Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Lá Bài Thứ XII

Chương 20

Tác giả: Jeffery Deaver

Tám giờ sáng, Thompson Boyd lấy ô tô từ ga ra nằm trên con hẻm gần ngôi nhà gỗ ở Astoria mà hắn đã đậu ngày hôm qua sau khi chạy thoát khỏi căn hộ ẩn nấp trên phố Elizabeth. Hắn lái chiếc Buick màu xanh vào dòng xe cộ đông đúc, hướng về phía cầu Queensborough, một lần nữa về Manhattan và đi vào khu phố phía bắc.

Nhớ lại địa chỉ từ tin nhắn trong hộp thư thoại, hắn lái vào khu tây Harlem và đậu xe cách ngôi nhà của gia đình Settle hai dãy phố. Hắn mang theo khẩu súng ngắn 22 ly của quân đội Bắc Mỹ và chiếc dùi cui, cầm trong tay túi đựng đồ, mà giờ chẳng còn là quyển sách hướng dẫn trang trí nữa; ở bên trong là thiết bị mà hắn đã làm đêm hôm qua và hắn hết sức thận trọng với nó khi di chuyển chậm rãi trên vỉa hè. Hắn nhìn lên xuống con phố một vài lần, thấy mọi người có vẻ như đang đi t

i chỗ làm, cả những người da trắng và những người da đen với số lượng như nhau, rất nhiều trong số họ đang mặc trang phục công sở, trên đường đi làm, và những sinh viên thì hướng về phía trường Đại học Columbia – những chiếc xe đạp, ba lô, râu quai nón… Nhưng hắn không thấy gì có vẻ là một mối đe dọa cả.

Thompson Boyd dừng lại bên lề đường và nghiên cứu ngôi nhà cô bé sống.

Có một chiếc Crown Vic, đậu cách đó vài nhà – họ quả là thông minh khi không làm cho nó nổi bật. Quanh góc phố là chiếc xe cảnh sát thứ hai ở cạnh ống nước cứu hỏa. Thompson cho rằng hắn thấy một vài chuyển động trên mái nhà. Một tay bắn tỉa? Hắn tự hỏi. Có thể không, nhưng chắc chắn là có ai ở đó, không nghi ngờ gì ngoài một cảnh sát. Họ đang thực hiện vụ này với thái độ thận trọng thực sự.

Joe Trung bình quay đầu và đi bộ ngược lại chiếc xe “trung bình” của hắn, bước vào và nổ máy. Hắn sẽ phải kiên nhẫn. Quá liều lĩnh để cố gắng tấn công ở đây; hắn phải chờ đợi cơ hội thực sự. Bài hát Cat’s in the Cradle của Harry Chapin vang lên trên đài. Hắn tắt đi nhưng lại tiếp tục huýt sáo giai điệu ấy, không mất một nốt nhạc, không đứt một quãng nào.

Bà cô của cô bé đã tìm ra thứ

Trong ngôi nhà của Geneva, Roland Bell nhận được cuộc gọi từ Lincoln Rhyme, báo rằng người cô của cha Geneva, tên là Lilly Hall, đã tìm ra một vài chiếc hộp đựng những bức thư cũ, những kỷ vật và các đồ vật làm bằng tay trong nhà kho. Bà ấy không biết liệu chúng có thể có ích hay không – đôi mắt của bà không có tia hy vọng nào cả – nhưng những chiếc hộp các tông nhồi nhét đầy giấy. Liệu Geneva và cảnh sát có muốn xem qua không?

Rhyme muốn được xem mọi thứ nhưng bà ấy nói không và chỉ đưa riêng nó cho cô cháu gái của mình mà thôi. Bà ta không tin một ai cả.

“Kể cả cảnh sát?”, Bell hỏi Rhyme và anh trả lời: “Đặc biệt là cảnh sát”.

Amelia Sachs xen vào cuộc hội thoại giữa họ để đưa ra điều mà Bell nhận ra chính là lời giải thích thực sự: “Tôi cho rằng bà ấy muốn nhìn thấy cháu gái mình”.

“À. Vâng. Tôi hiểu rồi.”

Không có gì ngạc nhiên rằng Geneva còn cảm thấy hơn cả hào hứng. Thực tế, Roland Bell thích được hộ tống những người lo lắng hơn, những người không muốn đặt chân lên vỉa hè bê tông của thành phố New York, những người thích ôm lấy trò chơi điện tử máy tính và những quyển sách dày cộp. Nhét họ vào trong một căn phòng tách biệt khép kín, không cửa sổ, không khách khứa, không có đường vào từ mái nhà và gọi đồ ăn Trung Quốc hay pizza hằng ngày.

