Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Đại Chiến Hacker

Chương 16

Tác giả: Cory Doctorow

Ban đầu, mẹ tôi bị sốc, sau đó tức giận, và cuối cùng bà im lặng hoàn toàn và chỉ nói khi tôi kể vềtoàn bộ vụ tra khảo, chuyện tôi tè ra quần, cái bao trùm qua đầu tôi và về Darryl. Tôi đưa bức thư cho mẹ.

“Tại sao…?”

Trong một từ đó chứa đựng tất cả những lời tố cáo mà tôi đã tự xử lý trong đêm, tất cả những khoảnh khắc mà tôi đã không có dũng khí để nói với cả thế giới về cái đang thực sự diễn ra, tại sao tôi phải chiến đấu, điều gì đã thực sự truyền cảm hứng cho Xnet.

Tôi hít một hơi.

“Họ nói với con rằng con sẽ phải vào tù nếu nói ra chuyện đó. Không chỉ trong vài ngày mà là mãi mãi. Con đã… con đã rất sợ.”

Mẹ ngồi với tôi rất lâu nhưng không nói điều gì. Rồi bà hỏi: “Thế còn bố của Darryl thì sao?”

Như thể bà vừa đâm một cây kim vào ngực tôi. Bố của Darry, chắc hẳn bác ấy nghĩ rằng Darryl đã chết, chết lâu rồi.

Có phải nó chưa chết? Sau khi DHS đã giam giữ bạn bất hợp pháp suốt ba tháng trời, có lẽ nào họ lại để bạn tự do?

Nhưng Zeb đã thoát khỏi đó. Có thể Darryl cũng sẽ làm thế. Có thể tôi và Xnet sẽ giúp Darryl trốn được ra ngoài.

“Con chưa nói với bác ấy,” tôi nói.

Giờ thì mẹ tôi đang khóc. Mẹ không dễ khóc. Đây là một đặc điểm của người Anh. Tôi cảm thấy tệ hơn rất nhiều khi nghe thấy những tiếng nấc nghẹn ngào của bà.

“Con phải kể cho ông ấy,” bà trấn tĩnh lại. “Con phải kể”

“Con sẽ làm.”

“Nhưng trước hết chúng ta phải kể cho bố con biết.”

Dạo này bố tôi về nhà không theo giờ giấc cố định nào cả. Do công việc tư vấn cho khách hàng – những người giờ đây có quá nhiều việc khi mà DHS liên tục thuê lắp đặt các hệ thống khai thác dữ liệu trên bán đảo này – cộng thêm quãng đường dài để tới Berkeley nên bố tôi có thể về nhà bất cứ lúc nào trong khoảng từ sáu giờ tối đến nửa đêm.

Tối nay mẹ tôi đã gọi cho ông và bảo ông về nhà ngay lập tức. Ông nói gì đó và mẹ tôi chỉ lặp lại: ngay bây giờ.

Khi bố tôi về đến nhà, mẹ và tôi đã chờ sẵn ở trong phòng khách cùng với bức thư trên bàn cà phê.

Lần kể thứ hai dễ dàng hơn. Bí mật này đang dần sáng tỏ hơn. Tôi không thêm bớt, cũng không giấu giếm bất cứ điều gì. Tôi thú nhận tất cả.

Trước đó tôi đã nghĩ đến việc thú nhận tất cả nhưng tôi chưa bao giờ hiểu nó có nghĩa là gì cho đến khi tôi kể ra. Giữ bí mật đó đã làm tôi vấy bẩn, tinh thần tôi suy sụp. Nó khiến tôi cảm thấy sợ hãi và xấu hổ. Nó đã biến tôi thành con người đúng như Ange nói.

Bố tôi ngồi chết lặng trong suốt thời gian đó, khuôn mặt ông như hóa đá. Khi tôi đưa cho ông xem bức thư, ông đọc hai lần rồi cẩn thận đặt nó xuống.

Ông lắc đầu, đứng dậy rồi tiến về cửa trước.

“Anh đi đâu vậy?” mẹ tôi hoảng hốt.

“Anh cần đi dạo,” là tất cả những gì bố tôi có thể thốt lên, giọng ông vỡ ra.

Mẹ và tôi lúng túng nhìn nhau và ngồi đợi ông về. Tôi cố gắng tượng tưởng những gì đang diễn ra trong đầu ông. Sau vụ đánh bom, ông trở thành một người hoàn toàn khác và từ mẹ, tôi biết được rằng nguyên nhân của sự thay đổi này chính là những ngày ông tưởng tôi đã chết. Ông đã tin rằng những tên khủng bố gần như đã giết đứa con trai của ông và điều đó khiến ông trở nên điên loạn.

