Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Bá Tước Monto Crixto

Chương 19: Villefort

Tác giả: Alexandre Dumas

Hôm sau trời sáng muộn và đầy mây.

Đám tang Valentine cử hành vào hồi mười một giờ và trước khi diễn ra cái nghi lễ tang tóc này, bá tước Monte Cristo đến dinh thự Dan-glars.

Ông chủ nhà băng đến trước mặt anh vẻ mặt rầu rầu, nhưng nhã nhặn.

– ông cho phép chứ? Hắn nói. Lúc ông vào tôi đang làm dở năm chi phiếu; ông có vui lòng cho phép tôi được làm nốt không?

– Cứ làm đi, nam tước thân mến, cứ làm đi!

Một quãng im lặng, thậm chí nghe thấy cả tiếng ngòi bút sột soạt của ông chủ ngân hàng.

– Này, thưa bá tước, hắn nói tiếp, ông là người làm chúa tể ngành tài chính, ông đã từng thấy nhiều mảnh giấy cỡ như thế này mà mệnh giá đến một triệu hay không?.Monte Cristo cầm lên tay, như để cân nhắc nặng nhẹ, năm mảnh giấy mà Danglars hãnh diện kh với anh, và đọc:

“Xin ông Quản đốc ngân hàng vui lòng chi theo lệnh tôi, tính từ số vốn tôi gửi giữ, số tiền là một triệu bằng tiền mặt. Nam tước Danglars.” – Năm triệu! Monte Cristo nói, ái chà! ông mạnh tay thật, thưa nam tước.

– Tôi đây, tôi tiến hành kinh doanh như thế đấy. Danglars nói.

– Quả thật, Monte Cristo vừa nói vừa gấp năm tờ chi phiếu, thật là vừa khéo: tín dụng của tôi ở chỗ ông là sáu triệu, tôi đã lấy một triệu, vậy là ông còn thiếu tôi năm triệu. Tôi lấy năm mảnh giấy này làm trái phiếu mà chỉ cần thấy chữ ký của ông thôi, và đây là biên lai chung cho cả sáu triệu để hợp thức bản kết toán của chúng ta.

Rồi một tay nhét năm tờ chi phiếu vào túi còn tay kia anh chìa biên lai cho chủ ngân hàng.

Hắn bị đè bẹp bởi một nỗi sợ hãi còn ghê gớm hơn cả sét đánh xuống chân hắn.

– Sao! Hắn ấp úng, thưa bá tước, ông lấy số tiền này? Nhưng đó là tiền mà tôi phải trả cho nhà tế bần chiều nay.

– A! Monte Cristo nói, thế thì lại khác. Tôi chẳng thiết lấy đúng năm chi phiếu này, nhưng hãy trả cho tôi bằng những trị giá khác; chẳng qua là vì hiếu kỳ mà tôi cầm những tờ phiếu này thôi để rồi có thể tuyên bố khắp thiên hạ rằng hãng Danglars chẳng yêu cầu tôi hoãn cho năm phút mà đã chi trả cho tôi năm triệu tiền mặt!

Cái đó mới thật đáng nể!

– Xin miễn thứ, thưa bá tước, Danglars bị chọc tức bèn xin lỗi. ông cứ lấy những chi phiếu ấy đi, tôi sẽ ký những chi phiếu khác.

– Tôi miễn thứ cho ông, Monte Cristo trả lời, và tôi xin nhận.

Ông bỏ các chi phiếu vào ví rồi thong thả bước ra cửa, lên xe và ra lệnh lập tức đến ngân hàng.

Còn lại một mình, nam tước Danglars đóng cửa quay hai vòng chìa khóa, dốc hết mọi ngăn két, thu thập được độ năm chục ngàn frăng tiền giấy, đốt một số giấy tờ, bày các giấy tờ khác ở nơi nhìn rõ, và bắt đầu viết một lá thư. Lá thư này gửi cho bà Danglars, được viết như sau:

“Khi bà nhận được lá thư này, tôi đang trên đường đi khỏi nước Pháp.

Tôi có nghĩa vụ giải thích cho bà, vậy hãy nghe đây:

Sáng nay bỗng nhiên phải chi trả năm triệu tôi đã thanh toán xong, lại tiếp đến một khoản nữa cùng số tiền đó phải trả chiều nay; tôi không thể đảm trách nổi việc đó. Vì vậy, tôi ra đi để tránh phải chịu đựng những điều quá ư rầy rà..Người chồng rất tận tụy của bà. Nam tước Danglars.” Hắn đóng dấu vào lá thư và đem đặt vào phòng vợ hắn. Rồi hắn kiểm tra lại hộ chiếu của mình xem có còn giá trị không.

Thời tiết u ám và đầy mây, lại thêm một làn gió ấm nữa nhưng đã làm khô héo những chiếc lá úa vàng, bứt chúng ra khỏi cành đang trơ trụi dần, làm cho chúng quay cuồng trên đám đông đang tràn ngập khắp phố phường.

Đám tang từ từ đi về phía nghĩa địa Père Lachaise. Hơn năm chục chiếc xe sang trọng theo sau hai chục xe có băng tang và, sau năm chục xe sang trọng ấy lại còn trên năm trăm người.

Ra khỏi Paris thì thấy một cỗ xe phóng nhanh tới, bốn con ngựa kéo xe đột ngột dừng lại nhờ căng cứng các khuỷu vó gân guốc như những lò so thép: đó là ông Monte Cristo. Bá tước từ trên xe bước xuống đi lẫn vào đám đông đang chậm bước theo xe chỗ linh cữu.

Château-Renaud nhìn thấy ông. Anh ta cũng lập tức xuống xe đi bộ để gặp bá tước.

Beauchamp cũng rời khỏi chiếc xe độc mã đang ngồi.

– Morrel đâu? – Bá tước hỏi.

– Chúng tôi thấy anh ta ở đàng kia.

Đúng thế, Morrel đứng ở đàng xa, dưới bóng cây. Vẻ điềm tĩnh và sự bất động của anh tạo ra một cảnh tượng đáng sợ cho kẻ nào đọc được những gì đang diễn ra trong lòng chàng sĩ quan trẻ. Rồi cuối cùng anh cũng hồi phục được và trở lại con đường về Paris mà không ngoái cổ lại lấy một lần.

Bá tước cho xe đậu ở Père Lachaise, quay về, rồi đi theo sau anh ta cách một trăm bước. Maxi-milien vượt qua kênh và quay về phố Meslay qua các con phố lớn.

Năm phút sau khi cánh cửa khép lại sau lưng Morrel, thì cửa lại mở ra cho Monte Cristo.

Julie đang ở lối ra vườn.

– A! ông bá tước! – Cô reo lên.

– Xin lỗi, thưa bà, tôi phải lên phòng Maxi-milien ngay lập tức; tôi có vài điều cực kỳ quan trọng, cần nói với anh ta.

– Vậy ông đi đi, cô nói và tiễn ông bằng nụ cười khả ái.

Monte Crixto mau chóng vượt qua hai tầng gác ngăn cách tầng trệt với căn hộ của Maxi-milien, vừa lên đến thềm ông đã gọi anh ta.

Maximilien vừa miễn cưỡng mở cửa vừa cố che giấu việc mình đang làm. Nhưng bá tước ra sức hối thúc anh đến mức anh buộc phải để bá tước lách vào..- Anh đang làm cái trò gì với những khẩu súng lục để trên bàn vậy? Morrel, anh muốn tự sát à!

– Vâng, Morrel kêu lên, khi chuyện ấy xảy ra, khi tôi quyết định tự sát thì ai cản được tôi nào?

– Tôi, Morrel ạ, Monte Crixto nói với giọng điềm tĩnh tương phản đến kỳ lạ với vẻ kích động của chàng trai. Phải, tôi, tôi sẽ có cái can đảm ấy.

– ông! Morrel thét lên với thái độ mỗi lúc một thêm tức giận và trách móc, ông là người đã lừa tôi bằng một hy vọng phi lý; ông là người đã kiềm chế tôi, vỗ về, ru ngủ tôi bằng những lời hứa hão huyền, ông đã đóng vai hay giả bộ đóng vai Thượng đế mà lại không thể cho được thuốc giải độc cho một thiếu nữ bị đầu độc!