Nhưng Geneva Settle không giống với bất cứ ai mà anh từng bảo vệ.

Ông Goades, làm ơn… Tôi là nhân chứng một vụ án và tôi đang bị giữ bởi cảnh sát. Nó ngược lại với ý muốn của tôi và tôi…

Viên thanh tra sắp xếp hai chiếc ô tô. Sẽ có Bell, Geneva và Pulaski trên chiếc Crown Vic của anh. Luis Martinez và Barbe Lynch sẽ lên chiếc Chevy của họ. Một cảnh sát mặc sắc phục sẽ đậu chiếc xe cảnh sát gần ngôi nhà của Geneva khi họ đi khỏi.

Khi chờ chiếc xe cảnh sát thứ hai xuất hiện, Bell hỏi xem có lời nào từ bố mẹ cô bé nữa không. Cô nói rằng lúc này họ đang ở Heathrow, chờ chuyến bay tiếp theo.

Bell, cha của hai cậu nhóc, có định kiến với những người làm cha làm mẹ mà lại để con gái của mình ở với người bác trong khi họ tung tăng ở châu Âu. (Đặc biệt là người bác này. Không đưa tiền ăn trưa cho cô bé? Quả là một việc không dễ dàng chút nào). Dù Bell chỉ là một người cha đơn thân với một công việc đòi hỏi rất nhiều thứ, anh vẫn làm bữa sáng cho các con hằng ngày, gói ghém đồ ăn trưa và làm bữa tối hầu hết các ngày, tuy nhiên những bữa ăn có thể chỉ là qua quýt và cứng nhắc. Ăn kiêng theo kiểu Atkins[1] không phải là từ có trong từển ẩm thực của Roland Bell.

[1] Chế độ ăn kiêng do bác sĩ R. Atkins của Mỹ đưa ra.

Nhưng công việc của anh lúc này là bảo vệ tính mạng của Geneva, chứ không phải là bàn luận về những người cha mẹ không có nhiều kỹ năng chăm sóc con cái. Giờ anh gác những suy nghĩ về vấn đề cá nhân sang một bên và bước ra ngoài, tay đặt gần khẩu Berreta, nhìn quanh một lượt mặt trước các ngôi nhà, những chiếc cửa sổ, mái của các tòa nhà xung quanh và ô tô, tìm kiếm bất cứ thứ gì bất thường.

Chiếc xe cảnh sát tăng cường dừng lại và đỗ bên ngoài, trong khi Martinez và Lynch bước vào trong chiếc Chevrolet, quanh góc phố từ ngôi nhà của Geneva.

Bell nói vào chiếc điện đàm của mình: “An toàn. Đưa cô bé ra ngoài”.

Pulaski xuất hiện, áp Geneva vào trong chiếc Crown Victoria. Anh nhảy vào ngồi xuống bên cạnh cô và Bell thì ngồi xuống ghế lái. Đi thành hàng, hai chiếc xe nhanh chóng tăng tốc qua khu phố và cuối cùng đến một tòa nhà chung cư cũ nát phía đông Đại lộ 5, một khu vực ở Harlem có nhiều người đến từ quốc gia nói tiếng Tây Ban Nha.

Phần lớn khu vực này là những người Puerto Rico và người Dominica, nhưng các chủng tộc Latin khác cũng sống ở đây, những người đến từ Haiti, Bolivia, Ecuador, Jamaica, Trung Mỹ – cả da trắng và da đen. Cũng có cả những nhóm người nhập cư mới, hợp pháp và bất hợp pháp, từ Senegal, Liberia và các quốc gia Trung Phi. Hầu hết những vụ án bị lên án mạnh mẽ ở đây không phải là giữa những người da trắng và người Hispanic[2] hay những người da đen, đó là cuộc chiến giữa người sinh ra và lớn lên ở Mỹ với những người nhập cư của bất cứ một chủng tộc và quốc tịch nào. Thế giới vẫn thế. Bell suy tư một cách ưu phiền.

[2] Hispanics: những người đến từ các quốc gia nói tiếng Tây Ban Nha.

Viên thanh tra đỗ chiếc xe vào vị trí mà Geneva chỉ rồi đợi đến khi những sĩ quan khác bước ra khỏi chiếc xe cảnh sát phía sau và kiểm tra khu phố. Ngón tay cái giơ lên từ phía Luis Martinez và họ cùng nhau nhanh chóng áp Geneva đi vào trong.

Tòa nhà đã cũ kỹ và xập xệ, hành lang có mùi bia và thức ăn đã bốc mùi lên men. Geneva có vẻ ngượng ngùng với tình trạng của nơi này. Giống như lúc ở trường, cô một lần nữa gợi ý viên thanh tra đợi ở ngoài, nhưng cô vẫn do dự, như thể mong đợi câu trả lời của anh là: “Tốt hơn hết là ta sẽ đi cùng cháu”.

