Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Mật mã Tây Tạng – tập 4

Chương 41: Phật Điện

Tác giả: Hà Mã

Trác Mộc Cường Ba tuyệt vọng ngoảnh lại nhìn lạt ma Á La, thấy vị sư già vẫn còn nghi hoặc hỏi: “Thế nào? Liệu có phải nói cả mười tám tòa tháp ngược trước đó đều không tính, tới đây mới là khảo nghiệm thực sự?”

Trác Mộc Cường Ba khó nhọc gật gật đầu, song lạt ma Á La chừng như vẫn không tin tưởng lắm: “Không phải chứ? Có khả năng nào là chúng ta đọc nhầm không, những hàng chữ này còn cách giải thích nào khác không? Chuyện này không thể nào là thật chứ?”

Đa Cát nói: “Thế này thì khác gì rơi thẳng xuống vực sâu nữa đâu, chỉ có là đau đớn hơn mà thôi. Đây…đây gần như là…!”

Trác Mộc Cường Ba đứng quay lưng về phía ánh sáng, nhìn hàng chữ khắc trên vách đá một hồi lâu, cuối cùng, gã khẽ nói: “Đa Cát, giờ anh thấy sao rồi? Có còn đi được không?”

Đa Cát nhìn vết thương đã ngừng rỉ máu, gật đầu nói: “Ừm, khá nhiều rồi.”

“Vậy thì chúng ta đi thôi.” Trác Mộc Cường Ba ngoảnh mặt lại, nửa gương mặt được ánh đèn rọi sáng, đường nét như khắc bằng dao trổ ấy không ngờ lại kiên nghị đến thế, giọng nói nhẹ nhàng toát lên vẻ thong dong, tự tin khôn tả. Nhìn vùng tối đen trong hang động phía trước, Trác Mộc Cường Ba sải chân bước thẳng vào, tựa như bước trở về nhà gã vậy, hoàn toàn không một chút do dự chần chừ. Lạt ma Á La lẩm bẩm: “Cường Ba thiếu gia…”

Trên đỉnh tòa tháp ngược thứ mười bảy.

Quần áo cả sáu người đều rách rưới thảm hại, song tiếng súng đã ngừng. Đường Mẫn lặng lẽ nhìn đầu bên kia sợi xích sắt, Nhạc Dương nước mắt rơm rớm, Trương Lập mặt trắng bệch ra, cuối cùng vẫn là anh kéo Lữ Cánh Nam sang một bên báo cáo tình hình trên xích sắt lúc đó. Sắc mặt Lữ Cánh Nam cũng lập tức biến đổi, cô nắm chặt vạt áo Trương Lập nói mấy câu gì đó, cuối cùng cũng loạng choạng buông ra. Sau đó Ba Tang hai hàng lông mày của anh ta nhíu chặt lại thành hình chữ “xuyên”, bàn tay nắm chặt phát ra những tiếng răng rắc. Khóe miệng giáo sư Phương Tân mấp máy nhích động, nhưng không một lời nào được thốt ra. Năm người đứng vây thành một vòng xung quanh Đường Mẫn, ánh mắt ảm đạm, nhưng không một ai dám lên tiếng. Đường Mẫn xoay mặt lại, mái tóc cô hơi rối, trên mặt cũng có thêm mấy hạt máu bắn vào và vài chỗ thâm tím, cô cất tiếng hỏi: “Tại sao mấy người đại sư vẫn chưa qua? Không phải là đã phát tín hiệu rồi sao?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Ở đây khu vực từ trường hỗn loạn, thiết bị thông tin bị nhiễu sóng rất nghiêm trọng, nói không chừng họ đang ở đâu đó phát tín hiệu cho chúng ta đấy.”

Nói đến đây, ông gần như tắc nghẹn lời lại.

Nhìn gương mặt búp bê xinh đẹp hoàn toàn không hay biết chuyện gì kia, thật hy vọng cô sẽ không bao giờ biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng sự thực vốn tàn khốc, cuối cùng Trương Lập đành lắp bắp kể lại những gì Nhạc Dương nhìn thấy. Đường Mẫn ngây người, ánh mắt trống rỗng thoáng hiện sắc giận dữ: “Giờ không phải là lúc nói đùa đâu đấy.”

Nhưng bỗng thấy vẻ mặt cả năm người, trong đầu cô bỗng nổ “ầm” một tiếng, trời đất đảo lộn, đột nhiên mất trọng tâm, trong không khí cuộn lên những sắc màu ảo ảnh, cô tựa như mất đi linh hồn, sắc mặt trắng bệch như xác chết trong cổ mộ. “Không thể nào, mọi người gạt tôi…mọi người gạt tôi…Không thể nào, anh Cường Ba không thể gặp chuyện gì được…”

Cô giật lùi từng bước một, phía sau chính là vực sâu muôn trượng. Trương Lập vội kêu lên: “Đừng lùi nữa, phía sau nguy hiểm!” rồi vội lao một bước dài đến, tóm chặt Đường Mẫn lại, chỉ thấy Đường Mẫn hai mắt trắng dã, ngất xỉu tại chỗ.