Điên loạn đủ để làm bất cứ việc gì DHS yêu cầu, tuân thủ như một chú cừu non ngoan ngoãn và để họ kiểm soát ông, điều khiển ông.

Giờ thì ông đã biết rằng chính DHS đã giam hãm tôi, chính DHS đã bắt những đứa trẻ ở San Francisco làm con tin ở nhà tù Gitmo trên đảo. Lúc này đây, tôi đã có một bức tranh toàn diện về nó. Chắc chắn tôi đã bị giam giữ trên đảo Kho Báu. Còn nơi nào khác chỉ cách San Francisco mười phút đi thuyền?

Khi bố tôi quay về, trông ông giận dữ hơn bao giờ hết.

“Đáng lẽ con nên kể cho bố từ đầu!” ông gầm lên.

Mẹ tôi can thiệp. “Anh trách sai người rồi. Marcus không phải là người đã bắt cóc và đe dọa.”

Bố tôi lắc đầu và giậm mạnh chân. “Anh không đổ lỗi cho Marcus. Anh biết chính xác ai đã gây ra. Anh. Chính anh và cái lũ DHS ngu ngốc đó. Đi giày và mặc áo khoác vào.”

“Chúng ta sẽ đi đâu?” tôi hỏi.

“Đến gặp bố của Darryl. Sau đó chúng ta sẽ đến nhà Barbara Stratford.”

Tôi đã thấy cái tên Barbara Stratford ở đâu đó, nhưng tôi không thể nhớ là ở đâu. Tôi nghĩ chắc đó là một người bạn cũ của bố mẹ tôi, nhưng tôi không thể nhớ chính xác nhà cô ở chỗ nào.

Tôi đến chỗ bố của Darryl. Tôi chưa bao giờ thấy thực sự thoải mái khi ở gần người đàn ông lớn tuổi này, người đã từng điều khiển trạm vô tuyến của Hải quân và quản lý gia đình chặt chẽ như ở trên tàu. Ông đã dạy Darryl về mã Morse khi nó còn bé tí, thứ mà tôi luôn nghĩ là thật hay ho. Đó là một trong những cách để tôi biết rằng mình có thể tin bức thư của Zeb. Thế nhưng trừ những thứ thật sự hay ho như mã Morse ra, bố Darryl có những nguyên tắc nhà binh thật điên rồ, dường như chỉ phục vụ lợi ích của riêng ông, chẳng hạn như khăng khăng đòi giữ giường sạch sẽ ngăn nắp như một góc bệnh viện và cạo râu hai lần một ngày. Việc đó làm cho Darryl phát điên.

Mẹ của Darryl cũng không thích thú gì và đã bỏ hai bố con để về sống với gia đình mình ở bang Minesota khi Darryl mười tuổi – Darryl thường tới đó vào dịp nghỉ hè và Giáng sinh.

Tôi đang ngồi ở phía sau xe và có thể nhìn thấy gáy của bố khi ông lái. Các cơ ở cổ của ông căng lên và phập phồng khi ông nghiến hàm.

Mẹ đặt bàn tay trên cánh tay ông, nhưng không ai làm tôi thoải mái. Giá mà tôi có thể gọi cho Ange. Hoặc Jolu. Hoặc Van. Có thể tôi sẽ làm như thế khi cái ngày này kết thúc.

“Hẳn là ông ấy đã chôn chặt đứa con trai trong tâm trí mình,” bố tôi lên tiếng khi xe đi qua khúc quanh dẫn đến Twin Peaks, nơi có ngôi nhà nhỏ của hai bố con Darryl. Ở Twin Peaks đang có sương mù, điều bình thường vào buổi tối ở San Francisco, làm cho đèn pha phản chiếu ngược trở lại phía chúng tôi. Mỗi lần chúng tôi ngoặt vào một góc phố, tôi lại thấy các thung lũng của thành phố nằm ngay phía dưới, những luồng sáng lấp lánh di chuyển trong màn sương mờ.

“Có phải căn nhà này không?”

“Vâng, chính là nó,” tôi trả lời. Tôi đã không đến nhà Darryl suốt mấy tháng nay, nhưng tôi đã ở đây hàng bao nhiêu năm nên nhận ra nó ngay tắp lự.

Ba người chúng tôi cứ đứng quanh chiếc xe hồi lâu, chờ xem ai sẽ là người bước lên và bấm chuông cửa. Thật ngạc nhiên, người đó là tôi.