Ở tầng hai, cô gõ cửa và tiếng một người già vang lên: “Ai thế?”

“Geneva. Cháu đến gặp bà Lilly ạ”

Tiếng hai sợi xích lách cách và hai cái chốt được mở ra. Cánh cửa hé mở. Một người phụ nữ nhỏ trong bộ đồ bạc màu nhìn Bell một cách thận trọng.

“Chào buổi sáng, thưa bà Watkins”, cô bé nói.

“Chào, cháu yêu. Bà ấy ở trong phòng khách đấy.” Một cái nhìn dò xét vào viên thanh tra.

“Đó là bạn cháu.”

“Ông ta là bạn cháu ư?”

“Vâng, đúng thế ạ.” Geneva nói với bà.

Khuôn mặt của người phụ nữ cho thấy bà không muốn ủng hộ cô bé dành thời gian đi với một người đàn ông gấp ba lần tuổi của mình, ngay cả khi anh ta là một cảnh sát.

“Roland Bell, thưa bà.” Anh đưa bà ta xem ID của mình.

“Lilly nói rằng có điều gì đó với cảnh sát”, bà nói một cách không thoải mái lắm. Bell tiếp tục mỉm cười và không nói gì hơn. Người phụ nữ nhắc lại: “Ừm, bà ấy ở trong phòng khách”.

Bà cô của Geneva, một người phụ nữ già yếu trong chiếc váy màu hồng, đang nhìn chằm chằm vào màn hình ti vi qua chiếc kính dày cộm to đùng. Bà nhìn cô bé và khuôn mặt bà nở một nụ cười. “Geneva, cháu yêu. Cháu sao rồi? Và đây là ai vậy?”

“Roland Bell, thưa bà. Rất vui được gặp bà.”

“Tôi là Lilly Hall. Anh chính là người quan tâm tới Charles?”

“Đúng thế ạ.”

“Ước gì tôi có thể biết nhiều hơn. Tôi đã nói với Geneva mọi điều mình biết về ông ấy. Có trang trại cho riêng mình, rồi lại bị bắt. Đó là tất cả những gì mà tôi nghe nói. Thậm chí còn không biết được rằng ông ấy đã vào tù hay không?”

“Có vẻ như ông ấy đã phải vào tù, thưa bà. Chúng tôi không biết điều gì xảy ra sau đó. Đó chính là điều mà chúng tôi muốn tìm ra.”

Trên tấm giấy dán tường hình hoa đã ố màu phía sau bà là ba tấm ảnh: Martin Luther King, Jr., John F. Kenedy và bức ảnh nổi tiếng về Jackie Kenedy trong nỗi đau với John John và Caroline ngay bên cạnh cô.

“Những cái hộp ở ngay đây.” Người phụ nữ hất đầu về phía ba chiếc thùng các tông lớn đựng đầy giấy, những quyển sách bụi bặm và những đồ vật bằng gỗ và nhựa. Những chiếc hộp nằm cạnh chiếc bàn cà phê với một chân đã bị gãy và được dán lại bằng băng dính. Geneva cúi xuống nhìn vào chiếc hộp lớn nhất.

Lilly quan sát cô bé. Sau một lúc bà nói: “Đôi khi ta cảm thấy ông ấy”.

“Bà…?” Bell hỏi.

“Người họ hàng của nhà ta, Charles. Ta cảm thấy ông ấy. Như kiểu những chuyện kỳ lạ về ma quỷ khác vậy.”

Haint[3]… Bell biết từ này xuất phát từ Bắc Carolina. Một thuật ngữ cũ của người da đen ám chỉ hồn ma.

[3] Những chuyện kỳ lạ về ma quỷ.

“Ông ấy không yên nghỉ, đó là những gì ta cảm thấy”, người phụ nữ nói.

“Cháu không biết điều đó”, Geneva nói với một nụ cười.

Không, Bell nghĩ, Geneva khó mà giống với kiểu người tin vào ma quỷ hay bất cứ gì siêu nhiên. Dù vậy, viên thanh tra vẫn không chắc chắn lắm. Anh nói: “Chà, có thể những gì chúng ta đang làm ở đây sẽ giúp ông ấy được bình yên đôi chút”.

