Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Hảo Nữ Trung Hoa

Chương 13: Người phụ nữ không được cha nhận ra

Tác giả: Hân Nhiên

Suốt đêm đầu tiên ở Trại giam nữ Tây Hồ Nam, tôi không dám chợp mắt vì sợ những giấc mơ hãi hùng cứ trở đi trở lại. Nhưng ngay cả khi mở mắt, tôi cũng không thể gạt những hình ảnh hồi nhỏ ra khỏi đầu. Trời rạng, tôi tự nhủ phải để quá khứ lại sau lưng và tìm cách làm cho Hoa Nhi tin tưởng mình để chia sẻ câu chuyện của cô với những người phụ nữ khác. Tôi hỏi người quản tù liệu tôi có thể nói chuyện với Hoa Nhi lần nữa trong phòng thẩm vấn không.

Khi cô vào, sự hờn dỗi và thách thức của ngày hôm trước đã tan biến và gương mặt cô hằn sâu nỗi đau khổ. Từ cái nhìn đầy ngạc nhiên của cô, tôi đoán trông tôi cũng khác sau một đêm bị ký ức giày vò.

Hoa Nhi bắt đầu cuộc phỏng vấn bằng cách kể cho tôi chuyện mẹ cô đã chọn tên cho cô, chị cô và các em trai của cô như thể nào. Mẹ cô bảo rằng mọi vật trong thế giới tự nhiên đều phải đấu tranh để dành được chỗ đứng của mình, nhưng cây, núi và đá là những thứ mạnh nhất, vì thế bà đã gọi cô con gái đầu là Thụ (cây), con trai đầu là Sơn (núi) và con trai thứ là Thạch (đá). Một cây ra hoa sẽ đậu quả, còn hoa trên núi hay trên đá thì sẽ làm đẹp cho núi, cho đá, vì vậy Hoa Nhi được gọi là Hoa (hoa).

“Mọi người bảo tôi là xinh nhất nhà… có lẽ vì tôi tên là Hoa.”

Tôi xúc động trước tính thơ của những cái tên đó và thầm nghĩ mẹ Hoa Nhi hẳn phải là một người rất hiểu biết. Tôi rót cho Hoa Nhi một cốc nước nóng từ chiếc phích trên bàn. Cô ấp lấy nó bằng cả hai tay, nhìn chăm chăm vào làn khói bốc lên từ đó, và lẩm bẩm khe khẽ, “Cha mẹ tôi là người Nhật.”

Tôi sửng sốt trước thông tin đó. Không hề có một ghi chép nào về điều này trong hồ sơ phạm tội của Hoa Nhi.

«Họ đều dạy ở trường đại học và chúng tôi được đối xử đặc biệt. Những gia đình khác phải sống chung trong một căn phòng, nhưng nhà tôi thì có tới hai phòng. Cha mẹ tôi ngủ trong phòng nhỏ còn chúng tôi ngủ ở phòng lớn. Chị Thụ tôi thường đưa anh Sơn và tôi tới nhà các bạn chơi. Cha mẹ họ rất tử tế với chúng tôi, họ hay cho chúng tôi đồ ăn vặt để nhấm nháp và bảo chúng tôi nói cho họ nghe tiếng Nhật. Tôi còn rất bé nhưng tiếng Nhật của tôi rất tốt và tôi thích dạy cho những người lớn đó chút vốn từ. Những đứa trẻ khác chén sạch đồ ăn trong khi tôi nói cho họ nghe, nhưng chị tôi luôn để dành cho tôi một ít. Chị che chở cho tôi.»

Mặt Hoa Nhi sáng lên.

«Cha tôi rất tự hào về chị Thụ vì chị ấy học hành giỏi giang. Cha tôi bảo chị ấy có thể giúp ông trở nên sáng suốt hơn. Mẹ tôi cũng khen chị tôi là con gái ngoan vì chị luôn để ý chăm sóc tôi và anh Sơn để mẹ có thời gian chuẩn bị bài vở và chăm sóc em Thạch lúc đó mới ba tuổi. Chúng tôi vui nhất là khi được chơi với cha. Ông mặc quần áo giả trang thành người khác khiến chúng tôi cười bò ra. Thỉnh thoảng ông giả làm Ông Già Vác Núi trong truyện cổ tích Nhật Bản, và ông cõng cả bốn anh em tôi trên lưng. Chúng tôi đè lên ông cho đến khi ông thở hổn hển, nhưng ông vẫn tiếp tục cõng chúng tôi, kêu lên: “Tôi… đang vác… núi!”

Thỉnh thoảng ông choàng khăn của mẹ tôi quanh đầu giả làm Bà Ngoại Sói trong câu chuyện cổ tích của Trung Quốc. Mỗi khi ông chơi trốn tìm với chúng tôi, tôi lại rúc vào trong chăn và hét lên một cách hồn nhiên, “Hoa Nhi không có trong chăn đâu!”

Ông trốn rất kỹ. Có lần ông còn trốn trong một cái vựa thóc to. Khi ông chui ra, người ông đầy bột ngô, kiều mạch và gạo.»

Hoa Nhi cười khi nhớ lại hồi ức đó và tôi cũng cười theo.

Cô nhấp ngụm nước, nhấm nháp.

«Chúng tôi rất hạnh phúc. Nhưng sau đó, năm 1966, cơn ác mộng bắt đầu. Những ngọn lửa nhảy múa đánh dấu sự chấm dứt tuổi thơ hạnh phúc của tôi xuất hiện trước mắt.»

Giọng Hoa Nhi xua đi hình ảnh đó.

«Một chiều hè, cha mẹ tôi đã đi làm và tôi đang làm bài về nhà dưới sự giám sát của chị Thụ còn em trai út ngồi chơi đồ chơi. Đột nhiên, chúng tôi nghe thấy tiếng hô khẩu hiệu nhịp nhàng vang dội bên ngoài. Hồi đó người lớn vẫn luôn luôn hô khẩu hiệu hay quát tháo, vì vậy chúng tôi cũng không để ý gì lắm. Âm thanh đó ngày một gần, cho đến khi nó ở ngay ngoài cửa nhà tôi. Một nhóm thanh niên đứng ngoài đó hô lên, “Đả đảo lũ chó theo chân đế quốc Nhật! Tiêu diệt lũ gián điệp ngoại quốc!”

Chị tôi đã xử sự như một người lớn. Chị mở cửa và hỏi đám học sinh, cũng tầm tuổi chị, “Các người làm gì thế hả? Cha mẹ chúng tôi không có nhà.”

