Về đến nhà, bước vào sân, ông đã nghe tiếng khóc nức nở của bà vợ lớn làm ông giật mình tự hỏi chuyện gì nữa đây? Cả mấy tháng nay hồn con gái ông an nghỉ bên kia thế giới. Sao bây giờ mẹ cái Khuê lại khóc là thế nào? Ông bước nhanh lên hiên và gọi lớn:
– Chúng mày đâu cả rồi? Thằng Sử đâu?
Từ trong dãy nhà ngang, Sử tất tả chạy ra cúi đầu chào:
– Bẩm ông mới về ạ?
Rồi từ trong bếp, từ vườn sau, hai người đàn bà giúp việc cũng bước nhanh về và kính cẩn nói:
– Ông mới về ạ!
Tiếng khóc trong buồng vẩn vọng ra, ông Chánh hỏi:
– Bà mày làm sao thế?
Hai người đàn bà đưa mắt nhìn Sử, anh nhìn laị chị bếp, chị bếp nói:
– Bẩm ông, cô Cúc đi mất từ chiều hôm qua đến giờ. Tối cũng ko về ngủ, chúng con bổ đi tìm khắp nơi mà ko thấy, hỏi thăm chả ai biết là cô ấy đi đâu ạ.
Ông đứng lặng người đứng nghe, ngày trước Khuê đã lầm lỡ chửa hoang đến nổi mang họa, chả lẽ bây giờ lại đến lượt Cúc bỏ nhà theo trai? Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí, ko lẽ nhà ông đến nỗi mạt vận sao? Ông thốt nhớ đến lời tiên đoán của thầy địa lý mà rùn mình. Ông hỏi lại người làm:
– Thế đã đi tìm kỹ chưa? Hỏi thăm những chổ nào rồi?
Chị bếp đáp:
– Bẩm ông tối hôm qua chúng con chia nhau đi tất cả mọi nhà quen, bây giờ lại sắp sửa đi nữa đấy ạ.
Ông Chánh chợt nhớ đến caíc hết của Thủ nên hỏi Sử:
– Mày có chạy ra ngoài kho rơm chưa?
Chị bếp đáp thay Sử:
– Bẩm làm gì còn kho ơm ạ? Cháy sạch còn nền đất, con có đi qua, chả thấy gì cả.
Bà Chánh từ trong buồng vừa bước ra vừa lau nước mắt, bà cắt ngang:
– Thôi, đứng đây mà bàn tán được cái gì? Chia nhau đi tìm đi.
Ông Chánh ngẩm nghĩ rồi bảo:
– Thế tối hôm qua nó có ăn cơm nhà ko?
Bà Chánh lắc đầu thảm nảo:
– Hôm qua tôi ở bên nhà phó Thông về, cứ ngỡ là nó nằm trong buồng. Đến khi dọn cơm, gọi nó ra ăn thì mới biết là nó ko có ở nhà. Chờ mõi mắt mà ko thấy nó về, nó đi biệt luôn tới bây giờ.
Sử và hai chị người làm đi nhanh ra cổng, vừa đi vừa cất tiếng gọi:
– Cô Cúc ơi…..
Còn lại mình bà Chánh với chồng, bà ngồi bệch xuống thềm nhà và khóc nấc lên:
– Đi cả đêm ko về, tôi e là nó cóc huyện chẳng lành rồi ông ơi…
Ông Chánh cũng thở dài ngồi xuống bên vợ và nói để trấn an:
– Bà gần gũi nó, tôi hỏi bà, bà có thấy nó phải lòng thằng nào ko? Tôi sợ nó trốn theo giai, nó phải lòng thằng nào đó thì bà cứ nói. Tôi sẽ thu xếp cho nó.
Bà Chánh gắt:
– Nó thì có quen ai bao giờ? Suốt ngày cứ ru rú ở trong nhà.
– Thì bà với tôi có bao giờ ngờ con Khuê mê thằng Thủ? Cái gương tày trời còn sờ sờ ra đấy.
Bà Chánh chán nản bỏ vào buồng nằm khóc. Khóc một lúc bà ngồi dậy lau mặt, vấn khăn và lấy nón ra đường đi tìm Cúc vì thấy cứ nằm khóc cũng chả ích gì
Buổi tối ba người làm và bà Chánh lần lượt trở về mang theo bộ mặt thất vọng. Mọi người tập trung trong dãy nhà ngang. Ông Chánh bảo:
– Con Cúc nó đi đâu cũng phải đi ngang qua sân, thế chúng mày mù cả hay sao mà ko nom thấy?
Chị bếp khúm núm đáp thay cả bọn:
– Dạ bẩm, chúng con đều lo công việc trong bếp nên ko có để ý ạ.