Monte Crixto nhột nhạt như một hồn ma, nhưng cặp mắt lấp loáng ánh chớp, đặt tay lên những khẩu súng:

– Và tôi nhắc lại rằng anh không được tự sát!

– Nhưng rốt cuộc ông là cái thá gì mà lại dám khoác cho mình cái quyền của bạo chúa đối với những con người tự do và có suy nghĩ! -Maximilien kêu lên.

– Tôi là ai ư? Monte Crixto nhắc lại. Nghe đây: tôi là người độc nhất trên đời này có quyền bảo anh rằng: Morrel, tôi không muốn để người con của cha anh phải chết hôm nay!

– Vì sao ông lại nhắc đến cha tôi? – Morrel ấp úng hỏi.

– Bởi vì ta là người đã từng cứu sống cha cháu vào ngày mà ông muốn tự sát giống như cháu muốn tự sát hôm nay; vì ta là người đã gửi cái túi cho em gái cháu; vì ta là Edmond Dantès, là người đã bồng bế cháu trong lòng cho cháu đùa nghịch khi cháu còn bé!

Morrel lùi lại một bước nữa, loạng choạng, ngột ngạt, thở dốc, rã rời; rồi mất hết sức lực anh thét lên một tiếng ngã sụp xuống chân Monte Cristo.

– Nào, bá tước vừa nói vừa đặt một ngón tay lên vai anh. Cháu hãy trở lại làm một người đàn ông chứ, Maximilien?

– Bá tước ơi, với Valentine, tôi có một hạnh phúc vô bờ và thiếu cô, tôi chỉ còn nỗi tuyệt vọng và sự sầu khổ trên trái đất này.

– Ta đã bảo cháu là phải hy vọng mà, Morrel – bá tước nhắc lại.

– ông vẫn cứ bảo tôi hy vọng sao? ông muốn làm tôi tin rằng tôi có thể gặp lại Valentine?

– Ta bảo cháu phải hy vọng, vì ta biết cách làm cháu hồi phục. Ta không biết rằng cháu có nghĩ đến điều đó không, nhưng ngày hôm nay là.một ngày thiêng liêng, Maximilien: hôm nay là ngày 5 tháng chín. Cách đây mười năm ta đã cứu cha cháu lúc ông đang muốn tự sát. Hẹn một tháng nữa, đúng từng ngày cháu sẽ có trên bàn chúng ta đang ngồi cùng nhau trước cái bàn ấy đây, những vũ khí tốt và một cái chết êm dịu; nhưng đổi lại, cháu hứa với ta rằng cháu phải sống và phải đợi đến lúc đó chứ?

– Tôi xin thề với ông như vậy.

– Được lắm. Cháu hãy sẵn sàng để ngày mai chúng ta đi du lịch.

– Chúng ta sẽ đi đâu thưa ông? Morrel hỏi.

– Đầu tiên đến Marseille. Rồi ta sẽ từ biệt cháu vài ngày để đi Rome.

– Tôi sẽ đến nơi mà ông thích đưa tôi đến, Morrel nói với một nụ cười buồn; tôi thuộc về ông trong một tháng nữa.

Trong sân nhà tù La Conciergerie là nơi giam giữ những người tù nguy hiểm nhất, có một người trẻ tuổi đang đi dạo, tay đút túi, được các bạn tù soi mói thóc mách nhiều. Đó là Andrea hay đúng hơn là Benedetto.

Bỗng nhiên có tiếng gọi ở ô cửa xép.

– Benedetto, một thanh tra gọi. Ra phòng tiếp khách.

Sau tấm song sắt của phòng tiếp thân nhân nơi Andrea được dẫn tới, hắn thấy bộ mặt rầu rĩ nhưng thông minh của ông Bertuccio cũng đang nhìn với vẻ kinh ngạc xót xa những song sắt, những cửa chốt chặt và những bóng người cử động sau cái chấn song.

– Chào Benedetto, – Bertuccio nói.

– ông, ông à, người trẻ tuổi vừa nói vừa nhìn quanh với vẻ sợ hãi. Ai bảo ông đến?

– Chẳng ai cả?

– ông, con người trung hậu, ông là nghĩa phụ của tôi… Nhưng tất cả những gì người ta đã làm cho tôi, nào là tìm cho tôi một người ý để nhận làm cha, nào là dẫn dắt tôi vào xã hội thượng lưu Paris, nào cho tôi tiền, thì tôi ngờ rằng không phải ông đã làm những điều ấy. Nào, nói đi… Tôi muốn biết ai là người cha thật sự của tôi!

– Ta đến để nói với anh điều đó. – Bertuccio bình tĩnh nói.

– A! – Benedetto reo lên, mắt long lanh mừng rỡ.

Đúng lúc đó cánh cửa mở ra, người gác ô cửa xép nói với Bertuccio:

– Xin lỗi ông, ông dự thẩm đang đợi tù nhân.

– Vậy thì ta sẽ quay lại vào ngày mai. – Ber-tuccio nói..- Được! Andrea nói. Thưa các ông cảnh binh, tôi xin tùy các ông chỉ bảo…à! ông thân mến, xin ông hãy để lại một chục ê quy ở phòng lục sự để người ta đưa vào cho tôi các thứ cần dùng.

– Được rồi, Bertuccio đáp. Hẹn ngày mai!

Phiên tòa đại hình đầu tiên mở vào ngày thứ hai đầu tuần. Villefort thấy mặt trời ngày hôm ấy ló lên nhột nhạt, thê thảm. Cả đêm hắn không ngủ được.

Ngày hôm nay, hắn gượng nói với người nào sắp nắm lấy thanh gươm của thần công lý, phải trừng phạt bất kỳ kẻ nào phạm tội dù nó ở đâu.

Và Villefort, hồ sơ cắp nách, mũ cầm tay, đi về phía căn hộ của vợ hắn. Đến cửa, hắn dừng lại một lát, lấy khăn tay lau vầng trán tái mét ướt đẫm mồ hôi. Rồi hắn đẩy cửa.

– A! ông đấy à, mụ nói tự nhiên và bình thản, lạy chúa! Sao ông xanh xao thế, thưa ông!

Vậy ra ông vẫn cứ làm việc suốt đêm ư? Tại sao ông không đến ăn sáng với chúng tôi?

Ông de Villefort bước ra cửa, chốt lại.

– Ôi lạy chúa! Người đàn bà vừa nói vừa soi mói nhìn chồng mình thấu tận tâm can, vừa hé nở một nụ cười, nhưng bị vẻ thản nhiên của Villefort làm đông cứng lại ngay, có chuyện gì vậy?

– Thưa bà, thuốc độc bà thường dùng bà để ở đâu? Viên quan tòa đứng chắn giữa vợ hắn và cái cửa, nói rành mạch chẳng mào đầu.

– Ôi! Thưa ông, bà de Villefort vừa nói vừa chắp hai tay lại, ông nói gì thế?

– Tôi hỏi bà, Villefort nói tiếp với giọng hoàn toàn điềm tĩnh, bà giấu thứ thuốc độc mà bà đã dùng để giết bố tôi là ông de Saint-Méran, mẹ tôi là bà de Saint-Méran và con gái tôi Valentine ở đâu?

Bà de Villefort rùng mình.

– Bà không trả lời sao, thưa bà! Sao bà hèn nhát thế, bà là người đã có cái can đảm gớm ghê dám nhìn hai cụ già và một thiếu nữ bị bà sát hại thở hơi cuối cùng trước mặt mình cơ mà?

Bà de Villefort xoắn hai bàn tay vào nhau và ngã khuỵu gối xuống.

– Giá treo cổ đang đợi mụ đấy.

Bà de Villefort thét lên một tiếng man rợ, vẻ kinh hãi gớm ghiếc không chế ngự nổi bộc lộ ra ở nét mặt bị biến dạng của mụ.

– ồ! Đừng sợ giá treo cổ, thưa bà, viên quan tòa nói, tôi không muốn làm mất danh dự của bà vì như thế là làm mất danh dự của chính tôi.