Một cô gái đứng đằng trước đám đông nói, “Nghe đây, lũ mất nết, cha mẹ chúng mày là gián điệp của đế quốc Nhật. Chúng đã bị giai cấp vô sản khống chế. Chúng mày phải cắt đứt mọi quan hệ với chúng và khai báo những hoạt động gián điệp của chúng!”

Cha mẹ tôi, gián điệp! Trong những bộ phim tôi đã xem, gián điệp luôn luôn là những kẻ xấu xa. Nhận thấy tôi sợ hãi thế nào, chị gái tôi vội đóng cửa lại và đặt tay lên vai tôi. “Đừng sợ. Chờ bố mẹ về rồi mình sẽ kể với bố mẹ”, chị bảo vậy.

Anh trai tôi đã mấy lần bảo muốn tham gia Hồng Vệ Binh. Lúc đó anh ấy nói khẽ. “Nếu họ là gián điệp, anh sẽ tới Bắc Kinh để tham gia cách mạng chống lại họ”.

Chị gái tôi lườm anh và bảo, “Đừng có nói vớ vẩn!”

Khi đám học sinh ngừng hò hét trước cửa nhà tôi thì trời cũng đã tối. Sau này, ai đó bảo tôi là đám người đó định khám nhà nhưng không dám vì thấy chị gái tôi đứng ngay ngưỡng cửa bảo vệ ba đứa tôi. Hình như lãnh đạo Hồng Vệ Binh đã mắng chúng một trận tơi bời vì thế.»

“Chúng tôi không gặp lại cha một thời gian dài.” Mặt Hoa Nhi lạnh băng.

«Suốt thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa, bất kỳ người nào xuất thân từ gia đình giàu có; được học cao, là một chuyên gia hay học giả, có những mối quan hệ với nước ngoài hay từng làm việc trong chính quyền trước năm 1949 đều bị xếp vào thành phần phản cách mạng. Có nhiều tội phạm chính trị loại này đến mức nhà tù quá tải. Không có chỗ giam giữ, những trí thức này bị đày đến vùng sâu vùng xa để làm việc trên đồng ruộng. Tối đến họ lại phải thú nhận tội lỗi của mình với các Hồng Vệ Binh, hoặc học theo người nông dân, những người chưa từng nhìn thấy chiếc xe ô tô hay nghe nói tới điện. Cha mẹ tôi đã phải trải qua rất nhiều giai đoạn lao động và cải tạo như vậy.»

Người nông dân dạy các trí thức những bài hát họ hát khi trồng cấy và cách mổ lợn. Lớn lên trong môi trường sách vở, học hành, các trí thức rùng mình trước cảnh tượng máu chảy và thường khiến người nông dân kinh ngạc trước sự thiếu kỹ năng và kiến thức thực tế của họ. Một nữ giáo sư đại học tôi từng phỏng vấn kể với tôi rằng người nông dân giám sát bà nhìn các cây giống lúa mì mà bà đã lóng ngóng làm bật rễ lên mà hỏi đầy thương hại, “Cô thậm chí còn chẳng phân biệt được chồi cỏ với chồi lúa phải không? Vậy thì những đứa trẻ cô dạy học được gì ở cô? Làm sao cô yêu cầu chúng kính trọng cô được?” Bà giáo sư bảo rằng những người nông dân ở vùng núi mà bà bị đày tới vô cùng tốt với bà, bà đã học được rất nhiều điều từ cuộc sống khắc khổ của họ. Bà cảm thấy rằng tính cách của con người về cơ bản là đơn giản và không lắt léo, chỉ khi được dạy về xã hội con người ta mới làm xáo trộn nó lên. Bà nói cũng có phần đúng, nhưng bà là người may mắn khi trải qua Cách Mạng Văn Hóa.

Hoa Nhi tiếp tục câu chuyện.

«Một hôm, mẹ tôi về nhà muộn hơn bình thường. Chỉ chị gái tôi còn thức. Đang gà gật, tôi tỉnh dậy khi nghe mẹ nói với chị, “Cha bị bắt giam rồi. Mẹ không biết họ nhốt cha ở đâu. Từ giờ trở đi, ngày nào mẹ cũng phải đi học lớp đặc biệt và có thể về rất muộn. Mẹ sẽ đưa em Thạch đi cùng, còn con sẽ phải trông nom Sơn và Hoa. Thụ, giờ con lớn rồi. Con phải tin vào cha mẹ dù cho bất cứ điều gì xảy ra. Cha mẹ đã đến Trung Quốc vì muốn có thêm nhiều người hiểu về văn hóa Nhật Bản và giúp họ học tiếng Nhật, chứ không phải để làm điều xấu… Giúp mẹ trông nom các em nhé. Hái rau dại trên đường đi học về mà nấu thêm với thức ăn. Dỗ các em ăn uống nhiều hơn nhé; các con đều đang lớn, các con cần phải ăn uống đầy đủ. Nhớ đậy nắp lò trước khi đi ngủ để không bị hít phải khí than độc. Đóng cửa sổ và cửa chính lại cho chắc trước khi ra khỏi nhà, và cẩn thận tránh mở cửa cho bất cứ ai con nhé. Nếu Hồng Vệ binh tới khám nhà, hãy đưa các em ra ngoài để các em khỏi sợ. Từ giờ trở đi, nhớ đi ngủ cùng lúc với các em. Đừng thức chờ mẹ. Nếu con cần bất cứ thứ gì, viết cho mẹ mẩu giấy và mẹ sẽ để lại cho con mẩu giấy vào sáng hôm sau trước khi đi. Đừng bỏ học tiếng Nhật và văn hóa Nhật. Tri thức sẽ hữu ích vào một ngày nào đó. Bí mật mà học, nhưng đừng sợ. Mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi.”

Mặt chị tôi vẫn điềm tĩnh, nhưng hai dòng nước mắt lặng lẽ lăn xuống má. Tôi trốn trong chăn và âm thầm khóc. Tôi không muốn mẹ nhìn thấy tôi.»

Nhớ lại em trai tôi khóc đòi mẹ như thế nào, tôi không cầm nổi nước mắt khi tưởng tượng ra cảnh Hoa Nhi mô tả. Hoa Nhi buồn, nhưng mắt ráo hoảnh.

«Một thời gian dài sau đó, chúng tôi hầu như không gặp mẹ. Em trai tôi và tôi biết rằng giờ mẹ ngủ tại phòng chúng tôi, nhưng những dấu hiệu duy nhất về sự tồn tại của mẹ chỉ là các chỉ dẫn và thông tin mà mẹ để lại qua chị Thụ.