“Cháu biết đấy”, người phụ nữ nói, gẩy chiếc kính trên mũi. “Cháu là người quan tâm tới Charles, có vài người họ hàng nữa ở khắp đất nước. Cháu có nhớ người anh họ của cha cháu ở Madison? Và vợ anh ta, Ruby? Ta có thể gọi và hỏi. Hoặc là Genna Louise ở Memphis. Hoặc là ta sẽ gọi lúc nào đó, chi bởi vì ta không có điện thoại riêng.” Liếc nhìn vào chiếc điện thoại hiệu Princess cũ kỹ nằm trên chiếc bàn ti vi gần bếp, vẻ mặt buồn bã của bà cho thấy những cuộc tranh cãi với người phụ nữ mà bà đang sống cùng. Bà thêm vào: “Và cả thẻ điện thoại, chúng thật tốn tiền.”

“Chúng cháu sẽ gọi, bà ạ.”

“Ồ, ta không ngại gọi và nói chuyện với họ. Đã lâu rồi. Ta nhớ những khi gia đình quây quần đông đủ.”

Bell lục túi quần. “Thưa bà, bởi vì đây là công việc mà Geneva và tôi đang cùng nhau làm, để tôi được mua cho bà một chiếc thẻ điện thoại.”

“Không.” Geneva thốt lên. “Cháu sẽ làm điều đó.”

“Cháu không…”

“Cháu có”, cô bé nói một cách quả quyết và Bell cất tiền đi. Cô bé đưa cho bà ấy tờ hai mươi đô.

Người phụ nữ nhìn tờ tiền đầy trân trọng và nói: ‘Ta sẽ mua thẻ và gọi điện trong hôm nay”.

Geneva nói: “Nếu bà tìm ra điều gì đó, hãy gọi lại cho chúng cháu theo số mà bà đã trước đó”.

“Tại sao cả cảnh sát cũng quan tâm tới Charles? Một người hẳn là đã chết cách đây ít nhất là hơn một trăm năm rồi.”

Geneva nhìn vào Bell và lắc đầu; người phụ nữ không biết rằng Geneva đang bị nguy hiểm và cô bé muốn giữ bí mật theo cách đó. Qua cặp mắt kính dày cộp, bà ấy không nhìn thấy được ánh mắt họ ra hiệu với nhau. Geneva nói: “Họ đang giúp cháu chứng minh ông ấy không hề phạm tội”.

“Họ đang làm thế sao? Sau tất cả ngần ấy năm?”

Bell không chắc rằng người phụ nữ hoàn toàn tin lời cô cháu gái của mình. Bà dì của chính người thanh tra, cũng tầm tuổi người phụ nữ này, vẫn sắc sảo như một cây kim. Không có gì qua mặt được bà.

Nhưng Lilly nói: “Các ông thật là tốt. Bella, hãy pha cho họ một ít cà phê. Và ca cao cho Geneva. Ta nhớ rằng đó là thứ con bé thích”.

Khi Roland Bell cẩn thận nhìn ra bên ngoài qua khoảng trống giữa những tấm rèm được thả, Geneva lại tiếp tục nhìn vào đống hộp đựng đồ.

Trên một con phố của Harlem.

Hai cậu bé đang cố gắng ganh đua bằng cách trượt ván xuống từ lan can của một căn nhà đá màu nâu, tán gẫu về những quy luật vật lý và cả sự trốn học.

Một người phụ nữ da đen đứng ở cổng vòm, đang tưới khóm cây phong lữ rất đẹp mà mùa giá rét vừa rồi đã không giết chết được nó.

Một chú sóc thì đang chôn, hay đang đào lên, cái gì đó ở mảng đất lớn nhất gần đó: có hình chữ nhật cạnh khoảng mét hai và mét rưỡi phù đầy cỏ vàng, ở giữa là khung một chiếc máy giặt.

Và ở phía đông phố 123, gần nhà thờ Iglesia Adventista, với đường lên cao vút của chiếc cầu Triborough ở phía sau làm nền, ba sĩ quan cảnh sát xem xét một cách tỉ mỉ ngôi nhà đá nâu tồi tàn và các khu phố xung quanh. Hai người – một nam và một nữ – mặc quần áo bình thường; người cảnh sát còn lại ở trong hẻm thì mặc cảnh phục. Anh ta đi lên đi xuống con hẻm như một tên lính mới đang đứng gác.

Thompson Boyd quan sát, hắn đã bám theo Geneva Settle và những người bảo vệ cô tới đây, giờ đang đứng ở một tòa nhà bỏ hoang bên kia con phố, chếch sang hướng tây vài căn nhà. Hắn quan sát chăm chú qua những vết nứt ở các tấm quảng cáo về cho vay tiền cầm cố nhà.

Hắn tò mò vì họ lại đưa cô bé ra ngoài. Không giống như sách vở. Nhưng đó là vấn đề của họ.