– ông muốn nói gì vậy? Mụ đàn bà khốn nạn ấp úng, rụng rời kinh ngạc..- Điều tôi muốn là công lý phải được thi hành. Phải chăng bà còn giữ lại vài giọt chất thuốc độc êm dịu nhất, nhạy bén nhất và chắc chắn nhất ấy?

– ồ! Xin tha thứ cho tôi, thưa ông, hãy để cho tôi sống!

Bà de Villefort ngã sụp xuống chân chồng.

Villefort đến gần mụ vợ:

– Hãy suy nghĩ điều đó đi, nếu tôi quay lại mà công lý chưa được thi hành, tôi sẽ đích thân tố giác bà và tôi sẽ tự tay bắt giữ bà.

Mụ nghe, thở hổn hển, rũ rượi, bại hoại, chỉ riêng cặp mắt của mụ còn linh hoạt và ấp ủ một ngọn lửa khủng khiếp.

– Bà nghe tôi nói đây, Villefort nói tiếp, tôi đến đàng kia để đòi xử tử hình một tên sát nhân…

Nếu lúc về tôi thấy bà còn sống thì tối nay bà sẽ ngủ trong nhà tù.

Bà de Villefort thở dài, thần kinh của mụ giãn ra, mụ quỵ xuống rã rượi trên tấm thảm.

– Vĩnh biệt bà, hắn nói thong thả, vĩnh biệt!

Tiếng vĩnh biệt này giáng xuống như lưỡi dao đao phủ giáng xuống bà de Villefort. Mụ ngất đi.

Viên biện lý hoàng gia đi ra, và khi rời căn phòng, hắn khóa cửa lại bằng hai vòng chìa khóa.

Vụ án Benedetto, như người ta gọi ở tòa và ở ngoài đời, đã gây ra kích động to lớn. Ai cũng muốn đến dự phiên tòa đại hình. Ngay từ bảy giờ sáng người ta đã xếp hàng dài ở cửa sắt, và một tiếng đồng hồ trước phiên tòa, gian phòng đã chật cứng những người có thế lực.

– Khai mạc phiên tòa, thưa các ngài.

Các quan tòa vào phòng xử án giữa bầu không khí im lặng như tờ; các vị hội thẩm ngồi vào chỗ; ông de Villefort, đối tượng được cử tọa chú ý, ngồi vào ghế bành của mình, đưa mắt bình thản nhìn khắp xung quanh.

– Cảnh binh! ông chánh án nói, đưa bị can vào.

Ông chánh án yêu cầu đọc bản buộc tội đã được ngòi bút rất khôn ngoan và rất khe khắt của Villefort thảo ra.

Có lẽ chưa bao giờ Villefort viết được xúc tích đến thế, hùng hồn đến thế; tội ác được phơi bày ra dưới những sắc màu gay gắt nhất, tiền sử của bị can, sự thay hình đổi dạng của hắn, mối dây liên hệ giữa các hành vi phạm tội kể từ khi tuổi còn khá nhỏ dại đều được trình bày tỉ mỉ thật tài tình.

Cuối cùng bản luận tội kết thúc.

– Bị can, họ tên anh là gì?

– Tôi sẽ trả lời câu hỏi này, nhưng muộn một chút..Tiếng xì xào ngạc nhiên nổi lên khắp gian phòng.

– Bao nhiêu tuổi? Có cho biết được không?

– Tôi hai mươi mốt tuổi, hay đúng hơn là phải vài ngày nữa tôi mới đến tuổi ấy, vì tôi được sinh ra vào đêm 27 rạng ngày 28 tháng chín 1817.

Ông de Villefort đang mải ghi chép, nghe thấy ngày tháng ấy bỗng ngẩng đầu lên .

– Anh sinh ra ở đâu? ông chánh án hỏi tiếp.

– ở Auteuil, gần Paris. – Benedetto trả lời.

Ông de Villefort lại ngẩng đầu lần thứ hai, nhìn Benedetto và tái nhợt đi.

– Bây giờ anh khai họ tên anh đi.

– Tôi không thể khai tên họ tôi vì tôi không biết; nhưng tôi biết họ tên cha tôi và tôi có thể khai với ông.

Một cơn choáng váng đau xót làm tối sầm mắt Villefort.

– Vậy thì khai tên họ cha anh, ông chánh án nói tiếp.

Không một làn gió nào, không một hơi thở nào khuấy động bầu không khí im phăng phắc của cái cử tọa đông đảo này: tất cả mọi người chờ đợi.

– Cha tôi là biện lý hoàng gia, Andrea bình tĩnh trả lời, và vì ông muốn biết họ tên ông ấy, tôi xin khai: cha tôi là de Villefort!

Vụ nổ được nén lại quá lâu nay bùng ra, như một tiếng sét, từ đáy mọi lồng ngực. Giữa tiếng ồn ào ấy, thấy vang lên tiếng thét của ông chánh án:

– Anh đùa bỡn với tòa hả, bị can?

Yên tĩnh trở lại trong phòng, tuy nhiên trừ một chỗ có một nhóm khá đông người đang xôn xao thì thầm.

Người ta bảo có một bà vừa ngất.

– Thưa các ngài, Andrea nói tiếp, cử chỉ và giọng nói của hắn khiến cử tọa phải im lặng, tôi có nghĩa vụ đưa ra trước các vị chứng cứ và giải thích các lời nói của tôi. Tôi sinh ra trên gác một, căn nhà số 28, phố La Fontaine. Cha tôi bế tôi trên tay và bảo mẹ tôi rằng tôi đã chết, ông giấu tôi vào một cái tã có đánh dấu bằng một chữ H và một chữ N rồi đem tôi ra vườn và chôn sống tôi ở đó.

Đúng lúc đó trong phòng xử án, một tiếng thét lanh lảnh kế đến tiếng nức nở vang lên giữa đám đông, như chúng tôi đã nói, một người đàn bà đang bị một cơn kích động thần kinh dữ dội và được đưa ra khỏi phòng xử án; trong khi mọi người đem bà ta đi, thì tấm mạng dày che mặt bà bị hé mở và người ta nhận ra bà Danglars..- Các chứng cớ! Các chứng cớ! ông chánh án nói; bị can, anh nên nhớ rằng các mớ những điều huyên thuyên ghê tởm này cần phải dựa vào những chứng cớ hiển nhiên nhất.

– Như vậy thì, Benedetto vừa nói vừa cười, xin hãy nhìn ông de Villefort và ông còn đòi hỏi ở tôi những chứng cớ nữa hay thôi.

Mọi người quay về phía ông biện lý hoàng gia. ông này dưới sức nặng của hàng ngàn cái nhìn dán chặt vào mình đang bước vào giữa tòa án, lảo đảo, tóc rối bù. Toàn thể cử tọa phát ra một tiếng xì xào dài kinh ngạc.

– Người ta đòi hỏi tôi phải có chứng cớ; thưa cha, Benedetto nói, cha có vui lòng để tôi đưa ra không?

– Không, không, ông de Villefort ấp úng bằng một giọng tắc nghẹn; không, điều đó vô ích.

– Thế nào, vô ích à? ông chánh án thét, ông muốn nói gì vậy?

– Tôi muốn nói rằng, viên biện lý hoàng gia kêu lên, không có chứng cớ; chẳng cần phải có chứng cớ; tất cả những điều chàng trai này vừa nói là có thật!

Một không khí im lặng ảo não và nặng nề như bầu không khí trước lúc xảy ra những tai biến của thiên nhiên bao lấy tất cả những người dự phiên tòa tóc tai đang dựng ngược, trong lớp vỏ bọc nặng như chì của nó. Trong cái im lặng ấy, Villefort loạng choạng bước ra cửa mà người nhân viên phục vụ vừa mở ra cho hắn bằng một động tác máy móc, và đi khuất.

Trong xe, Villefort nghĩ đến vợ hắn. Người vợ ấy hắn vừa mới xét xử khắc nghiệt, hắn vừa mới xử tử mụ ta. Một giờ đồng hồ đã trôi qua từ lúc hắn kết án mụ.

– Nhanh lên! Nhanh nữa lên! Villefort hét bằng một giọng làm cho người đánh xe nhảy bật lên trên ghế ngồi của mình.

Những con ngựa bị nỗi sợ kích thích, phóng như bay về tận nhà.