Sau này, tôi phát hiện ra rằng tôi có thể gặp mẹ nếu thức dậy đi tiểu ban đêm. Tôi bắt đầu uống nước nhiều hết mức có thể trước khi đi ngủ. Hình như mẹ chẳng ngủ bao giờ: lần nào tôi dậy mẹ cũng vươn tay ra vuốt ve tôi. Bàn tay mẹ ngày càng thô ráp. Tôi muốn cọ mặt minh vào đó, nhưng tôi sợ chị tôi sẽ nói tôi quấy không để mẹ nghỉ.

Tôi ngày càng bơ phờ và mệt mỏi vào ban ngày vì ban đêm tôi thức dậy để nhìn mẹ vài lần. Có lần tôi còn ngủ gật trong khi học những chỉ thị cao nhất của Đảng ở trường. May thay, cô giáo tôi rất tốt. Sau giờ học, cô đưa tôi tới một chỗ khuất gần sân thể thao và bảo, “Ngủ gật trong khi học những chỉ thị cao nhất của Mao Chủ Tịch thì bị Hồng Vệ Binh coi là rất phản cách mạng đó. Em phải cẩn trọng hơn đấy”.

Tôi không thực sự hiểu điều cô muốn nói, nhưng tôi sợ vì chồng của cô giáo là lãnh đạo Hồng Vệ Binh ở địa phương. Tôi vội vã giải thích tại sao tôi không ngủ được. Cô giáo im lặng hồi lâu nên tôi càng lo hơn. Cuối cùng, cô vỗ nhẹ vào đầu tôi trìu mến, bảo, “Đừng lo, có thể mẹ em sẽ được về nhà sớm hơn”.

Không lâu sau, mẹ tôi bắt đầu về nhà sớm hơn thật. Bà về nhà ngay trước lúc chúng tôi bắt đầu chuẩn bị đi ngủ. Chúng tôi có thể thấy rằng bà đã thay đổi nhiều: bà nói rất ít, và đi lại rất khẽ khàng; hình như bà sợ làm xáo trộn niềm tin của chúng tôi ở bà và cha chúng tôi. Anh trai tôi, vốn có cá tính mạnh, lúc đó không còn dám tranh luận với mẹ về chuyện đi Bắc Kinh để trở thành Hồng Vệ Binh của Mao Chủ Tịch nữa. Dần dần, cuộc sống cũng bình thường trở lại. Một hôm tôi nghe thấy mẹ nói trong tiếng thở dài, “Nếu cha con cũng có thể trở về…”

Không ai trong chúng tôi thấy hạnh phúc khi nghĩ tới chuyện gặp lại cha. Chúng tôi yêu ông, nhưng nếu ông là một gián điệp thì chúng tôi sẽ vẫn phải từ bỏ ông. Một thời gian sau, vào mùa thu năm 1969, chị tôi bị yêu cầu phải tham gia một nhóm học buổi tối để làm cho chị có lập trường vững chắc sau khi cha tôi được thả, và tạo một đường ranh dứt khoát giữa cha tôi với chúng tôi.

Buổi tối đi học nhóm đầu tiên, chị gái tôi về rất muộn. Mẹ tôi chờ đợi sốt ruột bên cửa sổ, đứng ngồi không yên. Tôi cũng không ngủ được, vì tôi háo hức được biết nhóm học tập đó thế nào. Hồng Vệ Binh chỉ cho những ai có tư tưởng cách mạng vào nhóm đó thôi. Tôi biết sau khi một số người tham gia vào đó, họ không còn bị thẩm vấn nữa, nhà họ cũng không còn bị khám xét nữa và những người trong gia đình họ bị bắt giam cũng được thả ra. Liệu cha tôi có được sớm trở về không nhỉ?

Mẹ tôi đưa tôi vào giường, tôi dụi mắt liên tục và đặt ngòi bút lên trên gối để mình khỏi ngủ mất. Cuối cùng, tôi nghe thấy tiếng bước chân và giọng nói nhỏ của một người đàn ông bên ngoài cửa sổ, nhưng không nghe rõ anh ta nói gì. Khi chị tôi bước vào phòng, mẹ tôi chạy choàng đến và hỏi, “Thế nào rồi?” Giọng bà đầy lo sợ.

Chị Thụ lặng lẽ nằm xuống, để nguyên quần áo. Khi mẹ cố giúp chị cởi đồ, chị gạt mẹ ra, quay đi và quấn chặt mình trong chăn.

Tôi rất thất vọng. Chúng tôi đã thức chờ đợi quá lâu mà chẳng được gì.

Đêm đó, tôi nghe thấy mẹ khóc rất lâu. Tôi ngủ thiếp đi trong khi tự hỏi liệu có phải bà đau lòng vì sự im lặng của chị tôi không, hay phải chăng bà sợ rằng chúng tôi không yêu bà. Đêm đó, tôi mơ thấy mình cũng tham gia vào nhóm học tập đó, nhưng vừa đi qua cửa tôi đã thức giấc.

Chị Thụ đi đến nhóm học tập khá lâu, và chị không bao giờ kể với tôi bất kỳ điều gì về nó. Suốt mấy tháng, tối nào chị cũng về rất khuya, một lúc lâu sau khi tôi đã ngủ. Một tối, không lâu sau khi ra khỏi nhà để đến lớp học nhóm, chị quay về. Người đàn ông đưa chị về bảo chúng tôi, “Thụ vẫn bị ốm, hôm nay cô ấy đã ngất. Thầy dạy chính trị bảo tôi đưa cô ấy về”.

Mẹ tôi mặt trắng bệch, đứng trân trân khi chị tôi quỳ sụp xuống trước mặt bà và nói, “Mẹ, con không còn cách nào khác. Con muốn cha được thả sớm hơn”.

Mẹ tôi run lên và như muốn sụm xuống. Anh trai tôi vội nhào tới đỡ mẹ và dìu bà ngồi xuống giường. Rồi anh đẩy tôi và em trai sang phòng khác. Tôi không muốn đi, nhưng không dám ở lại.

Ngày hôm sau, khi tôi đang ra khỏi trường, một người đàn ông từ tổ chức Hồng Vệ Binh đã đứng chờ tôi. Anh ta bảo tôi rằng thầy dạy chính trị yêu cầu tôi tham gia vào nhóm học tập. Tôi hầu như không dám tin anh ta. Tôi chỉ mới mười một tuổi. Làm sao tôi có thể tham gia? Có lẽ, tôi nghĩ, cô giáo đã bảo với họ rằng tôi rất biết nghe lời. Tôi vui đến nỗi muốn về nhà báo với mẹ nhưng người đàn ông đó bảo rằng mẹ tôi đã được báo tin.

