Phần thì sợ, phần cũng muốn để cho Xin-ve và tên giặc ốm nghỉ ngơi, nên cả bọn cùng ngồi lại trên một mô đất cao. Trước mặt chúng tôi, thấp thoáng qua cây là doi biển, sóng vỗ quanh bờ. Đằng sau là bến tàu và đảo Hình Người. Ngay trên đầu chỗ chúng tôi ngồi là gò Vọng Viễn. Chỉ nghe tiếng sóng vỗ ghềnh đá và tiếng côn trùng rên rỉ trong bụi cây. Không một bóng người qua lại, không một cánh buồm thấp thoáng ngoài khơi. Chung quanh đìu hiu tịch mịch. Xin-ve ngồi xuống lật bản đồ ra xem rồi nói:
-Kìa, cái “đồi con của gò Vọng Viễn” chính là mũi đất dưới kia rồi. Cái kho của đã trước mắt chúng ta. Bây giờ hãy ăn cho đỡ đói đã! Mo-gan càu nhàu:
-Tôi chẳng thấy đói! Chỉ nghĩ tới lão Phơ-linh là đã thấy mất ngon rồi… Xin-ve đáp:
-Nhưng may cho anh, hắn đã chết ngoẻo rồi. Một tên khác run rẩy nói:
-Lão là con quỷ dữ! Lão chết thế nào được! Từ lúc chúng trông thấy bộ xương, đầu óc chúng lúc nào cũng bị cái hồn ma của lão Phơ-linh ám ảnh. Không đứa nào dám nói to. Chúng chỉ thì thầm với nhau, vẻ sợ sệt.
Thốt nhiên, đằng bụi cây trước mặt có một giọng hát the thé, run run vẳng lại, bài hát này, chúng đã thuộc nhão: Mười lăm thằng trên hòm người chết, ỳ a, ỳ a… Bọn giặc ba hồn bảy vía lên mây. Cả sáu đứa mặt mày bỗng tái nhợt, run lẩy bẩy. Thằng thì nhảy chồm lên cuống cuồng, thằng thì quờ quạng bám vào người bên cạnh. Mo-gan bò lăn trên đất, mồm lắp bắp:
-Phơ-linh! Đích thị lão Phơ-linh! Thốt nhiên tiếng hát im bặt, tưởng như có người bỗng lấy tay bịt miệng kẻ hát. Giữa khoảng trời bao la, tôi nghe tiếng hát vọng lại nhịp nhàng thánh thót. Vì thế, trông cử chỉ của bọn chúng, tôi càng thấy lố bịch. Xin-ve môi nhợt nhạt, nói không ra hơi:
-Thôi đừng có hoảng hồn hoảng vía lên! Có chặt đầu tôi, tôi cũng bảo đó không phải lão Phơ-linh. Tôi chưa nhận ra được tiếng ai, nhưng nhất định đó là người, chứ chẳng phải ma quỷ gì đâu! Nói xong, hắn trở lại can đảm, sắc mặt hồng hào. Nhưng bọn kia vừa định thần thì cái tiếng lúc nãy lại vụt cất lên. Lần này không phải tiếng hát mà là một thứ tiếng rên rỉ nghẹn ngào từ hang núi sâu vọng lại:
-Đác Bi, Đác Bi, Đác Bi, Đác Bi! Rồi tiếp theo, một tiếng quát nhỏ:
-Mang rượu đây, Đác Bi! Bọn giặc bỗng đứng sững như trời trồng, mắt mở trừng trừng, thao láo. Tiếng nói đã im từ lâu mà chúng vẫn còn đứng sững sờ, ngơ ngác. Một đứa nói hổn hển:
-Thôi chạy đi! Mo-gan rền rĩ:
-Đúng là những lời cuối cùng của lão! Còn Đích thì móc quyển kinh thánh ra, hai tay nâng tới trước. Chỉ có Xin-ve là chưa chịu tin hẳn. Tuy hắn cũng run, nhưng hắn vẫn cố sức nói to:
-Chúng ta đến đây để tìm cho ra của. Dù là người hay ma quỷ cũng không thể làm bọn ta chùn bước! Khi lão Phơ-linh còn sống, tôi cũng không hề sợ lão. Huống gì bây giờ, lão đã chết mọt xương, thì còn sợ cái đếch gì! Nghe Xin-ve nói thế, bọn kia lại cho rằng Xin-ve đã buông lời xấc láo, phạm đến vong linh người chết. Giá chạy được thì chúng đã chạy rồi! Nhưng khốn nỗi, chúng sợ đến ríu chân. Đứa nào cũng co rúm lại và xúm xít quanh Xin-ve. Xin-ve nói to:
-Ma à? Tôi cũng tin là có! Nhưng ma thì vô hình vô ảnh. Tại sao ở đây tiếng ma lại có tiếng vọng? Tôi chắc không phải! Tên Giót hình như đã tỉnh ra, nối lời:
-Đúng thế! Xin-ve nói có lý. Tiếng ấy nếu là tiếng lão Phơ-linh thì sao lại nghe lanh lảnh? Hình như tiếng một kẻ nào ấy… Thốt nhiên Xin-ve nói to:
-Thôi phải rồi! Tiếng thằng Ben-gun! Mo-gan cũng vội kêu lên:
-Đích thị tiếng thằng Ben-gun! Giót nói:
-Ben-gun hay thằng nào đi nữa cũng đếch cần!
