Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Lá Bài Thứ XII

Chương 28

Tác giả: Jeffery Deaver

Khi Amelia Sachs bước vào Khoa chăm sóc đặc biệt của bệnh viện Columbia – Presbyterian, cô nhìn thấy những hai Pulaski.

Một đang nằm trên giường, được băng kín bởi những chiếc bông băng, gạc và nhét chằng chịt những ống nhựa trong suốt nhìn nổi da gà. Đôi mắt vẫn còn lờ đờ, miệng thì há ra.

Người còn lại ngồi bên cạnh giường, lúng túng trên chiếc ghế nhựa không được thoải mái lắm. Cũng với mái tóc vàng, khuôn mặt trẻ măng, trong cùng bộ quân phục phẳng phiu màu xanh da trời của NYPD mà Ron Pulaski vẫn mặc khi Sachs tuyển anh ta vào đội ở trước bảo tàng Mỹ – Phi ngày hôm qua và nói với anh cần chú ý tới cái đống r

Cần bao nhiêu đường?…

Cô chớp mắt nhìn vào hình ảnh như trong gương.

“Tôi là Tony. Anh trai của Ron. Chắc là cô cũng đã đoán ra rồi?”

“Chào, Thanh tra”. Ron gượng dậy. Giọng của anh không ổn lắm. Nó mềm yếu và thều thào.

“Cậu cảm thấy thế nào rồi?”

“Geneva thế nào rồi?”

“Con bé ổn. Tôi chắc chắn là cậu đã nghe nói rồi – chúng tôi đã ngăn hắn ở nhà bà cô của cô bé nhưng hắn đã trốn thoát… Cậu có đau không? Hẳn là phải đau lắm.”

Anh hất đầu về phía chai nước truyền. “Món súp hạnh phúc… Chẳng cảm thấy gì hết.”

“Cậu ấy sẽ ổn thôi.”

“Tôi sẽ ổn thôi.” Ron lặp lại lời anh trai mình. Hít một vài hơi thật sâu, nháy nháy mắt.

“Một tháng hoặc hơn”, Tony giải thích. “Một vài liệu trình. Cậu ấy sẽ trở lại làm nhiệm vụ. Một vài vết rạn. Không có nhiều tổn thương bên trong. Sọ dầy. Như bố vẫn hay nói.”

“Sọ.” Ron cười nhăn nhở.

“Hai người cùng học trong học viện với nhau?” Cô kéo một cái ghế và ngồi xuống.

“Đúng vậy.”

“Các cậu ở khu nào?”

“Khu số 6”, Tony trả lời.

Khu số 6 nằm ở trung tâm phía tây Làng Greenwich. Không có nhiều vụ lộn xộn hay cướp xe hoặc ma túy. Hầu hết là đột nhập trộm cướp, bạo lực giữa các cặp đồng giới và những sự vụ do những nhà văn và nghệ sĩ bị rối loạn cảm xúc. Khu số 6 cũng là trụ sở của Đội phòng chống bom mìn.

Tony run lên, và cả giận dữ nữa. “Gã đó vẫn đánh cậu ấy, ngay cả khi nó đã gục xuống rồi. Hắn không cần thiết phải làm thế.”

“Nhưng có thể”, Ron nói nói lắp bắp. “Nó làm mất thời gian… hắn đã mất nhiều thời gian với tôi hơn. Nên hắn không… hắn không chộp được cơ hội tốt nhất theo sau Geneva.”

Sachs mỉm cười. “Cậu thuộc kiểu một người lạc quan.” Cô không nói với cậu ta rằng cậu ấy đã bị đánh gần như đến chết chỉ đơn giản để Nghi phạm 109 có thể sử dụng v khẩu súng của cậu và thu hút sự chú ý của họ.

“Tôi cho là thế. Cảm ơn Geneva… hộ tôi. Vì quyển sách.” Anh ta thậm chí còn chẳng thể xoay nổi đầu mình nhưng đôi mắt lại trượt về hướng chiếc bàn cạnh giường, chỗ quyển sách Giết con chim nhại nằm. “Tony đang đọc nó cho tôi nghe. Anh ấy thậm chí còn có thể đọc các chỗ chơi chữ nữa.”