– Phải, phải, Villefort lặp đi lặp lại trong lúc gần đến nhà mình, phải, mụ đàn bà này phải sống, phải để cho mụ ăn năn hối lỗi và để mụ nuôi dạy con trai mình.

Hắn vào phòng khách nhỏ.

– Không có ai, hắn lẩm bẩm, chắc hẳn mụ ở trong phòng ngủ.

Hắn lao về phía cửa. ở đó, then đã cài. Hắn dừng lại, run rẩy. Hắn gọi:

– Héloise!.- Ai đấy? Người vừa được gọi cất tiếng hỏi.

Hắn thấy hình như giọng nói này yếu hơn bình thường.

– Mở ra! Mở cửa! Villefort thét, tôi đây.

Nhưng dù có lệnh này, dù cho cái lệnh ấy phát ra bằng một giọng lo âu, cửa vẫn không được mở.

Villefort dùng chân đạp mạnh cánh cửa. ở lối vào căn phòng dẫn thẳng vào phòng khách nhỏ, hắn thấy bà de Villefort đang đứng, xanh xao, nét mặt rúm ró và nhìn hắn với cặp mắt trừng trừng đáng sợ.

– Héloise! Héloise! Hắn nói, bà sao thế? Nói đi!

Người đàn bà giơ tay về phía hắn, bàn tay cứng đờ và tím nhợt.

– Xong rồi ông ạ, mụ nói với tiếng thở khò khè như xé rách họng mụ; vậy ông còn muốn gì thêm nữa?

Rồi mụ đổ vật xuống thảm.

Villefort chạy đến, nắm lấy bàn tay mụ. Bàn tay ấy co quắp nắm một cái lọ pha lê.

Bà de Villefort đã chết.

Villefort điên cuồng vì ghê sợ, lùi lại đến tận ngưỡng cửa phòng và nhìn xác chết. Đột nhiên hắn thét:

– Con trai ta! Con trai ta đâu rồi? Edouard!

Edouard!

Hắn ghê tởm bước qua xác mụ de Villefort để đến phòng khách nhỏ của bà ta. Hắn tiến vào ba hay bốn bước và thấy con hắn đang nằm trên chiếc trường kỷ.

Có lẽ là đứa trẻ ngủ.

Hắn nâng đứa trẻ lên tay, ghì lấy nó, lay nó, gọi nó… đứa trẻ không hề trả lời. Hắn gắn đôi môi hau háu của hắn vào má đứa trẻ… hai má nó nhột nhạt, lạnh giá; hắn sờ nắn tay chân đã cứng đờ của nó; hắn đặt tay lên tim nó… tim nó không đập nữa.

Đứa trẻ đã chết.

Hai nạn nhân này làm hắn kinh sợ. Hắn cảm thấy nỗi khiếp hãi của sự cô đơn giữa hai xác chết trào dâng trong hắn.

Villefort gục đầu xuống dưới sức nặng của nỗi đau, hắn quỳ thẳng người lên, lắc mớ tóc đẫm mồ hôi, dựng ngược vì sợ hãi và con người ấy, kẻ chưa bao giờ xót thương ai, bỏ đi tìm ông cụ già, cha hắn, để trong phút yếu lòng có người nghe hắn kể lại nỗi bất hạnh của hắn. Hắn đi xuống cầu thang và vào phòng cụ Noirtier.

Khi Villefort bước vào, cụ Noirtier có vẻ đang chăm chú nghe một cách trìu mến biểu lộ hết mức mà tình trạng bại liệt của cụ cho phép,.tu sĩ Busoni đang ở đấy, bao giờ cũng điềm tĩnh và lạnh lùng như thường lệ.

– ông ở đây à, thưa ông! Villefort nói. ông luôn luôn chỉ xuất hiện ở nơi nào có cái chết để mà hộ tống.

– Tôi đã đến đây để cầu nguyện bên thi hài con gái ông! Busoni trả lời. – Và bây giờ ông đến đây làm gì?

– Tôi đến để bảo ông rằng ông đã trả nợ cho tôi được kha khá rồi đấy.

– Lạy chúa tôi! Villefort vừa nói vừa lùi lại, ghê sợ ra mặt, ông không phải là tu sĩ Busoni!

– Không. Tu sĩ nói và giật đi miếng hói đầu giả.

– Đây là cái mặt ông Monte Cristo! Villefort kêu lên, mắt nhớn nhác.

– Còn chưa phải thế đâu, thưa ông biện lý hoàng gia, hãy tìm tòi kỹ hơn và xa hơn.

– Cái giọng này! Cái giọng này! Cái giọng này tôi đã nghe lần đầu ở đâu nhỉ?

– ông đã nghe giọng ấy lần đầu ở Marseille từ hai mươi ba năm trước, vào ngày ông cưới cô de Saint-Méran. Hãy tìm trong hồ sơ của ông.

– Nhưng ta đã làm gì ngươi? Villefort hét.

– ông đã kết án tôi tội chết từ từ và gớm guốc, ông đã giết chết cha tôi, ông đã tước đoạt tự do và do đó tôi mất cả tình yêu, ông đã lấy đi tình yêu của tôi và do đó tước đoạt cả vận mệnh của tôi.

– ông là ai? Vậy ông là ai? Lạy chúa tôi!

– Tôi là bóng ma của một kẻ khốn khổ mà ông đã đem chôn vùi trong các hầm cấm cố của pháo đài If.

– A! Ta nhận ra ngươi, ta nhận ra ngươi rồi!

Viên biện lý hoàng gia nói, ngươi là…

– Ta là Edmond Dantès.

– Ngươi là Edmond Dantès! Viên biện lý hoàng gia vừa kêu lên vừa nắm lấy cổ tay bá tước; như vậy thì đi!

Và hắn kéo ông đi theo cầu thang, Monte Cristo ngạc nhiên theo hắn nhưng không biết viên biện lý hoàng gia dẫn mình đi đâu, và cảm thấy có tai họa mới gì đó.

– Này, Edmond Dantès, hắn vừa nói vừa chỉ cho bá tước thấy xác vợ hắn và thi thể con hắn, này! Nhìn đi, mi trả được thù rồi chứ?…

Monte Cristo tái mặt trước cảnh tượng hãi hùng này. Anh nhảy bổ đến thi thể đứa bé với một tình cảm lo âu khó tả, vạch mắt nó ra, bắt mạch và ôm nó lao vào phòng Valentine rồi khóa cửa lại bằng hai vòng xoay chìa khóa.

– Con ta! Villefort hét, Nó mang xác con ta đi! Ôi! Tai họa! Bất hạnh! Mi chết đi!.Và hắn muốn lao theo Monte Cristo; nhưng như trong mơ, hắn cảm thấy chân như mọc rễ, mắt hắn mở to đến vỡ tròng, các ngón tay hắn móc vào thịt trên ngực hắn rồi cứ cắm dần vào đến khi máu nhuộm đỏ các móng tay. Các mạch trên thái dương của hắn dìm não hắn vào một biển lửa.

Sự bất động kéo dài nhiều phút cho đến khi cuộc đảo lộn đáng sợ của lý trí được hoàn thành.

Lúc đó hắn hét lên một tiếng tiếp đến một trận cười dài rồi đâm bổ xuống cầu thang.

Mười lăm phút sau, cửa phòng Valentine mở ra và bá tước Monte Cristo bước ra. ông bế đứa trẻ trên tay, không cách nào cứu được cho nó sống lại nữa rồi? ông quỳ một gối xuống đất và thành kính đặt nó bên mẹ, đầu gối lên ngực mẹ nó.

Monte Cristo xuống vườn thấy Villefort tay cầm mai, bới đất như điên.

– Chỗ này chưa phải đâu, hắn nói, chỗ này chưa phải đâu. Và hắn bới ra xa hơn.

Monte Cristo đến gần hắn, nói thật khẽ:

– Thưa ông, ông bảo hắn với một giọng gần như khiêm nhường, ông đã mất đi một đứa con trai; nhưng…

Monte Cristo lùi lại hoảng sợ.

– Ôi! Hắn phát điên rồi!

Và Monte Cristo lao ra phố, lần đầu tiên ông nghi ngờ rằng liệu mình có quyền làm những việc mình đã làm không.

