Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ! Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản

Mật mã Tây Tạng – tập 4

Chương 35: Đảo Huyền Không Tự

Tác giả: Hà Mã

Nhạc Dương bổ sung thêm: “Vị trí của người quan sát có quan hệ với hình dáng chỉnh thể của trận đồ bằng đá, cần phải đứng ở một vị trí đặc biệt đã đặt từ trước, sau đó nhìn theo hướng ánh sáng phản xạ.”

Trương Lập nói: “Khi vùng đất nơi tổ tiên yên nghỉ tắm trong ánh dương vàng rực rỡ, đó là chỉ bình minh mà bây giờ lại là hoàng hôn, làm thế nào bây giờ?”

Nhạc Dương đáp: “Chúng ta không nhất thiết phải đợi đến bình minh, trận đồ đá này và Nạp Nam Tháp đã có liên hệ chặt chẽ với nhau, vậy thì cần biết góc độ chiếu xạ của tia sáng mặt trời và vị trí của người quan sát, cũng vẫn có thể tìm ra.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Thầy giáo, thấy nghe rõ chưa? Giờ chúng tôi sẽ xuống sông tiến hành đo góc khúc xạ của ánh sáng. Trương Lập sẽ lắp máy phát tín hiệu lên trụ đá. Giáo quan, nhờ cô cho trực thăng ở trên không tiếp nhận tín hiệu, chụp ảnh trận đồ đá này, sau đó chuyển hình dạng và kết cấu của trận đồ đá tới máy tính xách tay của giáo sư Phương Tân. Chúng tôi cần phân tích cầu tạo của nó để tìm ra vị trí của người quan sát.”

Năm phút sau, bọn Trác Mộc Cường Ba đã đưa ra được kết luận: góc khúc xạ của ánh mặt trời là 15 độ 46 phút, máy tính của giáo sư Phương Tân phân tích ra toàn bộ trận đồ bằng đá này có kết cấu hình trứng, đầu lớn hướng về phía thổ lâm, đầu nhỏ hướng về sông Tượng Tuyền, vị trí của người quan sát rất có thể chính là góc hẹp do hai bên kết cấu hình trứng giao nhau hình thành. Nhạc Dương mang theo máy phát tín hiệu, với sự phối hợp của giáo sư Phương Tân, lần từng bước di chuyển đến vị trí của người quan sát, Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập lần lượt dùng máy đo thăng bằng và thước đo góc dựng cho Nhạc Dương một bệ quan sát có góc ngắm 15 độ 46 phút. Nhạc Dương thuận theo góc nghiêng của bệ quan sát nhìn lên trên, tầm nhìn xuyên thẳng qua một trụ đá thấp, kế đó là một trụ đá cao, hai điểm nối liền thành một đường thẳng, cuối cùng ánh mắt khóa chặt vào một trong mấy hang đá phía đối diện.

“Tìm thấy rồi” Nhạc Dương dằn cảm giác kích động trong lòng xuống, gắng hết sức bình tĩnh nói. Đồng thời anh chàng cũng kinh ngạc nhận thấy, khi đứng ở vị trí này, cố định góc ngắm 15 độ 46 phút, không ngờ lại chỉ nhìn thấy được một cái hang đó, toàn bộ những hang còn lại đều biến mất, nhưng chỉ cần hơi ngửa về phía sau hoặc nhìn nghiêng, những hang khác sẽ lập tức xuất hiện trong tầm mắt, tất cả như ảo giác vậy.

Xương Ba tò mò hỏi: “Mọi người đang làm gì vậy? Đo đạc núi Rắn phải không?”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Đúng vậy, chúng tôi phải đi đây. Anh Xương Ba, hết sức cảm ơn anh nhé, cảm ơn.”

Đoạn gã quay sang bảo Nhạc Dương: “Nhạc Dương, chúng tôi cần cậu ở lại đây để khóa chặt mục tiêu lại.”

Nhạc Dương đáp: “Hiểu rồi.”

Xương Ba lại hỏi Trương Lập: “Mọi người muốn lên núi Rắn hả?”

Trương Lập gật đầu: “Đúng thế.”

Anh ta quay sang bảo với Trác Mộc Cường Ba: “Tôi biết có con đường tắt, từ đây có thể đi thẳng lên luôn. Có cần tôi dẫn đường cho không?”

Trác Mộc Cường Ba nắm tay Xương Ba nói: “Cám ơn. Cảm ơn anh nhiều lắm, chúng ta mau đi thôi.”

Lúc này thứ họ thiếu nhất chính là thời gian.

Trác Mộc Cường Ba báo cáo với Lữ Cánh Nam: “Chúng tôi ở phía này gần hơn các cô bên đấy, cửa hang cách chỗ cô chừng ba cây số, chúng ta sẽ gặp nhau ở đó. Nhạc Dương ở đây khóa vị trí, rồi sẽ đến gặp chúng ta sau.”

Lữ Cánh Nam đáp: “Tôi biết rồi.”

Trên đường, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Trương Lập, các cậu còn có phát hiện ra dấu vết gì nữa không?”

Trương Lập đáp: “Không có, chỉ biết bọn chúng có công cụ nâng vật nặng. Còn nữa, Nhạc Dương nói có lẽ là bọn chúng ngồi xe đến đây, nhưng không phát hiện ra dấu vết gì, chắc là đã ngụy trang rồi.”

Bọn họ từ lưng chừng núi đất Nạp Nam Tháp đi lên một con đường ruột dê thẳng tới cửa hang động kia, Nhạc Dương vẫn liên tục giữ liên lạc. Mắt đã thấy sắp đến được cửa hang động tới nơi thì trong núi bỗng nổi lên một cơn gió, cơ hồ tất cả các hang động đều vẳng ra tiếng vọng hoàn toàn khác với tiếng gió lúc nãy họ nghe trong hẻm núi, rít cao vút, chói tai, toán lên một vẻ dữ tợn mà kỳ dị. Xương Ba lúc đầu vẫn còn nói nói cười cười, vừa nghe thấy tiếng gió này, đột nhiên sắc mặt biến đổi, đồng thời cũng dừng luôn chân lại.

“Sao vậy, Xương Ba?” Trác Mộc Cường Ba quay qua hỏi.

Xương Ba nói: “Mọi người không nghe thấy gì hả? m thanh đó.”

Trương Lập hồn nhiên đáp: “Tiếng gió mà.”

“Không…” Sắc mặt Xương ba trắng bệch, “không phải, đó là Hắc Miêu hoàng hậu, đó là lời nguyền của Hắc Miêu hoàng hậu! Tôi, tôi chỉ có thể đưa mọi người tới đây thôi, tôi phải về đây.” Nói rồi không ngờ lập tức quay đầu đi về luôn.

“Xương ba, Xương Ba!” Trác Mộc Cường Ba gọi liền hai tiếng, Xương ba mới quay đầu lại cảnh cáo: “Trước nay tôi vẫn luôn cho rằng, núi Rắn chỉ là núi Rắn, ở đấy chẳng có gì hết. Nhưng hôm nay xem ra người già nói cấm có sai, trong núi Rắng có kho tàng của người Cổ Cách, Hắc miêu hoàng hậu không cho phéo bất cứ kẻ nào chạm vào kho tàng đó cả, bà ta sẽ nguyền rủa tất cả những kẻ nào lại gần, các ông phải cẩn thận đấy.”

Trác Mộc Cường Ba ngần người ra giây lát, rồi mới nói: “Cám ơn anh.” Trong khoảnh khắc Xương Ba ngoảnh đầu lại ấy, gã chợt cảm thấy lóe lên một tia quen thuộc. Ánh mắt đó, thật bất ngờ lại có vẻ gì đó giống với cha già của gã. Đó là ánh nhìn xa trông giộng, dường như có thể nhìn thấu vạn vật. Nhưng gã lập tức nhanh chóng phủ định ý nghĩ này của mình.

Bọn Trác Mộc Cường Ba vào hang. Đây đúng là một cái hang trống huếch trông hoác, tuyệt đối không có gì. Tuy nhiên trong hang bị người ta đào một cái lỗ lớn, nhìn chất đất có thể nhận thấy là mới được đào lên chưa lâu.

Sau khi tìm được cửa hang, Xương Ba đưa Nhạc Dương tới chỗ giao lộ dẫn lên núi, sau đó Nhạc Dương và mấy người bọn Lữ Cánh Nam cùng lúc đến nơi.

“Em sao vậy Mẫn Mẫn?” Trác Mộc Cường Ba vừa nhìn đã phát hiện ra sắc mặt Đường Mẫn hơi khó coi.

