cuốn thánh thi cáu bẩn, đứng quay mặt về phía đông và bắt đầu vừa lâm râm cầu nguyện vừa làm dấu thánh.

– Cha Khrixtophor! – Kudmitsôp nói, giọng trách móc. – Lên xe thôi, ngựa đã thắng xong mà ông còn…

– Xong ngay, xong ngay đây… – cha Khrixtophor lúng búng. – Phải đọc bài thánh thi tí đã… Hôm nay chưa đọc.

– Đọc bài thì để sau hẵng đọc cũng được.

– Ivan Ivanứts ạ, tôi phải hàng ngày… Không đọc không được.

– Chúa chẳng kèo nèo cha đâu.

Suốt mười lăm phút đồng hồ cha Khrixtophor đứng yên, hướng về phương Đông, môi lắp bắp, trong khi Kudmitsốp nhìn cha gần như căm thù và sốt ruột nhún vai. Ông ta giận nhất là những khi cha Khrixtophor, sau mỗi đoạn “Sáng danh” lại hít một hơi dài, nhanh nhẹn làm dấu thánh và nhắc lại ba lần rõ to để ai nấy đều biết mà làm dấu thánh theo cha:

– Alleluya, alleluya, alleluya, sáng danh Chúa!

Cuối cùng cha mỉm cười, ngước mắt nhìn lên trời và bỏ cuốn thánh thi vào túi nói:

Fini!(7)

Một phút sau chiếc xe chuyển bánh. Cứ như thể xe đi ngược trở lại chứ không phải đi đâu xa hơn, mấy người trên xe vẫn trông thấy một quang cảnh hệt như ban sáng. Những quả đồi vẫn chạy mãi về phía màu tím xa xăm, chẳng thấy đến đâu mới hết; vẫn những bãi cỏ dài, những hòn đá cuội, những cánh đồng đã cắt rạ, vẫn những con quạ và vẫn con diều hâu ấy đang ung dung vỗ cánh bay trên thảo nguyên. Không khí mỗi lúc một ngưng đọng hơn vì nóng bức và yên lặng, thiên nhiên nhẫn nhục nằm im lìm không nói năng… Không có lấy một hơi gió, không có lấy một âm thanh sinh động, tươi tắn, không có lấy một đám mây.

Nhưng rồi cuối cùng, khi mặt trời bắt đầu ngả về tây, thảo nguyên và làn không khí không còn chịu nổi cảnh ức hiếp nữa, sức kiên nhẫn của nó đã kiệt, nó khô quá rồi, phải cố sức trút bỏ cái ách nặng đang đè lên nó. Thì sau mấy quả đồi đột nhiên hiện ra một đám mây loăn xoăn màu tro. Nó đưa mắt ra hiệu cho thảo nguyên: tôi đã sẵn sàng rồi đây, và cau mặt lại. Trong làn không khí ngưng đọng chợt có một cái gì rách ra, gió bỗng thổi mạnh và rít lên ào ào quay cuồng trên thảo nguyên. Ngay tức khắc, cỏ và những bụi cây dại năm ngoái rung rinh hẳn lên, bụi trên đường xoáy thành vòng trôn ốc chạy qua thảo nguyên, cuốn theo những cọng rơm, những con chuồn chuồn và những chiếc lông chim, dựng thành đám đen ngòm xoáy tít lên trời và che mờ cả ánh nắng. Ngang dọc trên thảo nguyên, những cây cỏ thi nhau chạy, luôn luôn vấp váp và nhảy tung lên, rồi một cây lọt vào đám bụi đang xoáy tít, quay lộn vòng như con chim, bay lên trời, hóa thành một cái chấm đen rồi biến đi đâu mất. Sau đó lại đến một cây nữa, rồi lại một cây nữa, và Iegoruska trông thấy rõ hai ngọn cỏ lông chông chạm phải nhau trên khoảng màu thiên thanh, rồi quyện lấy nhau như đánh vật.

Sát cạnh đường cái, một con đa đa bay vụt lên. Cánh và đuôi loang loáng ánh nắng, trông nó giống như mồi giả lắp trên lưỡi câu hay con bướm ao hồ: mỗi khi bay vút qua mặt nước, cánh và râu của nó chập lại làm một, trông như thể râu nó mọc đủ bốn phía xung quanh người… Run rẩy trên không như một con bọ, phô trương cái thân hình lốm đốm của nó, con đa đa bay vút lên thành một đường thẳng, rồi chắc là sợ đám bụi, nó bay dạt sang một bên, và hồi lâu còn trông thấy nó thấp thoáng qua lại…

Rồi một con chim cuốc, hốt hoảng trước cái xoáy và không hiểu đầu đuôi ra sao, từ trông đám cỏ bay vụt ra. Nó bay theo gió chứ không bay ngược chiều như các loài chim khác; vì thế lông nó xù ra, cả người nó phồng to bằng con gà mái và trông nó có vẻ rất giận dữ, rất oai vệ. Chỉ có mấy con quạ đã sống già đời trên thảo nguyên và đã quen với những cảnh hỗn loạn ở đây là vẫn điềm tĩnh bay là là trên cỏ, hoặc giả cứ thản nhiên như không, chẳng thèm để ý gì đến xung quanh, đưa cái mỏ chắc nịch mổ xuống lớp đất khô đét.

Sau dãy đồi có tiếng sấm ì ầm; gió mát hẳn đi. Đenixka vui vẻ huýt lên một tiếng rồi quất ngựa. Cha Khrixtophor và ông Kudmitsốp vừa giữ lấy mũ cho khỏi bay vừa chú mục lên dãy đồi… Giá trời đổ được trận mưa thì hay quá!

Dường như chỉ cần ráng sức chút nữa, chịu khó chút nữa là thảo nguyên sẽ thắng thế. Nhưng cái sức mạnh vô hình vẫn đè nén mọi vật đã dần dần kìm hãm được gió và không khí, đè bẹp bụi xuống, và như thế không có gì xảy ra hết, thảo nguyên lại im phăng phắc. Đám mây ban nãy đã đi trốn, mấy quả đồi cháy sém cau mặt lại, không khí nhẫn nhục đứng yên, và đâu đây chỉ có mấy con chim dẽ mào sợ hãi khóc lóc và than thân trách phận…

Một lát sau trời tối sập xuống rất nhanh.

 

III.

TRONG BÓNG HOÀNG HÔN hiện ra một ngôi nhà một tầng rất to, cái mái tôn đã han gỉ, mấy khung cửa sổ tối mò. Ngôi nhà này là một cái quán trọ, không có sân, đứng chơ vơ giữa thảo nguyên xung quanh chẳng có rào. Cách ngôi nhà một quãng có một cái vườn anh đào nhỏ xơ xác, xung quanh có hàng rào đan, và dưới các cửa sổ, mấy cây hoa hướng dương đang đứng ngủ gật, những mái đầu nặng trĩu rủ xuống. Trong vườn nghe có tiếng lạch cạch của một cái chòi xay gió nhỏ, dựng lên cho có tiếng ồn để dọa thỏ hoang. Ngoài ra quanh ngôi nhà không còn trông thấy và nghe thấy gì ngoài cỏ với cỏ.

Chiếc xe ngựa vừa dừng lại bên cái thềm có mái hiên nhô ra thì trong nhà đã đưa ra những tiếng nói mừng rỡ – một giọng đàn ông và một giọng đàn bà – cánh cửa quay trên bản lề két lên một tiếng, và trong nháy mắt bên xe đã lù lù một bóng người cao và gầy, hai tay vung lên lia lịa, hai vạt áo đuôi ngoài cũng tung bắn lên theo. Đó là ông chủ quán Moixây Moixêíts, một người đã đứng tuổi, mặt xanh lướt, để bộ râu rất đẹp, đen như mực tàu. Ông ta mặc một chiếc áo đuôi tôm đen đã sờn, treo lùng nhùng trên đôi vai hẹp như treo trên mắc áo, và hai vạt áo ngoài cứ vung vẩy như hai cái cánh mỗi khi Moixây Moixêíts vui mừng hay sợ hãi mà vỗ hai bàn tay. Ngoài chiếc áo đuôi tôm ra, ông chủ quán còn mặc một cái quần rộng ống bỏ ra ngoài ủng và chiếc áo gilê bằng nhung điểm những hình hoa màu hung trông giống như những con rệp khổng lồ.

Nhận ra mấy người ngồi trên xe, Moixây Moixêíts thoạt tiên đớ người ra vì xúc động quá, rồi vỗ tay đánh đét một cái và rên lên một tiếng. Chiếc áo vung vẩy hai vạt đuôi tôm, cái lưng khom xuống thành hình vòng cung, và trên gương mặt xanh xao nở một nụ cười rạng rỡ như thể trông thấy cái xe đối với ông ta không phải chỉ là một điều thú vị mà còn là một niềm khoái lạc vô biên.

– Ôi, trời ơi, trời ơi! – ông ta nói, giọng thanh thanh và ngân nga như hát, vừa nói vừa thở hổn hển, cuống quít nhặng xị lên ở bên xe làm cho mấy người hành khách không sao xuống được. – Hôm nay thật là một ngày đại cát của tôi! Chao ôi, tôi phải làm gì bây giờ! Ivan Ivanứts! Cha Khrixtophor! Lại có cậu ấm nào ngồi trên kia trông xinh quá, lạy Chúa tha tội. Ôi, lạy Chúa, lạy Chúa, nhưng sao tôi lại đứng đực ra đây không mời khách vào nhà? Xin mời, xin kính mời… xin các vị quá bộ vào đây! Đưa các thứ đây tôi cầm cho… Ôi, lạy Chúa!

Moixây Moixêíts đang vục đầu vào xe lục lọi hành lý và giúp hành khách xuống xe, bỗng quay phắt lại và cất tiếng kêu thất thanh, giọng man dại, như thể ông ta sắp chết đuối phải kêu cứu:

– Xolomon! Xolomon!

– Xolomon! Xolomon! – cái giọng đàn bà ở trong nhà nhắc lại.

Cánh cửa lại mở đánh két một tiếng, và trên ngưỡng cửa hiện ra một thanh niên Do Thái bé nhỏ, mũi to và khoặm như mỏ diều, giữa đám tóc hung quăn và cứng có một khoảng hói trụi. Hắn mặc một chiếc áo veston ngắn cũ rích, đuôi áo cắt tròn, ống tay ngắn cũn cỡn, quần ngắn bằng len đan, thành thử trông hắn cũng ngắn cũn cỡn và loắt choắt như con chim bị vặt lông. Đó là Xolomon, em trai ông Moixây Moixêíts. Hắn cứ lặng thinh, chẳng chào hỏi ai, chỉ mỉm một nụ cười kỳ dị, đến cạnh chiếc xe.

– Ivan Ivanứts và cha Khrixtophor đến đây này – Moixây Moixêíts nói với cái giọng như thể sợ thằng em không tin. – Chao ôi, thật lạ lùng, mấy khi có những vị khách quý hóa thế này ghé lại! Này, cầm lấy, Xolomon, cầm lấy đồ đạc! Mời các quý khách vào nhà.

Một lát sau ông Kudmitsốp, cha Khrixtophor và Iegoruska đã ngồi trong căn phòng rộng, tối tăm và trống trải quanh một cái bàn gỗ sồi cũ kỹ. Cái bàn này gần như cô độc, vì trong căn phòng rộng thênh thang này, ngoài nó, một chiếc đivăng rộng vải lợp đã thủng lỗ chỗ và ba cái ghế tựa ra, không còn có thứ bàn ghế gì khác. Vả chăng ngay cả ba cái ghế ấy nữa, không phải ai cũng dám cả quyết gọi nó là ghế tựa. Đó là một thứ gì nom chỉ hao hao giống với bàn ghế, vải lợp đã hết thời từ lâu, lưng tựa ưỡn hẳn ra phía sau một cách phi tự nhiên, làm cho mấy cái ghế trông rất giống những chiếc xe lết của trẻ con. Khó lòng hiểu nổi ông thợ mộc khuyết danh nào đấy muốn đi tìm thứ tiện nghi gì trong khi uốn mấy cái lưng ghế một cách nhẫn tâm như vậy, và người ta bất giác muốn nghĩ rằng lỗi đây không phải tại ông thợ mộc, mà tại một tay lực sĩ nào đi qua đây, muốn khoe sức đã bẻ lưng ghế ra sau đó lại uốn thẳng lại, rồi lại bẻ ngửa ra thêm. Gian phòng có vẻ tối tăm ảm đạm. Vách phòng màu xám, trần và các thành gờ đều ám khói đen kịt, trên sàn có những khe nứt và những cái lỗ không rõ nguyên do (có lẽ chính tay lực sĩ đã dùng gót giày đột thủng) và người ta có cảm giác là dù có treo một chục cái đèn trong phòng này, nó vẫn cứ tối như thường. Trên tường cũng như trên các cửa sổ đều không có một cái gì có thể tạm gọi là trang trí. Tuy vậy trên một bức tường, trong khung bằng gỗ, có mấy quy tắc gì đấy viết dưới một con chim đại bàng hai đầu(8), và trên một bức tường khác, cũng đóng khung như vậy, có treo một bức tranh khắc gỗ đề là “Sự thờ ơ của người đời”. “Người đời” thờ ơ với cái gì thì không sao hiểu được, vì bức tranh cũ quá đã xỉn lại và ruồi đậu đen kịt. Trong phòng phảng phất một mùi mốc chua chua.

Sau khi đưa khách vào phòng, Moixây Moixêíts vẫn cúi lom khom, vỗ tay đen đét, co rúm người lại và thốt lên những tiếng reo mừng, tất cả những việc đó ông ta đều thấy cần phải làm để tỏ ra đặc biệt lễ độ và ân cần.

– Xe chở hàng của chúng tôi đi qua đây từ hôm nào? – Kudmitsốp hỏi ông chủ quán.

– Một tốp đi qua từ sáng, còn tốp kia, thưa ông Ivan Ivanứts, nghỉ lại đây ăn trưa, đến chiều thì đi.

– Thế còn… Varlamốp đã đi qua đây chưa?

– Thưa ông chưa ạ. Sáng hôm qua ông Grigori Iegorứts quản gia nhà ông ấy, có đi qua đây và có nói là chắc hôm nay ông ấy ghé xóm người theo đạo Kytô.

– Tốt lắm. Thế tức là bây giờ ta sẽ đuổi kịp đoàn xe chở hàng, rồi sau đó ghé luôn xóm người theo đạo Kytô.

– Tại sao, ông Ivan Ivanứts! – Moixây Moixêíts kinh hãi rụng rời, vỗ tay vào nhau đánh đét một tiếng. – Đêm hôm thế này ông còn định đi đâu nữa? Xin các vị xơi bữa tối ở đây cho khỏe và ngủ lại đây, rồi đến sớm mai, ơn Chúa, các vị sẽ ra đi và tha hồ muốn đuổi kịp ai thì đuổi!