Anh trai của cậu cười. “Đồ ngốc.”

“Vậy cậu có thể nói gì với chúng tôi không, Ron? Gã này khá thông minh và vẫn đang lang thang bên ngoài. Chúng ta cần một cái gì đó để có thể sử dụng.”

“Tôi không biết, thưa b… Tôi không biết, thưa Thám tử. Tôi chỉ đang đi tuần trong con hẻm. Hắn nấp khi tôi muốn… khi tôi đi về con phố. Đi ngược lại phía sau, con hẻm… Tôi đã không nghĩ là há… Hắn. Hắn ở quanh cái góc, của tà… cô biết đấy, tòa nhà. Tôi đi tới khúc cua. Tôi thấy hắn đeo cái mặt nạ như kiểu mặt nạ trùm trượt tuyết. Và rồi là thế này đây. Cây dùi cui, quá nhanh. Thực sự không thể nhìn thấy. Hắn đã làm tốt điều đó.” Anh nhấp nháy mắt một lần nữa, rồi nhắm mắt. “Bất cẩn. Nà… Là đứng quá gần bức tường. Không bao giờ như vậy nữa.”

Cậu đã không biết. Giờ thì biết rồi.

“Một tiếng rít.” Cậu ấy co rúm lại.

“Em không sao chứ?”, Ron hỏi.

“Em không sao.”

“Một tiếng rít?”, Sachs khuyến khích, nhích chiếc ghế của cô tới gần hơn.

“Gì cơ?”

“Cậu nghe thấy một tiếng rít lên.”

“Vâng, tôi nghe thấy tiếng ấy, thưa bà. Không phải ‘thưa bà’. Thám tử.”

“Không sao cà, Ray. Gọi tôi thế nào cũng được. Cậu có nhìn thấy bất cứ gì không? Bất cứ thứ gì sau đó?”

“Vật này. Giống như một cây gậy. Không, không phải là Người dơi và Robin. Ha. Mà là một chiếc gậy đánh bóng chày. Đập ngay vào mặt tôi. ồ, tôi đã nói điều này rồi. Và tôi ngã xuống. Ý tôi là, thưa thám tử. Không phải ‘Thưa bà’.”

“Được mà Ron. Rồi sau đó cậu nhớ gì không?”

“Tôi không biết. Tôi chỉ nhớ mình nằm trên đất. Nghĩ… Tôi nghĩ rằng hắn lấy vũ khí của mình. Tôi cố gắng để giữ khẩu súng của mình. Nà… Là trong quyển sách. Không được để vuột mất nó. ‘Luôn luôn kiểm soát vũ khí của mình’. Nhưng t không làm được. Hắn đã lấy được nó. Tôi đã chết. Tôi biết là tôi đã chết hẳn rồi. ”

Cô khuyến khích một cách nhẹ nhàng: “Cậu có nhớ đã nhìn thấy gì nữa không?”.

“Một mớ lộn xộn.”

“Một cái gì cơ?”

Anh ta cười. “Ý tôi không phải là một mớ lộn xộn. Một hình tam giác. Một cái hộp các tông. Nằm trên đất. Tôi không thể cử động. Đó là tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy.”

“Và cái thùng các tông này. Nó là của hung thủ à?”

“Cái hình ta… giác? Không, ý tôi là, hình tam giác. Không, nó chỉ là rác mà thôi. Ý tôi, đó là tất cả những gì tôi có thể thấy. Tôi cố gắng bò. Tôi không nghĩ là mình đã làm được thế.”

Sachs thở dài: “Cậu được tìm thấy đang nằm sấp trên đất, Ron”.

“Tôi đã…? Nằm úp xuống?”

“Nghĩ lại xem. Cậu có nhìn thấy trời không?”

Anh liếc mắt.

Trái tim cô đập nhanh hơn. Liệu cậu ta có nhìn thấy gì không?

“Má…”

“Gì cơ?”

“Má… ở trong mắt tôi sau đó.”