Tôi bấm chuông và chúng tôi im lặng chờ một phút. Tôi bấm lại chuông lần nữa. Ô tô của bố Darryl đang đậu trên đường lái xe vào nhà, và chúng tôi thấy có ánh sáng trong phòng khách. Khi tôi chuẩn bị bấm chuông lần thứ ba thì cửa mở.

“Marcus?” Bố Darryl trông không như những gì tôi nhớ về ông. Ông chưa cạo râu, đang mặc một chiếc áo khoác trong nhà và đi chân đất, móng chân dài và đôi mắt đỏ ngầu. Có vẻ ông đã tăng cân, và có thêm chút mỡ mềm bên dưới bộ hàm rắn chắc của một quân nhân. Mái tóc mỏng của ông lưa thưa rối bời.

“Chào bác Glover,” tôi chào ông. Bố mẹ tôi đã đứng ngay sau lưng tôi.

“Chào anh Ron,” mẹ tôi nói. “Chào Ron,” bố tôi nói.

“Cả hai người nữa à? Có chuyện gì vậy?” bác Glover hỏi.

“Ta vào trong nhà được không?” bố tôi đáp.

Phòng khách trông giống như căn phòng trên những bản tin miêu tả nơi mà những đứa trẻ bị bỏ rơi bị nhốt trong một tháng trước khi được hàng xóm cứu thoát: hộp đồ ăn đông lạnh, lon bia và chai nước hoa quả rỗng, bát ngũ cốc mốc meo và hàng chồng báo.

Phòng nồng nặc mùi nước tiểu mèo và rác rưởi lạo xạo dưới chân chúng tôi. Thậm chí nếu không có nước tiểu mèo, cái mùi này cũng đủ kinh khủng rồi, giống như mùi toa lét ở trạm xe buýt.

Giường được phủ bởi một tấm vải bám đầy bụi, một đôi gối nhờn nhợn và một cái đệm lồi lõm đã được sử dụng quá nhiều.

Tất cả chúng tôi đứng đó trong yên lặng một lúc lâu, cảm giác bối rối bao trùm lên những cảm xúc khác. Nhìn bố Darryl như thể ông muốn chết đi cho xong.

Một cách chậm chạp, ông dẹp mấy tờ báo khỏi chiếc ghế sofa rồi dọn những khay thức ăn đầy mỡ và cáu bẩn trên hai cái ghế tựa. Ông mang chúng vào bếp và chúng tôi nghe thấy tiếng ông ném chúng xuống sàn nhà.

Chúng tôi rón rén ngồi ở những chỗ mà ông đã dọn dẹp, rồi ông quay ra và ngồi xuống.

“Tôi xin lỗi,” ông nói một cách lơ đãng. “Tôi thực sự không còn tí cà phê nào để mời mọi người. Ngày mai người ta mới chuyển đồ ăn và rau quả tới cho tôi nên giờ thì tôi còn rất ít…”

“Ron,” bố tôi nói. “Nghe chúng tôi này. Chúng tôi có chuyện muốn nói cho anh nghe, và nó không dễ chịu đâu.”

Bác Glover ngồi im như tượng trong khi tôi kể lại câu chuyện. Ông đọc lướt qua bức thư, đọc nhưng dường như không hiểu gì, rồi đọc lại lần nữa. Ông trả nó lại cho tôi.

Ông run rẩy. “Thằng bé…”

“Darryl còn sống,” tôi nói. “Cậu ấy còn sống và đang bị giam giữ làm tù nhân trên đảo Kho Báu.”

Ông tọng nắm tay vào miệng mình và rên lên một tiếng thật khủng khiếp.

“Chúng tôi có một người bạn,” bố tôi nói. “Cô ấy viết cho Bay Guardian. Một phóng viên điều tra.”

Đó là nơi mà tôi biết cái tên này. Tuần báo miễn phí Guardian thường mất những phóng viên của mình vào tay các tờ nhật báo lớn hơn và mạng Internet, nhưng Barbara Stretford thì vẫn kiên định với nơi đó. Tôi nhớ mang máng là đã có lần ăn tối với cô khi tôi còn nhỏ.

“Chúng tôi sẽ tới đó ngay bây giờ,” mẹ tôi nói. “Ron, anh sẽ đi cùng chúng tôi chứ? Anh sẽ kể với cô ấy chuyện của Darryl chứ?”

Bác Glover vùi mặt vào hai bàn tay và thở thật sâu. Bố tôi thử đặt tay lên vai ông, nhưng ông đã gạt ra một cách thô bạo.

“Tôi cần phải chỉnh trang lại,” ông nói. “Chờ tôi một phút.”