– Không có thì giờ, không có thì giờ!… Xin lỗi ông Moixây Moixêíts nhé, thôi để khi khác, chứ bây giờ chẳng phải lúc ăn uống gì. Chúng tôi ngồi độ mười lăm phút rồi chúng tôi đi thôi, còn ngủ lại thì đến xóm người theo đạo Kytô ngủ cũng được.

– Mười lăm phút! – ông Moixây Moixêíts rít lên. – Ông cũng phải nể Chúa với chứ, ông Ivan Ivanứts! Ông lại bắt tôi phải giấu mũ của ông đi và khóa trái cửa lại hay sao? Ít ra ông cũng ăn chút gì qua loa, uống tí nước chè đã chứ.

– Chúng tôi thì giờ đâu mà uống chè! – Kudmitsốp nói.

Moixây Moixêíts ngoẹo đầu sang một bên, khuỵu gối xuống và giơ hai lòng bàn tay ra phía trước như đỡ đòn, rồi nở nụ cười cầu tài ngọt lịm, bắt đầu van nài:

– Ông Ivan Ivanứts! Cha Khrixtophor! Xin hai vị làm phúc uống cho tôi một chén trà! Chả nhẽ tôi là người tệ mạt đến nỗi không thể uống ở nhà tôi một chén trà sao? Ông Ivan Ivanứts!

– Thôi, uống tí trà thì được, – cha Khrixtophor thở dài thương hại. – Cũng chẳng mất bao nhiêu thì giờ.

– Thôi được! – ông Kudmitsốp đồng ý.

Moixây Moixêíts tỉnh hẳn người ra, á lên một tiếng mừng rỡ và người co ro như thể vừa từ dưới nước lạnh nhảy lên chỗ ấm, ông ta chạy ra cửa và thét lên thất thanh, giọng cũng man dại như ban nãy khi gọi Xolomon:

– Roda! Roda! Đem ấm lò lên!

Một phút sau, cánh cửa mở ra và Xolomon bước vào tay bưng một chiếc khay lớn. Trong khi đặt khay lên bàn, mắt hắn cứ nhìn sang một bên, vẫn với cái vẻ ngạo nghễ và nụ cười kỳ dị như ban nãy. Bây giờ dưới ánh đèn đã có thể trông rõ nụ cười ấy; nó rất phức tạp và biểu hiện rất nhiều cảm xúc, nhưng chiếm ưu thế ở đây chỉ có một sự khinh bỉ ra mặt. Hắn như thể đang nghĩ đến một cái gì buồn cười và ngu xuẩn, đang ghét cay ghét đắng và khinh miệt một người nào đấy, đang vui mừng vì một chuyện gì đấy và chỉ đợi lúc thuận tiện là ném thẳng ra một câu nhạo báng và cười lên ha hả. Cái mũi dài, đôi môi dày mọng và đôi mắt lồi tinh anh của hắn hình như đều căng thẳng lên vì buồn cười. Nhìn vẻ mặt hắn, Kudmitsôp cười ngạo nghễ và hỏi:

– Xolomon, tại sao mùa hè năm nay anh không đến chợ phiên Do Thái ở N. để biểu diễn cho chúng tôi xem?

Iegoruska cũng còn nhớ rõ là hai năm trước đây, ở chợ phiên N., Xolomon có lên một sân khấu ngoài trời kể lại những chuyện lấy trong sinh hoạt của người Do Thái và rất được hoan nghênh. Câu hỏi thăm nhắc nhở đến việc này không gây được ở Xolomon một ấn tượng nào hết. Hắn lặng thinh không đáp, bỏ ra ngoài và một lát sau bưng ấm lò vào.

Đặt ấm lò bên bàn, hắn đứng ra một bên, khoanh tay trước ngực, đứng chân trước chân sau và giương đôi mắt ngạo nghễ nhìn chăm chăm vào cha Khrixtophor. Trong tư thế của hắn có một cái gì thách thức, trịch thượng và khinh mạn, nhưng đồng thời lại có một cái gì hết sức tội nghiệp và khôi hài, vì kiểu đứng của hắn càng oai vệ bao nhiêu thì càng nổi bật lên tiền cảnh cái quần ngắn cũn cỡn, cái áo chật ních, cái mũi đầy phong vị biếm họa và cả cái dáng dấp giống như con chim bị vặt lông của hắn.

Moixây Moixêíts lấy một chiếc ghế đẩu ở phòng bên sang và ngồi xuống cách cái bàn một quãng.

– Chúc ăn ngon miệng! Mời các vị xơi nước chè đường! – ông ta bắt đầu tiếp chuyện khách. – Mời các vị xơi cho ấm bụng. Thật quý hóa quá, cha Khrixtophor thì đã năm năm nay con không được gặp. À, mà không có vị nào vui lòng nói cho tôi biết cậu xinh đẹp này là con ai à? – ông ta vừa hỏi vừa âu yếm nhìn Iegoruska.

– Con trai bà chị tôi, bà Onga Ivanốpna đấy, – ông Kudmitsốp đáp.

– Thế cậu ấy đi đâu?

– Đi học. Chúng tôi đưa cháu vào trường đây.

Moixây Moixêíts vì lịch sự, làm ra một vẻ mặt kinh ngạc và nghiêng nghiêng cái đầu ra vẻ quan trọng.

– Ồ, tốt lắm, tốt lắm! – ông ta vừa nói vừa giơ ngón tay ra dọa cái ấm lò. – Tốt lắm! Học ở trường ra là thành một ông lớn oai đến nỗi tất cả chúng tôi đều phải ngả mũ chào. Cậu sẽ thành một người thông minh, giàu có, tự trọng, mẹ cậu sẽ tha hồ vui mừng. Chà quý hóa thật!

Ông ta im lặng một lát, vuốt vuốt lên hai đầu gối rồi nói tiếp, giọng đùa cợt một cách cung kính:

– Xin cha bỏ quá cho con, cha Khrixtophor ạ, chứ con đang định viết giấy cho đức giám mục để thưa là cha đang cắt mất miếng ăn của bọn lái buôn chúng con. Con sẽ lấy giấy tín chỉ viết rằng như thế là cha Khrixtophor có bấy nhiêu tiền vẫn chưa thấy đủ, thành thử cha bèn làm thương mại và bắt đầu mang lông cừu đi bán.

– Phải, già rồi cha mới nghĩ ra cái sự này… cha Khrixtophor nói đoạn cười ha hả. – Cha bỏ nghề linh mục tín chỉ sang làm lái buôn đấy anh bạn ạ. Giờ này đáng lẽ được ngồi nhà mà cầu nguyện thì cha lại rong ruổi như ông Pharaôn(9) trên xa giá đấy… Thật là vất vả!

– Nhưng cha lại được nhiều tiền!

– Lấy đâu ra tiền! Chỉ ăn cái bánh vẽ chứ làm gì có tiền. Hàng có phải của cha đâu, của thằng Mikhailo con rể cha đấy!

– Sao anh ta lại không tự đi bán lấy?

– Ấy cũng vì… Miệng nó còn hơi sữa mà. Mua lông cừu thì mua rồi, nhưng đem bán thì không đủ trí khôn, còn trẻ lắm. Bao nhiêu tiền riêng đều tiêu hết sạch, muốn kiếm chác thêm, muốn hư trương thanh thế, nhưng đi đây đi đó mãi mà chẳng ai trả được ngang giá vốn. Anh chàng cứ chạy vạy như thế dễ có đến một năm, rồi đến tìm cha, nói: “Bố ơi, bố làm phúc đi bán lông cừu đi! Con chẳng hiểu chút gì về những chuyện này!” Ấy cơ sự nó thế đấy. Hễ động có chuyện gì là y như rằng gọi bố ơi, chứ khi trước thì không có bố cũng xong. Khi mua thì không hỏi, nhưng bây giờ thì lại bố ơi. Còn bố thì sao? Bố mà không có ông Ivan Ivanứts thì bố cũng chẳng được cái việc gì. Thật đến vất vả với chúng nó!

– Phải, vất vả vì con cái lắm, để con nói cha nghe! – Moixây Moixêíts thở dài. – Bản thân con đây có sáu đứa. Đứa thì phải dạy, đứa thì phải chữa thuốc, đứa thì bế trên tay, rồi đến khi chúng nó lớn lên lại càng vất vả. Mà không phải chỉ thời bây giờ, trong Kinh Thánh cũng đã nói thế rồi. Khi Iakốp(10) có con nhỏ, ông ta khóc, rồi đến khi con lớn lên, ông lại càng khóc tợn!

– Hừm phải… – cha Khrixtophor tán thành, mắt nhìn cái cốc có chiều tư lự. – Nói cho đúng ra, cha bây giờ cũng chẳng có thể làm gì đến nỗi để Chúa phải giận, cha đã sắp hết đời rồi, cũng chẳng thua kém gì ai… Mấy đứa con gái cha đều đã lấy chồng tốt bụng, mấy đứa con trai thì cha đã dạy dỗ thành người cả, bây giờ thì cha đã thảnh thơi, việc cha cha đã làm xong, muốn đi đâu cũng được. Cha sống với bà nó ở nhà cũng êm thấm, ăn, uống rồi ngủ nghê, vui với lũ cháu và cầu nguyện Chúa, còn ngoài ra chẳng thiết gì hơn thế nữa. Cha bây giờ thật ung dung thư thái, chẳng cần biết đến ai nữa. Cha chẳng hề bao giờ có gì buồn phiền, và đến bây giờ giả sử như Nga hoàng có hỏi: “Ngươi cần gì? Ngươi muốn gì?” thì cha sẽ đáp: nào kẻ bày tôi có cần gì đâu! Cái gì kẻ bày tôi cũng đủ và cái gì kẻ bày tôi cũng nhờ ơn Chúa mà có được. Trong cả thị trấn không có người nào sung sướng hơn cha. Chỉ có điều là tội cha nhiều lắm, vả chăng nói làm gì, chỉ một mình Chúa là không có tội mà thôi. Có đúng không nào?

– Thế thì đúng rồi.

– Ấy, dĩ nhiên răng không còn, lưng còng vì tuổi tác, lại thêm chứng này tật nọ, bị khó thở này kia, thôi thì đủ… Cha đau ốm luôn, sức lực chẳng còn, nhưng ông cũng biết đấy, sống đủ rồi! Sắp tám mươi tuổi! Không thể sống mãi được đâu, cũng phải biết điều chứ.

Cha Khrixtophor bỗng sực nhớ ra điều gì, phì cười bắn cả vào cốc rồi bật ho lên vì cười. Moixây Moixêíts vì phép lịch sự, cũng phì cười và bật ho lên.

– Buồn cười quá! – cha Khrixtophor khoát tay nói. – Thằng Gavrila, con cả cha vẫn thường đến thăm cha. Hắn vốn ngành y tế, làm bác sĩ của hội đồng tự quản tỉnh Tsernigốp(11)… Thôi được… Cha mới nói với hắn ta: “Đây này, bố lại thêm chứng này tật nọ… Anh là bác sĩ, anh hãy chữa cho bố đi!” Hắn ta lập tức cởi áo cha ra gõ gõ, nghe nghe làm đủ điều… nắn cả bụng nữa, rồi nói: “Bố ạ, bố phải chữa bằng hơi ép”.

Cha Khrixtophor cười ngặt nghẽo, cười đến ứa nước mắt ra rồi, đứng dậy.

– Cha mới nói với hắn: “Bố cũng xin vái cái hơi ép của mày thôi!” – cha vừa nói vừa cười, cả hai tay vung lên. – Bố xin vái cái hơi ép của mày thôi!

Moixây Moixêíts cũng đứng dậy ôm bụng cười the thé lên như tiếng chó sủa.

– Bố xin vái cái hơi ép của mày! – cha Khrixtophor vừa cười vừa nhắc lại.

Moixây Moixêíts bắt giọng cao hơn và cười ngặt nghẽo đến nỗi chỉ chực ngã.

– Trời ơi là trời… – ông ta rên rỉ giữa tiếng cười. – Cho tôi thở với… Buồn cười quá chừng, đến nước này thì… ôi… đến chết mất.

Ông ta vừa cười vừa nói, nhưng đồng thời cũng e sợ và ngờ vực liếc về phía Xolomon. Xolomon vẫn đứng nguyên ở tư thế cũ, và cười nụ. Cứ trông đôi mắt và nụ cười của hắn, có thể thấy là hắn khinh bỉ và căm ghét thực sự, nhưng tâm trạng đó ít ăn nhập với cái dáng chim bị vặt lông của hắn đến nỗi Iegoruska có cảm giác là hắn cố ý chọn cái tư thế có vẻ khiêu khích như vậy, cái vẻ mặt chua cay, khinh bỉ như vậy để đóng vai hề mua vui cho các khách quý.

Sau khi im lặng uống hết khoảng sáu chén trà, ông Kudmitsốp dọn sạch một khoảng trên bàn ở trước mặt ông ta, lấy một cái túi ra – chính cái túi mà ông dùng để gối đầu khi nằm ngủ dưới chiếc xe ngựa – cởi nút dây buộc và rũ ngược nó xuống. Từ trong túi đổ xuống bàn một đống giấy bạc buộc thành từng xấp.

– Trong khi hãy còn thì giờ, ta thử đếm một chút đi cha Khrixtophor ạ, – Kudmitsốp nói.

Trong thấy tiền, Moixây Moixêíts ngượng nghịu đứng dậy và ra điều mình là người tế nhị không muốn biết những điều bí mật của kẻ khác, ông ta rón rén ra khỏi phòng, hai tay đung đưa. Xolomon vẫn đứng nguyên chỗ cũ.

– Giấy một rúp thì mỗi xấp bao nhiêu? – cha Khrixtophor mở đầu.

– Mỗi xấp năm mươi rúp… Giấy ba rúp thì mỗi xấp chín mươi rúp… Giấy hai mươi nhăm và một trăm thì mỗi xấp một nghìn rúp. Cha đếm độ bảy nghìn tám trăm rúp cho Varlamốp, còn tôi sẽ đếm cho Guxevíts. Nhưng cha xem cẩn thận đừng đếm nhầm đấy…

Iegoruska chưa hề bao giờ trông thấy nhiều tiền như thế ở trên bàn. Số tiền chắc nhiều lắm, vì cái xấp có bảy nghìn tám trăm rúp mà cha Khrixtophor để riêng ra cho Varlamốp so với cả đống có vẻ rất nhỏ. Giá phải lúc khác chắc một khối tiền như thế phải khiến Iegoruska kinh ngạc và gợi cho nó suy tính xem thử ngần ấy tiền có thể mua bao nhiêu bánh mì vòng, bao nhiêu cờ xương, bao nhiêu bánh rắc hạt anh túc? Nhưng bây giờ thì nó nhìn đồng tiền một cách dửng dưng và chỉ ngửi thấy cái mùi quả táo thối và mùi dầu hỏa rất khó chịu từ đống tiền bốc lên. Nó đã mệt lả vì bị xóc xe và chỉ muốn ngủ. Đầu nó cứ trĩu xuống, mắt nó cứ ríu lại, và ý nghĩ của nó rối tung như nắm chỉ. Giá có thể, nó sẽ khoái trá gục đầu xuống bàn, nhắm mắt lại để khỏi trông thấy ngọn đèn và những ngón tay đang cử động trên đống tiền, và sẽ để cho những ý nghĩ uể oải, chập chờn của nó rối tung lên hơn nữa. Khi nó cố cưỡng lại giấc ngủ đang lấn tới thì ngọn đèn, mấy cái chén và mấy ngón tay kia đều tách ra thành hai, cái ấm lò thì nghiêng ngả, còn mùi táo thối có vẻ như nồng nặc hơn và khó chịu hơn nữa.