Hôm sau trời sáng muộn và đầy mây.

Đám tang Valentine cử hành vào hồi mười một giờ và trước khi diễn ra cái nghi lễ tang tóc này, bá tước Monte Cristo đến dinh thự Dan-glars.

Ông chủ nhà băng đến trước mặt anh vẻ mặt rầu rầu, nhưng nhã nhặn.

– ông cho phép chứ? Hắn nói. Lúc ông vào tôi đang làm dở năm chi phiếu; ông có vui lòng cho phép tôi được làm nốt không?

– Cứ làm đi, nam tước thân mến, cứ làm đi!

Một quãng im lặng, thậm chí nghe thấy cả tiếng ngòi bút sột soạt của ông chủ ngân hàng.

– Này, thưa bá tước, hắn nói tiếp, ông là người làm chúa tể ngành tài chính, ông đã từng thấy nhiều mảnh giấy cỡ như thế này mà mệnh giá đến một triệu hay không?.Monte Cristo cầm lên tay, như để cân nhắc nặng nhẹ, năm mảnh giấy mà Danglars hãnh diện kh với anh, và đọc:

“Xin ông Quản đốc ngân hàng vui lòng chi theo lệnh tôi, tính từ số vốn tôi gửi giữ, số tiền là một triệu bằng tiền mặt. Nam tước Danglars.” – Năm triệu! Monte Cristo nói, ái chà! ông mạnh tay thật, thưa nam tước.

– Tôi đây, tôi tiến hành kinh doanh như thế đấy. Danglars nói.

– Quả thật, Monte Cristo vừa nói vừa gấp năm tờ chi phiếu, thật là vừa khéo: tín dụng của tôi ở chỗ ông là sáu triệu, tôi đã lấy một triệu, vậy là ông còn thiếu tôi năm triệu. Tôi lấy năm mảnh giấy này làm trái phiếu mà chỉ cần thấy chữ ký của ông thôi, và đây là biên lai chung cho cả sáu triệu để hợp thức bản kết toán của chúng ta.

Rồi một tay nhét năm tờ chi phiếu vào túi còn tay kia anh chìa biên lai cho chủ ngân hàng.

Hắn bị đè bẹp bởi một nỗi sợ hãi còn ghê gớm hơn cả sét đánh xuống chân hắn.

– Sao! Hắn ấp úng, thưa bá tước, ông lấy số tiền này? Nhưng đó là tiền mà tôi phải trả cho nhà tế bần chiều nay.

– A! Monte Cristo nói, thế thì lại khác. Tôi chẳng thiết lấy đúng năm chi phiếu này, nhưng hãy trả cho tôi bằng những trị giá khác; chẳng qua là vì hiếu kỳ mà tôi cầm những tờ phiếu này thôi để rồi có thể tuyên bố khắp thiên hạ rằng hãng Danglars chẳng yêu cầu tôi hoãn cho năm phút mà đã chi trả cho tôi năm triệu tiền mặt!

Cái đó mới thật đáng nể!

– Xin miễn thứ, thưa bá tước, Danglars bị chọc tức bèn xin lỗi. ông cứ lấy những chi phiếu ấy đi, tôi sẽ ký những chi phiếu khác.

– Tôi miễn thứ cho ông, Monte Cristo trả lời, và tôi xin nhận.

Ông bỏ các chi phiếu vào ví rồi thong thả bước ra cửa, lên xe và ra lệnh lập tức đến ngân hàng.

Còn lại một mình, nam tước Danglars đóng cửa quay hai vòng chìa khóa, dốc hết mọi ngăn két, thu thập được độ năm chục ngàn frăng tiền giấy, đốt một số giấy tờ, bày các giấy tờ khác ở nơi nhìn rõ, và bắt đầu viết một lá thư. Lá thư này gửi cho bà Danglars, được viết như sau:

“Khi bà nhận được lá thư này, tôi đang trên đường đi khỏi nước Pháp.

Tôi có nghĩa vụ giải thích cho bà, vậy hãy nghe đây:

Sáng nay bỗng nhiên phải chi trả năm triệu tôi đã thanh toán xong, lại tiếp đến một khoản nữa cùng số tiền đó phải trả chiều nay; tôi không thể đảm trách nổi việc đó. Vì vậy, tôi ra đi để tránh phải chịu đựng những điều quá ư rầy rà..Người chồng rất tận tụy của bà. Nam tước Danglars.” Hắn đóng dấu vào lá thư và đem đặt vào phòng vợ hắn. Rồi hắn kiểm tra lại hộ chiếu của mình xem có còn giá trị không.

Thời tiết u ám và đầy mây, lại thêm một làn gió ấm nữa nhưng đã làm khô héo những chiếc lá úa vàng, bứt chúng ra khỏi cành đang trơ trụi dần, làm cho chúng quay cuồng trên đám đông đang tràn ngập khắp phố phường.

Đám tang từ từ đi về phía nghĩa địa Père Lachaise. Hơn năm chục chiếc xe sang trọng theo sau hai chục xe có băng tang và, sau năm chục xe sang trọng ấy lại còn trên năm trăm người.

Ra khỏi Paris thì thấy một cỗ xe phóng nhanh tới, bốn con ngựa kéo xe đột ngột dừng lại nhờ căng cứng các khuỷu vó gân guốc như những lò so thép: đó là ông Monte Cristo. Bá tước từ trên xe bước xuống đi lẫn vào đám đông đang chậm bước theo xe chỗ linh cữu.

Château-Renaud nhìn thấy ông. Anh ta cũng lập tức xuống xe đi bộ để gặp bá tước.

Beauchamp cũng rời khỏi chiếc xe độc mã đang ngồi.

– Morrel đâu? – Bá tước hỏi.

– Chúng tôi thấy anh ta ở đàng kia.

Đúng thế, Morrel đứng ở đàng xa, dưới bóng cây. Vẻ điềm tĩnh và sự bất động của anh tạo ra một cảnh tượng đáng sợ cho kẻ nào đọc được những gì đang diễn ra trong lòng chàng sĩ quan trẻ. Rồi cuối cùng anh cũng hồi phục được và trở lại con đường về Paris mà không ngoái cổ lại lấy một lần.

Bá tước cho xe đậu ở Père Lachaise, quay về, rồi đi theo sau anh ta cách một trăm bước. Maxi-milien vượt qua kênh và quay về phố Meslay qua các con phố lớn.

Năm phút sau khi cánh cửa khép lại sau lưng Morrel, thì cửa lại mở ra cho Monte Cristo.

Julie đang ở lối ra vườn.

– A! ông bá tước! – Cô reo lên.

– Xin lỗi, thưa bà, tôi phải lên phòng Maxi-milien ngay lập tức; tôi có vài điều cực kỳ quan trọng, cần nói với anh ta.

– Vậy ông đi đi, cô nói và tiễn ông bằng nụ cười khả ái.

Monte Crixto mau chóng vượt qua hai tầng gác ngăn cách tầng trệt với căn hộ của Maxi-milien, vừa lên đến thềm ông đã gọi anh ta.

Maximilien vừa miễn cưỡng mở cửa vừa cố che giấu việc mình đang làm. Nhưng bá tước ra sức hối thúc anh đến mức anh buộc phải để bá tước lách vào..- Anh đang làm cái trò gì với những khẩu súng lục để trên bàn vậy? Morrel, anh muốn tự sát à!

– Vâng, Morrel kêu lên, khi chuyện ấy xảy ra, khi tôi quyết định tự sát thì ai cản được tôi nào?

– Tôi, Morrel ạ, Monte Crixto nói với giọng điềm tĩnh tương phản đến kỳ lạ với vẻ kích động của chàng trai. Phải, tôi, tôi sẽ có cái can đảm ấy.

– ông! Morrel thét lên với thái độ mỗi lúc một thêm tức giận và trách móc, ông là người đã lừa tôi bằng một hy vọng phi lý; ông là người đã kiềm chế tôi, vỗ về, ru ngủ tôi bằng những lời hứa hão huyền, ông đã đóng vai hay giả bộ đóng vai Thượng đế mà lại không thể cho được thuốc giải độc cho một thiếu nữ bị đầu độc!