“Máu?”, anh trai cậu ta gợi ý.

“Đúng rồi. Máu. Không thể nhìn thấy gì sau đó. Không hình tam giác, không tòa nhà. Hắn đã đánh tôi.

Hắn ở quanh tôi một lúc. Rồi tôi không nhớ thêm gì khác nữa.”

“Hắn đã ở gần? Gần thế nào?”

“Tôi không biết. Không quá gần. Không thể nhìn thấy. Có quá nhiều máu.”

Sachs gật đầu. Chàng cảnh sát tội nghiệp có vẻ quá mệt mỏi. Hơi thở của cậu ta khó nhọc, đôi mắt lờ đờ hơn lúc cô mới đến. Cô đứng dậy. “Tôi sẽ đi để cậu ấy nghỉ ngơi vậy.” Cô hỏi: “Cậu đã nghe tới Terry Dobyns?”.

“Không. Có phải là cậu ta… Ai cơ?” Chàng cảnh sát đang nằm trên giường bệnh nhăn mặt. “Đó là ai?”

“Nhà tâm lý học của sở.” Cô nhìn Ron với một nụ cười. “Việc này sẽ lôi cái sự cứng nhắc của cậu ra một thời gian. Cậu nên nói chuyện với anh ấy về việc này. Đó là một người đàn ông. Anh ấy sẽ chịu trách nhiệm.”

Ron nói: “Không cần phải…”.

“Cảnh sát tuần tra Ronald Pulaski?”, cô nói một cách nghiêm nghị.

Cậu ta nhướn mày, rụt lại.

“Đây là mệnh lệnh.”

“Vâng, thưa bà. Ý tôi là… Thưa bà.”

Anthony nói: “Tôi sẽ chắc chắn là cậu ấy làm như vậy”.

“Cô sẽ cảm ơn… Geneva hộ tôi chứ? Tôi thích cuốn sách đó.”

“Tôi sẽ làm thế.” Sachs quăng chiếc túi lên vai và bắt đầu bước ra cửa. Vừa bước qua ngưỡng cửa cô dừng lại đột ngột, quay lại. “Ron?”

“Gì vậy?”

Cô quay trở lại bên giường cậu ta, ngồi xuống một lần nữa.

“Cậu nói hung thủ đã ở quanh cậu một vài phút.”

“Đúng.”

“Nếu như cậu không thể thấy hắn, với máu đầy trong mắt. Sao cậu có thể biết là hắn ở đó?”

Chàng cảnh sát trẻ cau mày. “À… Vâng. Có một điều tôi quên không nói.”

“Hung thủ của chúng ta có một thói quen, Rhyme.” Amelia Sachs đã quay lại phòng thí nghiệm.

“Đó là gì vậy?”

“Hắn huýt sáo.”

“Gọi taxi?”

“Nhạc. Pulaski đã nghe thấy. Sau khi cậu ấy bị đánh cú đầu tiên và nằm trên sàn, hung thủ đã lấy vũ khí, rồi, em đoán là, mất vài phút để ghép viên đạn vào điếu thuốc. Trong khi làm điều đó, hắn đã huýt sáo. Rất nhẹ nhàng, Ron nói, nhưng cậu ấy chắc chắn rằng hắn huýt sáo như vậy.”

“Không kẻ chuyên nghiệp nào huýt sáo khi đang làm việc.” Rhyme nói.

“Anh không nghĩ thế được. Nhưng em cũng nghe thấy thế nữa. Ở nơi ẩn nấp của hắn trên phố Elizabeth. Em đã nghĩ rằng đó là tiếng đài hoặc gì đó – hắn thổi khá tốt.”

“Chàng lính trẻ sao rồi?”, Sellito hỏi. Anh không còn chà tay lên vết máu vô hình trên mặt nữa nhưng vẫn khá lo lắng.

“Họ nói cậu ấy sẽ ổn thôi. Một tháng trị liệu hoặc hơn. Tôi đã bảo cậu ta gặp Terry Dobyns. Ron không muốn thế lắm nhưng anh trai cậu ta ở đó. Anh ta sẽ chăm sóc cậu ấy. Đó cũng là một cảnh sát. Một cặp song sinh giống nhau như đúc.”