– Chà, tiền với bạc! – cha Khrixtophor mỉm cười thở dài. – Đến khổ vì mày! Bây giờ thằng Mikhailo nhà tôi chắc đang nằm mơ thấy tôi đưa về cho nó một đống tiền như thế này.

– Cái anh Mikhailo của cha là một người chẳng hiểu biết được bao lăm, – Kudmitsốp nói khe khẽ, – anh ta xông vào một việc chẳng hợp với mình, còn cha thì cha hiểu rõ và có thể suy xét được. Tốt hơn là cha cứ giao chỗ lông cừu của cha cho tôi, như tôi đã bàn, còn cha thì cứ quay trở về, tôi sẽ trả cha hơn giá vốn nửa rúp cũng được, mà như thế chẳng qua cũng vì kính nể cha…

– Không, ông Ivan Ivanứts ạ, – cha Khrixtophor thở dài. – Xin cám ơn ông đã có lòng quan tâm… Dĩ nhiên, nếu tôi có thể làm theo ý riêng thì còn nói chuyện làm gì, đằng này ông cũng biết là hàng chẳng phải của tôi…

Moixây Moixêíts rón rén đi vào. Vì tế nhị, ông ta cố gắng không nhìn vào đống tiền, mon men đến cạnh Iegoruska và kéo vạt áo của cậu bé một cái.

– Ra đây, cậu, – ông ta nói khe khẽ, – ra đây mà xem con gấu! Khiếp lắm, dữ lắm! Chà!

Iegoruska đã buồn ngủ lắm rồi. Nó uể oải đứng dậy lê gót theo Moixây Moixêíts để đi xem gấu. Nó bước vào một căn phòng nhỏ: ở đây, chưa trông thấy gì nó đã thấy khó thở vì một mùi gì chua và mốc, ở đây còn nồng nặc hơn ở ngoài phòng lớn nhiều, và có lẽ chính từ chỗ này mà nó lan ra khắp nhà. Một nửa căn buồng bị một cái giường lớn choán hết, trên giường phủ một tấm chăn bông chần thô cáu bẩn, nửa kia thì dành cho một cái tủ ngăn và mấy đống quần áo cũ đủ các loại, từ những chiếc váy hồ cứng cho chí những cái quần và dải treo quần của trẻ con. Trên tủ ngăn có một ngọn nến mỡ bò cháy leo lét.

Thay cho con gấu đã hứa, Iegoruska trông thấy một bà Do Thái to béo, tóc xõa lòa xòa, mặc áo phơlanen màu đỏ có chấm đen, bà ta đang vần cái thân hình một cách nặng nhọc trong cái khoảng hở giữa cái giường và cái tủ ngăn, phát ra những tiếng thở kéo dài, rên rỉ, như thể bà ta đang đau răng vậy. Trông thấy Iegoruska, bà ta làm ra một vẻ mặt mếu máo như khóc, thở một tiếng rõ dài, và nó chưa kịp định thần thì bà đã đưa vào sát mồm nó một mẩu bánh mì phết mật.

– Ăn đi cậu bé, ăn đi! – bà ta nói. – Cậu ở đây chẳng có mẹ, chẳng có ai cho cậu ăn cả. Cậu ăn đi.

Iegoruska cầm lấy ăn, tuy sau những miếng đường phèn và những chiếc bánh rắc hạt anh túc mà nó vẫn ăn hàng ngày ở nhà, nó chẳng thấy có gì ngon trong chút mật có lẫn cả sáp ong và cánh ong đến một nửa. Nó ăn, còn Moixây Moixêíts và bà Do Thái thì nhìn nó và thở dài.

– Cậu đi đâu thế cậu bé? – bà Do Thái hỏi.

– Đi học ạ, – Iegoruska nói.

– Mẹ cậu được bao nhiêu các cậu các cô?

– Chỉ có một mình cháu. Ngoài ra không còn ai nữa.

– Ồ! – bà Do Thái thở dài rồi ngước mắt lên trần. – Tội nghiệp cho mẹ cậu quá! Thế thì bà ấy tha hồ mà buồn, mà khóc! Một năm nữa chúng tôi cũng đưa thằng Naum nhà tôi đi học! Ồ!

– Chà, Naum, Naum! – Moixây Moixêíts thở dài, và lớp da xanh xao trên mặt ông giật lên từng đợt. – Nó ốm thế kia thì…

Cái chăn cáu bẩn động đậy, và từ dưới chăn ló ra một cái đầu trẻ con tóc xoăn tít trên một cái cổ rất mảnh; hai con mắt đen láy sáng lên long lanh, và tò mò nhìn chằm chằm vào Iegoruska. Moixây Moixêíts và bà Do Thái, vẫn không thôi thở dài, đến đứng cạnh tủ ngăn và bắt đầu nói chuyện gì bằng tiếng Do Thái. Moixây Moixêíts nói khe khẽ tiếng rất trầm, và nói chung những câu Do Thái của ông ta nghe như một tràng “gal-gal-gal-gal…” liên tục, còn bà vợ thì trả lời bằng một tiếng gà tây nheo nhéo, phát ra một chuỗi gì như thể “tu-tu-tu-tu”. Trong khi hai vợ chồng bàn bạc với nhau như vậy, từ dưới tấm chăn cáu bẩn thò ra một cái đầu tóc quăn cổ ngẳng nữa, rồi một cái thứ ba, rồi lại một cái thứ tư… Giá Iegoruska có được một trí tưởng tượng phong phú, nó có thể tưởng đâu dưới tấm chăn có một con rắn trăm đầu.

– Gal-gal-gal-gal… – Moixây Moixêíts nói.

– Tu-tu-tu-tu… – bà Do Thái đáp.

Cuộc đàm luận kết thúc bằng một tiếng thở dài thườn thượt của bà Do Thái, đồng thời bà ta chúi đầu vào cái tủ ngăn, giở một gói vải xanh xanh và lấy ra một chiếc bánh nướng rất to hình quả tim làm bằng lúa mì đen.

– Cầm lấy cậu, – bà vừa nói vừa đưa bánh cho Iegoruska. – Bây giờ cậu chẳng có mẹ, chẳng có ai mua bánh kẹo cho mà ăn.

Iegoruska đút chiếc bánh vào túi và lùi ra phía cửa, vì nó không còn thở nổi cái không khí mốc meo và chua loét trong buồng các chủ nhân nữa. Trở về gian phòng lớn, nó ngồi bó gối trên chiếc đivăng cho thật thoải mái và không còn kìm hãm dòng suy tư của mình nữa.

Ông Kudmitsốp vừa đếm tiền xong và đang bỏ tiền vào túi. Ông ta tỏ ra không lấy gì làm coi trọng đống tiền cho lắm, cứ vứt bừa vào cái túi bẩn một cách cẩu thả, vẻ thờ ơ, như thể đó không phải là tiền, mà là giấy lộn.

Cha Khrixtophor nói chuyện với Xolomon.

– Thế nào, chú Xolomon? – cha vừa hỏi vừa ngáp và làm dấu thánh lên miệng. – Công việc ra sao rồi?

– Cha muốn hỏi việc gì kia ạ? – Xolomon hỏi rồi nhìn cha một cách quỷ quyệt như thể cha vừa ám chỉ một tội ác nào của hắn.

– Nói chung ấy… Chú mày hiện đang làm gì?

– Tôi đang làm gì ấy à? – Xolomon hỏi lại rồi nhún vai. – Cũng như mọi người thôi… Cha cũng thấy đấy: tôi là thằng hầu. Tôi làm thằng hầu cho anh tôi, anh tôi làm thằng hầu cho khách qua đường, khách qua đường làm thằng hầu cho Varlamốp, và nếu tôi có được mười triệu thì Varlamốp sẽ làm thằng hầu cho tôi.

– Tại sao ông ta lại sẽ làm thằng hầu cho chú mày?

– Tại sao ấy à? Tại vì không có một ông chủ hay một nhà triệu phú nào mà lại không sẵn lòng liếm tay một thằng Do Thái bẩn thỉu để kiếm lấy một kôpếch lãi. Tôi bây giờ là một thằng Do Thái bẩn thỉu và nghèo đói, mọi người đều coi tôi như con chó, nhưng nếu tôi có tiền thì Varlamốp cũng sẽ bò lăn bò kềnh ra trước mặt tôi đúng như anh Moixây tôi trước mặt các ông.

Cha Khrixtophor và ông Kudmitsốp đưa mắt nhìn nhau. Cả hai đều không hiểu Xolomon nói gì. Kudmitsốp nghiêm nghị và lạnh lùng nhìn hắn rồi hỏi:

– Sao chú mày lại dám đặt mình ngang hàng với Varlamốp hả đồ ngốc?

– Tôi chưa ngốc đến nỗi tự đặt mình ngang hàng với Varlamốp, – Xolomon vừa đáp vừa nhìn qua những người tiếp chuyện một lượt, vẻ ngạo nghễ. – Varlamốp tuy là người Nga, nhưng tâm hồn thì lại là một gã Do Thái bẩn thỉu; suốt đời ông ta chỉ toàn là tiền với lãi, còn tôi thì tôi ném tiền vào lò sưởi. Tôi chẳng cần tiền, chẳng cần đất, chẳng cần cừu, tôi cũng chẳng cần người ta sợ tôi và bỏ mũ chào tôi khi tôi đi xe qua. Thế tức là tôi thông minh hơn cái ông Varlamốp của các ông và giống con người hơn!

Một lát sau, Iegoruska nửa mê nửa tỉnh nghe thấy Xolomon nói gì về người Do Thái mà giọng khản đi và rít lại vì một mối căm thù đang làm cho hắn nghẹt thở. Hắn nói hấp tấp giọng đơn đớt, lúc đầu còn nói đúng tiếng Nga, nhưng rồi lại chuyển sang giọng những người kể chuyện sinh hoạt Do Thái, bắt đầu nói như dạo nọ ở chợ phiên, cố ý dùng một giọng lơ lớ Do Thái xuyên tạc.

– Khoan đã, – cha Khrixtophor ngắt lời hắn. – Nếu chú mày không ưa cái tín ngưỡng của chú mày thì cứ theo đạo khác, chứ chế nhạo như thế là có tội đấy; kẻ nào báng bổ tín ngưỡng của mình thì kẻ ấy là đồ mạt hạng.

– Cha không hiểu gì hết! – Xolomon ngắt lời cha một cách thô lỗ. – Tôi nói một đằng, cha hiểu ra một nẻo.

– Đấy, có thể thấy rõ ngay chú mày là một thằng ngốc, – cha Khrixtophor thở dài. – Cha biết gì khuyên nấy, thế mà chú mày lại giận. Cha nói với chú như một người già cả, cha nói từ tốn, thế mà chú mày lại quang quác quang quác lên như con gà tây! Đồ gàn, thật đấy…

Moixây Moixêíts bước vào. Ông lo sợ nhìn Xolomon và nhìn mấy vị khách, rồi da mặt ông ta lại co giật. Iegoruska lắc mạnh mái đầu và đưa mắt nhìn quanh; trong một thoáng, nó trông thấy Xolomon đúng vào lúc cái mặt của hắn quay ba phần tư về phía mình và bóng cái mũi dài ngoằng của hắn vắt chéo ngang má trái hắn; nụ cười khinh bỉ pha lẫn với cái bóng này, đôi mắt ngạo nghễ long lên sáng quắc, vẻ mặt giễu cợt và tất cả cái dáng chim bị vặt lông của hắn, trông như nhân đôi và chập chờn trước mặt Iegoruska, khiến cho hắn bây giờ không giống một thằng hề nữa, mà giống như một cái gì đôi khi nằm mơ mới thấy, có lẽ giống một con yêu quái.

– Chú Xolomon nhà ông như bị ma ám ấy, ông Mơixây Moixêíts ạ, Chúa phù hộ cho hắn! – cha Khrixtophor mỉm cười nói. – Lẽ ra ông nên thu xếp cho hắn làm ăn ở đây hay cưới vợ cho hắn đi chứ… Trông chẳng ra người…

Kudmitsốp cau mày giận dữ. Moixây Moixêíts lại lo lắng nhìn thằng em và nhìn khách có ý dò hỏi.

– Xolomon, ra ngoài kia! – ông ta nói, giọng nghiêm khắc. – Ra đi!

Đoạn ông nói thêm mấy câu gì bằng tiếng Do Thái nữa. Xolomon cười sằng sặc và bỏ ra ngoài.

– Có chuyện gì thế ạ? – Moixây Moixêíts lo sợ hỏi cha Khrixtophor.

– Hắn quên hết cả phép tắc, – Kudmitsôp đáp. – Ăn nói thô lỗ, chẳng coi ai ra gì.

– Biết ngay mà! – Moixây Moixêíts hoảng hốt lên, vỗ tay đánh đét một cái. – Ôi lạy Chúa, lạy Chúa! – ông ta thều thào. – Thôi xin các vị làm phúc bỏ qua cho nó, đừng giận. Người gì mà lạ quá, lạ quá! Trời ơi, trời ơi! Nó là em ruột tôi thật, nhưng chỉ rặt làm khổ tôi, chứ chẳng được cái gì. Vì rằng, thưa cha với lại ông Kudmitsốp…

Moixây Moixêíts ngoáy ngoáy ngón tay bên thái dương và nói tiếp:

– Nó dở người đấy… nó hỏng rồi. Tôi chẳng còn biết làm thế nào nữa! Nó chẳng quý ai, chẳng nể ai, chẳng sợ ai hết… Thưa cha mấy lại… ai nó cũng chế nhạo, ăn nói toàn những chuyện tầm bậy, ai nó cũng châm chọc. Cha mấy lại ông đây không biết chứ có lần ông Varlamốp đến đây, không biết nó nói gì mà ông ấy lấy roi ngựa quất cả nó lẫn tôi… Nhưng tôi có tội tình gì? Có phải tại tôi đâu? Trời lấy mất trí khôn của nó, thế thì đó là ý trời, chứ có phải lỗi tại tôi đâu?