Monte Crixto nhột nhạt như một hồn ma, nhưng cặp mắt lấp loáng ánh chớp, đặt tay lên những khẩu súng:

– Và tôi nhắc lại rằng anh không được tự sát!

– Nhưng rốt cuộc ông là cái thá gì mà lại dám khoác cho mình cái quyền của bạo chúa đối với những con người tự do và có suy nghĩ! -Maximilien kêu lên.

– Tôi là ai ư? Monte Crixto nhắc lại. Nghe đây: tôi là người độc nhất trên đời này có quyền bảo anh rằng: Morrel, tôi không muốn để người con của cha anh phải chết hôm nay!

– Vì sao ông lại nhắc đến cha tôi? – Morrel ấp úng hỏi.

– Bởi vì ta là người đã từng cứu sống cha cháu vào ngày mà ông muốn tự sát giống như cháu muốn tự sát hôm nay; vì ta là người đã gửi cái túi cho em gái cháu; vì ta là Edmond Dantès, là người đã bồng bế cháu trong lòng cho cháu đùa nghịch khi cháu còn bé!

Morrel lùi lại một bước nữa, loạng choạng, ngột ngạt, thở dốc, rã rời; rồi mất hết sức lực anh thét lên một tiếng ngã sụp xuống chân Monte Cristo.

– Nào, bá tước vừa nói vừa đặt một ngón tay lên vai anh. Cháu hãy trở lại làm một người đàn ông chứ, Maximilien?

– Bá tước ơi, với Valentine, tôi có một hạnh phúc vô bờ và thiếu cô, tôi chỉ còn nỗi tuyệt vọng và sự sầu khổ trên trái đất này.

– Ta đã bảo cháu là phải hy vọng mà, Morrel – bá tước nhắc lại.

– ông vẫn cứ bảo tôi hy vọng sao? ông muốn làm tôi tin rằng tôi có thể gặp lại Valentine?

– Ta bảo cháu phải hy vọng, vì ta biết cách làm cháu hồi phục. Ta không biết rằng cháu có nghĩ đến điều đó không, nhưng ngày hôm nay là.một ngày thiêng liêng, Maximilien: hôm nay là ngày 5 tháng chín. Cách đây mười năm ta đã cứu cha cháu lúc ông đang muốn tự sát. Hẹn một tháng nữa, đúng từng ngày cháu sẽ có trên bàn chúng ta đang ngồi cùng nhau trước cái bàn ấy đây, những vũ khí tốt và một cái chết êm dịu; nhưng đổi lại, cháu hứa với ta rằng cháu phải sống và phải đợi đến lúc đó chứ?

– Tôi xin thề với ông như vậy.

– Được lắm. Cháu hãy sẵn sàng để ngày mai chúng ta đi du lịch.

– Chúng ta sẽ đi đâu thưa ông? Morrel hỏi.

– Đầu tiên đến Marseille. Rồi ta sẽ từ biệt cháu vài ngày để đi Rome.

– Tôi sẽ đến nơi mà ông thích đưa tôi đến, Morrel nói với một nụ cười buồn; tôi thuộc về ông trong một tháng nữa.

Trong sân nhà tù La Conciergerie là nơi giam giữ những người tù nguy hiểm nhất, có một người trẻ tuổi đang đi dạo, tay đút túi, được các bạn tù soi mói thóc mách nhiều. Đó là Andrea hay đúng hơn là Benedetto.

Bỗng nhiên có tiếng gọi ở ô cửa xép.

– Benedetto, một thanh tra gọi. Ra phòng tiếp khách.

Sau tấm song sắt của phòng tiếp thân nhân nơi Andrea được dẫn tới, hắn thấy bộ mặt rầu rĩ nhưng thông minh của ông Bertuccio cũng đang nhìn với vẻ kinh ngạc xót xa những song sắt, những cửa chốt chặt và những bóng người cử động sau cái chấn song.

– Chào Benedetto, – Bertuccio nói.

– ông, ông à, người trẻ tuổi vừa nói vừa nhìn quanh với vẻ sợ hãi. Ai bảo ông đến?

– Chẳng ai cả?

– ông, con người trung hậu, ông là nghĩa phụ của tôi… Nhưng tất cả những gì người ta đã làm cho tôi, nào là tìm cho tôi một người ý để nhận làm cha, nào là dẫn dắt tôi vào xã hội thượng lưu Paris, nào cho tôi tiền, thì tôi ngờ rằng không phải ông đã làm những điều ấy. Nào, nói đi… Tôi muốn biết ai là người cha thật sự của tôi!

– Ta đến để nói với anh điều đó. – Bertuccio bình tĩnh nói.

– A! – Benedetto reo lên, mắt long lanh mừng rỡ.

Đúng lúc đó cánh cửa mở ra, người gác ô cửa xép nói với Bertuccio:

– Xin lỗi ông, ông dự thẩm đang đợi tù nhân.

– Vậy thì ta sẽ quay lại vào ngày mai. – Ber-tuccio nói..- Được! Andrea nói. Thưa các ông cảnh binh, tôi xin tùy các ông chỉ bảo…à! ông thân mến, xin ông hãy để lại một chục ê quy ở phòng lục sự để người ta đưa vào cho tôi các thứ cần dùng.

– Được rồi, Bertuccio đáp. Hẹn ngày mai!

Phiên tòa đại hình đầu tiên mở vào ngày thứ hai đầu tuần. Villefort thấy mặt trời ngày hôm ấy ló lên nhột nhạt, thê thảm. Cả đêm hắn không ngủ được.

Ngày hôm nay, hắn gượng nói với người nào sắp nắm lấy thanh gươm của thần công lý, phải trừng phạt bất kỳ kẻ nào phạm tội dù nó ở đâu.

Và Villefort, hồ sơ cắp nách, mũ cầm tay, đi về phía căn hộ của vợ hắn. Đến cửa, hắn dừng lại một lát, lấy khăn tay lau vầng trán tái mét ướt đẫm mồ hôi. Rồi hắn đẩy cửa.

– A! ông đấy à, mụ nói tự nhiên và bình thản, lạy chúa! Sao ông xanh xao thế, thưa ông!

Vậy ra ông vẫn cứ làm việc suốt đêm ư? Tại sao ông không đến ăn sáng với chúng tôi?

Ông de Villefort bước ra cửa, chốt lại.

– Ôi lạy chúa! Người đàn bà vừa nói vừa soi mói nhìn chồng mình thấu tận tâm can, vừa hé nở một nụ cười, nhưng bị vẻ thản nhiên của Villefort làm đông cứng lại ngay, có chuyện gì vậy?

– Thưa bà, thuốc độc bà thường dùng bà để ở đâu? Viên quan tòa đứng chắn giữa vợ hắn và cái cửa, nói rành mạch chẳng mào đầu.

– Ôi! Thưa ông, bà de Villefort vừa nói vừa chắp hai tay lại, ông nói gì thế?

– Tôi hỏi bà, Villefort nói tiếp với giọng hoàn toàn điềm tĩnh, bà giấu thứ thuốc độc mà bà đã dùng để giết bố tôi là ông de Saint-Méran, mẹ tôi là bà de Saint-Méran và con gái tôi Valentine ở đâu?

Bà de Villefort rùng mình.

– Bà không trả lời sao, thưa bà! Sao bà hèn nhát thế, bà là người đã có cái can đảm gớm ghê dám nhìn hai cụ già và một thiếu nữ bị bà sát hại thở hơi cuối cùng trước mặt mình cơ mà?

Bà de Villefort xoắn hai bàn tay vào nhau và ngã khuỵu gối xuống.

– Giá treo cổ đang đợi mụ đấy.

Bà de Villefort thét lên một tiếng man rợ, vẻ kinh hãi gớm ghiếc không chế ngự nổi bộc lộ ra ở nét mặt bị biến dạng của mụ.

– ồ! Đừng sợ giá treo cổ, thưa bà, viên quan tòa nói, tôi không muốn làm mất danh dự của bà vì như thế là làm mất danh dự của chính tôi.

– ông muốn nói gì vậy? Mụ đàn bà khốn nạn ấp úng, rụng rời kinh ngạc..- Điều tôi muốn là công lý phải được thi hành. Phải chăng bà còn giữ lại vài giọt chất thuốc độc êm dịu nhất, nhạy bén nhất và chắc chắn nhất ấy?