Lữ Cánh Nam nói: “Vừa nãy đi giữa đường, sắc mặt cô ấy chợt tái nhợt đi, nhưng mà hình như đã không sao rồi.”

Đường Mẫn gật đầu: “Em khỏe lắm, không sao đâu, chắc là lúc lên núi chạy nhanh quá thôi.”

Lữ Cánh Nam nói: “Vậy, chúng ta xuống đó thôi, tôi đi trước dò đường, mọi người theo phía sau, xuống từng người một.”

Lữ Cánh Nam buộc dây thừng vào người, chầm chậm thả mình xuống dưới. Giáo sư Phương Tân nhìn Trác Mộc Cường Ba nói: “Hình như cậu vẫn còn điều gì ghi hoặc?”

Trác Mộc Cường Ba đáp: “Vừa nãy anh Xương Ba đó nói, chỗ này là kho tàng của Cổ Cách vương, bên trong có lời nguyền của Hắc Miêu hoàng hậu. Tôi nhớ khi chúng ta điều tra tư liệu, đâu có câu chuyện về Hắc miêu hoàng hậu đâu nhỉ.”

Giáo sư Phương Tân nghĩ ngợi giây lát, đoạn quay sang hỏi mấy người bọn Trương Lập: “Các cậu có biết chuyện về Hắc Miêu hoàng hậu không?”

Trương Lập lắc đầu quầy quậy, Nhạc Dương nói: “Tôi chỉ biết chuyện cảnh sát trưởng Hắc Miêu thôi.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Những câu chuyện thần thoại lưu truyền trong dân gian nhiều như lông trâu lông bò, chúng ta không thể chuyện nào cũng tra ra hết được.”

Lạt ma Á La cũng lên tiếng: “Không cần phải quá lo lắng. Dựa vào bích họa trong các hang động trước đó chúng tôi đã thấy cộng với tư liệu của chuyên gia mà Lữ Cánh Nam đang nắm trong tay, có thể khẳng định rằng di chỉ này còn lâu đời hơn vương triều Cổ Cách rất nhiều. Mục dân hiện nay đều là dân di cư cả, chắc chắn là họ đã đem một số câu chuyện về vương triều Cổ Cách mà mình nghe được gượng ép đặt vào khu di tích này thôi.”

Lữ Cánh Nam đã an toàn xuống bên dưới, Ba Tang cũng đã xuống hang. Lạt ma Á La nói: “Câu chuyện về Hắc miêu hoàng hậu thì tôi có biết một chút. Chuyện kể rằng trước khi vương triều Cổ Cách diệt vong. Cổ Cách vương muốn quyết tử với kẻ thù, nhưng lại không nỡ hy sinh hoàng hậu mà mình yêu thương. Vậy là ngài liền triệu vu sư đến, biến hoàng hậu thành mèo đen, hy vọng bà ta có thể chạy trốn khỏi Cổ Cách trước khi kẻ thù phá thành. Nhưng sau khi biến thành mèo đen, hoàng hậu lại không chịu chạy trốn. Quốc vương cố nén niềm đau, vuốtg ve mèo đen mà rằng: “Kể từ nay, kẻ nào có được mèo đen, kẻ ấy sẽ là chủ nhân của Cổ Cách.” Sau khi Cổ Cách bị diệt, Hắc miêu hoàng hậu sống sót, bà vẫn ở trong hình hài meo đen ấy để bảo vệ tất cả vàng bạc châu báu của Cổ Cách vương lưu lại, bất cứ kẻ nào muốn cướp báu vật, đều bị Hắc Miêu hoàng hậu nguyền rủa. Ít nhất thì một trong các phiên bản của câu chuyện này là như vậy đấy.”

Mọi người nghe câu chuyện sơ lược đã cảm thấy chẳng liên quan gì đến họ, duy chỉ có mình Trác Mộc Cường Ba là không nghĩ như thế.

Đường Mẫn là người xuống thứ ba. Trác Mộc Cường Ba nắm chắc dây thừng, đồng thời cũng tạm gác chuyện kia sang một bên, cùng với những người khác trèo xuống hang. Gã không thể nào tránh nổi cảm giác là câu chuyện về Hắc Miêu hoàng hậu ấy khơi gợi cho mình một điều gì đó.

Toàn bộ lối vào xuyên qua tâng đất đặc, trượt xuống dưới chừng bảy tám chục mét thì đến vùng bụng rộng mở của gò núi thổ lâm. Đoạn lối vào cũng kéo dài đến mười mấy mét, nếu không tìm được chính xác, cố đào bừa ở chỗ khác để xuyên vào lòng núi thì cho dù có các công cụ đào đất hiện đại e là cũng phải mất thời gian mười mấy ngày mới xuống được đến nơi. Nếu không có bản đồ, chắc không thể nào phát hiện ra nơi này được, e là có thêm một nghìn năm nữa, ở đây vẫn cứ như thế này chứ không hề suy suyển.

Chín người tập trung dưới lòng đất, nhìn lối thông tối om hẹp như trong hang động đá vôi, không khỏi có chút thấp thỏm bất an trong lòng. Đường hầm nhân tạo bên trong thổ lâm này giống như địa đạo ngầm thời chiến, đường đi gập ghềnh, rất nhiều chỗ ngoặt, lòng hang không cao, phải khom người mới tiến lên được, nhưng không có nhánh rẽ hay cạm bẫy cơ quan gì. Tuy vậy, chỉ riêng chuyện phát hiện được lối vào này đã là khó khăn lắm rồi.

Đi được hơn nửa tiếng, Trác Mộc Cường Ba để ý thấy mặt đất dưới chân bắt đầu xuất hiện vết nứt không ngừng gió thổi ra, thoang thoảng có thể nghe thấy tiếng gió luồn lách rít gào, tựa như âm thanh ta nghe thấy khi bịt chặt cả hai tai lại vậy. Mới đầu, vết nứt ấy chẳng qua chỉ là một cái khe nhỏ, về sau đường hầm càng đi sâu xuống dưới vết nứt càng rộng thêm, bằng bàn tay rồi dần bằng eo hông người, rõ ràng khe nứt cũng thuộc loại trên nhỏ dưới lớn. Trương Lập thử ném một cục đá xuống, rất lâu sau không nghe thấy tiếng vọng, không hiểu rốt cuộc là sâu bao nhiêu mét nữa.

Đa Cát đắc ý dẫn ra truyền thuyết trong thôn nhà anh ta: “Không cần thử nữa, khe nứt này thông thẳng xuống suối vàng, rơi xuống là vào chuyển thế luân hồi luôn, căn bản không có đáy đâu.”

Lữ Cánh Nam nhấn mạnh: “Cẩn thận chút, khe nứt này có thể thông với sông ngầm dưới lòng đất, rơi xuống đó thì cơ hội leo lên là rất nhỏ đây,”

Tiếp tục đi xuống, khe nứt ấy không ngờ lại càng lúc càng lớn dần, con đường dưới chân bọn Trác Mộc Cường Ba thì càng thắt lại, xung quanh trở nên tối đen như mực, cả bọn đoán rằng mình đã ở sâu hơn trăm mét dưới lòng đất. Giáo sư Phương Tân nhận thấy chất đất xung quanh đã khác, đã từ đất sa mạc hóa ban đầu chuyển thành nham thạch núi lửa, nếu tiếp tục đi sâu xuống, đoán chừng sẽ còn có thay đổi nữa.

Cả đoàn cứ thế đi mãi, đột nhiên ánh sáng trên mũ của Lữ Cánh Nam đi đầu tiên tắt phụt. Mọi người đang tưởng có chuyện bất ngờ xảy ra, chợt nghe Lữ Cánh Nam nói: “Cẩn thận, phía trước là khe nứt lớn. Dán sát người vào vách đá, ở đây toàn là đường nhỏ lơ lửng giữa tâng không thôi.”

Mọi người ra khỏi thông đạo mới nhận thấy cả bọn đi ra một khe nứt hẹp. Vừa đi ra, khe nứt bên trái đột nhiên tăng từ một mét chiều rộng lên đến mấy mét, thậm chí còn rộng hơn, còn không gian trên đỉnh đầu trong chốc lát cũng tăng lên mấy chục mét.

Không gian tối đen như mực đột nhiên khác hẳn, ánh sáng của mũ phát sáng bỗng chốc chỉ còn như ngọn lửa đom đóm, thậm chí cả con đường dưới chân cũng không thể nhìn rõ được nữa.