Dễ đến mười phút sau Moixây Moixêíts vẫn còn nói thều thào và thở dài thườn thượt:

– Ban đêm nó không ngủ, cứ nằm mà suy với nghĩ mãi, nhưng nó nghĩ những gì thì có trời biết. Đang đêm đến gần nó là nó nổi giận và cười khẩy. Tôi nó cũng không ưa… Mà nó chẳng mong muốn cái gì hết! Ông cụ tôi khi chết đi có để lại cho hai anh em mỗi đứa sáu nghìn rúp. Tôi mua cái quán, lấy vợ đến bây giờ đã có con, còn nó thì vứt tiền vào lò sưởi đốt hết. Tiếc đứt ruột đi, tiếc quá chừng! Đốt đi làm gì? Không cần thì cho anh, chứ sao lại đốt đi?

Bỗng cánh cửa mở đánh két một tiếng và sàn nhà rung lên dưới những bước chân người. Một luồng gió nhẹ phả vào người Iegoruska, và nó có cảm giác như có một con chim lớn màu đen huyền vừa bay qua và vỗ cánh ngay sát mặt nó. Nó mở mắt ra… Ông cậu nó, tay cầm cái túi sẵn sàng lên đường, đang đứng cạnh chiếc đivăng. Cha Khrixtophor, tay cầm chiếc mũ lễ rộng vành, đang cúi chào ai và mỉm cười, không phải dịu dàng và hiền hậu như mọi khi, mà lại là một nụ cười cung kính và gượng gạo, rất không ăn ý với vẻ mặt của cha. Còn Moixây Moixêíts thì người như gãy làm ba khúc, đang nghiêng ngả đung đưa và cố dùng đủ mọi cách để khỏi rời hẳn ra từng mảnh. Chỉ riêng Xolomon vẫn đứng yên ở góc nhà như không có chuyện gì xảy ra cả, tay khoanh trước ngực, môi vẫn mỉm cười khinh bỉ như trước.

– Thưa bà, xin bà thứ lỗi cho, nhà chúng tôi không được sạch! – Moixây Moixêíts rên rỉ với nụ cười cực lạc trên môi; lúc bấy giờ ông ta không còn để ý gì đến Kudmitsốp và cha Khrixtophor nữa, chỉ lo đung đưa cả người để khỏi rời ra từng mảnh. – Chúng tôi là kẻ hèn mọn, thưa bà!

Iegoruska dụi mắt. Quả nhiên có một bà đang đứng giữa phòng. Đó là một thiếu phụ còn trẻ măng, rất đẹp, người đầy đặn, mình mặc áo dài đen, đầu đội mũ rơm. Trước khi Iegoruska có đủ thì giờ nhìn kỹ nét mặt của bà, không hiểu sao nó cứ hồi tưởng lại cây dương thanh tú mà chiều hôm nay nó vừa trông thấy đứng cô độc trên ngọn đồi.

– Hôm nay Varlamôp đã đi qua đây chưa? – một giọng phụ nữ hỏi.

– Thưa bà chưa ạ! – Moixây Moixêíts đáp.

– Nếu ngày mai ông có gặp thì bảo ông ấy ghé qua tôi một chút nhé.

Bỗng nhiên, hoàn toàn bất ngờ, cách mắt nó chỉ độ nửa gang tay, Iegoruska trông thấy một đôi lông mày đen dịu như nhung, hai con mắt to màu nâu nhạt và đôi má đàn bà mịn màng có lúm đồng tiền, và từ hai cái lúm này, như những tia nắng tỏa rát từ vầng thái dương, một nụ cười tươi tắn tỏa ra khắp gương mặt. Không khí thoang thoảng một mùi hương huyền diệu.

– Chú bé xinh quá! – bà nói. – Con ai thế này? Kadimirơ Mikhailôvíts xem này, kháu quá đi mất! Trời ơi, nó ngủ! Chú bé mũm mĩm trông yêu quá!…

Bà mệnh phụ hôn thật mạnh lên hai má của Iegoruska. Nó mỉm cười, và tưởng mình đang ngủ, nó nhắm mắt lại. Bản lề cánh cửa ra vào lại két lên, và có tiếng ai bước vội vã: một người nào đó vừa đi vào, rồi lại ra ngay.

– Iegoruska, Iegoruska! – có tiếng thì thào rất to của hai người cùng gọi một lúc. – Dậy mà đi lên xe!

Có một người nào đấy, có lẽ là Đenixka, dựng Iegoruska dậy và cầm tay nó dắt đi; dọc đường nó mở hé mắt ra và một lần nữa lại trông thấy người thiếu phụ kiều diễm mặc áo đen vừa hôn nó. Bà ấy đang đứng ở giữa phòng nhìn theo nó, mỉm cười và thân ái gật đầu chào nó. Ra gần đến cửa, nó trông thấy một người đàn ông tóc đen vạm vỡ đẹp trai, đội mũ nồi, chân đi ủng. Chắc đó là người tùy tòng của bà mệnh phụ.

– Prrr!… – trong sân có ai giục ngựa.

Bên thềm Iegoruska trông thấy một chiếc xe song mã sang trọng màu đen mới tinh, và một cặp ngựa ô. Ngồi trên ghế xà ích là một người hành bộc mặc áo dấu, tay cầm một cây roi ngựa dài. Ra tiễn mấy người lên đường chỉ có một mình Xolomon. Mặt hắn căng thẳng vì buồn cười; hắn trông như thể rất nóng lòng chờ cho khách đi khỏi để cười họ cho thật thỏa thuê.

– Bá tước phu nhân Đranítxkaia đấy, – cha Khrixtophor vừa thì thầm vừa leo lên xe.

– Vâng, bá tước phu nhân Đranítxkaia đấy, – ông Kudmitsốp cũng thì thầm nhắc lại.

Sự xuất hiện của bá tước phu nhân chắc phải gây nên một ấn tượng rất mạnh, vì ngay đến Đenixka cũng nói thì thầm và chỉ dám bắt đầu quất roi và quất ngựa khi chiếc xe đã đi được một phần tư vécxta, và xa xa, ở chỗ cái quán trọ, chỉ còn trông thấy một đốm lửa lờ mờ.

 

IV.

THẾ THÌ RỐT CỤC cái ông Varlamốp ấy là ai mà bí ẩn, khó gặp thế? Là ai mà người ta nhắc nhở nhiều thế, là ai mà Xolomon khinh bỉ, nhưng ngay đến bà bá tước xinh đẹp kia cũng cần đến? Ngồi bên cạnh Đenixka trên chiếc ghế xà ích, Iegoruska trong khi chập chờn nửa mê nửa tỉnh chỉ nghĩ đến con người ấy. Nó chưa bao giờ trông thấy ông ta, nhưng rất hay nghe người ta nói đến và đã nhiều lần tưởng tượng hình dáng ông ta trong trí óc. Nó được biết rằng ông Varlamốp có mấy chục ngàn đêxiachina(12) đất, khoảng chục vạn con cừu và rất nhiều tiền, về nếp sinh hoạt và công việc của ông ta thì Iegoruska chỉ biết là ông ta bao giờ cũng “quanh quẩn đâu đây” và lúc nào người ta cũng đi tìm ông.

Ở nhà, Iegoruska cũng được nghe nói nhiều về bá tước phu nhân Đranítxkaia. Phu nhân cũng có mấy chục ngàn đêxiachina đất, rất nhiều cừu, một trại nuôi ngựa, tiền bạc như nước, nhưng lại không “quanh quẩn”, mà chỉ ở nhà, trong một tòa dinh thự tráng lệ. Về tòa dinh thự này những người quen và Ivan Ivanứts vốn đã có việc đến nhà phu nhân mấy lần, có kể lại rất nhiều điều kỳ diệu; chẳng hạn, họ nói rằng trong phòng khách của phu nhân có treo chân dung của tất cả các nhà vua Ba Lan, lại có một chiếc đồng hồ rất lớn hình một tảng đá trên có một con ngựa bằng vàng mắt kim cương đứng chổng hai vó trước lên, và trên lưng ngựa có một kỵ sĩ bằng vàng, cứ mỗi lần đồng hồ điểm giờ thì lại vung gươm chém sang phải một nhát, rồi chém sang trái một nhát. Họ còn kể rằng cứ mỗi năm hai lần bá tước phu nhân mở vũ hội mời những người quý tộc và công chức khắp tỉnh về dự, và ngay cả Varlamốp cũng đến. Khách khứa đều uống trà đun trong những chiếc ấm lò bằng bạc, toàn ăn những món phi thường (chẳng hạn vào mùa đông, nhân lễ Giáng Sinh, họ dọn quả mâm xôi và dâu tây tươi ra mời khách), và nhảy múa theo tiếng nhạc ngày đêm không lúc nào ngớt…

“Mà sao bà ấy đẹp thế!” – Iegoruska nghĩ khi nhớ lại gương mặt và nụ cười của bà.

Ông Kudmitsốp hình như cũng đang nghĩ tới bá tước phu nhân, vì khi xe đã đi được khoảng hai vécxta, ông nói:

– Nói chứ cái thằng cha Kadimirơ Mikhailôvíts ấy bòn của bà ta cũng đã lắm của! Hai năm trước đây, hồi tôi đến mua lông cừu của bà ấy, cha có nhớ không, chỉ riêng món của tôi hắn đã bỏ túi được khoảng ba nghìn.

– Cái quân Ba Lan ấy thì còn phải nói, – cha Khrixtophor nói.

– Mà bà ấy thì biết đâu đến những chuyện đó. Người ta vẫn nói, trẻ nhưng mà ngu. Nhẹ dạ chết đi ấy mà!

Không hiểu sao Iegoruska chỉ muốn nghĩ đến Varlamốp và bá tước phu nhân, đặc biệt là bá tước phu nhân thôi. Bộ óc đang buồn ngủ của cậu bé khước từ hẳn những ý nghĩ thông thường, nó lu mờ đi và chỉ giữ lại những hình ảnh thần tiên, huyền hoặc, vốn có cái tiện là mỗi hình ảnh như thế đều tự nhiên, hiện ra trong óc, không cần người nghĩ phải mất công chút nào, và cũng tự khắc biến đi không để lại một dấu vết – chỉ cần lắc đầu một cái rõ mạnh. Vả lại, cảnh vật xung quanh cũng không gợi cho nó những ý nghĩ thông thường. Ở bên phải lù lù những quả đồi tối đen có vẻ như đang che giấu ở phía sau một cái gì bí ẩn và ở bên trái, cả khoảng phía trên chân trời đều ửng lên thành một cái ráng màu huyết dụ, và khó lòng có thể hiểu được đấy là ánh lửa của một đám cháy ở đâu đây, hay là ở phía ấy trăng sắp lên. Khoảng xa cũng nom thấy rõ như ban chiều, nhưng cái màu tím dịu của nó bị bóng đêm xóa mờ đi và đã mất hẳn, và cả thảo nguyên đều nấp vào bóng tối như mấy đứa con của Moixây Moixêíts nấp dưới tấm chăn vậy.

Vào những buổi tối và những đêm tháng Bảy không còn có tiếng cun cút và chim cuốc kêu nữa, họa mi không hót trong những khe rừng, không có mùi hương của các loài hoa, nhưng thảo nguyên vẫn đẹp và đầy sức sống. Mặt trời mới lặn và mặt đất vừa chìm trong bóng tối thì nỗi u buồn của buổi ban ngày đã bị quên lãng ngay đi, tất cả đều được tha thứ, và thảo nguyên thở nhẹ nhõm, căng hết cả lồng ngực rộng mênh mông lên. Như thể vì trong bóng tối cỏ không trông rõ được cái già nua của mình, nó phát ra những âm thanh rộn rã, tươi vui và trẻ trung mà ban ngày không hề nghe thấy; tiếng răng rắc, tiếng huýt gió, tiếng sột soạt, những giọng trầm, giọng trung và giọng bổng của thảo nguyên – tất cả đều hòa lẫn lại thành một tiếng rì rầm liên tục đơn điệu, một tiếng nhạc đệm rất dễ chịu cho những kỷ niệm và những ý nghĩ buồn buồn. Tiếng lách tách đơn điệu ru hồn ta như một điệu hát ru con; ta ngồi trên xe, cảm thấy mình thiu thiu dần, nhưng từ một phía nào lại nổi lên tiếng kêu đứt quãng, lo lắng của một con chim đang thức hay vẳng lại một âm thanh mơ hồ giống như một giọng người đang ngạc nhiên kêu lên: “a!”, nhưng rồi giấc ngủ thiu thiu lại hạ mi mắt ta xuống. Cũng có khi xe chạy ngang một cái khe nhỏ mọc đầy những bụi rậm, ta nghe thấy tiếng một con chim mà dân thảo nguyên gọi là “chim ngủ”, đang phân trần với ai: “Tôi ngủ! Ngủ! Ngủ!” hay tiếng một con chim khác cười khanh khách hay khóc lên nức nở: đó là con cú. Chúng nó kêu lên với ai, ai nghe nó trên dải đồng bằng này thì có trời biết được, nhưng trong tiếng kêu của nó chứa chan nỗi buồn và ý than vãn… Thoang thoảng mùi rơm rạ, mùi cỏ khô và mùi hoa nở muộn, nhưng mùi hương ấy nồng đậm, ngòn ngọt và dịu dàng.

Qua màn đêm có thể trông thấy mọi vật, nhưng khó nhận ra màu sắc và đường nét của từng cái một. Cái gì cũng hiện ra dưới một dáng vẻ khác thật. Xe đang đi, thì ta chợt thấy phía trước bên vệ đường có một bóng đen giống như ông tu sĩ; ông ta đứng yên không nhúc nhích, dáng chờ đợi, tay lăm lăm một vật gì… Kẻ cướp chăng? Cái bóng người nhích gần tới, to dần lên, và đã đến ngay tầm xe, lúc bấy giờ ta mới thấy rằng đó không phải là một con người, mà là một bụi cây đứng cô độc hay một tảng đá. Những bóng đen im lìm, dáng chờ đợi ai như thế thường thấy trên những quả đồi, nấp sau những gò đất, lấp ló sau một bụi rậm, và tất cả đều giống như những bóng người và đều khiến ta phải nghi ngại.