– ồ! Xin tha thứ cho tôi, thưa ông, hãy để cho tôi sống!

Bà de Villefort ngã sụp xuống chân chồng.

Villefort đến gần mụ vợ:

– Hãy suy nghĩ điều đó đi, nếu tôi quay lại mà công lý chưa được thi hành, tôi sẽ đích thân tố giác bà và tôi sẽ tự tay bắt giữ bà.

Mụ nghe, thở hổn hển, rũ rượi, bại hoại, chỉ riêng cặp mắt của mụ còn linh hoạt và ấp ủ một ngọn lửa khủng khiếp.

– Bà nghe tôi nói đây, Villefort nói tiếp, tôi đến đàng kia để đòi xử tử hình một tên sát nhân…

Nếu lúc về tôi thấy bà còn sống thì tối nay bà sẽ ngủ trong nhà tù.

Bà de Villefort thở dài, thần kinh của mụ giãn ra, mụ quỵ xuống rã rượi trên tấm thảm.

– Vĩnh biệt bà, hắn nói thong thả, vĩnh biệt!

Tiếng vĩnh biệt này giáng xuống như lưỡi dao đao phủ giáng xuống bà de Villefort. Mụ ngất đi.

Viên biện lý hoàng gia đi ra, và khi rời căn phòng, hắn khóa cửa lại bằng hai vòng chìa khóa.

Vụ án Benedetto, như người ta gọi ở tòa và ở ngoài đời, đã gây ra kích động to lớn. Ai cũng muốn đến dự phiên tòa đại hình. Ngay từ bảy giờ sáng người ta đã xếp hàng dài ở cửa sắt, và một tiếng đồng hồ trước phiên tòa, gian phòng đã chật cứng những người có thế lực.

– Khai mạc phiên tòa, thưa các ngài.

Các quan tòa vào phòng xử án giữa bầu không khí im lặng như tờ; các vị hội thẩm ngồi vào chỗ; ông de Villefort, đối tượng được cử tọa chú ý, ngồi vào ghế bành của mình, đưa mắt bình thản nhìn khắp xung quanh.

– Cảnh binh! ông chánh án nói, đưa bị can vào.

Ông chánh án yêu cầu đọc bản buộc tội đã được ngòi bút rất khôn ngoan và rất khe khắt của Villefort thảo ra.

Có lẽ chưa bao giờ Villefort viết được xúc tích đến thế, hùng hồn đến thế; tội ác được phơi bày ra dưới những sắc màu gay gắt nhất, tiền sử của bị can, sự thay hình đổi dạng của hắn, mối dây liên hệ giữa các hành vi phạm tội kể từ khi tuổi còn khá nhỏ dại đều được trình bày tỉ mỉ thật tài tình.

Cuối cùng bản luận tội kết thúc.

– Bị can, họ tên anh là gì?

– Tôi sẽ trả lời câu hỏi này, nhưng muộn một chút..Tiếng xì xào ngạc nhiên nổi lên khắp gian phòng.

– Bao nhiêu tuổi? Có cho biết được không?

– Tôi hai mươi mốt tuổi, hay đúng hơn là phải vài ngày nữa tôi mới đến tuổi ấy, vì tôi được sinh ra vào đêm 27 rạng ngày 28 tháng chín 1817.

Ông de Villefort đang mải ghi chép, nghe thấy ngày tháng ấy bỗng ngẩng đầu lên .

– Anh sinh ra ở đâu? ông chánh án hỏi tiếp.

– ở Auteuil, gần Paris. – Benedetto trả lời.

Ông de Villefort lại ngẩng đầu lần thứ hai, nhìn Benedetto và tái nhợt đi.

– Bây giờ anh khai họ tên anh đi.

– Tôi không thể khai tên họ tôi vì tôi không biết; nhưng tôi biết họ tên cha tôi và tôi có thể khai với ông.

Một cơn choáng váng đau xót làm tối sầm mắt Villefort.

– Vậy thì khai tên họ cha anh, ông chánh án nói tiếp.

Không một làn gió nào, không một hơi thở nào khuấy động bầu không khí im phăng phắc của cái cử tọa đông đảo này: tất cả mọi người chờ đợi.

– Cha tôi là biện lý hoàng gia, Andrea bình tĩnh trả lời, và vì ông muốn biết họ tên ông ấy, tôi xin khai: cha tôi là de Villefort!

Vụ nổ được nén lại quá lâu nay bùng ra, như một tiếng sét, từ đáy mọi lồng ngực. Giữa tiếng ồn ào ấy, thấy vang lên tiếng thét của ông chánh án:

– Anh đùa bỡn với tòa hả, bị can?

Yên tĩnh trở lại trong phòng, tuy nhiên trừ một chỗ có một nhóm khá đông người đang xôn xao thì thầm.

Người ta bảo có một bà vừa ngất.

– Thưa các ngài, Andrea nói tiếp, cử chỉ và giọng nói của hắn khiến cử tọa phải im lặng, tôi có nghĩa vụ đưa ra trước các vị chứng cứ và giải thích các lời nói của tôi. Tôi sinh ra trên gác một, căn nhà số 28, phố La Fontaine. Cha tôi bế tôi trên tay và bảo mẹ tôi rằng tôi đã chết, ông giấu tôi vào một cái tã có đánh dấu bằng một chữ H và một chữ N rồi đem tôi ra vườn và chôn sống tôi ở đó.

Đúng lúc đó trong phòng xử án, một tiếng thét lanh lảnh kế đến tiếng nức nở vang lên giữa đám đông, như chúng tôi đã nói, một người đàn bà đang bị một cơn kích động thần kinh dữ dội và được đưa ra khỏi phòng xử án; trong khi mọi người đem bà ta đi, thì tấm mạng dày che mặt bà bị hé mở và người ta nhận ra bà Danglars..- Các chứng cớ! Các chứng cớ! ông chánh án nói; bị can, anh nên nhớ rằng các mớ những điều huyên thuyên ghê tởm này cần phải dựa vào những chứng cớ hiển nhiên nhất.

– Như vậy thì, Benedetto vừa nói vừa cười, xin hãy nhìn ông de Villefort và ông còn đòi hỏi ở tôi những chứng cớ nữa hay thôi.

Mọi người quay về phía ông biện lý hoàng gia. ông này dưới sức nặng của hàng ngàn cái nhìn dán chặt vào mình đang bước vào giữa tòa án, lảo đảo, tóc rối bù. Toàn thể cử tọa phát ra một tiếng xì xào dài kinh ngạc.

– Người ta đòi hỏi tôi phải có chứng cớ; thưa cha, Benedetto nói, cha có vui lòng để tôi đưa ra không?

– Không, không, ông de Villefort ấp úng bằng một giọng tắc nghẹn; không, điều đó vô ích.

– Thế nào, vô ích à? ông chánh án thét, ông muốn nói gì vậy?

– Tôi muốn nói rằng, viên biện lý hoàng gia kêu lên, không có chứng cớ; chẳng cần phải có chứng cớ; tất cả những điều chàng trai này vừa nói là có thật!

Một không khí im lặng ảo não và nặng nề như bầu không khí trước lúc xảy ra những tai biến của thiên nhiên bao lấy tất cả những người dự phiên tòa tóc tai đang dựng ngược, trong lớp vỏ bọc nặng như chì của nó. Trong cái im lặng ấy, Villefort loạng choạng bước ra cửa mà người nhân viên phục vụ vừa mở ra cho hắn bằng một động tác máy móc, và đi khuất.

Trong xe, Villefort nghĩ đến vợ hắn. Người vợ ấy hắn vừa mới xét xử khắc nghiệt, hắn vừa mới xử tử mụ ta. Một giờ đồng hồ đã trôi qua từ lúc hắn kết án mụ.

– Nhanh lên! Nhanh nữa lên! Villefort hét bằng một giọng làm cho người đánh xe nhảy bật lên trên ghế ngồi của mình.

Những con ngựa bị nỗi sợ kích thích, phóng như bay về tận nhà.