Trương Lập bước hụt chân, suýt chút nữa thì ngã, ngọn đèn pha đang cầm tay rơi tuột xuống, anh chàng lầm bầm chửi: “Đường…đường kiểu gì thế này, sao hẹp thế, gần như là con đường ở bên bờ song Nhã Lỗ Tạng Bố rồi còn gì.”

Nhạc Dương nói: “Lại còn phải nói nữa à, ở đây chẳng còn chút ánh sáng nào, so với con đường bên sông còn nguy hiểm hơn ấy chứ.”

Lữ Cánh Nam gật đầu: “Không sai, đây là một hẻm núi sâu nằm hoàn toàn bên dưới lòng đất. Dựa theo những gì chúng ta có thể nhìn thấy lúc này, quy mô của nó chỉ sợ không nhỏ hơn sông Nhã Lỗ Tạng Bố đâu.”

Mọi người đều chăm chú nhìn ánh sáng ngọn đèn pha yếu dần yếu dân, cuối cùng rồi chỉ còn một chấm nhấp nháy rồi biến mất, giáo sư Phương Tân rùng mình thốt lên: “Trong không gian hoàn toàn tối tăm, ánh sáng đèn pha này ngoài nghìn mét vẫn có thể nhìn thấy, cái khe…khe vực này không ngờ lại sâu như thế…đúng là, đúng là gặp ma rồi.”

Lạt ma Á La nghi hoặc: “Chẳng lẽ lại thông xuống suối vàng thật…”

Ba Tang lạnh lùng nói: “Cho dù là suối vàng, đi thêm một lần nữa cũng ngại gì nữa đâu.”

Lữ Cánh Nam nghiêm giọng: “Mấy người có biết khe vực ở sông Nhã Lỗ Tạng Bố sâu bao nhiêu không? Độ sâu trung bình đã hơn năm nghìn mét rồi, nếu tính thêm cả đỉnh Nam Ca ba Ngõa hay đỉnh Gia La Bạch Lũy, độ sâu của khe núiphải vượt quá bảy nghìn mét.. Mặc dù độ cao trung bình so với mặt nước biển của thổ lâm Cổ Cách thấp hơn hai ngọn núi cao kia, nhưng khả năng khe núi dưới lòng đất này sâu hai ba nghìn mét cũng không phải là không có.”

Mọi người tiếp tục đi sâu xuống, cuối cùng cũng đến được tận cùng con đường nhỏ thì trông thấy dây thừng của bọn merkin để lại. Phía bên đối diện thấp thoáng ánh sáng, đó là ống phát sáng của bọn Merkin đốt lên. Trương Lập nói: “Bọn chúng đi trước rồi, chúng ta cũng mau qua đó thôi.”

Nhạc Dương nói: “Đám thừng móc này cũng vừa buộc vào, bọn chúng mới qua chưa lâu đâu, chúng ta vẫn còn có thể đuổi kịp đấy.”

Lữ Cánh Nam xua tay nói: “Không vội, nếu bờ bên kia có để lại một người canh giữ, chúng ta muốn quan đó thật không dễ dàng chút nào đâu. Ai! Ai đã lên dây thừng rồi?”

Liền đó nghe tiếng Trương Lập kêu lên: “Ấy, Đa Cát! Trở lại đây!” Chỉ thấy cái bóng đen gầy gò ấy đã khuất xa mất. Nhạc Dương chậc lưỡi: “Bò nhanh thật đấy.”

Lạt ma Á La nói: “Người suốt ngày đi lại trên dây xích vắt ngang sông thì bò dây thừng này chẳng lẽ còn không dễ ư?”

Lữ Cánh Nam lập tức quyết định: “Đa Cát không thể liên hệ với chúng ta được, lại không có cả vũ khí nữa. Trương Lập theo anh ta. Những người còn lại ở đây đợi hồi âm của họ.”

Bóng tối lặng im lừng lững, thời gian trôi đi như chậm hẳn lại, Trác Mộc Cường Ba cảm tưởng như đang trở lại nơi gã lần đầu tiên thực nghiệm Mật tu. Đường Mẫn hạ giọng thì thầm: “Những ánh lửa bên kia trông cũng đẹp mắt thật đấy nhỉ.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Mọi người có phát hiện ra không, những đốm lửa ấy rất có quy luật.Giống như những hình tam giác ngược nối liền bằng một đường kẻ chỉ vậy”

Lạt ma Á La có thị lực tốt nhất, nhanh chóng nhìn ngay ra quy luật của đám lửa ấy: không chỉ có một đường, số đường nét được thắp sáng ít nhất có tới mười ba, vài đường phân bố đối xứng, ở giữa có một khoảng tối rất lớn, xét theo độ sáng, các hình tam giác có cái ở gần, có cái lại ở rất xa. Những đốm lửa nhỏ kết thành một vệt dài ấy khiến lạt ma Á La nhớ đến hình ảnh ông từng nhìn thấy trong quá khứ: Tượng thần Ma Hê Thủ La khổng lồ vươn ra mười tám cánh tay, mỗi cánh tay nâng một tòa Phật tháp đảo ngược. Tương truyền, đó chính là thiền phòng để người xưa tu luyện. Rất lâu rất lâu trước đây, những Mật tu giả vượt qua cấp cách tây sẽ có vinh dự tiến vào Thánh địa tu hành ở cấp độ cao hơn này. Lẽ nào…lẽ nào…đây chính là Thánh luyện đường của Mật tu giả đã bị chôn vùi trong lịch sử hay sao?!

Đường Mẫn nói với Trác Mộc Cường Ba: “Anh xem kìa, mất đường sáng nối liền những hình tam giác lại với nhau cứ như con nhện vươn tám cái chân ra ấy nhỉ.”

Ánh mắt Lạt ma Á La lóe lên một tia sắc lạnh, thầm nhủ: “Cô bé này quan sát nhanh nhạy thật.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm? Nghe Mẫn Mẫn nói vậy, giờ nhìn cũng giống thật đấy.”

Nhạc Dương cũng lên tiếng: “Vậy thì cái chỗ tối đen ở giữa ấy là gì thế, thân hình à?”

Mọi người trầm ngâm quan sát, quả thật nhìn kỹ thấy rất giống, thêm nữa những vệt sáng loang lổ lờ mờ còn tạo thành một hình người có mấy cánh tay.

Ba Tang nói: “Nếu đây đúng là một pho tượng Phật, vậy thì e là hơi to quá.”

Lạt ma Á La nghĩ thầm: “Người chưa từng trải sự đời sao biết được! Đại thần Ma Hê Thủ La trấn áp cõi u minh địa phủ, chân đạp suối vàng, đầu đội trời xanh, thân cao vạn nhẫn, đâu phải lọai như ngươi có thể biết đến.”

Giáo sư Phương Tân hỏi Nhạc Dương: “Tượng Phật lớn nhất cậu từng trông thấy bằng chừng nào?”

Nhạc Dương nói luôn: “Lạc Sơn Đại Phật chứ còn gì nữa, đấy mới gọi là to! Một cái vai tượng Phật đủ làm sân bóng rổ…bệ bên dưới chân tượng cũng phải bằng cái sân bóng đá ấy.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Á, Lạc Sơn Đại Phật đúng là tượng Phật đá hàng đầu, có điều đến giờ thì cũng không còn là tượng Phật cao nhất nữa rồi. Tổng chiều cao của Lạc Sơn Đại Phật hình như chỉ khoảng hơn 70 mét, mà Linh Sơn Đại Phật mới xây dựng mấy năm trước nếu tính cả bệ bên dưới đã cao đến trăm mét, gần đây lại nghe nói có Lỗ Sơn Đại Phật tính chiều cao cả bệ thì lên đến một trăm năm mươi mét, hiện nay là tượng Phật cao nhất thế giới.”

Lạt ma Á La kinh ngạc thốt lên: “Không ngờ mới đây lại có thêm tượng Phật lớn đến thế, nếu có cơ hội tôi phải đi bái tế mới được.”

Ba Tang đã đoán được ẩn ý của giáo sư Phương Tân, đột nhiên cười gằn một tiếng hỏi: “Mấy người đã thấy qua bức tượng Phật khổng lồ nào cao hơn một nghìn mét chưa?”

Ngoài giáo sư Phương Tân và Lạt ma Á La, những người khác đều ngẩn ra, tiếp đó giật mình kinh hãi. Nhạc Dương kêu lên: “Làm gì có chuyện ấy?! Một nghìn mét là khái niệm gì chứ? Công trình kiến trúc cao nhất thế giới hiện nay cũng chưa quá năm trăm mét đó.”