Và khi trăng lên, đêm trở nên nhợt nhạt và uể oải. Sương mù như không còn nữa. Không khí trong suốt, tươi lành và ấm áp, có thể nhìn rõ mọi phía, và còn có thể thấy được cả từng thân từng nhánh của những bụi cây mọc sát vệ đường. Trong một khoảng khá xa có thể trông rõ những cái sọ súc vật và những tảng đá. Những bóng đen khả nghi giống như những ông tu sĩ, bây giờ nổi lên trên cái nền sáng của đêm trăng, trông lại càng đen hơn và có vẻ ảm đạm hơn. Tiếng “a-a!” ngạc nhiên của ai đó và tiếng kêu của một con chim đang thao thức hay đang mê ngủ gì đấy bây giờ vang lên mau hơn giữa tiếng lách tách đơn điệu, khua động làn không khí im lìm. Có những cái bóng rộng chờn vờn trên mặt cỏ phẳng lặng như những đám mây trôi trên trời, và trong khoảng không xa tắp, nếu nhìn thật kỹ thì thấy nổi lên cao và chồng chất lên nhau những hình ảnh mơ hồ cổ quái… Ta thấy hơi rờn rợn, phải nhìn lên bầu trời màu lục nhạt lốm đốm sao, không có một đám mây, một vết gợn nào, ta mới hiểu tại sao làn không khí ấm áp lại im lìm, tại sao thiên nhiên lại thủ thế không dám động đậy: nó thấy sợ và tiếc, không nỡ để mất dù chỉ là một khoảnh khắc của cuộc đời. Chỉ ở ngoài biển hay trên thảo nguyên vào một đêm trăng mới có thể lường được chiều sâu vô tận và chiều rộng vô biên của bầu trời. Bầu trời ấy đáng sợ, đẹp đẽ và âu yếm, nó nhìn ta đắm đuối và quyến rũ ta về với nó, và sự mơn trớn của nó làm cho ta thấy chóng mặt nôn nao.

Xe đi được một vài giờ gì đấy… Trên đường đi thỉnh thoảng lại gặp một ngọn gò già nua thầm lặng hay một tảng đá hình mụ đàn bà, có trời biết, do ai đặt đấy, và đặt tự bao giờ, một con chim đêm bay trên cao không một tiếng động, và dần dần trong ký ức lại hiện lên những truyền thuyết về thảo nguyên, những mẩu chuyện của những người gặp ở giữa đường, những câu chuyện cổ tích của các bà vú em vùng thảo nguyên và tất cả những gì mà ta đã thấy được, mà tâm hồn ta đã hiểu thấu. Đến lúc bấy giờ trong tiếng lách tách râm ran của côn trùng, trong những bóng đen khả nghi, và trong những gò đất, trong bầu trời cao, trong ánh trăng, trong dáng bay của con chim ăn đêm, trong tất cả những gì mà ta nghe, ta thấy đều như hiện rõ sự toàn thắng của cái đẹp của sự trẻ trung, của sức mạnh tràn trề và sự khát khao tha thiết đối với cuộc sống; tâm hồn lên tiếng đáp lại tiếng gọi của quê hương diễm lệ, khắc khổ, và ta thấy thèm được bay trên thảo nguyên như con chim ăn đêm. Và trong sự toàn thắng của cái đẹp, trong hạnh phúc tràn trề ta cảm thấy có sự khắc khoải và nhớ nhung, tựa hồ như thảo nguyên tự biết rằng mình cô độc, rằng sự phong phú và nguồn cảm hứng mà nó chứa đựng sẽ bị thế gian để cho mai một đi một cách phí hoài, không được ai ca ngợi và không có ích gì cho ai, và qua tiếng râm ran vui vẻ của nó ta nghe thấy một lời kêu gợi u hoài và tuyệt vọng: người ca ngợi đâu? Người ca ngợi đâu rồi?

– Prrr! Chào cụ Pantelây! Bình an cả chứ?

– Nhờ ơn Chúa, ông Ivan Ivanứts ạ!

– Anh em có gặp ông Varlamốp không?

– Không ạ, không gặp.

Iegoruska bừng tỉnh, mở mắt ra. Chiếc xe đã đỗ lại. Bên phải đường đi, đoàn xe chở hàng nối đuôi nhau kéo dài, mãi ra phía trước, bên đoàn xe có những bóng người lăng xăng đi đi lại lại. Xe nào cũng chở những kiện lông cừu lớn, thành thử trông cao ngồn ngộn, còn ngựa thì trông như bé loắt choắt chân thấp lè tè.

– Thế thì bây giờ ta sẽ đến xóm người theo đạo Kytô! – Kudmitsốp nói to. – Lão Do Thái nói là Varlamốp ngủ lại ở xóm người theo đạo Kytô. Vậy chào anh em nhé. Cầu Chúa phù hộ!

– Chào ông Ivan Ivanứts! – có tiếng mấy người đáp lại.

– Anh em ạ, bây giờ thế này nhé, – ông Kudmitsốp nói nhanh, – bây giờ anh em trông hộ thằng bé nhà tôi! Việc gì cứ bắt nó chạy đi chạy lại với chúng tôi? Bác Pantelây ạ, bác cho nó lên xe bác, cứ đi dần đi, chúng tôi đuổi theo sau. Cháu sang đi, Iegoruska, đi đi, không sao đâu!…

Iegoruska rời ghế xà ích tụt xuống. Mấy cánh tay nhấc bổng nó lên cao, và nó thấy mình ngất nghểu trên một đống gì to, mềm và hơi ẩm vì sương. Bây giờ nó có cảm giác là trời gần nó hơn, mà mặt đất thì xa đi.

– Này, cầm lấy cái áo khoác của mày! – Đenixka quát đâu ở tít dưới xa.

Chiếc áo khoác và chiếc tay nải được ném từ phía dưới lên rơi phịch xuống cạnh Iegoruska. Lúc bấy giờ nó không muốn nghĩ đến việc gì hết. Nó đút nhanh cái tay nải xuống dưới đầu, lấy cái áo khoác đắp lên người, và duỗi thẳng đôi chân ra, người so ro vì sương xuống lạnh, và cất tiếng cười khoái trá.

“Bây giờ thì ngủ, ngủ, ngủ…” – nó nghĩ.

– Nhưng mấy ông quỷ sứ chớ có xúc phạm nó đấy nhé! – có tiếng Đenixka ở phía dưới.

– Chào anh em nhé! Cầu Chúa phù hộ! – ông Kudmitsốp nói to. – Tôi trông cậy ở anh em đấy!

– Ông cứ yên tâm, ông Ivan Ivanứts ạ!

Đenixka quát ngựa, chiếc xe rít lên và chuyển bánh, nhưng không đi trên đường cái nữa, mà rẽ sang một bên. Trong khoảng hai phút im ắng hẳn đi, như thể đoàn xe chở hàng đã ngủ yên, chỉ nghe tiếng loảng xoảng của cái xô treo ở phía sau xe xa dần rồi tắt hẳn. Nhưng rồi ở phía trước đoàn xe có ai quát lên:

– Kiriukha, đi thôi!

Chiếc xe chở hàng đi đầu cọt kẹt chuyển bánh, rồi đến chiếc thứ hai, thứ ba… Iegoruska cảm thấy chiếc xe nó nằm lắc lư và cũng kêu lên cọt kẹt. Đoàn xe lên đường, Iegoruska nắm thật chặt sợi dây thừng ràng các bó lông cừu, lại cười lên một tiếng khoái trá, nắn lại cho ngay cái bánh nướng ở trong túi và bắt đầu thiếp đi như thường khi vẫn ngủ trên giường ở nhà…

Khi Iegoruska thức giấc thì mặt trời đã mọc; một cái gò che lấp nó đi, còn nó thì cố phun ánh sáng lên khắp thế gian, lên gân bắn thật mạnh các tia nắng ra khắp bốn phía và rót đầy vàng lên chân trời. Iegoruska có cảm giác là nó mọc không đúng chỗ, vì hôm qua nó mọc sau lưng chứ không phải chếch hẳn sang bên trái như bây giờ… Vả lại quang cảnh ở xung quanh cũng không giống như hôm qua. Chẳng thấy đồi đụn gì nữa, nhìn đi đâu cũng thấy một dải đồng bằng màu nâu hung khắc khổ trải rộng bát ngát; lác đác trên đồng bằng thấy những nấm đất nhô nhô lên và mấy con quạ hôm qua bay lượn. Xa xa ở phía trước thấy trăng trắng mấy cái tháp chuông và những ngôi nhà gỗ của một làng nào đấy: hôm nay là ngày chủ nhật, dân Ucraina ngồi nhà nấu nướng các thức ăn – có thể thấy rõ như vậy khi nhìn những làn khói bốc lên từ tất cả các ống khói và hòa lại thành một tấm màn trong suốt màu xám xanh lơ lửng trên thôn. Ở những khoảng cách giữa các nhà và phía sau nhà thờ thấy xanh xanh một dòng sông, và bên kia sông, cảnh vật chìm dần trong sương mù. Nhưng không có cái gì khác hôm qua cho bằng con đường. Thay cho con đường là một cái gì rộng rãi, phóng khoáng, dũng mãnh phi thường chạy dài trên thảo nguyên; đó là một dải thẳng màu xám, phẳng phiu và phủ bụi như mọi con đường khác, nhưng rộng đến mấy chục mét. Chiều rộng thênh thang của nó khiến cho Iegoruska băn khoăn và gợi lên trong trí nó những ý nghĩ hoang đường. Ai vẫn thường đi trên con đường này? Ai đi mà đường phải rộng như thế? Thật khó hiểu và kỳ dị. Quả có thể nghĩ rằng ở trên đất Nga này vẫn còn những con người khổng lồ như Ilya Murométx và Xolovây Radbôiních(13), và những con tuấn mã khổng lồ của các tráng sĩ vẫn chưa tuyệt giống. Iegoruska nhìn con đường mà mường tượng như nghe tiếng bánh xe lăn ầm ầm của sáu chiếc xe ngựa cao như kiểu xe trên những hình vẽ trong cuốn thánh sử đang xếp thành hàng ngang phóng nhanh; mỗi chiếc xe như vậy thắng sau con ngựa bất kham phi lồng lên, những đôi bánh xe cao tung bụi mù trời, và người cầm cương là những nhân vật mà ta vẫn thường trông thấy trong những giấc mơ hay ta vẫn tưởng tượng ra khi đang có một tâm tư huyền thoại. Vả lại những hình ảnh sẽ ăn ý biết bao nhiêu với thảo nguyên và con đường rộng thênh thang này, nếu những nhân vật ấy có thật!

Bên phải, suốt dọc đường đều có những cột điện tín hai dây. Càng xa càng nhỏ dần đi, dãy cột điện tín này chạy đến làng thì mất hút sau các ngôi nhà và các rặng cây, rồi lại hiện ra trong khoảng xa màu tím nhạt thành những cái que nhỏ và mảnh giống như những cây bút chì cắm xuống đất. Trên dây điện có những con ó, những con chim cắt và những con quạ đậu rải rác thản nhiên nhìn đoàn xe đang tiến tới.

Iegoruska nằm trên chiếc xe cuối đoàn cho nên có thể nhìn thấy cả đoàn xe. Cả đoàn xe có khoảng hai mươi chiếc, và cứ ba chiếc lại có một người áp tải. Bên cạnh chiếc xe sau, tức là chiếc của Iegoruska, có một ông già râu bạc, cũng gầy gò nhỏ bé như cha Khrixtophor, nhưng da mặt nâu sạm đi vì nắng, vẻ mặt nghiêm khắc và tư lự. Rất có thể ông già này chẳng nghiêm khắc mà cũng chẳng tư lự gì hết, nhưng đôi mi mắt đỏ và cái mũi dài nhọn hoắt của ông khiến cho gương mặt ông có cái vẻ nghiêm khắc, khô khan thường thấy ở những người đã quen luôn nghĩ đến những việc nghiêm trang và suy tưởng một mình. Cũng như cha Khrixtophor, ông đội một chiếc mũ lễ rộng vành, nhưng không phải loại mũ của các ông lớn, mà làm bằng dạ thô màu hung, trông giống một hình nón cụt hơn là một hình trụ. Ông đi chân không. Có lẽ vì một thói quen bắt đầu có từ những đêm đông giá lạnh đã nhiều lần phải đứng tê cóng bên cạnh chiếc xe, ông ta vừa đi vừa vỗ đùi đen đét và giẫm chân thật mạnh. Thấy Iegoruska đã thức dậy, ông nhìn nó và nói, người co ro như bị lạnh:

– À, cậu bé dậy rồi đấy à? Cậu là con trai ông Ivan Ivanứts phải không?

– Không ạ, cháu là cháu gọi ông ấy bằng cậu.

– Cháu của ông Ivan Ivanứts ấy à? Còn tôi thì tôi đã cởi giày đi chân không đây này. Chân tôi đau lắm, cóng hết rồi, không đi ủng thì dễ chịu hơn… Dễ hơn đấy cậu ạ… Nghĩa là nếu không đi ủng ấy… Thế cậu là cháu ông ấy? Ông ấy là người tốt, khá lắm… Cầu Chúa cho ông ấy được sức khỏe… Khá lắm… Ấy là tôi nói Ivan Ivanứts ấy… Ông ấy đến xóm người theo đạo Kytô rồi… Lạy Chúa phù hộ!

Ông già nói với cái giọng điệu như thể đang rét lắm, nói ngắt quãng và không buồn mở miệng cho hẳn hoi, các phụ âm phát âm bằng môi thì lạc hẳn đi vì môi cứ ríu lại như thể bị cóng. Trong khi nói với Iegoruska, ông không mỉm cười lần nào và trông có vẻ nghiêm nghị.

Cách hai xe nữa về phía trước có một người cầm roi ngựa mặc chiếc áo khoác dài màu hung đỏ, đội chiếc mũ lưỡi trai, chân đi đôi ủng tụt ống. Hắn ta chưa già, tuổi chỉ độ bốn mươi. Khi hắn ta ngoảnh lại, Iegoruska trông thấy một khuôn mặt dài, đỏ gay, có bộ râu dê thưa thớt và ở dưới mắt bên phải có một cái mụn cóc xôm xốp. Ngoài cái mụn cóc rất xấu này, hắn ta còn có một đặc điểm nổi bật nữa, đập ngay vào mắt: tay trái hắn ta cầm roi ngựa, còn tay phải huơ huơ lên như thể đang chỉ huy một đội hợp xướng vô hình. Chốc chốc hắn ta lại cặp roi vào nách: những lúc ấy hắn ta đánh nhịp bằng cả hai tay và hát ư ử trong mồm.

Người đánh xe đi trước nữa là một cái bóng dài và thẳng đuột, vai rất xuôi, và lưng thẳng như tấm ván. Người hắn ta thẳng đơ như thể đang đi ắc ê hay như thể vừa nuốt một cái thước, tay không đánh đàng xa, mà cứ buông thẳng xuống như hai cái gậy thẳng đuột, và dáng đi cứng đờ theo kiểu con rối hầu như không cong đầu gối và cố xoạc cho thật rộng bước; trong khi ông già hay cái ông có mụn cóc kia bước hai bước thì hắn chỉ có đủ thì giờ bước một bước, cho nên có thể tưởng như hắn đi chậm hơn mọi người và đang tụt dần lại sau. Mặt hắn quấn một mảnh giẻ và trên đầu có một cái gì như thể cái mũ chụp của tu sĩ; hắn mặc một chiếc áo ngắn kiểu Ucraina, loang lổ những miếng vá, một cái quần xanh rộng bỏ ngoài ủng, chân đi dép đan bằng thứ vỏ cây.