Thompson bắt đầu tính toán các bước: Hắn giả dụ đây sẽ là một chuyến đi ngắn gọn – một cú tấn công chớp nhoáng, có thể nói là thế, với chiếc Crown Victoria và chiếc xe khác đậu song song, họ chẳng làm gì để che giấu danh tính những chiếc xe này cả. Hắn quyết định phải hành động thật nhanh để chiếm lợi thế. Nhanh chóng ra khỏi tòa nhà đổ nát bằng lối cửa sau, Thompson đi một vòng quanh dãy phố, chỉ dừng lại đủ lâu để mua một gói thuốc lá ở một cửa hàng rượu. Khẽ lẻn vào căn hẻm phía sau tòa nhà nơi Geneva đang ở, Thompson nhìn ra ngoài. Hắn cẩn thận đặt chiếc túi xuống đường và tiến về trước một vài mét. Nấp đằng sau một đống túi đựng rác, hắn quan sát viên cảnh sát tóc vàng đang tuần tra con hẻm. Tên sát thủ bắt đầu đếm số bước chân của chàng trai trẻ. Một, hai…

Ở bước mười ba viên cảnh sát tới phía sau lưng tòa nhà và quay lại. Nhiệm vụ của anh ta là phải canh chừng một khu vực lớn; hẳn anh ta đã được giao nhiệm vụ là phải quan sát toàn bộ con hẻm, cả trước và sau, đồng thời để mắt tới những cánh cửa sổ trong tòa nhà đối diện nữa.

Ở bước mười hai, anh ta lại tới vỉa hè phía trước tòa nhà và bắt đầu bước ngược lại. Một, hai, ba…

Lại mười hai bước để tới phía sau tòa nhà. Chàng cảnh sát nhìn quanh rồi tiếp tục bước quay lại về phía trước, bước mười ba bước.

Lần sau lại là mười một bước, rồi mười hai.

Không chính xác như một chiếc đồng hồ, nhưng vẫn khá đều. Thompson Boyd vẫn có ít nhất mười một bước chân để lẻn tới phía sau tòa nhà mà không bị phát hiện, trong khi cậu lính trẻ vẫn đang quay lưng lại. Rồi sau đó hắn lại có ít nhất mười một bước để đợi tới lúc cậu ta quay trở lại phía sau tòa nhà. Hắn kéo chiếc mũ trùm qua đầu.

Chàng sĩ quan trẻ lúc này quay lại và hướng về phía con phố một lần nữa.

Trong một khắc, Thompson lao ra khỏi chỗ nấp và nhanh chóng trườn vào phía sau của tòa nhà, nhẩm… ba, bốn, năm, sáu…

Di chuyển không tiếng động với đôi giày hiệu Bass, Thompson giữ ánh mắt trên lưng cậu cảnh sát. Cậu ấy không hề quay lại nhìn. Hắn tiếp cận bức tường ở bước thứ tám, đứng dựa vào tường, lấy lại hơi thở; hắn quay về phía con hẻm nơi mà chàng cảnh sát trẻ sẽ nhanh chóng xuất hiện.

Mười một. Chàng cảnh sát chắc hẳn là mới đến phía con phố bên kia và bắt đầu quay lại. Một, hai, ba…

Thompson Boyd, nén hơi thở thật chậm.

Sáu, bảy…

Thompson Boyd, nắm thật chặt cây dùi cui bằng cả hai tay.

Chín, mười, mười một…

Tiếng chân bước lạo xạo trên con đường đá cuội lởm chởm.

Thompson bước thật nhanh ra khỏi con hẻm, vung cây dùi cui giống như một tay đập bóng chày, chớp nhoáng như cú tấn công của một con rắn đuôi chuông. Hắn thấy một vẻ bàng hoàng thuần khiết trên khuôn mặt cậu trai trẻ. Hắn nghe thấy tiếng gió rít của cây gậy và tiếng thở hắt ra của chàng cảnh sát, mà tất cả cùng dừng lại khoảnh khắc cây gậy đập vào trán cậu ta. Chàng trai khuỵu xuống, tiếng nói ứ nghẹn ríu trong cổ họng. Tên sát thủ đánh vào đỉnh đầu cậu ta.

Chàng cảnh sát đổ sập úp mặt xuống nền đất bẩn thỉu. Thompson kéo chàng trai trẻ đang rung lên bần bật, vẫn còn ý thức một chút, vòng qua lưng tòa nhà, nơi không thể bị phát hiện từ phía con phố.

Nghe thấy tiếng súng nổ, Roland Bell nhảy dựng về phía cửa sổ căn hộ, nhìn ra ngoài một cách thận trọng. Anh mở khuy áo ngoài và chộp lấy điện đàm.