Đường Mẫn cũng lên tiếng: “Một nghìn mét là bằng nhà chọc trời hơn hai trăm đến gần ba trăm tầng rồi, tượng Phật gì mà xây cao thế được.”

Trác Mộc Cường Ba cũng nói: “Chuyện khác chưa nói, chỉ riêng nguyên liệu đá thôi cũng chẳng kiếm đâu ra được tảng đá nào to thế cả.”

Lữ Cánh Nam im lặng không lên tiếng, chỉ nhìn Lạt ma Á La. Ánh mắt vị sư già hướng về phía xa xa, nhìn chằm chằm vào những điểm sáng kia không chớp.

Giáo sư Phương Tân chỉ tay về phía ánh sáng, điềm đạm nói: “Trước mặt mọi người đây, nếu đúng là một pho tượng Phật, vậy thì chính là pho tượng khổng lồ cao hơn một nghìn mét đó. Một pho tượng bị chôn sâu dưới lòng đất không thấy ánh sáng mặt trời, một vật thể khổng lồ, một kỳ tích của nhân loại.”

Trác Mộc Cường Ba thoáng ngây người: “Sao cơ, tượng phật cao hơn nghìn mét à?”

Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Tôi suy đoán theo tỉ lệ, cứ dựa vào trọng lượng và độ võng của dây thừng, cùng với khoảng cách tối đa mà ánh đèn pha có thể chiếu đến, thì từ chỗ chúng ta bên này sang tới bên kia cách nhau chừng trên hai trăm mét. Dùng một phép tóan đơn giản so sánh tỉ lệ giữa kích cỡ vật thể khi nhìn thấy cách xa hai trăm mét và kích cỡ thực tế của nó, tôi có thể khẳng định rằng hình tam giác ngược ở gần chúng ta nhất định cũng phải cao từ một trăm mét trở lên. Căn cứ vào tỉ lệ giữa vệt sáng tượng trưng cho cánh tay và hình tam giác ngược cũng có thể tính ra được nó rất dài, kế đó lại dựa vào tỉ lệ giữa các hình tam giác với vệt sáng, chỉ riêng phần cánh tay nhô ra khỏi vách đá đã phải dài hai trăm mét rồi, vì vậy tôi ước tính cả cánh tay này dài khoảng bốn trăm mét gì đấy. Nếu đúng là một pho tượng Phật, mà chỉ riêng chiều dài cánh tay đã lên đến bốn trăm mét, thì chiều cao của cả pho tượng suy ra phải rất lớn. Hơn nữa, nham thạch núi lửa ở vùng này thuộc loại có cấu trúc chắc nhất và rắn nhất, khe vực dưới lòng đất này sâu cũng quá nghìn mét, nên đục đẽo trên vách đá một pho tượng Phật khổng lồ cao khoảng nghìn mét là rất có thể.”

Lữ Cánh Nam thắc mắc: “Vậy còn trọng lực thì sao? Làm sao họ giải quyết được được vấn đề trọng lực? Độ dài tới bốn trăm mét, nham thạch phải gánh chịu trọng lượng tự thân nó đã là cực hạn rồi, làm sao có thể nâng thêm một kết cấu hình tam giác ngược cao đến cả trăm mét nữa?”

Giáo sư Phương Tân lắc đầu: “Chuyện này thì tôi không biết, có điều nhất định là có cách làm được thôi. Nếu có thể đục đẽo ra một bức tượng Phật lớn như thế, thì cũng đâu phải chuyện mấy trăm người làm trong mấy chục năm là xong được đâu.”

Lúc này Trương Lập đã baá tin lại: “Bên này không có kẻ địch, chúng tôi đã chiếm được vị trí có lợi rồi, mọi người mau qua đi. Qua đây mà xem kỳ tích! Trời ơi là trời, kỳ quan thứ chín của thế giới đây rồi. Đảo Huyền Không tự! Đảo Huyền Không tự!”

Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều cảm thấy thắc mắc khó hiểu: “Chuyện này là sao, sao lại không phái người canh giữ? Ở bên kia chỉ cần để lại một người canh giữ, những kẻ đi sau căn bản là không thể qua được mấy sợi dây thừng này. Merkin là chuyên gia của binh đoàn đặc chủng, hắn không thể nào phạm phải sai lầm thế này được, chẳng lẽ bọn chúng nhận định chúng ta không thể đến đây trong thời gian ngắn như thế hay sao? Hay là đã bố trí mai phục ở chỗ nào đó khác?”

Trèo qua dây thừng đến đầu bên kia, Lữ Cánh Nam liền nhìn thấy cảnh ]ợng như trong một quả cầu thủy tinh, bèn nhủ thầm trong bụng: “Thì ra là thế…”

Toàn thể các đội viên đều leo qua dây thừng thuận lợi, lúc ấy mới thấy cả một thế giới hoàn toàn khác trải ra trước mắt.

Merkin đang bôi thuốc mỡ lên chỗ mí mắt sưng phù, mình mẩy trên dưới thâm xanh thâm tím cả. Soares cũng không hơn được bao nhiêu, trên trán có một vệt đen to tướng. Merkin thở hồng hộc nói: “Coi như là sống, tình hình tử thương ra sao?

Max liền báo cáo: “Chết ba thằng, bảy thằng bị thương khá nặng, đã tiêm thuốc giảm đau rồi, miễn cưỡng thì vẫn có thể hành động.”

Merkin nói: “Đợi chút đã, chúng ta còn bao nhiêu thuốc giảm đau?”

Max đáp: “Thứ này, còn lại cũng không nhiều nữa…”

Merkin lo lắng thầm nhủ: “Thật không ngờ, mới tới tòa thứ mười hai mà đã…Thôi bỏ đi, đằng nào cũng dùng chúng làm vật hy sinh thôi mà.”

Soares cầm trên tay chiếc máy điều khiển từ xa như cái điện thoại di động, chăm chú quan sát màn hình hiển thị. Cần phải hết sức cẩn trọng, đã tổn thất mười ba con bồ câu, hai mươi con chuột bạch, ngoài ra còn mất bốn mạng người nữa. Y thầm chửi rủa sao cái nơi chó chết này lại lắm cơ quan cạm bẫy đến thế. Lần đầu tiên đến địa cung Ahezt, y đã cảm thấy nơi đó thật sự là nguy hiểm tột cùng rồi, đâu đâu cũng có nguy cơ, mỗi bước đi đều là cạm bẫy, nhưng đem so với cái Đảo Huyền Không tự này, gần như là đệ tử gặp sư phụ vậy. Ở đây có rất nhiều cơ quan khiến người ta chẳng thể nào mà lần, căn bản không biết làm sao mà bị khởi động. Chẳng lẽ đúng như Mekin nói, chỗ này vốn được xây dựng để huấn luyện cho cái đám Mật tu giả đáng sợ ấy hay sao? Đang nghĩ ngợi, chợt thấy ánh đỏ nhấp nháy một cái, Soares liền cười cười nói: “Ê Ben, bọn chuột nhắt vào rồi. Có chín con.”

Merkin hình như hơi ngạc nhiên nói: “Nhanh thế kia à?”

Max vội cuống lên: “Ông chủ, để tôi dẫn người đi thịt chúng nó.”

Merkin lập tức mắng phủ đầu: “Cái đầu mày làm bằg gỗ hả,suốt ngày chỉ muốn chém chém giết giết! Mày biết chúng nó có vũ khí gì không? Mày định dẫn bao nhiêu thằng đi? Vậy ở đây bọn tao có cần người nữa hay không? Tìm thấy bản đồ quan trọng hơn hay là làm thịt bọn chúng quan trọng hơn hả?”

Y ngừng một chút, đoạn nói tiếp: “Chúng nó không dễ gì đuổi kịp chúng ta đâu, cứ tìm bản đồ trước quan trọng hơn, đầu óc không thể phân tán được, đi thôi! Thằng ngu!”

“Đợi chút đã.” Merkin mới đi được hai bước, liền quay sang bảo hai tên trong đám thuộc hạ: “Thái, Hoàng, hai chúng mày ở lại canh giữ tầng này, nếu bọn chúng nó có thể đến được đây, ha ha…”

Ngưu Nhị Oa chủ động xung phong giết giặc: “Tôi muốn ở lại, ông chủ.”

Merkin xua tay nói: “Không được, mày đi theo bọn tao, lần sau đi, để thù hận của mày lên đến cực điểm đã.”