Những người đi trước nữa thì Iegoruska không nhìn rõ được. Nó nằm sấp trên đống hàng, xoi một cái lỗ trên bó lông cừu và tản mạn se lông cừu lại thành từng sợi dây dài dài. Ông già đang đi ở phía dưới té ra không đến nỗi khắc nghiệt và nghiêm trang như người ta có thể phán đoán qua bộ mặt của ông. Khi đã mở đầu câu chuyện rồi, ông ta cứ thế nói tiếp mãi.

– Thế cậu đi đâu? – ông ta vừa hỏi vừa giậm chân lạch bạch.

– Đi học ạ, – Iegoruska đáp.

– Đi học? Ái chà chà… Ấy, thế thì cầu Chúa trời cứu giúp. Được. Tam ngu thành hiền. Người thì Chúa phú cho một trí khôn, người thì Chúa cho hai, có người lại được những ba… Đúng thế, có người lại được những ba. Một trí khôn có sẵn từ khi mẹ sinh ra, một nữa là do học hành, còn trí khôn thứ ba là sống một cuộc đời tốt đẹp mà có. Thế cho nên ai mà có được ba trí khôn thì tốt lắm cậu ạ. Người như thế thì sống dễ chịu đã đành, nhưng chết cũng nhẹ nhõm hơn. Chết ấy… Mà phàm chúng ta ai cũng phải chết.

Ông già gãi trán, ngước đôi mắt đỏ hoe nhìn Iegoruska và nói tiếp:

– Ông Mắcxim Nikôlaíts, một ông chủ ở Xlavianoxerbxkơ, năm ngoái cũng cho cậu con trai đi học. Lão không biết cậu ta có học vấn ra sao, chứ cậu con thì khá lắm… Cầu Chúa ban cho sức khỏe, nhà ông ấy tốt lắm. Ấy, ông ấy cũng đưa con đi học… Ở Xlavianoxerbxkơ không có thứ trường để học cho ra học, hẳn thế. Không có đâu… Nhưng thị trấn ấy cũng khá… Trường thì có loại thông thường, cũng đủ để đỗ đạt xoàng xoàng, nhưng muốn có học thức cao thì không có… Không có, đúng thế. Cậu tên là gì nhỉ?

– Iegoruska.

– À, tức là Iegori… Ngày lễ thánh Đại Phước lộc tuẫn đạo Iegori Chiến thắng là ngày hai mươi ba tháng Tư. Còn tên lão là Pantelây. Lão là con trai ông Dakharơ… Họ nhà lão là họ Kholođốp… Lão sinh ở Tim, cậu có lẽ biết thị trấn ấy, thuộc tỉnh Kurxkơ. Các anh lão đều thành thị dân cả, đi làm nghề ở thành phố, còn lão thì vẫn là mugích… Bảy năm về trước lão có về đấy – tức là về quê ấy. Lão đã từng ở cả nông thôn lẫn thị trấn… Lão trước ở Tim mà. Lúc bấy giờ người nhà còn sống và khỏe mạnh cả, còn bây giờ ra sao thì lão không biết… Có lẽ cũng có người sống kẻ chết… Mà chết thì cũng là phải lúc, vì đều già cả rồi, nhiều người còn già hơn lão đây nữa. Chết thì chẳng sao, chết là tốt, dĩ nhiên miễn là đừng chết chưa xưng tội. Không có cái gì tệ hại hơn là chết chưa được rửa tội. Chết như thế là quỷ Sa tăng nó mừng lắm đấy. Mà muốn cho mình chết có rửa tội hẳn hoi, tức là để khỏi bị cấm cửa thiên đường, thì phải cầu nguyện bà thánh Đại phước lộc Varvara tuẫn đạo. Bà thánh ấy hay cứu giúp chúng sinh lắm. Bà ấy thế đấy… Chúa đã ban cho bà ở trên tầng lời một địa vị gần gụi Chúa, đặng ai nấy đều có đủ quyền cầu xin bà ấy lo chạy cho.

Lão Pantelây cứ thế nói lẩm bẩm, và hình như không cần biết Iegoruska có nghe lão hay không. Lão nói uể oải, tiếng cứ lúng búng trong miệng, giọng đều đều, không lúc nào to lên hay khẽ bớt, và chỉ một khoảng ngắn mà đã có đủ thì giờ nói được rất nhiều chuyện. Tất cả những câu chuyện của lão kể đều gồm từng mẩu đứt quãng, rất ít liên hệ với nhau, và chẳng có gì thú vị đối với Iegoruska. Có lẽ lão nói chỉ để, sau một đêm im lặng, kiểm tra lại những ý nghĩ trong đầu mình, xem lão có thể suy nghĩ không? Nói xong câu chuyện rửa tội, lão quay lại với cái ông Mắcxim Nikôlaíts nào đấy ở Xlavianoxerbxkơ:

– Phải, ông ta đã đưa con đi học… Đúng thế…

Một trong những người áp tải đi tít phía trước bỗng đâm bổ sang bên đường và lấy roi quất liên hồi xuống đất. Đó là một gã cao lớn, vai rộng, khoảng ba mươi tuổi, tóc quăn màu vàng sẫm, trông rất khỏe mạnh. Cứ trông những động tác của đôi vai gã và của chiếc roi, cứ trông cái tư thế hăm hở của hắn, có thể đoán hắn đang đánh một con gì ấy. Một người áp tải khác chạy đến cạnh hắn. Đó là một người thấp lùn, to ngang, có bộ râu đen xồm xoàm, mặc một chiếc sơ mi bỏ thõng và một chiếc áo gilê. Người này cất tiếng cười ồ ồ nghe như tiếng ho sù sụ, rồi reo lên:

– Anh em ơi, Đưmốp giết được con rắn! Thật đấy!

Có những người mà chỉ nghe giọng nói và tiếng cười thì cũng có thể biết chắc được mức thông minh. Gã râu đen chính là thuộc về cái hạng người may mắn ấy: qua giọng nói tiếng cười của hắn có thể biết ngay hắn là người có bộ óc u mê kín đặc. Quất roi xong, gã Đưmốp tóc màu vàng sẫm nhặt roi lên và vừa cười vừa ném về phía đoàn xe một cái gì giống như đoạn thừng.

Không phải con rắn đâu, con mòng(14) đấy, – có ai nói to.

Người có dáng đi cứng đờ và có miếng giẻ quấn trên mặt rảo bước đến cạnh con rắn vừa bị giết chết, nhìn nó một lát, rồi vỗ hai bàn tay khẳng khiu vào nhau đánh đét một tiếng.

– Đồ tù khổ sai! – hắn kêu lên giọng âm âm như khóc. – Việc gì mày lại đi giết con mòng này? Nó làm gì mày mà mày giết nó, đồ chết rấp? Con mòng thế kia mà đem giết đi kia chứ! Thế có ai đánh chết mày đi như thế thì mày bảo sao hả?

– Giết mòng là không được, đúng thế… – lão Pantelây điềm tĩnh nói. – Không được… Nó có phải là rắn độc đâu. Nó tuy trong giống con rắn, nhưng nó là giống hiền lành, vô hại… Nó thích người… Mòng ấy mà…

Đưmốp và gã râu đen chắc thấy ngượng, vì cả hai đều cười hô hố, không trả lời những câu phản đối xôn xao, và uể oải trở về xe. Khi chiếc xe cuối đoàn đi ngang chỗ con mòng chết, người buộc giẻ đứng lại nhìn rồi ngoảnh về phía lão Pantelây hỏi, giọng như khóc:

– Ông cụ ơi, sao hắn lại giết con mòng?

Bây giờ Iegoruska mới thấy rõ đôi mắt hắn nhỏ ti hí, mờ đục, da mặt xám ngoét, ốm yếu và trông như cũng mờ đục, còn cái cằm thì đỏ ong và sưng phình ra.

– Ông cụ ơi, sao hắn lại giết? – hắn nhắc lại trong khi bước bên cạnh lão Pantelây.

– Hắn là người ngu, hắn ngứa tay thì hắn giết, – ông già nói. – Còn như giết mòng thì không được… Đúng thế… Đưmốp thì ai cũng biết là thằng hay nghịch xằng, cái gì vào tay hắn cũng giết, còn thằng Kiriukha thì không can hắn. Lẽ ra phải can chứ, đằng này nó chỉ hố hố hố mấy lại há há há… Nhưng anh cũng đừng giận, anh Vaxia ạ… Giận làm gì? Nó giết thì thôi, kệ nó… Thằng Đưmốp thì nghịch, thằng Kiriukha thì ngu… Chẳng sao, chúng nó ngu, chúng nó không hiểu gì thì mặc thây chúng nó. Như Emelian kia thì không bao giờ động đến cái gì không nên động đến. Không bao giờ, đúng thế… Vì anh ta là người có học, còn bọn kia thì ngu dốt… Emelian ấy mà… Anh ấy thì không bao giờ.

Người áp tải mặc chiếc áo khoác hung có cái mụn cóc đang chỉ huy đội hợp xướng vô hình, nghe nhắc đến tên mình liền dừng lại và đợi cho lão Pantelây và Vaxia lên đến nơi rồi cùng đi bên cạnh họ.

– Đang nói chuyện gì thế? – hắn hỏi, giọng phều phào như nghẹt thở.

– Ấy Vaxia đang giận đấy, – lão Pantelây nói. – Lão đang khuyên nhủ này nọ cho anh ta bớt giận đấy mà… Chao đôi chân đau quá, tệ quá! Chao ôi! Ngày chủ nhật, ngày lễ Chúa nên nó buốt điên lên!

– Vì đi bộ đấy! – Vaxia nhận xét.

– Không, anh bạn ạ, không phải tại đi bộ đâu. Khi tôi đi thì nghe như dễ chịu hơn, chứ khi nằm ấm thì tưởng đến chết mất. Đi thì thấy thoải mái hơn.

Emelian mặc áo khoác hung đứng giữa lão Pantelây và Vaxia huơ huơ đôi tay như thể hai người kia sắp sửa hát. Huơ được một lát, hắn buông tay xuống và rên lên một tràng tuyệt vọng.

– Không hát được! – hắn nói. – Hỏng thật. Suốt đêm hôm qua và sáng hôm nay tôi cứ mường tượng nghe bài “Lạy Chúa tha tội” ba giọng mà hồi lễ cưới ở nhà Marinốpxki chúng tôi đã hát; nó đã có sẵn trong đầu và trong cổ nữa… tưởng cứ thế hát ngay ra được, thế nhưng không sao hát nổi! Không ra tiếng!

Hắn im lặng một lát, suy nghĩ điều gì, rồi nói tiếp:

– Tôi ở trong đội ca đã mười lăm năm, trong cả tỉnh Luganxkơ có lẽ không một người nào có được giọng hát như tôi, thế nhưng hai năm trước, từ khi tôi tắm ở sông Đônét lên là không sao hát được một tiếng nào cho ra hồn. Họng bị cảm lạnh hỏng rồi. Mà không có giọng hát thì tôi chẳng khác nào anh thợ cụt tay.

– Đúng thế, – lão Pantelây tán đồng.

– Tôi cho tôi là người bỏ đi, chẳng hơn chẳng kém.

Lúc bấy giờ Vaxia tình cờ trông thấy Iegoruska. Mắt hắn ướt đi và càng bé hơn trước.

– Cả cậu chủ cũng đi với ta đây à! – hắn nói đoạn lấy ống tay áo che mũi như xấu hổ. – Trông như anh xà ích, oai thật! Cậu ở lại với chúng tôi, đi với đoàn xe chở lông cừu nhé.

Ý chừng hắn cho rằng cậu chủ và anh xà ích mà kết hợp vào một người là điều rất ngộ nghĩnh và dí dỏm, vì thấy hắn cười rất to và cứ tiếp tục phát triển cái ý này. Emelian cũng ngẩng lên nhìn Iegoruska, nhưng chỉ nhìn thoáng qua, có vẻ lạnh lùng. Hắn đang bận tâm với những ý nghĩ riêng, và ví thử không có Vaxia thì hắn không nhận thấy có Iegoruska trên xe. Chưa quá năm phút hắn đã lại huơ tay, rồi vừa tả lại cho hai người bạn đường nghe về cái đẹp của bài “Lạy Chúa tha tội” hát trong lễ thành hôn mà đêm qua hắn đã hồi tưởng lại, vừa đút cây roi vào nách và huơ cả hai tay lên.

Cách làng một cây số đoàn xe đỗ lại cạnh một cái giếng có gàu kéo nước. Thả gàu xuống múc nước, gã Kiriukha râu đen vắt người lên thành giếng, cái đầu bờm xờm, hai vai và một phần thân hình hắn lấp hẳn trong cái miệng giếng đen ngòm, thành thử Iegoruska chỉ còn trông thấy đôi chân ngắn cũn cỡn của hắn chỉ chạm hờ xuống đất, trông thấy bóng cái đầu của mình phản chiếu dưới đáy giếng, hắn vui mừng cất tiếng cười ồ ồ, và tiếng vang từ đáy giếng dội lên đáp lại hắn. Khi hắn ngẩng lên, mặt và cổ hắn đỏ gắt như hoa mào gà. Người đầu tiên chạy lại uống nước là Đưmốp. Hắn vừa uống vừa cười, chốc chốc lại ngừng uống ngẩng đầu lên kể cho Kiriukha nghe một chuyện gì chắc buồn cười lắm, rồi quay người lại và quát vang cả thảo nguyên năm tiếng chửi tục tằn. Iegoruska không hiểu nghĩa mấy tiếng này, nhưng nó biết chắc đó là những tiếng rất tục. Nó biết là vì mỗi khi nghe những tiếng như vậy, những người thân thuộc và quen biết thường im lặng và có ý ghê tởm; không hiểu tại sao nó cũng thấy ghê lợm như thế, và đã quen nghĩ rằng chỉ có những kẻ say rượu hay hạng người vong mạng lắm mới có được cái đặc quyền nói to những tiếng này lên. Nó nhớ lại con mòng bị đánh chết, lắng nghe tiếng cười của Đưmốp và cảm thấy gần như thù ghét con người này. Và như thể cố ý, đúng vào lúc ấy, Đưmốp trông thấy Iegoruska đang tụt xuống xe đi về phía giếng. Hắn vừa cười ông ổng vừa reo lên:

– Anh em ơi, lão già ấy đêm qua mới đẻ được thằng con trai kia kìa!

Kiriukha cười ông ổng một tràng, đến phát ho lên. Còn có một người nào khác cũng cười theo. Iegoruska đỏ mặt, và trong bụng khẳng định dứt khoát rằng Đưmốp là một tay đại ác.