Bác Glover bước xuống nhà trong bộ dạng hoàn toàn khác. Ông đã cạo râu, dùng keo vuốt tóc ngược ra phía sau và mặc một bộ quân phục bảnh bao với hàng huân chương chiến công trên ngực. Ông dừng lại ở chân cầu thang và chỉ vào bộ quần áo.

“Tôi không có nhiều quần áo sạch để mặc lúc này. Bộ này có vẻ thích hợp. Các bạn biết đó, nếu cô ta muốn chụp ảnh.”

Bác Glover và bố tôi ngồi ghế trước, tôi ngồi ghế sau, đằng sau bác. Gần thêm một chút, tôi ngửi thấy người ông hơi có mùi bia, như kiểu nó thoát ra từ các lỗ chân lông vậy.

Lúc này đã là nửa đêm, chúng tôi đang đi trên con đường dẫn đến nhà Barbara Stratford. Cô sống ở ngoại ô thành phố, dưới khu Mountain View, và khi xe tăng tốc độ dọc đường 101, không ai nói lời nào. Những tòa nhà công nghệ cao dọc đường cao tốc lướt qua chúng tôi.

Đây là một khu Vịnh khác với nơi tôi ở, giống các vùng ngoại ô của Mỹ mà thỉnh thoảng tôi vẫn thấy trên ti vi hơn. Rất nhiều xa lộ và những khu nhà giống hệt nhau, những thị trấn nơi không có bất kỳ người vô gia cư nào đẩy xe mua sắm dọc vỉa hè – thậm chí còn không có vỉa hè!

Mẹ tôi đã gọi điện thoại cho Barbara Stratford khi chúng tôi đang chờ bác Glover xuống nhà. Nhà báo này đang ngủ, nhưng mẹ đã bối rối đến mức quên hết cái kiểu cách người Anh mà bình thường sẽ khiến bà xấu hổ khi đánh thức Barbara. Thay vì thế, bà chỉ nói với cô ấy một cách căng thẳng rằng có chuyện muốn nói và phải gặp trực tiếp.

Khi chúng tôi chạy lên nhà Barbara Stratford, suy nghĩ đầu tiên của tôi là ngôi nhà trong phim Brady Bunch – một ngôi nhà nông trại thấp với bức tường gạch ở phía trước và một khoảng sân cỏ vuông vắn nhỏ xinh. Trên bức tường in hoa văn trừu tượng, và một cái ăng ten ti vi UHF cũ nhô lên đằng sau. Chúng tôi đi dọc lối vào và nhìn thấy đèn trong nhà đã bật sáng.

Nhà báo mở cửa trước khi chúng tôi định bấm chuông. Cô ở tầm tuổi bố mẹ tôi, một phụ nữ cao, gầy, mũi diều hâu, đôi mắt sắc sảo với rất nhiều nếp nhăn. Cô đang mặc một chiếc quần jean thời thượng được bày bán ở một cửa hiệu sang trọng trên phố Valencia, một cái áo choàng rộng bằng bông Ấn Độ buông xuống đùi. Đôi kính tròn của cô lấp lóa trong ánh sáng của tiền sảnh.

Cô mỉm cười với chúng tôi.

“Tôi thấy cậu đã đem cả nhà đến đây,” cô nói. Mẹ tôi gật đầu. “Sau một phút nữa cậu sẽ hiểu tại sao.” Bác Glover bước ra từ phía sau bố tôi.

“Cậu gọi cả Hải quân tới đây?”

“Từ từ sẽ rõ.”

Chúng tôi được giới thiệu lần lượt với cô. Cô có kiểu bắt tay rất mạnh mẽ và ngón tay có rất dài.

Ngôi nhà của cô được bài trí theo phong cách tối giản của người Nhật, chỉ cần một vài sự cân đối chính xác, những đồ vật trang trí thấp, những cây tre trồng trong chậu đất sét lớn chạm trần nhà, và một thứ trông giống như động cơ diesel lớn, gỉ sét đặt trên một cột đá hoa cương bóng láng. Tôi thích nó. Sàn nhà làm bằng gỗ già, màu cát bóng loáng, bạn có thể thấy được cả những đường nứt và vết rỗ dưới lớp véc ni. Tôi thực sự thích nó, nhất là khi tôi đi qua nó trong một đôi bít tất.

“Tôi có cà phê đây?” cô nói. “Có ai muốn uống không?”

Tất cả chúng tôi đều giơ tay. Tôi nhìn bố mẹ với vẻ bướng bỉnh.

“Được rồi,” cô nói.