Nhạc Dương bổ sung thêm: “Vị trí của người quan sát có quan hệ với hình dáng chỉnh thể của trận đồ bằng đá, cần phải đứng ở một vị trí đặc biệt đã đặt từ trước, sau đó nhìn theo hướng ánh sáng phản xạ.”

Trương Lập nói: “Khi vùng đất nơi tổ tiên yên nghỉ tắm trong ánh dương vàng rực rỡ, đó là chỉ bình minh mà bây giờ lại là hoàng hôn, làm thế nào bây giờ?”

Nhạc Dương đáp: “Chúng ta không nhất thiết phải đợi đến bình minh, trận đồ đá này và Nạp Nam Tháp đã có liên hệ chặt chẽ với nhau, vậy thì cần biết góc độ chiếu xạ của tia sáng mặt trời và vị trí của người quan sát, cũng vẫn có thể tìm ra.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Thầy giáo, thấy nghe rõ chưa? Giờ chúng tôi sẽ xuống sông tiến hành đo góc khúc xạ của ánh sáng. Trương Lập sẽ lắp máy phát tín hiệu lên trụ đá. Giáo quan, nhờ cô cho trực thăng ở trên không tiếp nhận tín hiệu, chụp ảnh trận đồ đá này, sau đó chuyển hình dạng và kết cấu của trận đồ đá tới máy tính xách tay của giáo sư Phương Tân. Chúng tôi cần phân tích cầu tạo của nó để tìm ra vị trí của người quan sát.”

Năm phút sau, bọn Trác Mộc Cường Ba đã đưa ra được kết luận: góc khúc xạ của ánh mặt trời là 15 độ 46 phút, máy tính của giáo sư Phương Tân phân tích ra toàn bộ trận đồ bằng đá này có kết cấu hình trứng, đầu lớn hướng về phía thổ lâm, đầu nhỏ hướng về sông Tượng Tuyền, vị trí của người quan sát rất có thể chính là góc hẹp do hai bên kết cấu hình trứng giao nhau hình thành. Nhạc Dương mang theo máy phát tín hiệu, với sự phối hợp của giáo sư Phương Tân, lần từng bước di chuyển đến vị trí của người quan sát, Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập lần lượt dùng máy đo thăng bằng và thước đo góc dựng cho Nhạc Dương một bệ quan sát có góc ngắm 15 độ 46 phút. Nhạc Dương thuận theo góc nghiêng của bệ quan sát nhìn lên trên, tầm nhìn xuyên thẳng qua một trụ đá thấp, kế đó là một trụ đá cao, hai điểm nối liền thành một đường thẳng, cuối cùng ánh mắt khóa chặt vào một trong mấy hang đá phía đối diện.

“Tìm thấy rồi” Nhạc Dương dằn cảm giác kích động trong lòng xuống, gắng hết sức bình tĩnh nói. Đồng thời anh chàng cũng kinh ngạc nhận thấy, khi đứng ở vị trí này, cố định góc ngắm 15 độ 46 phút, không ngờ lại chỉ nhìn thấy được một cái hang đó, toàn bộ những hang còn lại đều biến mất, nhưng chỉ cần hơi ngửa về phía sau hoặc nhìn nghiêng, những hang khác sẽ lập tức xuất hiện trong tầm mắt, tất cả như ảo giác vậy.

Xương Ba tò mò hỏi: “Mọi người đang làm gì vậy? Đo đạc núi Rắn phải không?”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Đúng vậy, chúng tôi phải đi đây. Anh Xương Ba, hết sức cảm ơn anh nhé, cảm ơn.”

Đoạn gã quay sang bảo Nhạc Dương: “Nhạc Dương, chúng tôi cần cậu ở lại đây để khóa chặt mục tiêu lại.”

Nhạc Dương đáp: “Hiểu rồi.”

Xương Ba lại hỏi Trương Lập: “Mọi người muốn lên núi Rắn hả?”

Trương Lập gật đầu: “Đúng thế.”

Anh ta quay sang bảo với Trác Mộc Cường Ba: “Tôi biết có con đường tắt, từ đây có thể đi thẳng lên luôn. Có cần tôi dẫn đường cho không?”

Trác Mộc Cường Ba nắm tay Xương Ba nói: “Cám ơn. Cảm ơn anh nhiều lắm, chúng ta mau đi thôi.”

Lúc này thứ họ thiếu nhất chính là thời gian.

Trác Mộc Cường Ba báo cáo với Lữ Cánh Nam: “Chúng tôi ở phía này gần hơn các cô bên đấy, cửa hang cách chỗ cô chừng ba cây số, chúng ta sẽ gặp nhau ở đó. Nhạc Dương ở đây khóa vị trí, rồi sẽ đến gặp chúng ta sau.”

Lữ Cánh Nam đáp: “Tôi biết rồi.”

Trên đường, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Trương Lập, các cậu còn có phát hiện ra dấu vết gì nữa không?”

Trương Lập đáp: “Không có, chỉ biết bọn chúng có công cụ nâng vật nặng. Còn nữa, Nhạc Dương nói có lẽ là bọn chúng ngồi xe đến đây, nhưng không phát hiện ra dấu vết gì, chắc là đã ngụy trang rồi.”

Bọn họ từ lưng chừng núi đất Nạp Nam Tháp đi lên một con đường ruột dê thẳng tới cửa hang động kia, Nhạc Dương vẫn liên tục giữ liên lạc. Mắt đã thấy sắp đến được cửa hang động tới nơi thì trong núi bỗng nổi lên một cơn gió, cơ hồ tất cả các hang động đều vẳng ra tiếng vọng hoàn toàn khác với tiếng gió lúc nãy họ nghe trong hẻm núi, rít cao vút, chói tai, toán lên một vẻ dữ tợn mà kỳ dị. Xương Ba lúc đầu vẫn còn nói nói cười cười, vừa nghe thấy tiếng gió này, đột nhiên sắc mặt biến đổi, đồng thời cũng dừng luôn chân lại.

“Sao vậy, Xương Ba?” Trác Mộc Cường Ba quay qua hỏi.

Xương Ba nói: “Mọi người không nghe thấy gì hả? m thanh đó.”

Trương Lập hồn nhiên đáp: “Tiếng gió mà.”

“Không…” Sắc mặt Xương ba trắng bệch, “không phải, đó là Hắc Miêu hoàng hậu, đó là lời nguyền của Hắc Miêu hoàng hậu! Tôi, tôi chỉ có thể đưa mọi người tới đây thôi, tôi phải về đây.” Nói rồi không ngờ lập tức quay đầu đi về luôn.

“Xương ba, Xương Ba!” Trác Mộc Cường Ba gọi liền hai tiếng, Xương ba mới quay đầu lại cảnh cáo: “Trước nay tôi vẫn luôn cho rằng, núi Rắn chỉ là núi Rắn, ở đấy chẳng có gì hết. Nhưng hôm nay xem ra người già nói cấm có sai, trong núi Rắng có kho tàng của người Cổ Cách, Hắc miêu hoàng hậu không cho phéo bất cứ kẻ nào chạm vào kho tàng đó cả, bà ta sẽ nguyền rủa tất cả những kẻ nào lại gần, các ông phải cẩn thận đấy.”

Trác Mộc Cường Ba ngần người ra giây lát, rồi mới nói: “Cám ơn anh.” Trong khoảnh khắc Xương Ba ngoảnh đầu lại ấy, gã chợt cảm thấy lóe lên một tia quen thuộc. Ánh mắt đó, thật bất ngờ lại có vẻ gì đó giống với cha già của gã. Đó là ánh nhìn xa trông giộng, dường như có thể nhìn thấu vạn vật. Nhưng gã lập tức nhanh chóng phủ định ý nghĩ này của mình.

Bọn Trác Mộc Cường Ba vào hang. Đây đúng là một cái hang trống huếch trông hoác, tuyệt đối không có gì. Tuy nhiên trong hang bị người ta đào một cái lỗ lớn, nhìn chất đất có thể nhận thấy là mới được đào lên chưa lâu.

Sau khi tìm được cửa hang, Xương Ba đưa Nhạc Dương tới chỗ giao lộ dẫn lên núi, sau đó Nhạc Dương và mấy người bọn Lữ Cánh Nam cùng lúc đến nơi.

“Em sao vậy Mẫn Mẫn?” Trác Mộc Cường Ba vừa nhìn đã phát hiện ra sắc mặt Đường Mẫn hơi khó coi.

