Tiếng gã Xin-ve nói:
-Tôi mất cái chân này là khi tôi làm đầu mục cho lão Phơ-linh. Người cưa chân cho tôi là một tay mổ xẻ rất giỏi. Hắn học rộng, biết nhiều chữ la-tinh. Nhưng rút cục rồi cũng phải phơi thây hắn ra ngoài nắng. Trước kia tôi đi với Phơ-linh, bây giờ thì tôi đi riêng cho tôi. Thủ hạ cũ của Phơ-linh phần nhiều hiện ở trên tàu này. Làm nghề này được tiền nhiều nhưng phải biết dành dụm. Cứ trông cái gương lão Piu. Hắn ăn tiêu như phá đến nỗi phải đi ăn xin rồi phải chết dưới gầm cầu.
-Phải! Tiền ấy rút cục cũng chẳng dùng được việc gì. Một tiếng nói khác, nghe ra tiếng gã thủy thủ trẻ nhất trên tàu. Tiếng Xin-ve nói to:
-Chỉ thằng ngốc mới không được việc gì. Anh còn trẻ người nhưng anh rất thông minh, tôi vẫn coi anh như người già dặn nên mới ngỏ lời với anh… Các bạn thừa biết khi tôi nghe cái thằng giặc già đểu cáng ấy nói với kẻ khác cũng dùng những giọng lưỡi như đã nói với tôi thì tôi tức giận đến thế nào. Hắn lại nói tiếp:
-Anh xem đó, bọn giang hồ mình phải gian nan nhiều, nhưng tiền cũng lắm. Khắp các nhà “băng” tôi đều có tiền gửi. Bây giờ tôi cũng đã năm mươi tuổi đầu rồi chớ ít ỏi gì. Tôi định đi chuyến này về là tìm nơi an cư lạc nghiệp, tận hưởng giàu sang. Nhưng lúc đầu thì tôi cũng chỉ là tên thủy thủ thường như anh thôi! Giọng tên kia có vẻ thán phục:
-Anh thật là một tay cừ khôi. Thế xong việc thì làm thế nào anh về được Brít-tôn? Gã Xin-ve cười khà khà:
-Đợi anh phải hỏi! Hiện giờ thì vợ tôi đã lấy tiền ở nhà băng, đã bán sạch nhà cửa và đương trên đường đi theo tôi. Rồi giọng gã nói có vẻ mơn trớn, ân cần:
-Chỗ bạn giang hồ với nhau, tôi nói thật! Khi tôi còn làm đầu mục dưới trướng lão Phơ-linh, thì trong bọn với nhau cũng chẳng tốt lành gì. Bây giờ dưới trướng tôi, anh có thể vững bụng được. Tên thủy thủ trẻ nói:
-Tôi cũng thú thật, trước khi gặp anh, tôi chẳng ưa gì việc này, nhưng bây giờ anh có thể tin ở tôi được.
-Anh rõ là một gã thông minh có tâm huyết. Trong bọn tôi ít có người như anh. Xin-ve vừa nói vừa siết chặt tay tên kia làm rung chuyển cả thùng lê. Bây giờ tôi mới hiểu là hắn đương quyến rũ một người thủy thủ lương thiện. Hắn huýt khẽ một tiếng. Một người khác bước vào. Hắn lên tiếng:
-Đích khi nào cũng đúng hẹn. Lại thêm một tiếng nói nữa, tôi nghe rõ giọng lão Han:
-Anh Xin-ve, tôi chán ngấy cái lão thuyền trưởng rồi. Lão không cho tôi lấy một hớp rượu. Anh còn đợi đến bao giờ mới hành sự? Xin-ve đáp:
-Đừng nóng mắt! Cứ làm theo lời tôi dặn. Bao giờ được thì tôi bảo. Lão Han vừa khạc nhổ vừa càu nhàu:
-Bao giờ mới được chứ? Xin-ve nói to:
-Han! Cứ bao giờ, bao giờ mãi! Anh cũng thấy chứ? Lão quý tộc với lão thầy thuốc cất giấu giấy tờ kho vàng ở đâu, có ma nào biết! Còn thằng thuyền trưởng là tay đi biển thạo. Phải để cho bọn hắn lấy được của, tải hộ ta xuống tàu rồi mới khử chúng. Đích hỏi:
-Dễ chừng chỉ có tên thuyền trưởng là đi biển thạo à? Xin-ve vội đáp:
-ừ, các bố thạo cho tàu chạy, nhưng chạy về đường nào? Trong bọn ta ai là người thuộc đường? Các bố chắc chịu? Nếu làm theo ý tôi thì đợi lúc quay về, có gió nồm thì ta mới hạ thủ lão ấy. Tôi biết các bố bây giờ chỉ háu ăn. Chính mắt tôi trông thấy nhiều tay cừ khôi mà chết uổng mạng chỉ vì nóng ăn đấy. Đích hỏi:
-Anh định khử họ như thế nào? Lão Han buột mồm:
-Chỉ có hai lối: một là bỏ họ lên đảo, hai là chặt họ ra từng khúc. Tên bếp tàu nói:
-Tôi ấy à? Tôi chỉ muốn tóm lấy lão Chi, vặn trái cổ lão ấy ra sau.
-Rồi hắn quay sang chuyện khác:
-Đích! Đi lại lấy một quả lê ăn cho đỡ khát. Lúc ấy tôi chỉ muốn nhảy phóc một cái chạy nhoáng nhoàng ra ngoài, nhưng may sao lão Han đã gạt đi:
-Thôi! Ăn lê làm quái gì! Lấy cốc “rum” cho nó đỡ nhạt mồm. Tên Xin-ve bảo:
-Đích! Cái chìa khóa đây. Anh đến chỗ thùng rượu mà lấy. Nhớ đừng quên khóa. Tuy run sợ, nhưng tôi vẫn nhớ ngay đến viên thuyền phó. ông ta đã bỏ mạng vì cái thìa khóa hầm rượu này. Khi tên Đích mang rượu đến thì một tia sáng rọi vào thùng chỗ tôi ngồi. Tôi ngẩng lên: trăng đã mọc lấp loáng trên đầu cột buồm sau và chiếu trắng cánh buồm. Ngay lúc ấy, nguời gác chòi kêu to:
-Đất liền kia rồi!