Rhyme không ngạc nhiên lắm. Phục vụ trong các lực lượng thường có nhiều thành viên cùng một gia đình. “Cớm” có thể là tên của một loại gen trong con người.

Nhưng Sellito thì lại lắc đầu trước thông tin về người anh em. Anh ta có vẻ cảm thấy đau khổ hơn, như thể đó là lỗi của anh ta về việc cả gia đình đã bị ảnh hưởng bởi vụ tấn công.

Dù sao, vẫn không có thời gian để giải quyết vấn đề của anh ta. Rhyme nói: “Được rồi. Chúng ta có một vài thông tin mới. Hãy đưa nó lên để sử dụng”.

“Như thế nào?”, Cooper hỏi.

“Vụ giết hại Charlie Tucker vẫn là manh mối gần nhất mà chúng ta đang giữ, có vẻ liên quan tới Ngài 109. Nên, rõ ràng là”, nhà tội phạm học thêm vào: “Chúng ta sẽ gọi cho Texas”.

“Còn nhớ Alamo chứ”, Sachs gợi ý và nhấn vào nút loa ngoài trên điện thoại.

Bảng bằng chứng:

Hiện trường quán Potter’s Field (1868)

+ Một quán rượu ở Gallows Heights – trên con phố 80 ở Upper West Side, vào khoảng những năm 1860.

+ Potter’s Field có khả năng là nơi tụ tập của Boss Tweed và các chính trị gia tham nhũng của New York.

+ Charles đến đây vào ngày 15 tháng 7 năm 1868.

+ Bị đốt cháy sau một vụ nổ, được phỏng đoán là ngay sau chuyến viếng thăm của Charles. Để che giấu bí mật của ông ấy?

+ Xác ở dưới tầng hầm, đàn ông, được phỏng đoán bị Charles Singleton giết.

– Phát bắn vào trán bởi khẩu Navy Colt 36 ly được nạp đạn 39 ly (loại súng mà Charles sở hữu)

– Những đồng tiền vàng.> – Người đàn ông bị giết có một khẩu Derringer.

– Không có danh tính.

– Có chiếc nhẫn khắc “Winskmskie”.

– Nghĩa là “người canh cửa” hoặc “người gác cổng” theo ngôn ngữ Delaware của người da đỏ.

– Hiện đang tìm các nghĩa khác.

Hiện trường đông Harlem (Căn hộ của bà cô Geneva)

+ Sử dụng điếu thuốc và viên đạn cỡ 9 mm như một thiết bị nổ nhằm đánh lạc hướng cảnh sát. Hiệu Merit, không lần dấu vết được.

+ Các dấu vết để lại: Không. Chỉ có dấu găng tay.

+ Thiết bị khí độc:

– Lọ thủy tinh, viên bọc lá kim loại, chân nến. Không lần được dấu vết.

– Cyanide và acid sulfuric. Không có nhãn hiệu. Không lần được.

* Chất lỏng trong suốt giống những gì tìm thấy trên căn hộ ở phố Elizabeth.

– Được xác định là Murine.

– Các mảng màu cam nhỏ. Như ở công trường xây dựng hoặc các công nhân thi công đường cao tốc?

Ngôi nhà an toàn trên phố Elizabeth của hung thủ:

+ Sử dụng bẫy điện.

+ Dấu tay: Không. Chỉ có dấu găng tay.

+ Camera và màn hình an ninh: K

+ Bộ bài tarot, thiếu lá số mười hai; không có manh mối.

+ Bản đồ chi tiết bảo tàng nơi Geneva bị tấn công và các tòa nhà bên kia con phố.

+ Dấu vết:

– Falafel và sữa chua.

– Các mẩu gỗ lấy ra từ mặt bàn làm việc với vệt acid sulfuric tinh chất.

– Chất lỏng trong suốt, không phải chất nổ. Gửi tới phòng thí nghiệm của FBI.

* Xác định là Murine.