Lữ Cánh Nam nói: “Vừa nãy đi giữa đường, sắc mặt cô ấy chợt tái nhợt đi, nhưng mà hình như đã không sao rồi.”

Đường Mẫn gật đầu: “Em khỏe lắm, không sao đâu, chắc là lúc lên núi chạy nhanh quá thôi.”

Lữ Cánh Nam nói: “Vậy, chúng ta xuống đó thôi, tôi đi trước dò đường, mọi người theo phía sau, xuống từng người một.”

Lữ Cánh Nam buộc dây thừng vào người, chầm chậm thả mình xuống dưới. Giáo sư Phương Tân nhìn Trác Mộc Cường Ba nói: “Hình như cậu vẫn còn điều gì ghi hoặc?”

Trác Mộc Cường Ba đáp: “Vừa nãy anh Xương Ba đó nói, chỗ này là kho tàng của Cổ Cách vương, bên trong có lời nguyền của Hắc Miêu hoàng hậu. Tôi nhớ khi chúng ta điều tra tư liệu, đâu có câu chuyện về Hắc miêu hoàng hậu đâu nhỉ.”

Giáo sư Phương Tân nghĩ ngợi giây lát, đoạn quay sang hỏi mấy người bọn Trương Lập: “Các cậu có biết chuyện về Hắc Miêu hoàng hậu không?”

Trương Lập lắc đầu quầy quậy, Nhạc Dương nói: “Tôi chỉ biết chuyện cảnh sát trưởng Hắc Miêu thôi.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Những câu chuyện thần thoại lưu truyền trong dân gian nhiều như lông trâu lông bò, chúng ta không thể chuyện nào cũng tra ra hết được.”

Lạt ma Á La cũng lên tiếng: “Không cần phải quá lo lắng. Dựa vào bích họa trong các hang động trước đó chúng tôi đã thấy cộng với tư liệu của chuyên gia mà Lữ Cánh Nam đang nắm trong tay, có thể khẳng định rằng di chỉ này còn lâu đời hơn vương triều Cổ Cách rất nhiều. Mục dân hiện nay đều là dân di cư cả, chắc chắn là họ đã đem một số câu chuyện về vương triều Cổ Cách mà mình nghe được gượng ép đặt vào khu di tích này thôi.”

Lữ Cánh Nam đã an toàn xuống bên dưới, Ba Tang cũng đã xuống hang. Lạt ma Á La nói: “Câu chuyện về Hắc miêu hoàng hậu thì tôi có biết một chút. Chuyện kể rằng trước khi vương triều Cổ Cách diệt vong. Cổ Cách vương muốn quyết tử với kẻ thù, nhưng lại không nỡ hy sinh hoàng hậu mà mình yêu thương. Vậy là ngài liền triệu vu sư đến, biến hoàng hậu thành mèo đen, hy vọng bà ta có thể chạy trốn khỏi Cổ Cách trước khi kẻ thù phá thành. Nhưng sau khi biến thành mèo đen, hoàng hậu lại không chịu chạy trốn. Quốc vương cố nén niềm đau, vuốtg ve mèo đen mà rằng: “Kể từ nay, kẻ nào có được mèo đen, kẻ ấy sẽ là chủ nhân của Cổ Cách.” Sau khi Cổ Cách bị diệt, Hắc miêu hoàng hậu sống sót, bà vẫn ở trong hình hài meo đen ấy để bảo vệ tất cả vàng bạc châu báu của Cổ Cách vương lưu lại, bất cứ kẻ nào muốn cướp báu vật, đều bị Hắc Miêu hoàng hậu nguyền rủa. Ít nhất thì một trong các phiên bản của câu chuyện này là như vậy đấy.”

Mọi người nghe câu chuyện sơ lược đã cảm thấy chẳng liên quan gì đến họ, duy chỉ có mình Trác Mộc Cường Ba là không nghĩ như thế.

Đường Mẫn là người xuống thứ ba. Trác Mộc Cường Ba nắm chắc dây thừng, đồng thời cũng tạm gác chuyện kia sang một bên, cùng với những người khác trèo xuống hang. Gã không thể nào tránh nổi cảm giác là câu chuyện về Hắc Miêu hoàng hậu ấy khơi gợi cho mình một điều gì đó.

Toàn bộ lối vào xuyên qua tâng đất đặc, trượt xuống dưới chừng bảy tám chục mét thì đến vùng bụng rộng mở của gò núi thổ lâm. Đoạn lối vào cũng kéo dài đến mười mấy mét, nếu không tìm được chính xác, cố đào bừa ở chỗ khác để xuyên vào lòng núi thì cho dù có các công cụ đào đất hiện đại e là cũng phải mất thời gian mười mấy ngày mới xuống được đến nơi. Nếu không có bản đồ, chắc không thể nào phát hiện ra nơi này được, e là có thêm một nghìn năm nữa, ở đây vẫn cứ như thế này chứ không hề suy suyển.

Chín người tập trung dưới lòng đất, nhìn lối thông tối om hẹp như trong hang động đá vôi, không khỏi có chút thấp thỏm bất an trong lòng. Đường hầm nhân tạo bên trong thổ lâm này giống như địa đạo ngầm thời chiến, đường đi gập ghềnh, rất nhiều chỗ ngoặt, lòng hang không cao, phải khom người mới tiến lên được, nhưng không có nhánh rẽ hay cạm bẫy cơ quan gì. Tuy vậy, chỉ riêng chuyện phát hiện được lối vào này đã là khó khăn lắm rồi.

Đi được hơn nửa tiếng, Trác Mộc Cường Ba để ý thấy mặt đất dưới chân bắt đầu xuất hiện vết nứt không ngừng gió thổi ra, thoang thoảng có thể nghe thấy tiếng gió luồn lách rít gào, tựa như âm thanh ta nghe thấy khi bịt chặt cả hai tai lại vậy. Mới đầu, vết nứt ấy chẳng qua chỉ là một cái khe nhỏ, về sau đường hầm càng đi sâu xuống dưới vết nứt càng rộng thêm, bằng bàn tay rồi dần bằng eo hông người, rõ ràng khe nứt cũng thuộc loại trên nhỏ dưới lớn. Trương Lập thử ném một cục đá xuống, rất lâu sau không nghe thấy tiếng vọng, không hiểu rốt cuộc là sâu bao nhiêu mét nữa.

Đa Cát đắc ý dẫn ra truyền thuyết trong thôn nhà anh ta: “Không cần thử nữa, khe nứt này thông thẳng xuống suối vàng, rơi xuống là vào chuyển thế luân hồi luôn, căn bản không có đáy đâu.”

Lữ Cánh Nam nhấn mạnh: “Cẩn thận chút, khe nứt này có thể thông với sông ngầm dưới lòng đất, rơi xuống đó thì cơ hội leo lên là rất nhỏ đây,”

Tiếp tục đi xuống, khe nứt ấy không ngờ lại càng lúc càng lớn dần, con đường dưới chân bọn Trác Mộc Cường Ba thì càng thắt lại, xung quanh trở nên tối đen như mực, cả bọn đoán rằng mình đã ở sâu hơn trăm mét dưới lòng đất. Giáo sư Phương Tân nhận thấy chất đất xung quanh đã khác, đã từ đất sa mạc hóa ban đầu chuyển thành nham thạch núi lửa, nếu tiếp tục đi sâu xuống, đoán chừng sẽ còn có thay đổi nữa.

Cả đoàn cứ thế đi mãi, đột nhiên ánh sáng trên mũ của Lữ Cánh Nam đi đầu tiên tắt phụt. Mọi người đang tưởng có chuyện bất ngờ xảy ra, chợt nghe Lữ Cánh Nam nói: “Cẩn thận, phía trước là khe nứt lớn. Dán sát người vào vách đá, ở đây toàn là đường nhỏ lơ lửng giữa tâng không thôi.”

Mọi người ra khỏi thông đạo mới nhận thấy cả bọn đi ra một khe nứt hẹp. Vừa đi ra, khe nứt bên trái đột nhiên tăng từ một mét chiều rộng lên đến mấy mét, thậm chí còn rộng hơn, còn không gian trên đỉnh đầu trong chốc lát cũng tăng lên mấy chục mét.

Không gian tối đen như mực đột nhiên khác hẳn, ánh sáng của mũ phát sáng bỗng chốc chỉ còn như ngọn lửa đom đóm, thậm chí cả con đường dưới chân cũng không thể nhìn rõ được nữa.