Cô biến mất vào một phòng khác và quay trở lại trong giây lát mang theo một khay tre thô với một bình thủy tinh dung tích một lít và sáu cái tách được thiết kế chuẩn xác nhưng đường nét trang trí lại thô ráp và tùy tiện. Tôi thích cả chúng nữa.

“Bây giờ,” cô nói sau khi đã rót cà phê và đưa cho mọi người. “Thật là vui khi gặp lại tất cả mọi người. Marcus, cô nghĩ lần cuối cùng cô gặp cháu, cháu chắc chỉ mới bảy tuổi. Cô nhớ là lúc đó cháu cực kỳ mê mấy cuộn băng điện tử mới mà cháu đã khoe với cô.”

Tôi chẳng nhớ gì hết, nhưng nghe có vẻ như một thứ tôi đã mê mẩn vào năm bảy tuổi. Tôi đoán nó là trò Sega Dreamcast.

Cô mang ra một chiếc máy ghi âm, một tập giấy màu vàng, một cây bút chì, rồi cô xoay xoay nó. “Tôi ở đây để nghe bất cứ điều gì mọi người muốn kể với tôi, và tôi có thể hứa với mọi người là tôi sẽ giữ kín tất cả. Nhưng tôi không thể hứa rằng tôi sẽ làm được gì với nó, hoặc là nó có được xuất bản hay không.” Cái cách mà cô nói khiến tôi nhận ra mẹ tôi đã nhận được một đặc ân tương đối lớn khi có thể khiến người phụ nữ này ra khỏi giường. Hẳn phải rất khó chịu với chuyện đó khi là một phóng viên điều tra có máu mặt. Dễ có tới hàng triệu người muốn được cô xem xét vụ việc của mình.

Mẹ gật đầu với tôi. Mặc dù đã kể đi kể lại câu chuyện ba lần trong đêm hôm đó nhưng tôi vẫn thấy bối rối. Việc này khác so với khi tôi kể với bố. Khác với khi tôi kể với bố của Darryl. Việc này… việc này sẽ khởi động một nước cờ mới trong trò chơi.

Tôi bắt đầu chậm rãi và quan sát Barbara ghi chép. Tôi uống hết tách cà phê chỉ để giải thích ARG là cái gì và tôi trốn học để chơi như thế nào. Bố mẹ tôi và bác Glover đều chăm chú lắng nghe phần này. Tôi tự rót cho mình một tách cà phê khác, vừa uống vừa tiếp tục giải thích chúng tôi bị lừa như thế nào. Đến khi câu chuyện kết thúc, tôi đã uống hết cà phê trong bình và mắc tiểu như một chú ngựa đua.

Phòng tắm của cô cũng bình dị như phòng khách, với một bánh xà bông hữu cơ màu nâu có mùi giống như bùn sạch. Tôi quay trở lại và thấy những người lớn này đang lặng lẽ nhìn tôi.

Bác Glover kể tiếp câu chuyện của mình. Bác không có bất cứ điều gì để nói về chuyện gì đã xảy ra, nhưng bác giải thích rằng bác là một cựu chiến binh và con trai bác là một đứa trẻ ngoan. Bác nói về việc bác đã như thế nào khi tin rằng con trai mình đã chết, về việc vợ cũ của bác suy sụp sức khỏe như thế nào khi biết chuyện và phải nhập viện. Không chút ngượng ngùng, bác khóc, những giọt nước mắt chảy dài trên gương mặt nhăn nheo và thấm đẫm cổ áo quân phục.

Khi tất cả đã kết thúc, Barbara vào một căn phòng khác và quay trở ra với một chai Whiskey Ailen. “Nó là chai Bushmills mười lăm năm tuổi,” cô nói, đặt xuống bốn cái ly. Không có ly cho tôi. “Mười năm nay không còn chỗ nào bán thứ này đâu. Tôi nghĩ đây có lẽ là lúc thích hợp để khui nó.”

Cô rót rượu ra từng ly, sau đó nâng ly của cô lên, nhấm nháp rồi uống hết một nửa. Những người lớn còn lại cũng làm như vậy. Họ uống một lần nữa cho cạn ly. Cô rót thêm cho mọi người.

“Được rồi,” cô nói. “Đây là điều mà ngay lúc này tôi có thể nói với mọi người. Tôi tin mọi người không chỉ vì tôi quen cậu, Lilian. Câu chuyện này có vẻ đúng, và nó ăn khớp với những tin đồn tôi đã được nghe. Nhưng tôi không thể chỉ dựa vào những gì mọi người kể. Tôi sẽ phải điều tra mọi khía cạnh của sự việc này, và mọi yếu tố trong cuộc sống và câu chuyện của từng người. Tôi cần phải biết nếu như có bất cứ điều gì mọi người không kể cho tôi, bất cứ điều gì có thể được sử dụng để làm mất uy tín của mọi người sau khi việc này được đưa ra ánh sáng. Tôi cần tất cả mọi thứ. Có thể phải mất nhiều tuần trước khi tôi sẵn sàng cho đăng bài báo.