* Nhiều sợi vải từ dây thừng hơn. Thừng thắt cổ

+ Carbon nguyên chất tìm thấy trên tấm bản đồ.

+ Ngôi nhà được thuê bằng tiền mặt, với cái tên Billy Todd Hammil. Khớp với miêu tả của Nghi phạm 109, nhưng không có manh mối nào liên quan tới cái tên Hammil trên thực tế.

Hiện trường Bảo tàng Mỹ – Phi

+ Gói đồ hiếp dâm:

– Lá bài tarot, số mười hai trong bộ bài, Người treo ngược, có nghĩa là sự tìm kiếm tâm linh.

– Chiếc túi có hình mặt cười.

– Quá chung chung để lần tìm.

– Dao rọc giấy.

– Bao cao su Trojan.

– Băng dính.

– Dầu thơm mùi hoa nhài.

– Vật không rõ giá 5,95 đô. Có khả năng là chiếc mũ trùm.

– Hóa đơn, cho thấy cửa hàng nằm ở thành phố New York, cửa hàng tạp hóa giảm giá hoặc một hàng dược phẩm.

– Nhiều khả năng được mua từ một cửa hàng trên phố Mulberry, Little Italy. Hung thủ được nhận dạng bởi nhân viên bán hàng.

+ Dấu tay:

– Nghi phạm đeo găng tay cao su.

– Dấu tay trên gói đồ thuộc về một người có bàn tay nhỏ, không có dữ liệu trong hệ thống IAFIS. Nhiều khả năng là của nhân viên bán hàng.

+ Dấu vết:

– Sợi thừng vài bông, một vài có vết máu người. Dây để thắt cổ?

– Gửi tới CODIS.

* Không tìm thấy DNA trùng khớp ở CODIS.

– Bỏng ngô và kẹo bông với những dấu vết nước đái chó.

+ Vũ khí:

– Dùi cui hoặc một chiếc côn.

– Khẩu súng có ổ thuốc lớn, hạt kích nổ vành, kiểu súng ngắn Quân đội Bắc Mỹ 22 ly, loại Black Widow hoặc Minimaster.

– Đạn tự chế, đầu đạn chứa những chiếc kim. Không thấy dữ liệu trong IBIS hay DRUGFIRE.

+ Đ

– Chưa chắc chắn. Hiếp dâm chỉ là động cơ giả.

– Động cơ thật sự có thể là để lấy đi tấm vi phim của bài báo trên tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu ngày 23 tháng 7 năm 1868, và giết Geneva Settle vì việc cô quan tâm tới bài báo này vì một lý do chưa biết. Bài báo viết về người tổ tiên của Geneva tên là Charles Singleton. (Xem thông tin bên biểu đồ bên cạnh.)

– Người thủ thư – nạn nhân bị giết báo rằng có một ai đó muốn được xem bài báo.

– Yêu cầu có được nhật ký cuộc gọi của người thủ thư để kiểm tra điều này.

* Không có manh mối nào.

– Yêu cầu cần có thông tin từ những nhân viên thư viện hoặc với những người mong muốn được thấy câu chuyện.

– Không có manh mối nào.

– Tìm kiếm bản copy của bài báo.

– Một vài nguồn báo cáo về một người đàn ông yêu cầu cùng một bài báo. Không manh mối nào được xác nhận. Phần lớn các ấn bản đều đã mất hoặc bị phá hủy. Xác định được vị trí một ấn bàn. (Xem biểu đồ bên cạnh.)

– Kết luận: Geneva Settle vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm.

– Động cơ có thể để giữ kín thực tế là ông tổ của Geneva phát hiện ra Tu chính án số 14 trình lên Quốc hội Mỹ không có hiệu lực, đe dọa tới hầu hết quyền công dân Mỹ và các điều luật về tự do công dân.

+ Hồ sơ các vụ việc gửi tới VICAP và NCIC.

– Nạn nhân là một nhân viên coi ngục đã nghỉ hưu.

– Bức ảnh từ máy tính được gửi tới nhà tù Texas.