Ông Chánh càu nhàu chửi bâng quơ một lúc rồi vô buồng, ông ngồi vào bàn, kéo cái điếu thuốc lào lại trước mặt rồi mở hộp thuốc lào rê một điếu. Toan bật diêm thì ông nhận ra lọ thuốc độc ông bỏ quên trên cái kệ gỗ dựng sát với đống rượu. Đúng ra cái thứ ấy phải luôn luôn giấu trong tủ, nhưng có lẽ hôm ấy ông lấy ra để hăm dọa bà Chánh và Khuê rồi ông quên cất ở chỗ cũ.
Ông nhớ lời thầy địa lý bảo ông:
– Các thầy thuốc bên Tàu thì giỏi về thuốc bổ mà còn giỏi về thuốc độc, là tại vì thời xưa vua chúa lúc nào cũng cần thuốc độc để giết những người trái ý mình. Thành ra các thầy Tàu chế ra những loại thuốc cực mạnh, chỉ uống vào vài giọt là ko sống được nữa.
Lọ thuốc của ông thầy bánc ho ông Chánh ko có nhãn hiệu nhưng được dán mảnh giấy trắng và được đánh dấu bằng chứ X thật lớn để nhớ. Ông Chánh đứng dậy cầm chai thuốc độc bỏ vào tủ khóa lại cẩn thận rồi ông trở lại bàn châm lửa, rít hơi thuốc dài.
Bà Chánh bỏ cả bửa cơm tối hôm ấy, mấy lần bà đứng trước bàn thờ khấn vái rồi vào buồng con gái nằm trằn trọc suốt đêm, ông Chánh cũng ko ngủ được. Nằm một mình ông vừa nghỉ đến Cúc vừa rờn rợn nhớ lại cái lần Khuê hiện về ngay trong căn buồng ông đang nằm. Ông mon men sang nằm chung với vợ nhưng bà Chánh dứt khoát đuổi ông ra ngoài:
– Ông muốn nằm đây thì tôi sang buồng bên kia tôi nghỉ
Ông lủi thủi quay ra và tự nhiên giận ứ lên tới cổ vì cả hai đứa con gái đều ngu muội, làm bại hoại gia phong.
Sáng hôm sau chị bếp dậy sớm như thường lệ. Trời còn nhá nhem tối, chị ra giếng kéo nước nấu trà lá sen cho ông Chánh để lát nữa ông dậy thì có sẳn. Lúc thả cái gào xuống. Chị bếp giật mình thấy cái gào chạm phải vật gì trên mặt nước. Nghe cộp một tiếng khô khan. Chị cúi nhìn xuống nhưng trời còn tối ko trông rõ. Chị đứng sựng một lúc rồi chợt nghĩ ra, hốt hoảng buông rơi cái gào và thét lên, đồng thời bỏ chạy vào dãy nhà ngang. Chị run lập cập, nói ko ra hơi:
– Anh Sử ơi, ối giời ơi anh Sử ơi, anh Sử ơi…
Sử đang ngồi hút thuốc lào tái mặt ngồi lại:
– Cái gì thế? Cái gì mà chị cuống lên thế?
Chị bếp vừa thở, vừa kéo cánh tay Sử:
– Anh…làm ơn ra xem hộ tôi cái gì…dưới giếng..Trời tối quá tôi nom ko rõ.
Sử lấy lại bình tỉnh cười khẩy:
– Trời tối chị ko nom rõ thì làm sao tôi nom rõ được. Mắt chị còn tinh hơn tôi mà.
Nói xong câu ấy, Sử tưởng chị bếp sẽ cười theo câu khôi hài của anh, nhưng rõ ràng mặt chị vẩn tái mét và hai bàn tay run rẩy lập cập. Sử đặt cái điếu và sực nhớ ra vội đứng bật dậy, anh chạy lao vào bếp, đốt cây đuốc, tẩm dầu hôi rồi cầm ra giếng, anh giơ cây đuốc mở to mắt cúi xuống. Chỉ nhìn thoáng qua, anh đã biết ngay là anh đoán đúng, đó là xác người chết và cái xác ấy dĩ nhiên đã trương sình lên. Sử thừ người chết lặng mấy giây nhìn chị bếp. Chị bếp cũng đã đoán như anh cho nên đã oà lên khóc lớn.
Cúc ko ngã xuống giếng bởi cái giếng có thành gạch xây chung quanh cao cả bục. Người đứng kéo nước ko thể nào lộn cổ xuống được, huống chi cái gào kéo nước nhẹ tênh, chỉ lấy vừa đủ nước để đun một ấm trà. Cho nên ko có sức mạnh để nhào té xuống. Cả Sử và chị bếp đều biết là Cúc tự nhảy xuống tìm cái chết chứ ko phải là tai nạn.