Anh lờ đi người bạn của bà Lilly đang mở to mắt, nói: “Lạy Chúa, có chuyện gì đang xảy ra vậy?”.

Bà Lilly im lặng nhìn chằm chằm vào khẩu súng to đùng ở bên hông người cảnh sát.

“Bell đây”, anh nói vào điện đàm. “Có vấn đề gì vậy?”

Luis Martinez trả lời với hơi thở đứt quãng: “Súng nổ. Từ phía sau tòa nhà, thưa sếp. Pulaski ở đó. Barbe đã đi xem sao rồi”.

“Pulaski”, Bell gọi vào điện đàm. “Nghe rõ trả lời.”

Không có gì hết.

“Pulaski!”

“Như vậy là sao?” Lilly nói, khiếp sợ. “Lạy Chúa.”

Bell giơ một ngón tay lên. Nói vào điện đàm: “Các vị trí, báo cáo”.

“Tôi vẫn đang ở cổng vòm phía trước”, Martinez trả lời. “Không có tin gì từ Barbe.”

“Di chuyển nhanh chóng xuống giữa khu vực hành lang tầng trệt, quan sát kỹ cửa sau. Đó là lối tôi sẽ đi vào, ý tôi là nếu mình là hắn. Nhưng bảo đảm cả hai lối vào.”

“Rõ.”

Bell quay sang Geneva và hai người phụ nữ già. “Chúng ta phải đi, ngay.”

“Nhưng…”

“Ngay, thưa quý cô. Ta sẽ vác cháu nếu như phải làm thế nhưng như vậy sẽ khiến chúng ta nguy hiểm hơn.”

Barbe Lynch cuối cùng đã báo cáo. “Pulaski gục rồi.” Cô gọi 10-13, yêu cầu chi viện và nhân viên y tế.

“Cửa sau vẫn còn nguyên chứ?”, anh hỏi.

Lynch đáp lại: “Các cửa vẫn đóng và khóa. Đó là tất cả những gì tôi biết”.

“Giữ nguyên vị trí, quan sát kỹ khu vực hẻm phía sau. Tôi sẽ đưa cô bé ra ngoài.”

“Chúng ta đi thôi”, anh nói với cô bé.

Sự bướng binh đã bớt nhưng cô nói: “Cháu không bỏ họ lại được”. Hướng về phía hai người phụ nữ già.

“Anh nói cho tôi ngay chuyện này là thế nào”, người bà cô của cô bé nói, nhìn Bell đầy giận dữ.

“Đó là vấn đề của cảnh sát. Có kẻ nào đó đang cố tấn công Geneva. Tôi muốn các bà rời khỏi đây. Có người bạn nào của hai người ở đây mà hai người có thể trú tạm một thời gian không?”

“Nhưng…”

“Liệu có nhất thiết phải khăng khăng ở lại không, thưa các quý bà. Có cần thế không? Nói với tôi nhanh lên.”

Họ nhìn nhau với đôi mắt hoảng sợ và gật đầu. “Bà Marie, tôi cho là”, Lilly nói. “Lên nhà trên thôi.”

Bell bước về cửa ra vào và nhìn ra ngoài. Hành lang vắng lặng ập vào mắt anh.

“Được rồi, giờ thì đi thôi.”

Những người phụ nữ già nhanh chóng đi xuống hành lang. Bell thấy họ gõ cửa. Nó mở ra và những tiếng nói trong đó tắt đi, rồi khuôn mặt một người phụ nữ da đen nhìn ra bên ngoài. Những người phụ nữ biến mất vào trong, cánh cửa đóng lại và theo đó là tiếng sợi xích và tiếng khóa. Viên thanh tra và cô bé vội vàng lao xuống cầu thang, Bell dừng lại ở tất cả các chiếu nghỉ để bảo đảm tầng bên dưới an toàn, khẩu súng tự động màu đen to đùng nằm trong tay.

Geneva chẳng nói gì cả. Cô nghiến chặt hàm, nỗi tức giận lại bùng nổ một lần nữa.

Họ dừng lại ở hành lang. Viên thanh tra chỉ Geneva núp mặt vào những góc tối phía sau anh. Anh hét lớn: “Luis?”.

“Tầng này an toàn, thưa sếp, ít nhất là tới lúc này”, viên cảnh sát nói với giọng thì thầm chắc nịch từ cách đó nửa đường đi tới cái hành lang dẫn ra cửa sau.

Tiếng Barbe bình tĩnh nói: “Pulaski vẫn sống. Tôi tìm thấy cậu ấy đang nắm chặt khẩu súng – cậu ta đã nổ một phát súng. Đó là tiếng mà chúng ta nghe thấy. Không có dấu hiệu nào cho thấy cậu ta đã bắn trúng cái gì”

“Cậu ấy nói gì không?”