Với mái tóc vàng sẫm quăn tít, đầu để trần, áo sơ mi phanh ngực, Đưmốp trông đẹp trai và khỏe mạnh phi thường, trong mỗi động tác của hắn đều có thể thấy rõ hắn là một tay lực sĩ tinh nghịch biết rõ giá trị của mình. Hắn xoay vai, chống hai tay lên cạnh sườn, nói và cười to hơn ai hết và trông như thể đang sắp sửa dùng một tay nâng bổng một vật gì rất nặng làm cho cả thiên hạ phải ngạc nhiên. Đôi mắt tinh nghịch giễu cợt của hắn nhìn lướt qua con đường cái, qua đoàn xe, không dừng lại ở một chỗ nào, và hình như đang tìm xem có con gì để mà giết cho đỡ buồn không, hay có cái gì để mà chế giễu không. Hình như hắn không sợ gì hết, và chắc hắn không hề quan tâm chút nào đến ý kiến của Iegoruska… Còn Iegoruska thì lúc bấy giờ đã ghét cay ghét đắng cái đầu vàng sẫm, cái mặt sạch sẽ và cái sức vóc lực lưỡng của Đưmốp. Nó ghê tởm và sợ hãi lắng nghe tiếng cười của Đưmốp và cố nghĩ ra một câu chửi gì thật đích đáng để trả đũa hắn.

Lão Pantelây cũng đến cạnh cái gàu. Lão rút ở trong túi ra một cái cốc con màu xanh lục vốn dùng để đựng dầu làm đèn thờ, lấy một miếng giẻ lau cho sạch rồi vục vào gàu múc nước uống, uống hết lại múc nữa, đoạn bọc cái cốc trong miếng giẻ và lại cho vào túi.

– Ông ơi, sao ông lại uống bằng cốc đèn thờ hả ông? – Iegoruska ngạc nhiên hỏi.

– Ô, cũng có người uống bằng gàu, cũng có người uống bằng cốc đèn, – ông già đáp miễn cưỡng cho qua chuyện. – Mỗi người một cách… Cậu uống bằng gàu thì cứ uống đi cho khỏe…

– Trời ơi, đẹp quá, con bé đẹp quá, – Vaxia bỗng nói nựng, giọng dịu dàng âu yếm, nghe gần như khóc. – Xinh quá đi mất.

Mắt Vaxia nhìn tận phía xa tít, nó sáng lên dìu dịu, nó tươi cười, và gương mặt hắn lại có cái vẻ như lúc nãy khi nhìn Iegoruska.

– Cậu nói với ai thế? – Kiriukha hỏi.

– Con cáo ấy… một con cáo… nằm ngửa ra đùa nghịch, y như con chó nhà…

Mọi người bắt đầu nhìn ra phía xa, cố tìm cho ra con cáo, nhưng chẳng ai trông thấy gì. Chỉ có Vaxia, với đôi mắt xám đùng đục của hắn ta, trông thấy cái cảnh thú vị kia và hân hoan một mình, như về sau Iegoruska sẽ có dịp thấy rõ, mắt của Vaxia tinh lạ lùng. Hắn tinh mắt đến nỗi cảnh thảo nguyên vắng vẻ một màu nâu đơn điệu kia đối với hắn bao giờ cũng tràn đầy sự sống, tràn đầy nội dung. Hắn chỉ cần phóng tầm mắt nhìn ra phía xa là thế nào cũng trông thấy một con cáo, một con thỏ, một con chim lớn sống ở thảo nguyên hay một con vật nào khác thường xa lánh bóng người. Trông thấy một con thỏ đang bỏ chạy hay một con chim lớn sống ở thảo nguyên đang bay đi thì chẳng có gì là khó, bất cứ ai đi qua thảo nguyên cũng đều có thể trông thấy được, – nhưng không phải ai cũng có dịp nhìn thấy những con thú hoang trong sinh hoạt hàng ngày của chúng, khi chúng không bỏ chạy, không lẩn trốn và không thảng thốt nhìn quanh. Thế mà Vaxia thì luôn luôn trông thấy những con cáo đang giỡn nô, những con thỏ đang rửa mặt bằng hai chân trước, những con chim lớn sống ở thảo nguyên đang dang rộng cánh. Nhờ có đôi mắt tinh như vậy, ngoài cái thế giới mà mọi người đều trông thấy, Vaxia còn có một thế giới khác, của riêng hắn, không ai có thể lọt vào được, và có lẽ là một thế giới rất tốt đẹp, vì những khi hắn ta ngắm nhìn và hân hoan lên như vậy thì người ta thật khó lòng mà không thấy ganh tị với hắn.

Khi đoàn xe lại chuyển bánh lên đường, nhà thờ đã gióng chuông gọi con chiên đến xem lễ.

 

V.

ĐOÀN XE ĐỖ LẠI cách thôn một quãng, bên một bờ sông. Nắng vẫn thiêu đốt như hôm qua, không khí cũng im lìm và uể oải. Trên bờ có mấy cây liễu, nhưng bóng cây không hắt xuống mặt đất mà lại ngả xuống dòng nước một cách phí hoài, còn trong bóng râm ở phía dưới mấy chiếc xe thì ngột ngạt mà chán lắm. Dòng nước sông, xanh biếc vì phản chiếu màu trời, có sức hấp dẫn mãnh liệt.

Có một anh đánh xe trẻ mà bây giờ Iegoruska mới để ý tới là Xtépka, một thanh niên người Ucraina mới mười tám tuổi, mặc áo sơ mi vạt dài, không thắt lưng, quần rộng ống không cho vào ủng nên khi đi nó cứ bay lất phất như hai lá cờ. Anh ta nhanh nhẹn cởi áo quần, chạy theo bờ sông dốc đứng và nhảy tùm xuống sông. Anh ta ngụp xuống nước ba lần, rồi ngoi lên nằm ngửa trên mặt nước và nhắm mắt lại, vẻ khoái chí. Gương mặt anh ta vừa tươi cười vừa nhăn nhó, như thể đang vừa buồn nhột, vừa đau lại vừa buồn cười.

Vào một ngày nóng nực, khi người ta không biết chui vào đâu cho đỡ nóng và đỡ ngạt, tiếng nước vỗ róc rách và tiếng thở phì phò của người đang tắm nghe dễ chịu như một điệu nhạc du dương. Đưmốp và Kiriukha nhìn Xtépka, nhanh nhẹn cởi áo quần; rồi cất tiếng cười hớn hở thưởng thức trước cái thú sắp tới, và lần lượt lao xuống nước. Thế là con sông yên tĩnh, bình lặng bỗng vang ầm tiếng thở phì phò, tiếng nước khua động và tiếng reo hò của họ. Kiriukha ho sặc sụa, cười và la hét inh ỏi như thể đang bị ai dìm nước, còn Đưmốp thì đuổi theo hắn và cố bắt lấy chân hắn.

– Hê hê hê! – Đưmốp quát. – Bắt lấy nó, giữ nó lại!

Kiriukha cười, ra chiều thích thú lắm, nhưng vẻ mặt của hắn vẫn như hồi nãy ở trên cạn: đờ đẫn, ngơ ngác, trông như thể có ai vừa lén tới sau lưng hắn và nện chày vồ lên đầu hắn. Iegoruska cũng cởi áo quần, nhưng không tụt xuống theo lối bờ sông, mà lại chạy lấy đà lao mình xuống nước từ một chỗ cao một xagien rưỡi. Nó lao mình thành một đường vòng cung trên không rồi đâm đầu xuống nước. Nó chìm xuống khá sâu nhưng vẫn không chạm đáy; một sức mạnh mát mẻ và êm ái dễ chịu trùm lấy nó và nâng nó trở lên mặt nước. Nó nhô lên, thở phì phì phun ra một đám bong bóng, rồi mở mắt; nhưng vừa sát mắt nó, ánh mặt trời loang loáng phản chiếu trên mặt nước. Ban đầu là những tia sáng chói lòa, rồi đến những chiếc cầu vồng ngũ sắc và những vệt tối diễn qua tròng mắt nó; nó vội vã ngụp xuống mở mắt ở dưới nước và trông thấy một cái gì xanh đùng đục, giống như bầu trời vào một đêm trăng. Cái sức mạnh ban nãy lại không để nó lặn xuống đến tận đáy cho mát một chút, cứ nâng nó lên, nó đành ngoi lên khỏi mặt nước và thở một hơi dài đến nỗi không những trong lồng ngực mà ngay cả trong bụng cũng thấy mát rợi. Rồi để tận hưởng tất cả những gì nước sông có thế đem lại cho nó, Iegoruska tự cho phép mình làm đủ trò sang trọng: nó nằm ngửa ra trên mặt nước và uể oải lắng nghe cái cảm giác đê mê đang thấm vào người, nó đẩy cho nước bắn tung lên trời, rồi lộn vòng, bơi sấp, bơi nghiêng, bơi ngửa, bơi đứng – cứ thế tha hồ mãi cho đến khi mệt lử ra mới thôi. Bờ sông bên kia lau mọc rất dày, óng ả dưới ánh nắng, và những bông lau xinh đẹp nghiêng mình, trên dòng nước trông như những ngòi bút lông. Bỗng ở một nơi thấy khóm lau rung động, hoa rạp xuống, kêu răng rắc – đó là Xtépka và Kiriukha đang đánh tôm.

– Tôm đây! Anh em trông này: con tôm! – Kiriukha hân hoan reo lên và đưa ra một con tôm thật.

Iegoruska bơi về phía khóm lau, lặn xuống và bắt đầu sờ soạng quanh các gốc lau. Lần mò trong lớp bùn loãng nhầy nhụa, nó chạm tay phải một cái gì sắc nhọn và ghê ghê, có lẽ là một con tôm thật, nhưng vừa lúc ấy có ai nắm lấy chân nó kéo lên trên. Ho sặc sụa vì hớp phải nước, Iegoruska mở mắt nhìn và trông thấy cái mặt ướt át đang cười nhăn nhó của Đưmốp tinh nghịch. Hắn thở phì phò rất mạnh, và cứ nhìn vào mắt hắn cũng có thể thấy rõ là hắn còn muốn bày trò nghịch ngợm nữa. Hắn nắm chân Iegoruska rõ chắc và đã giơ tay kia ra để nắm lấy cổ nó, nhưng Iegoruska sợ hãi như thể gặp phải một vật gì kinh tởm và như có ý lo rằng tên vũ phu này sẽ dìm nó chết mất, nó vùng vẫy cố gỡ ra và nói luôn một thôi:

– Đồ mất dạy! Tao đánh vỡ mõm ra bây giờ!

Cảm thấy nói như vậy chưa đủ diễn đạt nỗi căm ghét, nó lại nghĩ một lát và nói thêm:

– Đồ khốn nạn! Đồ chó đẻ!

Nhưng Đưmốp lúc bấy giờ đã lại thản nhiên như không, hình như không còn để ý gì đến Iegoruska nữa. Hắn bơi về phía Kiriukha kêu to lên:

– Ê-ê-ê này! Ta đánh cá đi! Anh em ơi, đánh cá nào!

– Chứ còn gì nữa? – Kiriukha tán đồng. – Ở đây chắc nhiều cá lắm…

– Xtépka, chạy vào làng mượn cái lưới đi!

– Họ chẳng cho mượn đâu.

– Cho đấy! Cậu nói khó một chút! Cậu cứ bảo là họ hãy vì Chúa mà cho chúng mình mượn, vì chúng mình cũng như kẻ hành hương.

– Đúng đấy!

Xtépka lên bờ, nhanh nhẹn mặc quần áo vào và đầu không đội mũ, hai ống quần rộng thùng thình tung lên phấp phới, hắn chạy vào làng.

Sau cuộc xung đột với Đưmốp, Iegoruska không còn thấy nước có gì là thú vị nữa. Nó lên bờ và bắt đầu mặc quần áo.

Lão Pantelây và Vaxia ngồi trên bờ sông dốc đứng, chân buông thõng xuống, nhìn mấy người đang tắm. Emelian trần truồng đứng ở sát bờ, nước lên đến đầu gối, một tay túm lấy bụi cỏ cho khỏi ngã, còn tay kia vuốt vuốt lên mình. Với hai cái xương bả vai nhô rõ ra, với cái mụn cóc ở dưới con mắt, người cúi lom khom và rõ ràng là có ý sợ nước, anh ta làm thành một hình ảnh khá buồn cười. Vẻ mặt anh ta nghiêm trang, khắc khổ. Anh ta nhìn dòng nước một cách cau có như thể sắp sửa chửi mắng nó về cái tội đã làm cho anh ta cảm lạnh ở sông Đônét, mất cả giọng hát.

– Sao chú không tắm hả chú? – Iegoruska hỏi Vaxia.

– Chẳng sao cả… Không thích… – Vaxia đáp.

– Sao cằm chú sưng lên thế?

– Nó bị đau… Trước tôi làm ở nhà máy diêm, cậu ạ… Ông bác sĩ có nói rằng chính vì làm ở đấy mà tôi bị sưng hàm lên thế này. Không khí ở đấy độc lắm. Ngoài tôi ra còn có ba cậu bị sưng hàm, một cậu hàm bị thối loét cả ra.

Một lát sau Xtépka mang lưới về. Đưmốp và Kiriukha ngâm nước quá lâu, người tím lại, giọng khản đặc, nhưng vẫn hào hứng xông vào đánh cá. Lúc đầu hai người đi theo chỗ nước sâu, dọc đám sậy, Đưmốp thì nước ngập ngang cổ, còn Kiriukha người thấp bé, thì nước lút đầu; hắn cứ sặc sụa, phun ra từng đám bong bóng trong khi Đưmốp vấp chân phải những cái rễ cây gai góc, chốc chốc lại ngã và vướng vào lưới. Cả hai gã đều vùng vẫy nhặng xị lên, rốt cục cái cuộc đánh cá của họ chung qui chỉ là một trò đùa nghịch.

– Sâu quá, – Kiriukha nói, giọng khản đặc. – Chẳng bắt được con nào đâu!

– Đừng có kéo, đồ quỷ! – Đưmốp quát, cố cầm cái lưới cho đúng chiều. – Phải cầm hai tay chứ!

– Đánh ở đấy thì chẳng được con nào đâu! – lão Pantelây đứng trên bờ quát mắng. – Chỉ tổ làm cho cá nó sợ, rõ ngốc. Đi sang bên trái ấy! Ở đấy cạn hơn!

Có một lần trên chiếc lưới thấy một con cá khá to nhảy hoảng lên; ai nấy đều ồ lên một tiếng. Đưmốp giáng quả đấm vào cái chỗ con cá vừa lặn xuống, gương mặt lộ vẻ bực bội.

– Chà! – lão Pantelây giẫm chân thốt lên. – Để sổng con cá rô rồi! Thế là mất!