Thế là chỉ trong phút chốc, cả bọn đều trở lại tươi tỉnh. Mặt đứa nào đứa nấy trông hăm hở. Chúng lại vác thuổng cuốc lên vai, tiếp tục đi. Tên Giót đi trước, tay cầm địa bàn, nhằm đường đi thẳng tới đảo Hình Người, chỉ còn thằng Đích là vẫn cầm quyển kinh ngơ ngác nhìn quanh. Khi leo lên đến đỉnh, đã thấy dễ đi hơn trước. Những gốc thông lớn bé mọc lưa thưa. Mặt trời chói lọi trên những khoảng đất trống. Càng đi chúng tôi càng đến gần cái đồi con của gò Vọng Viễn. Chúng tôi đi đến một cây to, rồi một cây to nữa, nhưng nhìn kỹ, tôi biết ngay đây không phải là cái cây đã vẽ trong bản đồ. Nhưng đến cây thứ ba thì thấy cây này cao hơn hẳn. Bề cao của nó dễ cũng đến hai trăm mét. Thân cây màu hung hung đỏ, to ước bằng một cái nhà con; tán lá phủ che kín cả một quãng đất rộng mênh mông. Nhưng cái thân cây khổng lồ ấy không làm cho bọn giặc chú ý. Chúng chỉ lăm lăm nhìn vào cái kho của đương chôn ở một chỗ nào đó dưới gốc cây. Nghĩ đến tiền của, mặt đứa nào cũng hồng hào lên, chúng quên cả những điều sợ hãi ban nãy. Mắt chúng long lanh, chân chúng bước thoăn thoắt, nhẹ nhàng như bay trên mặt đất. Xin-ve vừa càu nhàu vừa phóng nạng đi nhanh như con choi choi. Hắn vừa thở phì phò vừa chửi vung lên như một thằng điên đương lên cơn. Thỉnh thoảng thấy tôi đi chậm, hắn giật mạnh cái dây thừng buộc ngang người tôi, mắt hắn lườm tôi một cái đến rợn gáy. Bây giờ hắn đã để lộ chân tướng của hắn một cách trắng trợn. Thoáng nhìn, tôi đã thấy ngay. Gần đến hố vàng, bao nhiêu điều cam kết trước, hắn đều quên cả. Tôi dám quả quyết rằng hắn đương tính khi chiếm xong kho của, sẽ tìm cho ra chiếc tàu, và sau khi đã giết hết tất cả những người lương thiện trên đảo, hắn sẽ cho tàu rong khơi…
Bụng bồn chồn lo lắng nên tôi cứ vấp ngã luôn. Mỗi bận như thế, Xin-ve lại giật mạnh đầu dây là lườm tôi một cách hung ác. Khi gần đến nơi, Giót gọi to:
-Anh em ơi! Chạy mau lên thôi! Mấy thằng đi đầu vội co giò chạy trước. Chạy được ngót mười thước, chúng dừng cả lại. Tôi nghe thấy tiếng bàn bạc lầm rầm. Xin-ve cố rảo bước, ngoáy mãi đầu nạng xuống đất như một kẻ điên rồ. Đi một lúc thì tôi với hắn đã đến nơi. Trước mặt chúng tôi có một cái hố to: vết đào đã lâu vì mép bờ bị nước mưa lở, và dưới đáy, cỏ mọc xanh rì. Trên mặt hố còn thấy một cán cuốc gãy đôi và những mảnh ván hòm rải rác. Sự thật đã quá rõ ràng: đống của đã bị kẻ khác đào lên và cuỗm mất từ lâu!