Trương Lập bước hụt chân, suýt chút nữa thì ngã, ngọn đèn pha đang cầm tay rơi tuột xuống, anh chàng lầm bầm chửi: “Đường…đường kiểu gì thế này, sao hẹp thế, gần như là con đường ở bên bờ song Nhã Lỗ Tạng Bố rồi còn gì.”

Nhạc Dương nói: “Lại còn phải nói nữa à, ở đây chẳng còn chút ánh sáng nào, so với con đường bên sông còn nguy hiểm hơn ấy chứ.”

Lữ Cánh Nam gật đầu: “Không sai, đây là một hẻm núi sâu nằm hoàn toàn bên dưới lòng đất. Dựa theo những gì chúng ta có thể nhìn thấy lúc này, quy mô của nó chỉ sợ không nhỏ hơn sông Nhã Lỗ Tạng Bố đâu.”

Mọi người đều chăm chú nhìn ánh sáng ngọn đèn pha yếu dần yếu dân, cuối cùng rồi chỉ còn một chấm nhấp nháy rồi biến mất, giáo sư Phương Tân rùng mình thốt lên: “Trong không gian hoàn toàn tối tăm, ánh sáng đèn pha này ngoài nghìn mét vẫn có thể nhìn thấy, cái khe…khe vực này không ngờ lại sâu như thế…đúng là, đúng là gặp ma rồi.”

Lạt ma Á La nghi hoặc: “Chẳng lẽ lại thông xuống suối vàng thật…”

Ba Tang lạnh lùng nói: “Cho dù là suối vàng, đi thêm một lần nữa cũng ngại gì nữa đâu.”

Lữ Cánh Nam nghiêm giọng: “Mấy người có biết khe vực ở sông Nhã Lỗ Tạng Bố sâu bao nhiêu không? Độ sâu trung bình đã hơn năm nghìn mét rồi, nếu tính thêm cả đỉnh Nam Ca ba Ngõa hay đỉnh Gia La Bạch Lũy, độ sâu của khe núiphải vượt quá bảy nghìn mét.. Mặc dù độ cao trung bình so với mặt nước biển của thổ lâm Cổ Cách thấp hơn hai ngọn núi cao kia, nhưng khả năng khe núi dưới lòng đất này sâu hai ba nghìn mét cũng không phải là không có.”

Mọi người tiếp tục đi sâu xuống, cuối cùng cũng đến được tận cùng con đường nhỏ thì trông thấy dây thừng của bọn merkin để lại. Phía bên đối diện thấp thoáng ánh sáng, đó là ống phát sáng của bọn Merkin đốt lên. Trương Lập nói: “Bọn chúng đi trước rồi, chúng ta cũng mau qua đó thôi.”

Nhạc Dương nói: “Đám thừng móc này cũng vừa buộc vào, bọn chúng mới qua chưa lâu đâu, chúng ta vẫn còn có thể đuổi kịp đấy.”

Lữ Cánh Nam xua tay nói: “Không vội, nếu bờ bên kia có để lại một người canh giữ, chúng ta muốn quan đó thật không dễ dàng chút nào đâu. Ai! Ai đã lên dây thừng rồi?”

Liền đó nghe tiếng Trương Lập kêu lên: “Ấy, Đa Cát! Trở lại đây!” Chỉ thấy cái bóng đen gầy gò ấy đã khuất xa mất. Nhạc Dương chậc lưỡi: “Bò nhanh thật đấy.”

Lạt ma Á La nói: “Người suốt ngày đi lại trên dây xích vắt ngang sông thì bò dây thừng này chẳng lẽ còn không dễ ư?”

Lữ Cánh Nam lập tức quyết định: “Đa Cát không thể liên hệ với chúng ta được, lại không có cả vũ khí nữa. Trương Lập theo anh ta. Những người còn lại ở đây đợi hồi âm của họ.”

Bóng tối lặng im lừng lững, thời gian trôi đi như chậm hẳn lại, Trác Mộc Cường Ba cảm tưởng như đang trở lại nơi gã lần đầu tiên thực nghiệm Mật tu. Đường Mẫn hạ giọng thì thầm: “Những ánh lửa bên kia trông cũng đẹp mắt thật đấy nhỉ.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Mọi người có phát hiện ra không, những đốm lửa ấy rất có quy luật.Giống như những hình tam giác ngược nối liền bằng một đường kẻ chỉ vậy”

Lạt ma Á La có thị lực tốt nhất, nhanh chóng nhìn ngay ra quy luật của đám lửa ấy: không chỉ có một đường, số đường nét được thắp sáng ít nhất có tới mười ba, vài đường phân bố đối xứng, ở giữa có một khoảng tối rất lớn, xét theo độ sáng, các hình tam giác có cái ở gần, có cái lại ở rất xa. Những đốm lửa nhỏ kết thành một vệt dài ấy khiến lạt ma Á La nhớ đến hình ảnh ông từng nhìn thấy trong quá khứ: Tượng thần Ma Hê Thủ La khổng lồ vươn ra mười tám cánh tay, mỗi cánh tay nâng một tòa Phật tháp đảo ngược. Tương truyền, đó chính là thiền phòng để người xưa tu luyện. Rất lâu rất lâu trước đây, những Mật tu giả vượt qua cấp cách tây sẽ có vinh dự tiến vào Thánh địa tu hành ở cấp độ cao hơn này. Lẽ nào…lẽ nào…đây chính là Thánh luyện đường của Mật tu giả đã bị chôn vùi trong lịch sử hay sao?!

Đường Mẫn nói với Trác Mộc Cường Ba: “Anh xem kìa, mất đường sáng nối liền những hình tam giác lại với nhau cứ như con nhện vươn tám cái chân ra ấy nhỉ.”

Ánh mắt Lạt ma Á La lóe lên một tia sắc lạnh, thầm nhủ: “Cô bé này quan sát nhanh nhạy thật.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm? Nghe Mẫn Mẫn nói vậy, giờ nhìn cũng giống thật đấy.”

Nhạc Dương cũng lên tiếng: “Vậy thì cái chỗ tối đen ở giữa ấy là gì thế, thân hình à?”

Mọi người trầm ngâm quan sát, quả thật nhìn kỹ thấy rất giống, thêm nữa những vệt sáng loang lổ lờ mờ còn tạo thành một hình người có mấy cánh tay.

Ba Tang nói: “Nếu đây đúng là một pho tượng Phật, vậy thì e là hơi to quá.”

Lạt ma Á La nghĩ thầm: “Người chưa từng trải sự đời sao biết được! Đại thần Ma Hê Thủ La trấn áp cõi u minh địa phủ, chân đạp suối vàng, đầu đội trời xanh, thân cao vạn nhẫn, đâu phải lọai như ngươi có thể biết đến.”

Giáo sư Phương Tân hỏi Nhạc Dương: “Tượng Phật lớn nhất cậu từng trông thấy bằng chừng nào?”

Nhạc Dương nói luôn: “Lạc Sơn Đại Phật chứ còn gì nữa, đấy mới gọi là to! Một cái vai tượng Phật đủ làm sân bóng rổ…bệ bên dưới chân tượng cũng phải bằng cái sân bóng đá ấy.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Á, Lạc Sơn Đại Phật đúng là tượng Phật đá hàng đầu, có điều đến giờ thì cũng không còn là tượng Phật cao nhất nữa rồi. Tổng chiều cao của Lạc Sơn Đại Phật hình như chỉ khoảng hơn 70 mét, mà Linh Sơn Đại Phật mới xây dựng mấy năm trước nếu tính cả bệ bên dưới đã cao đến trăm mét, gần đây lại nghe nói có Lỗ Sơn Đại Phật tính chiều cao cả bệ thì lên đến một trăm năm mươi mét, hiện nay là tượng Phật cao nhất thế giới.”

Lạt ma Á La kinh ngạc thốt lên: “Không ngờ mới đây lại có thêm tượng Phật lớn đến thế, nếu có cơ hội tôi phải đi bái tế mới được.”

Ba Tang đã đoán được ẩn ý của giáo sư Phương Tân, đột nhiên cười gằn một tiếng hỏi: “Mấy người đã thấy qua bức tượng Phật khổng lồ nào cao hơn một nghìn mét chưa?”

Ngoài giáo sư Phương Tân và Lạt ma Á La, những người khác đều ngẩn ra, tiếp đó giật mình kinh hãi. Nhạc Dương kêu lên: “Làm gì có chuyện ấy?! Một nghìn mét là khái niệm gì chứ? Công trình kiến trúc cao nhất thế giới hiện nay cũng chưa quá năm trăm mét đó.”