Lớp học ở một căn phòng bé tẹo bày trí như một ngôi nhà, có giường ngủ, bàn ăn và mấy cái ghế giống như ghế ở trường nhưng to hơn. Cũng có một tủ sách lớn đầy những tác phẩm cách mạng. Lời dạy của Mao Chủ Tịch và những khẩu hiệu cách mạng màu đỏ dán khắp bốn bức tường phòng. Tôi chỉ mới lên lớp bốn nên không thể hiểu hết những thứ đó.

Người Hồng Vệ Binh dẫn tôi đến đây đưa cho tôi một Cuốn Sách Đỏ in những lời dạy của Mao Chủ Tịch – tôi luôn ghen tị với chị Thụ vì chị có cuốn này – và hỏi, “Mi có biết cha mẹ mi là gián điệp không?”

Tôi gật đầu, tròn xoe mắt. Tôi sợ rốt cuộc họ sẽ không cho phép tôi tham gia vào nhóm học này nữa.

“Mi có biết rằng mọi người trong nhóm học tập đều là Hồng Vệ Binh không?”

Tôi lại gật. Tôi muốn trở thành Hồng Vệ Binh lắm, để người ta không chửi rủa tôi nữa và để tôi có thể ngồi lên thùng xe tải đi khắp phố hô vang khẩu hiệu; tất cả những uy quyền đó!

“Vậy thì mi không được để bọn gián điệp biết về những công việc của Hồng Vệ Binh, hiểu chưa?” Anh ta nói.

Nghĩ tới những câu chuyện về tổ chức Đảng bí mật và các gián điệp trên phim ảnh, tôi lắp bắp, “Tôi… tôi sẽ không kể với gia đình”.

“Giờ mi đứng lên, và hãy thề với Mao Chủ Tịch là mi sẽ giữ bí mật của Hồng Vệ Binh”.

“Xin thề!!

“Tốt. Nào, trước tiên cô hãy đọc những lời dạy của Mao Chủ Tịch một mình. Sau khi ăn chúng tôi sẽ dạy cô cách học những lời đó”.

Tôi ngạc nhiên khi nghe nói rằng tôi sẽ được cung cấp đồ ăn. Tôi nghĩ hèn gì chị tôi lại chẳng bao giờ kể với tôi về nhóm học tập này. Chị ấy đã thề giữ bí mật, nhưng hẳn chị sợ rằng tôi và em trai sẽ rất ghen tị khi nghe nói tới đến đồ ăn. Trong khi những ý nghĩ đó lướt qua đầu tôi, tôi bắt đầu đọc những trang sách của Cuốn Sách Đỏ, chẳng hiểu nổi một từ.

Sau khi tôi ăn xong, hai Hồng Vệ Binh nữa tới. Cả hai đều còn rất trẻ, chỉ lớn hơn chị tôi một chút. Họ hỏi tôi, “Mi đã thề với Mao Chủ Tịch chưa?” Tôi gật đầu, tự hỏi vì sao họ lại hỏi vậy…

“Được rồi”, họ nói, “hôm nay chúng ta sẽ học tới rất khuya, vì vậy trước tiên mi nên đi nghỉ một chút”.

Họ quàng tay ôm tôi và đưa tôi đến chỗ chiếc giường, cười với tôi và giúp tôi giở chăn và cởi đồ, tới tận mảnh đồ lót cuối cùng. Họ tắt đèn đánh phụp một cái.

Chưa một ai từng nói với tôi về điều xảy ra giữa đàn ông và đàn bà, kể cả mẹ tôi. Tất cả những gì tôi biết về sự khác biệt giữa đàn ông và đàn bà là quần của đàn ông cài đằng trước còn quần phụ nữ cài bên hông. Vì vậy khi ba người đàn ông bắt đầu sờ soạng người tôi trong bóng tối, tôi không hề biết thế nghĩa là sao, hay điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.

Tôi cảm thấy rất mệt. Vì lý do nào đó, tôi không thể giữ cho mắt mình mở ra. Trong lúc mơ màng, tôi nghe thấy mấy người đó nói, “Đây là bài học đầu tiên của cô. Chúng tôi phải biết liệu có những ảnh hưởng phản cách mạng trong người cô không”.

Một bàn tay véo núm vú chưa phát triển của tôi và một giọng cất lên, “Nó còn nhỏ, nhưng hẳn phải có một cái núm ở đây”.

Một bàn tay khác kéo chân tôi dạng ra, và một giọng khác xen vào, “Những điều phản cách mạng luôn luôn ẩn náu ở những chỗ bí mật nhất trên cơ thể, để xem nào”.

Một làn sóng sợ hãi không giống bất kỳ một điều gì tôi cảm thấy trước đó tràn qua. Tôi bắt đầu run lên vì sợ, nhưng một ý nghĩ lóe lên trong óc tôi: chỉ những người tốt mới được vào nhóm học tập, họ sẽ không làm điều gì xấu xa.

Rồi một người đàn ông nói, “Quân à, cái này dành cho anh. Anh em chúng tôi giữ lời đấy nhé”.

Tôi không hiểu họ đang nói về chuyện gì. Lúc đó, tôi đã hoàn toàn không còn điều khiển nổi thân thể mình. Sau này, khi tôi lớn hơn, tôi mới vỡ lẽ là chắc họ đã bỏ thuốc ngủ vào thức ăn. Vật gì đó dày và to đâm vào cơ thể trẻ con của tôi như thể nó đang xọc xuyên vào trong tôi. Không biết bao nhiêu bàn tay xoa nắn ngực tôi và mông tôi, một cái lưỡi hôi hám thọc vào miệng tôi. Những tiếng hổn hển gấp gáp ở khắp xung quanh và cơ thể tôi rát bỏng vì đau đớn như thể đang bị roi quất vậy. Tôi không biết bài học khủng khiếp ấy diễn ra bao lâu. Tôi hoàn toàn tê liệt.»

Khuôn mặt Hoa Nhi trắng bệch như xác chết. Tôi phải cắn môi để răng không va vào nhau lập cập. Khi tôi đưa một bàn tay về phía cô, cô lờ đi.

«Cuối cùng, tất cả những tiếng động và hoạt động đó cũng chấm dứt. Tôi khóc mãi.

Trong bóng tối, vài giọng nói cất lên với tôi, “Hoa Nhi, sau này mi sẽ thích chuyện đó“. “Hoa Nhi, mi là cô bé ngoan, mi không có gì xấu xa cả. Cha mi sẽ sớm được thả thôi”.

Tôi thụ động như một con búp bê bằng giẻ khi họ cúi xuống nâng tôi dậy để mặc quần áo vào. Một người nói rất khẽ, “Hoa Nhi, xin lỗi”. Tôi luôn luôn muốn biết ai là người đã nói câu đó.