“Cậu ta bất tỉnh rồi.”

Vậy có lẽ hắn ta đã chuồn mất rồi, Bell nghĩ.

Hoặc là hắn dự định làm một điều gì đó khác. Liệu có an toàn hơn không khi ở đây đợi viện trợ? Đó thực sự là một câu hỏi cần phải cân nhắc kỹ về logic. Dù vậy, vấn đề thực tế là, liệu đó có phải là câu trả lời đúng đắn cho câu hỏi của cái điều mà Nghi phạm 109 có trong đầu hay không?

Bell quyết định.

“Luis, tôi sẽ đưa cô bé ra khỏi đây. Giờ. Cần sự hỗ trợ của anh.”

“Sẵn sàng, thưa sếp.”

Thompson Boyd một lần nữa đứng trong tòa nhà cháy dở phía bên kia con phố của tòa chung cư mà Geneva Settle và những cảnh sát ở đó.

Cho đến lúc này, kế hoạch của hắn đã có tác dụng.

Sau khi hạ gục chàng cảnh sát trẻ, hắn đã rút một viên đạn từ khẩu Glock của anh ta. Rồi buộc nó bằng dây cao su vào một điếu thuốc đang cháy dở – để làm kíp nổ – và đặt cái thiết bị kích nổ tự tạo này ở trong con hẻm. Và hắn nhét khẩu súng vào tay chàng cảnh sát đã bất tỉnh.

Hắn cởi mặt nạ, chạy sang một con hẻm khác, ở phía đông của tòa nhà, bước vào phố. Khi điếu thuốc cháy xuống và kích nổ viên đạn thì hai cảnh sát trong thường phục biến mất, hắn chạy tới chiếc Crown Victoria. Hắn có một thanh sắt nhỏ mảnh để cậy cánh cửa nhưng không cần đến nó; chiếc xe không bị khóa. Từ chiếc túi đựng đồ, hắn lấy ra vài thứ đã chuẩn bị sẵn từ đêm hôm trước, rồi ráp lại và giấu chúng bên dưới ghế lái và cẩn thận đóng cửa.

Thiết bị tự chế này khá đơn giản: một lọ acid sunfuric thấp và rộng, nằm trong đó là một cái đế nến thấp bằng kính. Và ở trên đó là một bọc bằng lá kim loại vo tròn chứa vài thìa đầy bột cyanide[4] nghiền nhuyễn. Bất cứ chuyển động nào của chiếc xe đều có thể khiến nó lăn xuống lọ acid, mà có thể làm tan cả lớpỏ và hòa tan chất độc. Cái chất khí chết người ấy sẽ nhanh chóng lan ra và đánh ngất những người trên xe trước khi họ kịp mở cửa hay cửa sổ. Họ sẽ chết – hoặc là chết não – nhanh chóng sau đó thôi.

[4] Một loại chất cực độc.

Hắn nhìn lén qua khe nứt ở giữa tấm biển quảng cáo và những gì còn lại ở bức tường phía trước tòa nhà. Ở cổng vòm là viên thanh tra tóc màu nâu có vẻ như là người chịu trách nhiệm nhóm bảo vệ. Bên cạnh anh ta là một nam cảnh sát mặc thường phục và ở giữa họ là cô bé.

Cả ba người dừng lại ở cổng khi viên thanh tra quan sát khu phố, những nóc nhà, ô tô, và các con hẻm.

Khẩu súng nằm trong bàn tay phải. Chìa khóa xe ở bên tay trái. Họ đang chuẩn bị chạy vào trong chiếc xe tử thần ấy.

Hoàn hảo.

Thompson Boyd quay đi và rời khỏi tòa nhà một cách nhanh chóng. Hắn cần phải tạo khoảng cách vừa đủ với khu vực này. Những cảnh sát khác hẳn đã trên đường tới đây, tiếng còi xe cảnh sát hú inh ỏi ngày một to lên. Khi trượt ra khỏi phía sau của tòa nhà, hắn nghe thấy tiếng nổ máy chiếc xe của viên thanh tra. Sau đó là tiếng bánh xe rít lên.

Thở thật sâu, hắn nghĩ tới những người ngồi trên xe. Hắn nghĩ thế bởi hai lý do: Đầu tiên, tất nhiên là, hắn muốn cái nhiệm vụ khó nhằn này kết thúc. Nhưng đồng thời hắn cũng gửi thông điệp tới họ vì một lý do khác: Chết bởi chất độc cyanide có thể cực kỳ khủng khiếp. Cầu cho họ chết nhanh chóng và không đau đớn là những gì mà một người với những cảm xúc sẽ nghĩ, một người không hề vô cảm chút nào.