Rẽ sang bên trái, Đưmốp và Kiriukha dần dần đi ra chỗ nông, và đến đây mới bắt đầu một cuộc đánh bắt thực sự. Họ kéo lưới đi chừng ba trăm bước, có thể thấy rõ họ im lặng nhích đi từng tí một, cố rê lưới thật sâu và thật gần đám sậy, vừa kéo vừa đập nắm tay xuống nước và xua vào lau sột soạt để cho cá sợ mà chạy vào lưới. Từ khóm sậy họ chuyển sang bờ bên kia kéo lưới, rồi có vẻ thất vọng quay trở lại đám sậy, cứ mỗi bước lại nhảy cao đầu gối lên. Họ vừa đi vừa nói với nhau những gì không nghe rõ. Nắng dọi vào lưng họ, ruồi nhặng bâu vào cắn họ, và mình mẩy họ đang màu tím chuyển sang màu đỏ thắm. Xtépka cầm cái gàu đi theo sau lưng họ, áo sơ mi vén lên tận nách, miệng cắn vạt áo cho khỏi tuột xuống. Cứ được mẻ gì là họ giơ cao con cá vừa bắt được, lúc lắc cho nó ánh lên dưới nắng, reo to:

– Xem con cá rô to không này! Đã bắt được năm con như thế rồi đấy!

Có thể thấy rõ Đưmốp, Kiriukha và Xtépka cứ sau mỗi mẻ lưới lại bới bới hồi lâu trong bùn, bỏ cái gì vào xô, vứt ra ngoài những vật gì đấy; thỉnh thoảng họ lại lấy cái gì ở trong lưới ra chuyền tay nhau xem xem ngắm ngắm có vẻ tò mò, rồi cũng vứt đi nốt…

– Cái gì đấy hả! – Ở trên bờ quát to lên hỏi họ.

Xtépka trả lời một câu gì đấy, nhưng khó mà nghe hắn nói gì. Thế rồi hắn leo lên bờ, bưng cái xô bằng cả hai tay, quên buông vạt áo xuống. Hắn chạy tới chỗ đoàn xe.

– Đầy rồi, – hắn vừa nói vừa thở hổn hển. – Cho cái nữa đây!

Iegoruska nhìn vào cái xô. Nó đã đầy ắp. Từ dưới nước ngoi lên cái mõm xấu xí của một con cá măng còn non, xung quanh lúc nhúc những con tôm và những con cá nhép. Iegoruska vục tay xuống tận đáy xô và khuấy nước lên; con cá măng lẩn xuống dưới đám tôm tép. Thế chân cho nó trên miệng xô là một con cá rô vược và một con cá hanh. Vaxia cũng nhòm vào xô. Mắt anh ta long lên, và gương mặt anh ta lại có cái vẻ âu yếm dịu dàng như khi trông thấy con cáo đang rỡn nô. Anh ta lấy trong xô ra một vật gì, bỏ vào mồm nhai rau ráu.

– Anh em ơi, – Xtépka ngạc nhiên kêu lên, – Vaxia nó ăn cá bống sống! Eo ôi kinh quá!

– Không phải là cá bống mà là cá lèn, – Vaxia bình thản trả lời và cứ nhai tiếp.

Hắn rút trong miệng ra một cái đuôi cá nhỏ, âu yếm ngắm nó rồi lại bỏ vào mồm. Trong khi hắn nhai cá rau ráu, Iegoruska có cảm giác hắn không phải là người nữa. Cái cằm sưng vù của Vaxia, đôi mắt đùng đục, cái nhìn tinh tường lạ lùng của hắn, cái đuôi cá, và cái vẻ âu yếm của hắn trong khi nhai con cá sống khiến cho hắn giống như một con vật.

Iegoruska đứng bên Vaxia đã thấy chán. Vả lại cuộc đánh cá cũng đã kết thúc. Nó đi dọc theo đoàn xe, bâng khuâng nghĩ ngợi, rồi chẳng biết làm gì cho đỡ chán, nó rẽ về phía làng.

Một lát sau nó đã đứng trong nhà thờ, và trán tì vào lưng một người nào đấy sực nức mùi gai dầu, nó lắng nghe tiếng hát trên chỗ ban hát vẳng xuống. Buổi lễ đã gần kết thúc. Iegoruska vốn không biết nghe hát lễ. Nó dửng dưng nghe một lát, ngáp dài rồi bắt đầu đưa mắt ngắm gáy và lưng những người xem lễ. Có một cái gáy màu hung đỏ, hãy còn ướt vì mới tắm xong. Nó nhận ra đó là gáy của Emelian. Cái gáy húi thành vòng cung và húi hơi cao quá; hai bên thái dương cũng húi quá cao, thành thử hai cái tai đỏ ối của Emelien cứ vểnh ra như hai cái lá ngưu bàng và hình như cảm thấy mình mọc không đúng chỗ. Nhìn cái gáy và hai cái tai ấy, không hiểu tại sao Iegoruska cứ nghĩ rằng chắc hẳn Emelian rất khổ sở. Nó nhớ lại những động tác đánh nhịp của Emelian, cái giọng khản đặc của anh ta, cái vẻ e dè của anh ta khi tắm, và cảm thấy thương hại anh ta. Nó muốn nói một câu gì thật ôn tồn thân ái với anh:

– Tôi đứng đây này! – nó kéo ống tay áo Emelian nói.

Những người hát giọng nam cao hay giọng trầm trong dàn hợp xướng, nhất là những người đã từng chỉ huy hợp xướng dù cả đời chỉ được một lần, thường có thói quen nhìn trẻ con một cách nghiêm khắc và thiếu thân thiện. Sau khi bỏ nghề hát họ cũng vẫn giữ cái thói quen này. Ngoảnh về phía Iegoruska, Emelian gườm gườm nhìn cậu bé nói:

– Trong nhà thờ không được quấy!

Một lát sau, Iegoruska mon men nhích gần đến chỗ đặt các tượng thánh. Ở đây nó được trông thấy những con người rất lạ mắt. Đứng ở hàng đầu, trên tấm thảm ở bên phải có hai ông bà quý phái. Sau lưng họ có hai chiếc ghế tựa để sẵn cho họ ngồi. Người đàn ông mặc một bộ quần áo đũi mới là, đứng im phăng phắc như một quân nhân đang bồng chào, cái cằm cạo xanh biếc vểnh cao lên. Trong cái cổ cồn dựng đứng, trong cái cằm xanh biếc, trong cái đầu hơi hói và trong chiếc can ông ta cầm, người ta cảm thấy có rất nhiều khí thế uy nghi. Vì quá uy nghi như vậy cho nên cái cổ ông ta rướn thẳng, cái cằm ông ta vểnh lên một cách mãnh liệt đến nỗi người ta có cảm giác như đầu ông ta chỉ chực hễ có dịp là sẽ rứt ra khỏi người và bay vút lên. Còn người đàn bà quý phái thì béo tốt và đã có tuổi, vai khoác chiếc khăn san bằng lụa trắng, đầu nghiêng sang một bên, trông như thể vừa mới giúp ai việc gì và đang muốn nói: “Ồ, có gì đâu mà phải cảm ơn cho phiền. Tôi không thích thế đâu…” Xung quanh tấm thảm, đám người Ucraina đứng chen nhau thành một bức thành dày đặc.

Iegoruska mon men lại gần chỗ đặt các tranh tượng và bắt đầu hôn các tượng thánh địa phương. Trước mỗi bức tượng nó đều thong thả cúi lạy sát đất, nhân thể liếc nhìn những người đứng ở phía sau, rồi mới đứng dậy hôn. Cho trán chạm xuống sàn nhà thờ mát lạnh, nó thấy thích lắm. Khi từ sau bàn thờ ông khán tay cầm cái kẹp dài bước ra để tắt nến, Iegoruska nhanh nhẹn đứng phắt dậy và chạy đến cạnh ông hỏi:

– Đã phát bánh thánh chưa thế bác?

– Chưa, chưa… – ông khán làu bàu. – Mày còn ở đây làm gì…

Buổi lễ đã xong. Iegoruska thong thả ra khỏi nhà thờ và đi lang thang lên quảng trường. Từ bé nó đã được trông thấy không ít những làng mạc, quảng trường và nông dân cho nên những cảnh giờ đây bày ra trước mắt nó, không hề làm cho nó thấy thú vị chút nào. Chẳng biết làm gì cho qua thì giờ, nó ghé vào một cửa hiệu trên cửa có treo một tấm biển rộng màu đỏ tươi. Cái cửa hiệu chia ra làm hai gian rộng và tối; một gian bán vải và hàng tạp hóa, còn gian kia thì bày những cái thùng tròn đựng hắc ín, trên trần treo những cái vòng cổ ngựa; từ gian này bốc lên mùi da và mùi hắc ín dễ chịu. Sàn cửa hiệu vừa được té nước; người té nước chắc phải là một tay tài tử khá ngông nghênh, vì nước được té thành những hoa văn ngoằn ngoèo và những dấu hiệu bí ẩn trông như bùa chú. Sau cái quầy hàng có một ông chủ hiệu béo tốt tỳ bụng vào quầy, khuôn mặt rộng, râu quai nón tỉa thành vòng cung, hình như là người Nga. Ông ta đang uống trà có nhấp đường, cứ uống một ngụm lại thở ra một hơi rõ dài. Mặt ông ta tỏ vẻ bình thản hoàn toàn, nhưng trong mỗi tiếng thở dài đều có thể nghe rõ cái ý: “Liệu hồn rồi sẽ biết tay ta!”

– Cho tôi một kôpếch hạt hướng dương! – Iegoruska nói với ông chủ.

Ông chủ nhướng đôi lông mày lên, rồi quay đi ra phía ngoài và trút vào túi Iegoruska một kôpếch hạt hướng dương đong bằng cái bình đựng sáp bôi môi cũ. Iegoruska chưa muốn đi. Nó ngắm nghía hồi lâu những chiếc thùng đựng bánh nướng, ngẫm nghĩ một lát rồi chỉ mấy chiếc bánh nướng được làm ở thị trấn Viadma nhỏ, để lâu năm đã mốc cả ra:

– Bánh này bán bao nhiêu?

– Một kôpếch một đôi.

Iegoruska thò tay vào túi lấy ra cái bánh nướng của mụ Do Thái cho tối hôm qua, hỏi:

– Thế loại bánh như thế này thì ông bán bao nhiêu?

Ông chủ hiệu cầm lấy chiếc bánh, ngắm đủ bốn phía rồi giương cao một bên lông mày trái lên.

– Bánh này, – ông chủ hỏi lại.

Sau đó ông chủ nhướng cao bên lông mày phải lên, suy nghĩ và đáp lại:

– Ba kôpếch một đôi…

Hai bên im lặng một lát.

– Cậu là con nhà ai? – ông chủ hiệu vừa hỏi vừa rót trà trong cái bình bằng đồng đỏ ra chén để uống tiếp.

– Tôi là cháu ông Ivan Ivanứts.

– Ivan Ivanứts cũng có dăm bảy loại khác nhau, – ông chủ hiệu thở dài, ông ta nhìn ra cửa qua đầu Iegoruska, im lặng một lát rồi hỏi – Cậu có uống trà không?

– Có lẽ có… – Iegoruska ưng thuận một cách hơi miễn cưỡng, tuy đang thèm chén trà buổi sớm.

Ông chủ hiệu rót cho nó một cốc và đưa thêm cho nó một miếng đường đã gặm dở. Iegoruska ngồi lên chiếc ghế xếp và bắt đầu uống. Nó còn muốn hỏi xem một lạng hạnh nhân ngào đường bán bao nhiêu, nhưng nó mới ướm hỏi thì có khách đến mua hàng, ông chủ hiệu đặt chén trà sang một bên ra tiếp. Ông ta đưa người khách vào gian có mùi hắc ín và bàn bạc với khách một hồi lâu, không biết chuyện gì. Ông khách này chắc là người rất ương ngạnh và tự thị, cứ lắc đầu quầy quậy tỏ ý bất đồng và chỉ chực quay gót bỏ đi. Ông chủ khuyên nhủ người khách và bắt đầu đổ kiều mạch vào bao to.

– Kiều mạch mà thế này à? – ông khách nói tiếng Ucraina, giọng buồn rười rượi. – Không phải kiều mạch, mà là kiều mạch cặn, gà nó cũng thèm vào… Thôi, đành đến hiệu Bonđalenkô vậy!

Khi Iegoruska trở ra sông, trên bờ đã có một bếp lửa bốc khói nghi ngút. Ấy là mấy người đi áp tải đoàn xe đang nấu bữa trưa. Xtépka đang đứng giữa đám khói cầm cái muôi mẻ khuấy khuấy trong cái nồi. Cách đấy một quãng Kiriukha và Vaxia, mắt đỏ hoe vì cay khói, đang ngồi làm cá. Trước mặt hai người là một cái lưới dính đầy những rong và bùn, bên trên lấp lánh một mớ cá, có cả những con tôm đang bò.

Emelian mới ở nhà thờ về ngồi cạnh lão Pantelây, khua tay đánh nhịp khẽ cất cái giọng khản đặc hát “Chúng con ca ngợi Chúa…” Đưmốp đi vẩn vơ bên mấy con ngựa.

Làm cá xong, Kiriukha và Vaxia hốt cá và tôm sống cho vào cái xô, tráng qua tráng lại rồi đổ cả xô vào nồi nước đang sôi.

– Cho mỡ vào nhé? – Xtépka vừa hỏi vừa lấy cái muôi vớt bọt ra.

– Cho mỡ làm gì? Nước cá cũng đã béo chán, – Kiriukha đáp.

Trước khi bắc xuống, Xtépka bỏ vào nồi ba nắm kê và một thìa muối; để kết thúc, hắn nếm thử, chép chép cái miệng, liếm cái thìa, đằng hắng một tiếng tỏ ý tự mãn – như thế có nghĩa là cháo đã nấu xong.

Mọi người, trừ lão Pantelây ra, đều ngồi quây quanh cái nồi và bắt đầu múc lấy múc để.

– Này, đưa cho cậu bé cái thìa chứ! – lão Pantelây nói, giọng nghiêm khắc. – Chắc cậu ấy cũng muốn ăn đấy.

– Món của chúng tôi là cái món nhà quê ấy mà… – Kiriukha thở dài.

– Nhà quê thì nhà quê, ăn cũng khỏe người đấy, miễn là muốn ăn.

Họ đưa cho Iegoruska cái thìa. Nó bắt đầu ăn, nhưng không ngồi xuống, mà đứng ngay cạnh cái nồi, vừa ăn vừa nhìn xuống nồi như nhìn xuống hồ. Cháo bốc lên một mùi tanh khá đậm, lác đác trong kê có những cái vẩy cá; tôm mà múc bằng thìa thì nó cứ trượt đi, thành thử cử tọa cứ thọc hẳn tay vào nồi mà lấy; về việc này Vaxia đặc biệt tự tiện, hắn không chút ngần ngại, nhúng cả bàn tay vào cháo đã đành, nhưng lại còn nhúng cả ống tay áo vào nữa. Tuy vậy Iegoruska cũng thấy cháo rất ngon. Nó nhớ đến món súp tôm mà ở nhà mẹ nó vẫn thường nấu vào những ngày ăn chay. Lão Pantelây ngồi riêng ra một bên nhai bánh mì.

Bình luận