Mấy Hồng Vệ Binh thay phiên nhau cõng tôi trên lưng trong cơn gió thu lạnh cắt. Họ đặt tôi xuống ở một chỗ cách xa nhà, bảo tôi, “Đừng quên là mi đã thề trước Mao Chủ Tịch đấy”.

Tôi cố lê bước, nhưng không thể nhúc nhích. Tôi có cảm giác phần thân dưới như bị xé toạc ra thành nhiều mảnh. Một người bèn bế tôi lên đưa tới tận cửa nhà, rồi anh ta cùng đồng bọn nhanh chóng lỉnh mất vào bóng tối. Mẹ tôi ra mở cửa khi bà nghe thấy giọng của họ, và đỡ lấy tôi.

“Có chuyện gì vậy, Hoa Nhi? Sao con về muộn thế?” Bà hỏi.

Đầu óc tôi trống trơn: tôi chẳng nghĩ gì về lời hứa với Mao Chủ Tịch nữa. Tôi chỉ có thể òa lên khóc. Mẹ tôi đưa tôi vào giường khi tôi đang nức nở. Nhìn tôi trong ánh sáng đèn, mẹ hiểu tất cả.

“Trời ơi!” Bà há hốc miệng.

Chị Thụ lắc tôi và hỏi, “Có phải em đã đi tới nhóm học tập không?” nhưng tôi chỉ khóc và khóc mãi. Vâng, đúng là tôi đã tới nhóm học tập, một nhóm học tập của đàn bà, một…»

Cuối cùng, Hoa Nhi cũng bật khóc. Vai cô rung lên cùng những tiếng nức nở yếu ớt, kiệt sức. Tôi vòng tay ôm lấy cô, và cảm thấy cả người cô đang rung lên.

“Hoa Nhi, đừng nói thêm gì nữa, cô sẽ không thể chịu nổi đâu,” tôi nói. Mặt tôi đẫm nước mắt, và tiếng khóc của những đứa bé gái ở nhóm học tập tại trường của em trai tôi vọng đến tai tôi.

Trời đã trưa, một người lính gác đem đến cho chúng tôi chút đồ ăn. Hai xuất ăn khác hẳn nhau. Tôi đổi xuất của tôi cho Hoa Nhi, nhưng cô hầu như không liếc tới. vẫn nức nở, cô kể tiếp:

«Lúc ấy tôi còn bé lắm. Dù đau đớn như vậy, tôi vẫn có thể ngủ được trong khi mẹ và chị Thụ khóc nức nở.

Tôi thức dậy vì giật mình. Anh Sơn đang đứng ngoài cửa, hét lên, “Có ai giúp với! Mẹ tôi đã treo cổ rồi!”

Chị Thụ tôi đang gào khóc, “Mẹ ơi, sao mẹ bỏ chúng con?”

Em Thạch đang bám vào thứ gì đó mà khóc. Tôi bước ra khỏi giường để nhìn xem nó đang bám vào cái gì. Đó là mẹ tôi, treo cổ trên chiếc rầm đỡ của cửa ra vào.»

Hoa Nhi thở dốc. Tôi đu đưa cô trong vòng tay mình, gọi đi gọi lại tên cô.

Vài phút sau, tôi thấy một mẩu giấy nhỏ được nhét vào ô cửa quan sát. Có một lời nhắn trên đó: Xin hãy giữ khoảng cách phù hợp với tù nhân.

Tôi thầm hứa và gõ vào cửa gọi quản giáo mở cánh cửa ra. Để Hoa Nhi ở lại phòng thẩm vấn, tôi tới văn phòng của trưởng trại giam – cầm lá thư của cảnh sát trưởng Mai trong tay – xin cho Hoa Nhi được ở trong phòng tôi hai đêm. Lưỡng lự một hồi lâu, ông ta đồng ý với điều kiện là tôi phải viết cho ông giấy cam đoan miễn trách nhiệm nếu có điều gì bất ngờ xảy đến trong khi Hoa Nhi ở với tôi.

Trở lại phòng thẩm vấn, tôi thấy Hoa Nhi đã khóc suốt bên khay đồ ăn trước mặt cô. Tôi đưa cô về phòng tôi, nhưng cô hầu như không nói một lời suốt hai mươi tư tiếng đồng hồ. Tôi nghĩ có thể cô đang vật lộn để tìm cách thoát ra khỏi hố thẳm của nỗi đau, chứ không dám tưởng tượng là cô vẫn còn có nhiều trải nghiệm bi thảm khác mà giờ cô đang phải vật lộn với chúng.

Khi Hoa Nhi lấy lại sức để tiếp tục nói, cô kể rằng cha cô đã được thả bốn ngày sau khi mẹ cô tự vẫn, nhưng ông không hề nhận ra các con mình. Nhiều năm sau, ai đó kể với cô rằng cha cô mất trí kể từ lúc nghe tin người vợ yêu quý của mình đã tự kết liễu cuộc đời. Ông ngồi bất động tại chỗ sau hai đêm chạy loanh quanh và hỏi đi hỏi lại: “Do Mỹ đâu rồi?”

Cả Hoa Nhi lẫn chị cô đều không bao giờ dám tìm hiểu xem liệu cha mình có biết gì về nhóm học tập, hay liệu có phải chính điều đó đã góp phần làm ông suy sụp. Sau khi ông được phóng thích, ông sống với họ như thể một người xa lạ. Suốt hơn hai mươi năm, điều duy nhất các con dạy được cho ông là Cha là cách họ gọi ông. Ở bất cứ đâu, hễ ai nói ra từ đó ông cũng sẽ đáp lại.

Chị Hoa Nhi không lấy chồng. Sở dĩ cô được đưa về nhà sớm hơn tối hôm đó là do cô đã có thai, và đám đàn ông trong nhóm học tập đó đã ra sắc lệnh là cô không thể tiếp tục học tập. Lúc đó cô mới mười lăm tuổi và mẹ cô đã không dám đưa cô tới bệnh viện vì Hồng Vệ Binh sẽ chỉ trích cô là “đồ tư bản” và “con điếm”, rồi đưa cô đi bêu khắp các phố. Thay vì vậy, mẹ cô định tìm thứ thuốc lá nào đó để kích thích đẩy cái thai ra ngoài. Bà chưa kịp làm điều đó thì vụ Hoa Nhi bị cưỡng hiếp ngày hôm sau đã đẩy bà đến bờ vực.