* Chưa được nhận diện

– Vụ giết người ở Ohio, ba năm về trước. Cũng có hiện trường được làm giả (làm như đó là một vụ tấn công tình dục đồng giới, nhưng động cơ thật sự là được thuê giết). Hồ sơ bị thất lạc.

Hồ sơ về Nghi phạm 109

+ Nam da trắng.

+ 1m85 gần 90 kg.

+ Giọng trung.

+ Sử dụng điện thoại để tiếp cận nạn nhân.

+ Mang một chiếc giày Bass cỡ 11 màu nâu sáng, khoảng ba năm hoặc hơn. Bàn chân phải hơi hướng ra ngoài.

+ Mùi hoa nhài.

+ Quần tối màu.

+ Đeo mũ trùm, màu tối.

+ Sẽ nhắm vào những người vô tội để tạo cơ hội hạ gục nạn nhân và trốn thoát.

+ Nhiều khả năng là một kẻ giết thuê.

+ Nhiều khả năng là một cựu phạm nhân ở Amarillo, TX.

+ Có giọng miền Nam.

+ Mái tóc màu nâu sáng, được chải chuốt chỉnh tề, râu cạo sạch sẽ.

Không đặc biệt, nổi bật.

+ Được thấy mặc một chiếc áo mưa tối màu.

+ Không phải một người hay hút thuốc.

+ Một công nhân xây dựng?

+ Sử dụng Murine.

+ Hay huýt sáo.

Hồ sơ về kẻ thuê Nghi phạm 109

+ Chưa có thông tin gì lúc này.

Hồ sơ về kẻ đồng phạm Nghi phạm 109

+ Nam, da đen.

+ Cuối ba mươi, đầu bốn mươi.

+ Cao khoảng mét tám.

+ Thân thể khỏe mạnh cường tráng.

+ Mặc chiếc áo dã chiến màu xanh.

+ Từng là phạm nhân.

+ Chân khập khiễng.

+ Được báo cáo có mang súng.

+ Râu được cạo sạch sẽ.

+ Đeo chiếc khăn trùm đầu màu đen.

+ Đang đợi thêm các nhân chứng và băng ghi hình an ninh.

– Băng ghi hình chưa rõ ràng, được gửi tới phòng thí nghiệm để phân tích.

+ Giày lao cũ kỹ.

Hồ sơ về Charles Singleton

+ Cựu nô lệ, tổ tiên của Geneva Settle. Có gia đình, một con trai. Được ông chủ cho một vườn cây ở tiểu bang New York. Làm việc với vai trò một thầy giáo. Tham gia vào cuộc vận động vì dân quyền từ rất sớm.

+ Charles bị cho là đã thực hiện một vụ ăn trộm năm 1868, chủ đề của bài báo trong tấm vi phim bị lấy trộm.

+ Có một bí mật chưa được hé lộ. Lo lắng rằng sẽ gây ra thảm kịch nếu bí mật bị hé lộ.

+ Tham gia vào các buổi họp bí mật ở Gallows Heights gần New York.

+ Dính líu tới những hoạt động mạo hiểm?

+ Làm việc với Frederick Douglass và những người khác liên quan tới Tu chính án số 14 trình Thượng viện để được phê chuẩn.

+ Vụ án, theo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu:

+ Charles bị bắt bởi Thám tử William Simms vì ăn trộm một lượng lớn từ Quỹ Nô lệ tự do ở New York. Đột nhập vào két, nhân chứng nhìn thấy ông ta rời khỏi đó nhanh chóng. Dụng cụ dùng để gây án được tìm thấy ở gần đó. Phần lớn tiền đã được tìm lại. Bị tuyên án năm năm tù. Không có thông tin gì sau khi bị tuyên án. Bị cho là tận dụng quan hệ với những nhà lãnh đạo trong cuộc vận động dân quyền thời gian đầu để tiếp cận Quỹ.

+ Thư của Charles:

– Bức thư thứ nhất, gửi tới vợ: về cuộc khởi nghĩa chống quân dịch năm 1863, sự chống lại người da đen ở khắp tiểu bang New York, hành hình, đốt phá. Nguy cơ ảnh hưởng tới tài sản mà người da đen sở hữu.