– Phải, phải, Villefort lặp đi lặp lại trong lúc gần đến nhà mình, phải, mụ đàn bà này phải sống, phải để cho mụ ăn năn hối lỗi và để mụ nuôi dạy con trai mình.

Hắn vào phòng khách nhỏ.

– Không có ai, hắn lẩm bẩm, chắc hẳn mụ ở trong phòng ngủ.

Hắn lao về phía cửa. ở đó, then đã cài. Hắn dừng lại, run rẩy. Hắn gọi:

– Héloise!.- Ai đấy? Người vừa được gọi cất tiếng hỏi.

Hắn thấy hình như giọng nói này yếu hơn bình thường.

– Mở ra! Mở cửa! Villefort thét, tôi đây.

Nhưng dù có lệnh này, dù cho cái lệnh ấy phát ra bằng một giọng lo âu, cửa vẫn không được mở.

Villefort dùng chân đạp mạnh cánh cửa. ở lối vào căn phòng dẫn thẳng vào phòng khách nhỏ, hắn thấy bà de Villefort đang đứng, xanh xao, nét mặt rúm ró và nhìn hắn với cặp mắt trừng trừng đáng sợ.

– Héloise! Héloise! Hắn nói, bà sao thế? Nói đi!

Người đàn bà giơ tay về phía hắn, bàn tay cứng đờ và tím nhợt.

– Xong rồi ông ạ, mụ nói với tiếng thở khò khè như xé rách họng mụ; vậy ông còn muốn gì thêm nữa?

Rồi mụ đổ vật xuống thảm.

Villefort chạy đến, nắm lấy bàn tay mụ. Bàn tay ấy co quắp nắm một cái lọ pha lê.

Bà de Villefort đã chết.

Villefort điên cuồng vì ghê sợ, lùi lại đến tận ngưỡng cửa phòng và nhìn xác chết. Đột nhiên hắn thét:

– Con trai ta! Con trai ta đâu rồi? Edouard!

Edouard!

Hắn ghê tởm bước qua xác mụ de Villefort để đến phòng khách nhỏ của bà ta. Hắn tiến vào ba hay bốn bước và thấy con hắn đang nằm trên chiếc trường kỷ.

Có lẽ là đứa trẻ ngủ.

Hắn nâng đứa trẻ lên tay, ghì lấy nó, lay nó, gọi nó… đứa trẻ không hề trả lời. Hắn gắn đôi môi hau háu của hắn vào má đứa trẻ… hai má nó nhột nhạt, lạnh giá; hắn sờ nắn tay chân đã cứng đờ của nó; hắn đặt tay lên tim nó… tim nó không đập nữa.

Đứa trẻ đã chết.

Hai nạn nhân này làm hắn kinh sợ. Hắn cảm thấy nỗi khiếp hãi của sự cô đơn giữa hai xác chết trào dâng trong hắn.

Villefort gục đầu xuống dưới sức nặng của nỗi đau, hắn quỳ thẳng người lên, lắc mớ tóc đẫm mồ hôi, dựng ngược vì sợ hãi và con người ấy, kẻ chưa bao giờ xót thương ai, bỏ đi tìm ông cụ già, cha hắn, để trong phút yếu lòng có người nghe hắn kể lại nỗi bất hạnh của hắn. Hắn đi xuống cầu thang và vào phòng cụ Noirtier.

Khi Villefort bước vào, cụ Noirtier có vẻ đang chăm chú nghe một cách trìu mến biểu lộ hết mức mà tình trạng bại liệt của cụ cho phép,.tu sĩ Busoni đang ở đấy, bao giờ cũng điềm tĩnh và lạnh lùng như thường lệ.

– ông ở đây à, thưa ông! Villefort nói. ông luôn luôn chỉ xuất hiện ở nơi nào có cái chết để mà hộ tống.

– Tôi đã đến đây để cầu nguyện bên thi hài con gái ông! Busoni trả lời. – Và bây giờ ông đến đây làm gì?

– Tôi đến để bảo ông rằng ông đã trả nợ cho tôi được kha khá rồi đấy.

– Lạy chúa tôi! Villefort vừa nói vừa lùi lại, ghê sợ ra mặt, ông không phải là tu sĩ Busoni!

– Không. Tu sĩ nói và giật đi miếng hói đầu giả.

– Đây là cái mặt ông Monte Cristo! Villefort kêu lên, mắt nhớn nhác.

– Còn chưa phải thế đâu, thưa ông biện lý hoàng gia, hãy tìm tòi kỹ hơn và xa hơn.

– Cái giọng này! Cái giọng này! Cái giọng này tôi đã nghe lần đầu ở đâu nhỉ?

– ông đã nghe giọng ấy lần đầu ở Marseille từ hai mươi ba năm trước, vào ngày ông cưới cô de Saint-Méran. Hãy tìm trong hồ sơ của ông.

– Nhưng ta đã làm gì ngươi? Villefort hét.

– ông đã kết án tôi tội chết từ từ và gớm guốc, ông đã giết chết cha tôi, ông đã tước đoạt tự do và do đó tôi mất cả tình yêu, ông đã lấy đi tình yêu của tôi và do đó tước đoạt cả vận mệnh của tôi.

– ông là ai? Vậy ông là ai? Lạy chúa tôi!

– Tôi là bóng ma của một kẻ khốn khổ mà ông đã đem chôn vùi trong các hầm cấm cố của pháo đài If.

– A! Ta nhận ra ngươi, ta nhận ra ngươi rồi!

Viên biện lý hoàng gia nói, ngươi là…

– Ta là Edmond Dantès.

– Ngươi là Edmond Dantès! Viên biện lý hoàng gia vừa kêu lên vừa nắm lấy cổ tay bá tước; như vậy thì đi!

Và hắn kéo ông đi theo cầu thang, Monte Cristo ngạc nhiên theo hắn nhưng không biết viên biện lý hoàng gia dẫn mình đi đâu, và cảm thấy có tai họa mới gì đó.

– Này, Edmond Dantès, hắn vừa nói vừa chỉ cho bá tước thấy xác vợ hắn và thi thể con hắn, này! Nhìn đi, mi trả được thù rồi chứ?…

Monte Cristo tái mặt trước cảnh tượng hãi hùng này. Anh nhảy bổ đến thi thể đứa bé với một tình cảm lo âu khó tả, vạch mắt nó ra, bắt mạch và ôm nó lao vào phòng Valentine rồi khóa cửa lại bằng hai vòng xoay chìa khóa.

– Con ta! Villefort hét, Nó mang xác con ta đi! Ôi! Tai họa! Bất hạnh! Mi chết đi!.Và hắn muốn lao theo Monte Cristo; nhưng như trong mơ, hắn cảm thấy chân như mọc rễ, mắt hắn mở to đến vỡ tròng, các ngón tay hắn móc vào thịt trên ngực hắn rồi cứ cắm dần vào đến khi máu nhuộm đỏ các móng tay. Các mạch trên thái dương của hắn dìm não hắn vào một biển lửa.

Sự bất động kéo dài nhiều phút cho đến khi cuộc đảo lộn đáng sợ của lý trí được hoàn thành.

Lúc đó hắn hét lên một tiếng tiếp đến một trận cười dài rồi đâm bổ xuống cầu thang.

Mười lăm phút sau, cửa phòng Valentine mở ra và bá tước Monte Cristo bước ra. ông bế đứa trẻ trên tay, không cách nào cứu được cho nó sống lại nữa rồi? ông quỳ một gối xuống đất và thành kính đặt nó bên mẹ, đầu gối lên ngực mẹ nó.

Monte Cristo xuống vườn thấy Villefort tay cầm mai, bới đất như điên.

– Chỗ này chưa phải đâu, hắn nói, chỗ này chưa phải đâu. Và hắn bới ra xa hơn.

Monte Cristo đến gần hắn, nói thật khẽ:

– Thưa ông, ông bảo hắn với một giọng gần như khiêm nhường, ông đã mất đi một đứa con trai; nhưng…

Monte Cristo lùi lại hoảng sợ.

– Ôi! Hắn phát điên rồi!

Và Monte Cristo lao ra phố, lần đầu tiên ông nghi ngờ rằng liệu mình có quyền làm những việc mình đã làm không.

Bình luận