Thụ không biết làm thế nào hay nhờ cậy ai. Ngờ nghệch, cô tự thắt cái bụng lùm lùm và bộ ngực đang căng lên của mình bằng những dải vải, nhưng không ăn thua gì. Cô không biết phải tìm thứ thuốc lá mẹ cô nói tới ở đâu, nhưng một hôm cô nhớ ra là mẹ đã từng nói thuốc nào cũng có ba phần độc. Cô bèn nuốt hết mọi loại thuốc trong nhà cùng một lúc và gục xuống ở trường, xuất huyết trầm trọng. Dù các bác sĩ ở bệnh viện đã cứu được tính mạng của cô nhưng thai nhi thì đã chết và người ta buộc phải cắt bỏ tử cung của cô. Từ đó trở đi, Thụ bị gọi là “đồ đàn bà hư hỏng” và “con điếm”. Thời gian trôi qua rồi cũng đến lúc các bạn đồng trang lứa với cô đều đã làm mẹ cả, Thụ đổi tính đổi nết, trở nên lạnh lùng, lầm lì, khác hẳn với cô gái tốt bụng, vui vẻ trước kia.

Trước hôm rời khỏi Trại giam Nữ Tây Hồ Nam, tôi phỏng vấn Hoa Nhi lần cuối.

«Hai năm sau trải nghiệm ở nhóm học tập của Hoa Nhi, cô tìm thấy một cuốn sách trong phòng lưu trữ của nhà trường có tựa đề Bạn Là Ai? nói về sinh lý của người phụ nữ và những quan niệm của người Trung Quốc về trinh tiết. Chỉ sau khi đọc được điều đó cô mới hiểu hết những hàm ý về chuyện đã xảy ra với cô.

Hoa Nhi bước vào tuổi dậy thì với cảm giác dao động về thân phận và giá trị của mình. Cô không được trải nghiệm những mơ ước của một cô gái trẻ mới bắt đầu hiểu tình yêu là gì; cô không hy vọng về một đêm tân hôn. Những âm thanh và bàn tay sờ soạng trong bóng tối của căn phòng nhóm học tập đó cứ ám ảnh cô mãi. Bất chấp điều đó, cuối cùng cô vẫn kết hôn với một người đàn ông tử tế mà cô yêu. Thời điểm họ lấy nhau, sự trinh bạch trong đêm tân hôn là tiêu chuẩn vàng để đánh giá người phụ nữ mà nếu thiếu thì thường dẫn tới những bước ngoặt cay đắng. Không giống những người đàn ông Trung Quốc khác, chồng của Hoa Nhi không hề nghi ngờ gì về sự trong trắng của vợ. Anh ta tin cô khi cô bảo anh rằng màng trinh của cô bị rách khi cô chơi thể thao.

Trước những năm 1990 hoặc khoảng đó, các thế hệ trong một gia đình sống chung một phòng là chuyện bình thường, chỗ ngủ được ngăn cách bằng rèm mỏng hoặc giường tầng. Chuyện quan hệ vợ chồng diễn ra trong bóng tối, lặng lẽ và thận trọng; không khí căng thẳng, kìm nén gây ức chế trong mối quan hệ của các cặp vợ chồng và thường dẫn đến bất hòa.

Hoa Nhi và chồng cô sống trong cùng một phòng với gia đình anh, vì vậy họ phải quan hệ khi tắt đèn để bóng của họ không in qua bức rèm ngăn chỗ ngủ của họ. Cô rất sợ mỗi khi chồng cô chạm vào cô trong bóng tối, bàn tay của anh dường như là của những con quỉ hồi đó; vô tình, cô hét lên vì sợ. Khi chồng cô cố trấn an cô và hỏi có chuyện gì thì cô không thể nói với anh sự thật. Anh yêu cô rất nhiều, nhưng thật khó khăn cho anh khi phải đối phó với sự lo lắng của cô khi họ quan hệ, nên thay vì vậy anh tự kìm nén ham muốn của mình.

Về sau Hoa Nhi phát hiện ra rằng chồng mình bất lực. Cô tự trách mình vì tình trạng của anh và hết sức đau khổ vì cô yêu anh. Cô cố hết sức để giúp anh trở lại bình thường nhưng lại không thể kìm nén nỗi sợ hãi cứ kẹp chặt cô trong bóng tối. Cuối cùng, cô cảm thấy mình nên để anh đi, để anh có cơ hội có quan hệ tình dục bình thường với một người phụ nữ khác, vì thế cô đòi ly hôn. Khi chồng cô không chịu và hỏi cô lý do vì sao, cô đưa ra những cái cớ rất nông cạn. Cô bảo anh không lãng mạn, dù sinh nhật và ngày kỷ niệm nào anh cũng nhớ, còn đặt hoa tươi lên bàn của cô mỗi tuần. Mọi người xung quanh đều thấy anh đã tìm cách làm cô vui lòng ra sao, nhưng cô bảo anh rằng anh là kẻ hẹp hòi không thể làm cô hạnh phúc. Cô cũng nói rằng anh không kiếm được nhiều tiền, dù các bạn của cô đều phải ghen tị với những đồ trang sức anh tặng cô.

Không kiếm được lý do gì khả dĩ để có thể ly hôn, Hoa Nhi cuối cùng đành phải viện đến cái cớ rằng anh không thỏa mãn được nhu cầu sinh lý của cô, nhưng trong lòng lại hiểu rõ rằng anh là người duy nhất có thể làm được điều đó. Đối mặt với chuyện ấy, chồng Hoa Nhi không nói được gì nữa. Tan nát cõi lòng, anh bỏ tới Châu Hải xa xôi, lúc đó vẫn còn chưa phát triển.»

Giọng Hoa Nhi vẫn vang lên bên tai trong lúc tôi nhìn cảnh vật thay đổi bên ngoài chiếc xe jeep đang đưa tôi về nhà sau vài ngày ở Trại giam Nữ Tây Hồ Nam.

«“Người chồng tôi yêu ra đi,” cô nói. “Tôi cảm thấy trái tim mình như bị dứt ra khỏi lồng ngực… Tôi nghĩ: mười một tuổi tôi có thể thỏa mãn được đàn ông, hai mươi tôi có thể khiến họ phát điên, ba mươi tôi có thể khiến họ hồn xiêu phách lạc, và bốn mươi…? Đôi khi tôi muốn dùng thân xác mình để ban một cơ hội cho những người đàn ông còn có thể nói lời xin lỗi; giúp họ hiểu được quan hệ tình dục với một người đàn bà là như thế nào; đôi khi tôi lại muốn tìm ra những tên Hồng Vệ Binh đã hành hạ tôi đó và nhìn nhà chúng bị phá và gia đình chúng tan nát. Tôi muốn trả thù tất cả đàn ông và bắt họ phải chịu đau khổ.