“Mọi người cũng nên nghĩ về sự an toàn của mình và của Darryl. Nếu cậu bé thực sự là một người ‘vô danh tiểu tốt’ thì việc gây sức ép cho DHS có thể khiến cậu bé bị chuyển tới một nơi nào đó xa hơn nhiều. Có thể là Syria. Họ có thể làm điều gì đó còn tệ hơn.” Cô để điều này lơ lửng trong không khí. Tôi biết ý cô là bọn họ có thể giết Darryl.

“Tôi sẽ cầm bức thư này và scan nó ngay bây giờ. Tôi muốn có ảnh của hai người, bây giờ và sau này – chúng tôi có thể cử một phóng viên ảnh tới nhà hai người, nhưng tôi cũng muốn thu thập tài liệu kỹ lưỡng nhất trong khả năng có thể vào tối nay.”

Tôi đi cùng cô vào phòng làm việc để scan bức thư. Tôi đã tưởng tượng ra một chiếc máy tính sành điệu, tiết kiệm năng lượng và phù hợp với nội thất của cô, nhưng thay vì thế, phòng ngủ/phòng làm việc riêng của cô lại có một dãy máy tính đời mới nhất, các màn hình phẳng lớn, một cái máy scan đủ lớn để có thể đặt toàn bộ tờ báo lên trên. Cô thao tác rất nhanh. Tôi tán thành khi thấy cô đang chạy ParanoidLinux. Người phụ nữ này thực sự nghiêm túc với công việc của mình.

Những cái quạt làm mát máy tính tạo ra một lá chắn tiếng ồn rất hiệu quả, nhưng cho dù như vậy, tôi vẫm đóng cửa lại và tiến đến gần cô.

“Ừm, cô Barbara?”

“Ừ?”

“Về điều mà cô đã nói, về thứ có thể được sử dụng để làm mất uy tín của cháu.”

“Ừ?”

“Điều mà cháu kể với cô, cô không bị buộc phải kể cho bất cứ ai khác phải không ạ?”

“Trên lý thuyết thì là vậy. Để cô làm rõ điều này. Cô đã từng bị vào tù hai lần vì nhất quyết không tiết lộ nguồn tin.”

“Vâng, vâng. Thật tuyệt. Wow. Nhà giam. Wow. Ok.” Tôi lấy một hơi dài. “Cô đã nghe về mạng Xnet chưa? Về M1k3y chưa?”

“Ừ?”

“Cháu là M1k3y.”

“Ồ,” cô nói. Cô điều khiển máy scan và lật bức thư để quét mặt sau. Cô đang scan với độ phân giải không thể tin được, 10.000 DPI hay cao hơn nữa, và hình ảnh của nó trên màn hình giống như được nhìn qua một cái kính hiển vi điện tử.

“Chà, nó lại đặt một vấn đề phức tạp khác cho vụ này.”

“Vâng,” tôi nói. “Cháu cũng đoán như thế.” “Bố mẹ cháu không biết à?”

“Không ạ. Cháu không rõ mình có muốn họ biết không.”

“Cháu phải quyết định đi. Cô cần suy nghĩ về việc này. Cháu có thể đến văn phòng của cô không? Cô muốn nói chuyện với cháu xem chính xác thì việc này có nghĩa là gì.”

“Cô có Xbox Universal không? Cháu có thể mang một bộ cài đặt tới.”

“Có, cô chắc chắn sẽ thu xếp được. Khi cháu đến, nói với nhân viên lễ tân rằng cháu là Brown, đến để gặp cô. Họ biết điều đó nghĩa là gì. Việc cháu đến sẽ không được ghi chép lại và tất cả cảnh quay của camera an ninh trong ngày sẽ tự động xóa sạch, camera sẽ ngừng hoạt động cho đến khi cháu rời đi.”

“Wow. Cô nghĩ giống cháu.”

Cô mỉm cười lắc lắc vai tôi. “Nhóc, cô đã chơi trò này từ kiếp trước ấy chứ. Cho đến giờ, cô đã có thể xoay xở để có nhiều thời gian rảnh hơn là ngồi sau song sắt. Tính đa nghi là người bạn của cô.”