– Bức thư thứ hai, tới vợ: Charles trong trận chiến ở Appromattox vào giai đoạn cuối cuộc Nội chiến.

– Bức thư thứ ba, tới vợ: Tham gia vào cuộc vận động quyền dân sự. Bị đe dọa vì công việc của mình. Đau khổ với bí mật.

– Bức thư thứ tư, tới vợ: Đi tới Potter’s Field với khẩu súng vì “công lý”. Kết quả thảm khốc. Sự thật hiện đang nằm sâu dưới quán Potter’s Field. Bí mật là tất cả những gì khiến ông ấy đau khổ.

“A lô?”

“Xin chào, J.T. Đây là Lincoln Rhyme từ New York.” Nói chuyện với một ai đó bằng tên viết tắt và sống ở bang Ngôi sao cô đơn – chưa kể đến giọng nói khề khà của anh ta – khiến ta thiên về việc bỏ những từ như “này”, và “nghe này” trong câu nói của mình.

“À, vâng thưa ngài, mọi việc thế nào rồi? Tôi đã đọc về ngài từ sau khi chúng ta nói chuyện lần trước. Không hề biết rằng ngài là người nổi tiếng.”

“Ồ, chỉ là một cựu đầy tớ của nhân dân thôi mà”, Rhyme nói với sự khiêm nhường mà nghe giống như một cái lon thiếc đã xỉn. “Không có gì hơn kém cả. Có gì khả quan hơn với bức ảnh chúng tôi gửi cho anh không?”

“Tôi rất tiếc, thám tử Rhyme. Sự thật là, hắn nhìn giống với một nửa số gã da trắng đã rời khỏi đây. Hơn nữa, chúng tôi cũng như hầu hết các nhân viên quản giáo khác – thay đổi nơi làm việc xoành xoạch. Không có một nhân viên nào vẫn còn ở đây từ lúc Charlie Tucker bị giết.”

“Chúng tôi có thêm một ít thông tin về hắn. Nó có

thể giúp loại bớt danh sách. Anh đợi một chút chứ?”

“Vâng, cứ tự nhiên.”

“Hắn có thể có vấn đề về mắt. Hắn sử dụng Murine thường xuyên. Nó có thể là mới đây nhưng có thể hắn làm như vậy khi còn là tù nhân ở đó. Và chúng tôi cho rằng hắn có thể có thói quen huýt sáo.”

“Huýt sáo? Như kiểu thấy một người phụ nữ hay những gì đại loại như vậy ư?”

“Không, huýt một giai điệu. Một bài hát.”

“À. Được rồi. Đợi một chút xem.” Năm phút dài như chưa từng có cho đến khi anh ta quay lại. “Rất tiếc. Không có ai nhớ gì về kẻ nào huýt sáo, hay có mắt kém, không đặc biệt lắm. Nhưng chúng tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm.”

Rhyme cảm ơn và ngắt máy rồi nhìn vào tấm bảng bằng chứng với sự bất lực. Đầu những năm 1900, một trong những nhà tội phạm học vĩ đ nhất từng sống, Edmond Locard của Pháp, đã tìm ra một phương pháp – một nguyên tắc mà ông gọi là nguyên lý trao đổi, nói rằng ở mỗi một hiện trường có một vài sự trao đổi bằng chứng, tuy nhiên chỉ trong thời gian ngắn, giữa tên tội phạm và hiện trường hoặc nạn nhân. Tìm ra bằng chứng đó là mục tiêu của một thám tử điều tra pháp y. Tuy nhiên, nguyên lý của Locard không thể tiếp tục bảo đảm rằng việc hình thành đơn giản của liên kết đó có thể đưa ta tới trước cửa nhà hung thủ.

Anh thở dài. Chúng ta đã biết rõ đây sẽ là một cuộc chiến dài mà. Họ có gì? Một bức vẽ mơ hồ từ máy tính, một đôi mắt có lẽ có vấn đề, một điều có thể là thói quen, một mối thù với người bảo vệ nhà tù.

Còn gì nữa?

Rhyme cau mày. Anh đang nhìn chằm chằm vào lá bài thứ mười hai trong bộ bài tarot.