Danh dự của người đàn bà với tôi không có ý nghĩa gì nhiều. Tôi đã sống với vài người đàn ông, và để họ tiêu khiển với tôi. Vì chuyện đó, tôi bị đưa vào hai trại cải tạo lao động và bị kết án tù hai lần. Giáo viên chính trị trong trại gọi tôi là tội phạm không thể cải huấn được, nhưng tôi chẳng bận tâm. Khi người ta nguyền rủa tôi là không biết xấu hổ, tôi cũng không giận dữ. Mọi người Trung Quốc đều chú ý đến thể diện, nhưng tôi không hiểu cái thể diện của họ thì liên quan thế nào đến những bộ phận còn lại của cơ thể họ.

Chị Thụ là người hiểu tôi nhất. Chị ấy biết tôi sẽ làm bất cứ điều gì để những ký ức tình dục khủng khiếp yên ngủ, và tôi muốn một quan hệ tình dục trưởng thành để hàn gắn những cơ quan sinh lý bị tổn thương của mình. Đôi khi tôi chỉ như chị Thụ nói; rồi đôi khi tôi lại không phải như vậy.

Cha tôi chẳng biết tôi là ai, tôi cũng thế.»

Hôm thứ hai sau khi về đài phát thanh, tôi gọi hai cuộc điện thoại. Một cuộc cho bác sĩ phụ khoa. Tôi kể cho bà nghe về hành vi tình dục của Hoa Nhi và hỏi liệu có phương pháp điều trị nào cho những chấn thương về mặt tinh thần và thể xác mà cô đã trải qua không. Có vẻ vị bác sĩ đó chưa từng nghĩ tới câu hỏi như vậy bao giờ. Vào lúc đó ở Trung Quốc, không có khái niệm về bệnh tâm lý, chỉ có bệnh về thể xác.

Cuộc gọi thứ hai là cho cảnh sát trưởng Mai. Tôi nói với ông Hoa Nhi là người Nhật và hỏi liệu cô có thể được chuyển tới một trong các nhà tù dành cho người ngoại quốc nơi điều kiện tốt hơn không. Ông ngừng một lúc, rồi đáp, “Hân Nhiên, cho đến khi nào chuyện Hoa Nhi là người Nhật được quan tâm thì im lặng là vàng. Hiện giờ tội của cô ta là tội về quan hệ tình dục bừa bãi và sống như vợ chồng ngoài trái phép; không nên để cô ta phải ở lâu hơn quá thời hạn tù. Nếu người ta biết cô ấy là người Nhật cô ta sẽ bị buộc tội có động cơ chính trị cho những hành động của mình và như thế còn tệ hơn.”

Những ai từng sống qua thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa đều nhớ những người phụ nữ phạm vào tội có quần áo ngoại quốc hay thói quen của người nước ngoài đều bị đấu tố công khai. Tóc của họ bị xén thành đủ kiểu kỳ quặc làm trò cười cho Hồng Vệ Binh. Mặt họ bị bôi nhem nhuốc bằng son; giày cao gót bị buộc vào nhau thắt quanh người họ; những mẩu vỡ đủ kiểu của hàng ngoại bị treo lủng lẳng vào quần áo của họ xiên xẹo trông kỳ dị. Hết lần này tới lần khác, những người phụ nữ đó phải thuật lại từng chi tiết việc họ đã có những sản phẩm ngoại quốc đó như thế nào. Tôi mới chỉ bảy tuổi khi lần đầu tiên chứng kiến những gì những phụ nữ đó phải trải qua: diễu hành qua các đường phố để bị chế nhạo; tôi nhớ lúc đó mình đã nghĩ nếu có kiếp sau thì mình không muốn sinh ra làm đàn bà nữa.

Nhiều người trong số họ trước đó đã cùng chồng trở về quê cha đất tổ để cống hiến cuộc đời mình cho cách mạng và sự nghiệp xây dựng đất nước Trung Hoa mới. Trở lại Trung Quốc, họ phải xoay sở để làm việc nhà bằng các thiết bị gia dụng sơ sài nhất, nhưng điều đó chẳng là gì so với việc phải triệt bỏ những thói quen và quan điểm thoải mái mà họ đã quen từ tấm bé ở nước ngoài. Mọi lời lẽ và hành động đều bị phán xét từ góc độ chính trị; họ phải chịu chung cảnh ngộ bị ngược đãi của chồng họ vì bị quy là gián điệp và thẩm thấu cách mạng rồi lại cách mạng vì sở hữu những vật dụng của phụ nữ có xuất xứ từ nước ngoài.

Tôi đã từng phỏng vấn nhiều phụ nữ phải trải qua những chuyện như vậy. Năm 1989, một người phụ nữ nông dân ở vùng núi kể với tôi rằng bà từng được vào học trong học viện âm nhạc. Mặt bà chằng chịt đường ngang đường dọc và bàn tay thô ráp chai sần; tôi không nhìn thấy một bằng chứng nào về khả năng âm nhạc ở bà. Chỉ khi bà nói với giọng âm vang đặc biệt chỉ có ở những ai từng được học các bài luyện thanh, tôi mới bắt đầu nghĩ có thể bà đã nói thật.

Bà đưa cho tôi xem những tấm ảnh chứng minh những nghi ngờ của tôi hoàn toàn vô căn cứ. Bà và gia đình đã từng có thời gian ở Mỹ; khi họ trở về Trung Quốc, bà mới chưa tròn mười tuổi. Bà đã có thể phát triển năng khiếu âm nhạc của mình ở một trường nhạc tại Bắc Kinh, ngay trước khi Cách Mạng Văn Hóa diễn ra. Mối liên hệ của cha mẹ bà với nước Mỹ đã khiến họ phải trả giá bằng tính mạng và phá hoại cuộc đời của con gái họ.

Mười chín tuổi, bà bị đưa tới vùng núi nghèo xơ xác và bị các cán bộ ở thôn gả cho một người nông dân. Kể từ đó bà sống ở nơi ấy, trong một vùng nghèo đến mức người trong thôn không thể mua nổi dầu ăn để nấu nướng.

Trước khi tôi đi bà hỏi tôi, “Lính Mỹ vẫn còn ở Việt Nam phải không?”

Cha tôi quen một người phụ nữ trở lại Trung Quốc sau nhiều năm ở Ấn Độ, khi bà đã năm mươi tuổi. Bà là giáo viên, vô cùng tốt bụng với các học sinh, bà thường dùng tiền tiết kiệm của mình để giúp học sinh gặp khó khăn về tài chính. Khi bắt đầu Cách Mạng Văn Hóa, không ai nghĩ bà sẽ bị ảnh hưởng, nhưng bà đã bị đấu tranhcải tạo hai năm vì cách ăn mặc của bà.