Ngày hôm sau tôi đến trường với bộ dạng hệt như một thây ma. Tôi ngủ tổng cộng có ba tiếng, và thậm chí ba tách bùn chứa caffeine Thổ Nhĩ Kỳ cũng không thể giúp đầu óc tôi tỉnh táo. Vấn đề với caffeine là nó rất dễ gây nghiện, vì thế bạn phải dần dần tăng liều lượng lên, cuối cùng sẽ vượt qua ngưỡng bình thường.

Tôi đã dành cả đêm để suy nghĩ về điều tôi phải làm. Nó giống như là chạy qua một mê cung với không ít lối đi quanh co, tất cả đều giống nhau, mọi lối đi cuối cùng đều dẫn đến cái chết. Khi tôi đến gặp cô Barbara, mọi việc với tôi thế là xong. Đó là kết quả, bất kể tôi có nghĩ về nó thế nào đi nữa.

Cho đến khi ngày học kết thúc thì điều tôi muốn nhất là đi về nhà và nằm ườn trên giường. Nhưng tôi có một cuộc hẹn tại tòa soạn báo Bay Guardian, dưới bến tàu. Tôi vừa loạng choạng ra khỏi cổng vừa cắm cúi nhìn xuống chân, rồi khi tôi rẽ vào đường số 24, một đôi chân khác xuất hiện và cùng bước với tôi. Tôi nhận ra đôi giày này và dừng lại.

“Ange?”

Trông cô cũng hệt như tôi. Đôi mắt gấu trúc thiếu ngủ với những dấu ngoặc buồn nơi khóe miệng.

“Chào anh,” cô nói. “Ngạc nhiên chưa. Em đã bỏ học mà không xin phép ai hết. Dù sao thì em không thể nào tập trung.”

“Ừm,” tôi nói.

“Im đi và ôm em nào, chàng ngốc.”

Tôi làm như cô nói. Cảm giác thật tuyệt. Còn hơn cả tuyệt. Như thể tôi đã bị mất đi một phần cơ thể và giờ nó lại được gắn lại.

“Em yêu anh, Marcus Yallow.”

“Anh yêu em, Angela Carvelli.”

“Được rồi,” Ange đột nhiên ngừng lại và nói. “Em thích bài viết của anh về việc tại sao anh không phá rối nữa. Em có thể tôn trọng nó. Vậy anh đã tiến triển đến đâu trong quá trình tìm ra cách quấy nhiễu họ mà không bị bắt?”

“Anh đang trên đường đến gặp một phóng viên điều tra, cô ấy sẽ công bố câu chuyện anh bị đưa vào tù như thế nào, anh đã bắt đầu mạng Xnet ra sao, và Darryl đang bị DHS giam giữ trái pháp luật như thế nào tại một nhà tù bí mật trên đảo Kho Báu.”

“Ồ,” Ange nhìn quanh một lúc. “Anh không nghĩ về bất cứ cái gì, anh biết đấy, mang tính tham vọng chứ hả?”

“Muốn đi với anh không?”

“Có, em đi chứ. Và em muốn anh giải thích chi tiết chuyện này nếu anh không phiền.”

Sau khi tôi đã kể xong, chúng tôi đi bộ dọc đại lộ Potrero và xuôi xuống phố 15, đây là con đường ngắn nhất. Ange nắm tay tôi và xiết chặt nó.

Chúng tôi đi lên cầu thang dẫn đến tòa soạn Bay Guardian. Tim tôi dộng thình thịch. Tôi đi đến bàn tiếp tân và nói với một cô gái có vẻ rất chán nản ngồi sau bàn, “Tôi đến đây để gặp Barbara Stratford. Tên tôi là Green.”

“Tôi đoán ý anh là Brown?”

“À vâng,” tôi đỏ mặt đáp. “Brown.”

Cô làm gì đó với cái máy tính rồi nói, “Xin mời ngồi. Cô Barbara sẽ ra sau một phút nữa. Anh có muốn dùng gì không?”

“Cà phê,” cả hai chúng tôi đồng thanh. Thêm một lý do nữa để yêu Ange: chúng tôi cùng nghiện cà phê.

Nhân viên lễ tân là một La tinh xinh đẹp chỉ hơn chúng tôi vài tuổi, mặc đồ Gap, cũ kỹ tới mức trông như quần áo của dân hippie đời đầu. Cô gật đầu, đi ra ngoài rồi quay trở lại với hai tách cà phê in tên của tờ báo.