Người treo ngược không liên quan, ám chỉ đến một ai đó đang bị trừng phạt…

Có thể không, nhưng nó vẫn miêu tả một người đàn ông lủng lẳng trên chiếc giá treo cổ.

Có điều gì đó nảy lên trong đầu anh. Anh nhìn lên bảng bằng chứng một lần nữa. Để ý thấy: cái dùi cui, dòng điện gắn với cửa căn hộ trên phố Elizabeth, thiết bị khí độc, những mảnh đạn trong tim, vụ án hành hình Charlie Tucker, những sợi vải của dây thừng với các vệt máu…

“Ôi! Chết tiệt!”, anh đã phát hiện ra.

“Lincoln? Có vấn đề gì vậy?”, Cooper nhìn sếp của

mình, lo lắng.

Rhyme hét lên: “Lệnh, gọi lại!”.

Chiếc máy tính phản ứng trên màn hình: Tôi không hiểu ngài vừa nói gì. Ngài muốn tôi làm gì?

“Quay lại số.”

Tôi không hiểu ngài nói gì.

“Chết tiệt! Mel, Sachs… Ai đó nhấn nút gọi lại đi.” Cooper làm theo và một vài phút sau nhà tội phạm học đã nói chuyện với người cai ngục ở Amarillo một lần nữa.

“J.T., là tôi Lincoln.”

“Vâng, thưa ngài?”

“Quên những tù nhân đi. Tôi muốn biết về những người gác hoặc bảo vệ.”

“Bảo vệ?”

“Một ai đó từng là nhân viên ở đó. Với các vấn đề về mắt. ýt sáo. Và hắn có thể đã từng làm việc ở khu Tử hình trước hoặc trong thời gian Tuker bị giết.”

“Tất cả chúng ta đều không nghĩ tới nhân sự của mình. Và, một lần nữa, phần lớn nhân sự của chúng tôi không ở đây từ năm, sáu năm trước. Nhưng đợi một chút. Để tôi đi hỏi xem sao.”

Hình ảnh của Người treo ngược đã mang ý tưởng ấy đến với Rhyme. Anh để ý đến cách thức và vũ khí mà Nghi phạm 109 đã sử dụng. Đó là các biện pháp hành hình: khí xyanua, điện, treo cổ, bắn một chùm đạn vào tim, giống như đội bắn. Và vũ khí của hắn để hạ gục những nạn nhân là một thanh dùi cui, giống như cái mà một người cai tù mang theo.

Một lát sau anh nghe thấy: “Đây, thưa Thám tử

Rhyme!”.

“Nói tiếp đi, J.T.!”

“Khá chắc chắn, một người đã nói nghe quen quen. Tôi đã gọi cho một nhân viên bảo vệ đã nghỉ hưu, làm việc ở bộ phận hành hình. Tên là Pepper. Ông ấy đã đồng ý đến văn phòng và nói chuyện với ngài, sống gần đây thôi. Sẽ có mặt sau vài phút. Chúng tôi sẽ gọi lại cho ngài ngay.”

Một cái nhìn khác vào lá bài tarot.

Một sự thay đổi về phương hướng…

Mười phút dài không thể chịu đựng được sau khi điện thoại reo.

Họ nhanh chóng giới thiệu. Nhân viên sở Pháp lý Texas đã nghỉ hưu, Halbert Pepper nói với giọng khề khà mà khiến cho tiếng của J.T. Beauchamp nghe như là tiếng Anh – Anh vậy. “Tôi nghĩ là có thể giúp đỡ chút gì đó.”

“Nói tôi biết”, Rhyme nói.

“Cho đến cách đây khoảng năm năm, chúng tôi có một nhân viên kiểm soát hành hình khớp với người mà các ngài miêu tả cho J.T. Có vấn đề với mắt và anh ta say mê thổi sáo. Tôi đã chuẩn bị nghỉ hưu nhưng vẫn làm cùng anh ta một thời gian.”

“Đó là ai?”

“Anh ta tên là Thompson Boyd.”

Bình luận