Người giáo viên đó ủng hộ quan điểm cho rằng phụ nữ phải mặc màu rực rỡ, và trang phục kiểu Mao Chủ Tịch chỉ thích hợp với đàn ông mà thôi, vì vậy bà thường mặc sari bên trong chiếc áo khoác theo qui định. Hồng Vệ Binh xem đó là sự bất trung với Tổ Quốc và chỉ trích bà là tôn thờ và có niềm tin mù quáng vào đồ ngoại quốc. Trong số những Hồng Vệ Binh đấu tranh với bà có những học sinh mà bà đã cho tiền trước đó. Họ xin lỗi vì hành vi của mình, nhưng nói, “Nếu chúng em không đấu tranh với cô, chúng em sẽ gặp rắc rối, và gia đình chúng em cũng sẽ bị liên lụy.”

Cô giáo đó không bao giờ mặc lại bộ sari yêu thích nữa, nhưng trước khi qua đời bà vẫn lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại: “Sari thật đẹp”.

Một giáo viên khác kể cho tôi nghe về những điều bà đã phải trải qua trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa. Một họ hàng xa của bà ở Indonesia gửi cho bà một thỏi son và một đôi giày cao gót nhãn hiệu của Anh qua một người trong đoàn đại biểu của chính phủ. Biết rằng những món quà từ nước ngoài có thể khiến họ bị nghi ngờ là gián điệp, bà vội vã ném chúng đi mà không kịp bọc lại. Bà không biết có một cô bé tầm mười một, mười hai tuổi đang chơi bên cạnh thùng rác, cô bé này đã báo lại tội của bà cho cán bộ chính quyền. Nhiều tháng trời, cô giáo đó bị dong khắp thị trấn trên thùng xe tải để đám đông đấu tố.

Khoảng giữa những năm 1966 và 1976, những năm đen tối của Cách Mạng Văn Hóa, có rất ít đặc điểm cả về kiểu cắt may lẫn màu sắc để phân biệt quần áo nam giới với nữ giới. Những đồ dùng dành riêng cho phụ nữ rất hiếm. Đồ trang điểm, quần áo đẹp và trang sức chỉ tồn tại trong những tác phẩm văn chương bị cấm. Nhưng bất kể những người Trung Quốc lúc đó có cách mạng thế nào đi chăng nữa thì không phải ai cũng cưỡng lại được bản tính. Một người có thể cách mạng ở mọi phương diện khác, nhưng bất cứ ai không kháng cự nổi trước ham muốn tình dục tư bản chủ nghĩa đều bị lôi lên sân khấu để bị đấu tố hoặc ra tòa; một số người tự kết liễu cuộc đời vì tuyệt vọng. Những người khác tự dựng mình lên thành mẫu mực về đạo đức nhưng lợi dụng những người đàn ông hay phụ nữ thuộc diện phải cải tạo, biến sự khuất phục tình dục của họ thành bài kiểm tra về lòng trung thành. Phần lớn những người sống qua thời kỳ đó phải chịu một đời sống tình dục cằn cỗi, hầu hết là phụ nữ. Trong giai đoạn sung sức nhất, chồng họ bị bắt giam hoặc gửi tới các trường huấn luyện cán bộ tới gần hai chục năm trời còn vợ thì phải chịu cảnh sống như góa bụa.

Ngày nay những tác hại của Cách Mạng Văn Hóa đối với xã hội Trung Quốc đang được đưa lên xét lại, trong đó sự tàn hại tới những bản năng giới tự nhiên cũng là một nhân tố được tính đến. Người Trung Quốc có câu: Mọi gia đình đều có một cuốn sách mà tốt nhất là không nên đọc to lên. Nhiều gia đình Trung Quốc không muốn đối mặt với những chuyện đã xảy đến với họ suốt thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa. Những chương sách đó thấm đẫm nước mắt và không thể mở ra được. Những thế hệ sau này hay người bên ngoài sẽ chỉ thấy phần đầu đề phai mờ. Khi người ta chứng kiến niềm vui của các gia đình hay bạn bè tái hợp sau nhiều năm ly tán, ít ai dám hỏi mình rằng những người ấy đã phải đương đầu với những ham muốn và nỗi đau của họ ra sao suốt ngần ấy năm.

Đó thường là những đứa trẻ, đặc biệt là con gái, những người phải chịu hậu quả của ham muốn tình dục bị cấm cản. Một cô gái lớn lên trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa bị vây quanh bởi sự ngu dốt, điên cuồng và trụy lạc. Trường học và gia đình không thể và cũng bị cấm trang bị cho chúng thậm chí những hiểu biết cơ bản nhất về giới tính. Chính nhiều bà mẹ và giáo viên cũng mù tịt về những vấn đề này. Khi cơ thể dậy thì, các cô bé trở thành con mồi của những vụ quấy rối tình dục hoặc cưỡng hiếp, những cô gái như Hồng Tuyết, trải nghiệm duy nhất về khoái cảm thân xác là từ một con ruồi; Hoa Nhi, bị cách mạng cưỡng bức; người phụ nữ trên máy trả lời điện thoại bị Đảng sắp xếp hôn nhân; hay Thạch Lâm, người không bao giờ biết được rằng mình đã lớn. Thủ phạm gây ra những chuyện đó là các giáo viên, bạn bè, thậm chí cha hay anh họ, những kẻ đã mất kiểm soát đối với phần con trong mình và hành xử theo một cách đồi bại và ích kỷ nhất mà một người đàn ông có thể làm. Hy vọng của những cô gái đó bị phá hủy, và khả năng được trải nghiệm những khoái cảm ái ân bị hủy diệt vĩnh viễn. Nếu chúng ta có thể lắng nghe những cơn ác mộng của họ, chúng ta có thể dành mười hay hai mươi năm lắng nghe những câu chuyện như vậy.

Giờ đã quá muộn để mang lại tuổi trẻ và hạnh phúc cho Hoa Nhi và những người phụ nữ đã phải trải qua Cách Mạng Văn Hóa khác. Họ kéo những bóng đen khủng khiếp của ký ức theo sau mình.

Tôi nhớ, một hôm trong văn phòng, Mạnh Tinh đã đọc to thư của một thính giả yêu cầu một bài hát đặc biệt và nói, “Tôi không hiểu nổi. Tại sao những người phụ nữ lớn tuổi này lại thích những bài hát cũ rích đó đến vậy? Tại sao họ không nhìn quanh mình xem thế giới ngày nay ra sao? Họ chuyển động quá chậm chạp so với thời đại.”

Lý Đại gõ bàn cái cộp một nhát rõ mạnh bằng bút chì và quở trách, “Quá chậm chạp ư? Cô nên nhớ rằng những người phụ nữ đó chưa từng có thời gian để tận hưởng tuổi trẻ của họ đâu!”

Bình luận