Chúng tôi ngồi nhấm nháp cà phê trong yên lặng, quan sát khách khứa và các phóng viên đến rồi đi. Cuối cùng, Barbara cũng ra gặp chúng tôi. Cô đang mặc đúng bộ đồ đêm qua. Nó hợp với cô. Cô nhíu mày với tôi khi thấy tôi dắt theo bạn gái.

“Chào cô. Ừm, đây là….”

“Cô Brown,” Ange nói và đưa tay ra. Oh, yeah, đúng vậy, danh tính của chúng tôi cần được bí mật. “Tôi làm việc với anh Green.” Cô huých nhẹ vào tôi.

“Đi thôi nào,” cô Barbara nói rồi dẫn chúng tôi đến phòng họp, căn phòng được bao quanh bởi tường kính dài và cửa chớp đã sập xuống. Cô đặt xuống một đĩa bánh Oreo hữu cơ của Whole Foods, một máy ghi âm kỹ thuật số và một tập giấy màu vàng.

“Cháu có muốn ghi âm lại cuộc nói chuyện này không?”

Thực sự tôi chưa nghĩ đến điều đó. Tôi biết việc từ chối sẽ có ích trong trường hợp muốn bác bỏ những gì Barbara sẽ in. Nhưng dù sao đi nữa, nếu tôi không tin cô đang làm những việc tốt cho tôi thì tôi vẫn bị kết tội.

“Không cần đâu ạ,” tôi nói.

“Được rồi. Cô gái trẻ, tên cô là Barbara Stratford và cô là phóng viên điều tra. Cô hiểu rằng cháu biết tại sao cô ở đây, và cô tò mò muốn biết tại sao cháu có mặt ở đây.”

“Cháu hoạt động cùng Marcus trên mạng Xnet,” Ange trả lời. “Cô có cần biết tên của cháu không?”

“Cô không cần biết ngay bây giờ,” Barbara nói. “Cháu có thể ẩn danh tính nếu cháu muốn. Marcus, cô bảo cháu kể cho cô câu chuyện này vì cô cần phải biết nó liên quan như thế nào với câu chuyện cháu đã kể về cậu bạn Darryl của cháu và bức thư cháu cho cô xem. Cô thấy nó là một công cụ rất hữu ích; cô có thể viện nó như là nguyên nhân sinh ra mạng Xnet. ‘Họ đã tạo ra kẻ thù mà họ sẽ không bao giờ quên được,’ đại loại thế. Nhưng thành thực mà nói, cô không muốn kể câu chuyện đó nếu cô không phải làm vậy.

“Cô thích có một câu chuyện sạch sẽ về nhà tù bí mật ngay giữa thành phố này, không phải tranh cãi về việc liệu những tù nhân ở đó có thuộc kiểu người có khả năng thiết lập một phong trào bí mật nhất quyết gây bất ổn cho chính quyền liên bang khi được tự do hay không. Cô tin là cháu hiểu điều đó.”

Tôi hiểu. Nếu mạng Xnet là một phần của câu chuyện này, vài người sẽ nói: thấy chưa, họ cần tống những đứa như thế vào tù, nếu không thì chúng sẽ gây bạo động mất.

“Đây là chương trình của cô,” tôi nói. “Cháu nghĩ cô cần kể cho thế giới về Darryl. Khi cô làm như thế, DHS sẽ biết cháu đã xuất hiện công khai và họ sẽ theo dõi cháu. Có thể họ sẽ phát hiện ra cháu có liên quan đến Xnet. Có thể họ sẽ liên kết cháu với M1k3y. Cháu đoán là điều mà cháu vừa nói đấy đồng nghĩa với việc một khi cô công bố về Darryl, mọi chuyện với cháu sẽ kết thúc, bất kể thế nào đi nữa. Cháu thấy thanh thản với điều đó.”

“Đã làm thì phải làm cho trót,” Barbara nói. “Được rồi. Ờ, thế là ổn. Cô muốn hai đứa kể cho cô tất cả những gì các cháu biết về việc thiết lập và vận hành Xnet, và sau đó cô xem minh họa thực tế. Các cháu dùng nó để làm gì? Những ai khác đã sử dụng nó? Nó lan rộng như thế nào? Ai đã viết phần mềm này? Mọi thứ.”

“Sẽ mất một lúc đấy ạ,” Ange nói.

“Cô có một lúc,” Barbara nói. Cô uống một chút cà phê và ăn một miếng Oreo. “Đây có thể là câu chuyện quan trọng nhất về Cuộc chiến chống khủng bố. Đây có thể là câu chuyện sẽ lật đổ chính phủ. Khi cháu có một câu chuyện như thế này, cháu nên sử dụng nó một cách thật cẩn trọng.”

Bình luận