Đường Mẫn cũng lên tiếng: “Một nghìn mét là bằng nhà chọc trời hơn hai trăm đến gần ba trăm tầng rồi, tượng Phật gì mà xây cao thế được.”

Trác Mộc Cường Ba cũng nói: “Chuyện khác chưa nói, chỉ riêng nguyên liệu đá thôi cũng chẳng kiếm đâu ra được tảng đá nào to thế cả.”

Lữ Cánh Nam im lặng không lên tiếng, chỉ nhìn Lạt ma Á La. Ánh mắt vị sư già hướng về phía xa xa, nhìn chằm chằm vào những điểm sáng kia không chớp.

Giáo sư Phương Tân chỉ tay về phía ánh sáng, điềm đạm nói: “Trước mặt mọi người đây, nếu đúng là một pho tượng Phật, vậy thì chính là pho tượng khổng lồ cao hơn một nghìn mét đó. Một pho tượng bị chôn sâu dưới lòng đất không thấy ánh sáng mặt trời, một vật thể khổng lồ, một kỳ tích của nhân loại.”

Trác Mộc Cường Ba thoáng ngây người: “Sao cơ, tượng phật cao hơn nghìn mét à?”

Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Tôi suy đoán theo tỉ lệ, cứ dựa vào trọng lượng và độ võng của dây thừng, cùng với khoảng cách tối đa mà ánh đèn pha có thể chiếu đến, thì từ chỗ chúng ta bên này sang tới bên kia cách nhau chừng trên hai trăm mét. Dùng một phép tóan đơn giản so sánh tỉ lệ giữa kích cỡ vật thể khi nhìn thấy cách xa hai trăm mét và kích cỡ thực tế của nó, tôi có thể khẳng định rằng hình tam giác ngược ở gần chúng ta nhất định cũng phải cao từ một trăm mét trở lên. Căn cứ vào tỉ lệ giữa vệt sáng tượng trưng cho cánh tay và hình tam giác ngược cũng có thể tính ra được nó rất dài, kế đó lại dựa vào tỉ lệ giữa các hình tam giác với vệt sáng, chỉ riêng phần cánh tay nhô ra khỏi vách đá đã phải dài hai trăm mét rồi, vì vậy tôi ước tính cả cánh tay này dài khoảng bốn trăm mét gì đấy. Nếu đúng là một pho tượng Phật, mà chỉ riêng chiều dài cánh tay đã lên đến bốn trăm mét, thì chiều cao của cả pho tượng suy ra phải rất lớn. Hơn nữa, nham thạch núi lửa ở vùng này thuộc loại có cấu trúc chắc nhất và rắn nhất, khe vực dưới lòng đất này sâu cũng quá nghìn mét, nên đục đẽo trên vách đá một pho tượng Phật khổng lồ cao khoảng nghìn mét là rất có thể.”

Lữ Cánh Nam thắc mắc: “Vậy còn trọng lực thì sao? Làm sao họ giải quyết được được vấn đề trọng lực? Độ dài tới bốn trăm mét, nham thạch phải gánh chịu trọng lượng tự thân nó đã là cực hạn rồi, làm sao có thể nâng thêm một kết cấu hình tam giác ngược cao đến cả trăm mét nữa?”

Giáo sư Phương Tân lắc đầu: “Chuyện này thì tôi không biết, có điều nhất định là có cách làm được thôi. Nếu có thể đục đẽo ra một bức tượng Phật lớn như thế, thì cũng đâu phải chuyện mấy trăm người làm trong mấy chục năm là xong được đâu.”

Lúc này Trương Lập đã baá tin lại: “Bên này không có kẻ địch, chúng tôi đã chiếm được vị trí có lợi rồi, mọi người mau qua đi. Qua đây mà xem kỳ tích! Trời ơi là trời, kỳ quan thứ chín của thế giới đây rồi. Đảo Huyền Không tự! Đảo Huyền Không tự!”

Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều cảm thấy thắc mắc khó hiểu: “Chuyện này là sao, sao lại không phái người canh giữ? Ở bên kia chỉ cần để lại một người canh giữ, những kẻ đi sau căn bản là không thể qua được mấy sợi dây thừng này. Merkin là chuyên gia của binh đoàn đặc chủng, hắn không thể nào phạm phải sai lầm thế này được, chẳng lẽ bọn chúng nhận định chúng ta không thể đến đây trong thời gian ngắn như thế hay sao? Hay là đã bố trí mai phục ở chỗ nào đó khác?”

Trèo qua dây thừng đến đầu bên kia, Lữ Cánh Nam liền nhìn thấy cảnh ]ợng như trong một quả cầu thủy tinh, bèn nhủ thầm trong bụng: “Thì ra là thế…”

Toàn thể các đội viên đều leo qua dây thừng thuận lợi, lúc ấy mới thấy cả một thế giới hoàn toàn khác trải ra trước mắt.

Merkin đang bôi thuốc mỡ lên chỗ mí mắt sưng phù, mình mẩy trên dưới thâm xanh thâm tím cả. Soares cũng không hơn được bao nhiêu, trên trán có một vệt đen to tướng. Merkin thở hồng hộc nói: “Coi như là sống, tình hình tử thương ra sao?

Max liền báo cáo: “Chết ba thằng, bảy thằng bị thương khá nặng, đã tiêm thuốc giảm đau rồi, miễn cưỡng thì vẫn có thể hành động.”

Merkin nói: “Đợi chút đã, chúng ta còn bao nhiêu thuốc giảm đau?”

Max đáp: “Thứ này, còn lại cũng không nhiều nữa…”

Merkin lo lắng thầm nhủ: “Thật không ngờ, mới tới tòa thứ mười hai mà đã…Thôi bỏ đi, đằng nào cũng dùng chúng làm vật hy sinh thôi mà.”

Soares cầm trên tay chiếc máy điều khiển từ xa như cái điện thoại di động, chăm chú quan sát màn hình hiển thị. Cần phải hết sức cẩn trọng, đã tổn thất mười ba con bồ câu, hai mươi con chuột bạch, ngoài ra còn mất bốn mạng người nữa. Y thầm chửi rủa sao cái nơi chó chết này lại lắm cơ quan cạm bẫy đến thế. Lần đầu tiên đến địa cung Ahezt, y đã cảm thấy nơi đó thật sự là nguy hiểm tột cùng rồi, đâu đâu cũng có nguy cơ, mỗi bước đi đều là cạm bẫy, nhưng đem so với cái Đảo Huyền Không tự này, gần như là đệ tử gặp sư phụ vậy. Ở đây có rất nhiều cơ quan khiến người ta chẳng thể nào mà lần, căn bản không biết làm sao mà bị khởi động. Chẳng lẽ đúng như Mekin nói, chỗ này vốn được xây dựng để huấn luyện cho cái đám Mật tu giả đáng sợ ấy hay sao? Đang nghĩ ngợi, chợt thấy ánh đỏ nhấp nháy một cái, Soares liền cười cười nói: “Ê Ben, bọn chuột nhắt vào rồi. Có chín con.”

Merkin hình như hơi ngạc nhiên nói: “Nhanh thế kia à?”

Max vội cuống lên: “Ông chủ, để tôi dẫn người đi thịt chúng nó.”

Merkin lập tức mắng phủ đầu: “Cái đầu mày làm bằg gỗ hả,suốt ngày chỉ muốn chém chém giết giết! Mày biết chúng nó có vũ khí gì không? Mày định dẫn bao nhiêu thằng đi? Vậy ở đây bọn tao có cần người nữa hay không? Tìm thấy bản đồ quan trọng hơn hay là làm thịt bọn chúng quan trọng hơn hả?”

Y ngừng một chút, đoạn nói tiếp: “Chúng nó không dễ gì đuổi kịp chúng ta đâu, cứ tìm bản đồ trước quan trọng hơn, đầu óc không thể phân tán được, đi thôi! Thằng ngu!”

“Đợi chút đã.” Merkin mới đi được hai bước, liền quay sang bảo hai tên trong đám thuộc hạ: “Thái, Hoàng, hai chúng mày ở lại canh giữ tầng này, nếu bọn chúng nó có thể đến được đây, ha ha…”

Ngưu Nhị Oa chủ động xung phong giết giặc: “Tôi muốn ở lại, ông chủ.”

Merkin xua tay nói: “Không được, mày đi theo bọn tao, lần sau đi, để thù hận của mày lên đến cực điểm đã.”

Bình luận