Nho, sơri, sữa…

Thở thật sâu.

Cảm nhận tiếng động cơ ầm ầm – nó làm tay, chân và lưng cô rung lên – Amelia Sachs đang lao thật nhanh tới khu Spanish Harlem[5]. Cô đã đạt mức sáu mươi dặm một giờ trước khi vào số ba.

[5] Còn có tên gọi khác E1 barrio, East Harlem, nơi có cộng đồng người Mỹ Latin tập trung đông ở thành phố New York.

Cô ở với Rhyme khi họ nhận được tin báo: Pulaski bị hạ, kẻ giết người đã lên kế hoạch đặt một loại thiết bị vào xe của Roland Bell. Cô đã phi xuống tầng, nổ máy chiếc Camaro 1969 màu đỏ và chạy tới hiện trường vụ tấn công ở phía đông Harlem.

Lao vun vút qua những đèn xanh và giảm tốc xuống khoảng ba mươi dặm một giờ ở các đèn đỏ – quan sát bên trái, bên phải, lùi số và nhấn ga

Mười phút sau cô đã dừng ở phố 123, đi ngược lại dòng xe cộ, để hụt một chiếc xe tải có vài centimet. Nhìn phía trước, cô có thể thấy những ánh đèn chớp nhoáng của chiếc xe cứu thương và ba chiếc xe cảnh sát từ sở cảnh sát địa phương. Đồng thời cũng thấy: hàng tá cảnh sát và một vài thành viên đội ESU, đang làm công việc của mình dọc các vỉa hè. Họ di chuyển một cách thận trọng, như thể là những người lính đang ở giữa chiến trường.

Để ý sau lưng mình…

Cô phanh kít chiếc Chevy đột ngột khiến lốp xe bốc khói trên nền đường và nhảy ra ngoài, nhìn chằm chằm vào những con hẻm xung quanh cùng những cửa sổ trống rỗng để tìm bất cứ một dấu hiệu nào của hung thủ và khẩu súng bắn kim của hắn. Đi thật nhanh vào trong con hẻm, giơ huy hiệu của mình ra, cô đã thấy các nhân viên y tế ở xung quanh Pulaski. Cậu ta đang nằm ngửa và họ đã lau rửa sạch đường hô hấp – ít nhất là cậu ta vẫn còn sống. Nhưng có rất nhiều máu và mặt cậu ta sưng lên khá to. Cô đã hy vọng rằng cậu ta có thể nói với họ điều gì đó nhưng cậu ta đang trong tình trạng hôn mê.

Có vẻ như cậu lính trẻ đã bị giật mình bởi sự xuất hiện của kẻ tấn công, hắn đã nằm phục chờ đợi cậu bước xuống con hẻm. Cậu ta đã đứng quá gần với bên hông của tòa nhà. Hẳn là không có cảnh báo nào khi hắn tấn công. Chúng ta thường đi ở giữa vỉa hè và các con hẻm để không ai có thể nhảy ra và làm ta giật mình.

Cậu ta đã không biết…

Cô tự hỏi liệu cậu ta có thể sống để học bài học này không.

“Cậu ta thế nào rồi?”

Nhân viên y tế không nhìn lên. “Không đoán trước được. May mắn là cậu ta vẫn còn sống.” Rồi nói với đồng nghiệp của mình. “Được rồi. Đưa anh ta ra ngoài thôi. Ngay bây giờ.”

Khi họ đặt Pulaski lên chiếc cáng chuyên dụng và nhanh chóng đưa anh ta tới chiếc xe cứu thương, Sachs giải tán mọi người ra khỏi hiện trường để bảo vệ bất cứ bằng chứng nào có thể còn ở đó. Rồi cô quay lại căn hẻm và mặc bộ Tyvek màu trắng của mình vào.

Ngay khi cô kéo khóa chiếc áo lên, một trung sĩ cảnh sát khu vực bước tới phía cô. “Cô là Sachs phải không?”

Cô gật đầu. “Có dấu hiệu nào của hung thủ không?”

“Chẳng có gì cả. Cô sẽ khám nghiệm hiện trường hả?”

“Đúng vậy.”

“Cô có muốn xem qua chiếc xe của thanh tra Bell không?”

“Chắc chắn rồi.”

Cô bước về phía trước.

“Đợi đã”, người đàn ông nói. Anh ta đưa cho cô một chiếc mặt nạ.

“Nó tồi tệ thế sao?”

“Anh ta kéo chiếc mặt nạ của mình vào. Qua lớp cao su dày, cô nghe thấy tiếng nói nghiêm trọng của anh ta: “Đi theo tôi”.

Bình luận
× sticky