Khi Đường Mẫn mở mắt trở lại, cô lờ đờ nhìn vào bóng tồi, thì thào hỏi: “Tại sao lại như thế?”

Nhạc Dương nói: “Cô đừng nghĩ ngợi nhiều nữa, bọn họ, bọn họ chỉ rơi xuống thôi, có lẽ…có lẽ là rơi xuống tòa tháp ở bên dưới, cũng không chừng…” nhưng mười tám tóa tháp ngược này từ trên không xuống dưới, khoảng cách càng lúc càng xa, căn bản là không có khả năng rơi từ trên xuống đỉnh tháp ở tầng dưới. Hơn nữa, bọn họ cũng đã trở lại tìm kiếm rồi, đương nhiên, phạm vị tìm kiếm chỉ dừng lại ở tòa tháp ngược thứ mười hai.

Trương Lập nói: “Cường Ba thiếu gia thân thủ phi phàm, độ cao này…độ cao này…” nói được hai câu không ngờ đã nghẹn lời, không thể nói gì thêm được nữa.

Đường Mẫn nước mắt đầm đìa, thẫn thờ đờ đãn nói: “Mọi người, không cần…an ủi tôi.” Nói đoạn, cô liền vùng vẫy đứng dậy.

Lữ Cánh Nam sợ cô nghĩ không thông, liền lao đến giữ chặt cô lại lắc mạnh, nghiêm giọng lại nói: “Đủ rồi, đừng có nhu nhược như thế nữa! Cường Ba lúc nào cũng ở bên cạnh cô, đưa cô vào cái trại huấn luyện này, chắc là cô cũng biết anh ấy muốn nhìn thấy gì rồi chứ! Anh ấy muốn nhìn thấy cô kiên cường, tự lập, muốn thấy cô trưởng thành và trở thành một nhà thám hiểm chân chính như anh trai cô vậy! Nếu hôm nay anh ấy thật sự đã gặp điều bất hạnh, e rằng anh ấy cũng không hy vọng cô chết uổng chết phí theo anh ấy đâu. Nguyện vọng lớn nhất của anh ấy là tìm được Bạc Ba La thần miếu, đến xem con chiến ngao mà mình thần hồn ngơ ngẩn trong mơ kia mà! Nếu cô thật sư yêu Cường Ba thiếu gia, vậy thì hãy coi chuyện hoàn thành tâm nguyện đó là điều khiến anh ấy được an ủi nhất đi! Hơn nữa…” Lữ Cánh Nam buông tay ra, ánh mắt hướng về vực tối sâu không thấy đáy, nói một cách kiên định: “Tôi có cảm giác rất mãnh liệt, rằng bọn họ vẫn chưa chết.”

“A” Trương Lập kinh ngạc kêu lên, những người khác cũng đều lấy làm ngạc nhiên không hiểu giáo quan dựa vào cái gì để khẳng định như vậy. Câu nói cuối cùng này có tác dụng rất lớn, cặp mắt màu xám tro chết chóc của Đường Mẫn lại ánh lên những tia hy vọng. Mặc dù cô cảm thấy chuyện này hết sức mong manh xa vời, nhưng ánh mắt tự tin của Lữ Cánh Nam đã mang đến cho cô một niềm khao khát mới.

Lữ Cánh Nam nói: “Nhạc Dương, hãy kể lại một cách tường tận những gì cậu trông thấy.”

Nhạc Dương lại tường thuật lại một lượt từ đầu đến cuối tình hình lúc ba người lạt ma Á La, Trác Mộc Cường Ba và Đa Cát rơi khỏi xích sắt mà anh nhìn thấy. Lữ Cánh Nam gật đầu hỏi: “Ba người bọn họ cùng lúc rơi xuống, và người ở dưới cùng là Đa Cát. Lúc đó mọi người có nghe thấy tiếng kêu hét gì không?”

Lúc ấy, tình hình hỗn loạn bát nháo, bên này tiếng súng không ngừng, có ai còn chú ý xem có người kêu hét hay không, mọi người đều lắc lắc đầu. Lữ Cánh Nam nói: “Vậy là đúng rồi, nếu bọn họ bị bắn rơi xuống, thì cho dù ý chí kiên định mấy cũng sẽ vì đau đớn mà phát ra tiếng kêu đúng không, mà ở cái nơi cách mấy mét vẫn còn nghe thấy tiếng thở của người khác này, chỉ cách nhau có thế làm sao chúng ta lại không nghe thấy tiếng kêu của họ được. Vậy cũng có nghĩa là, bọn họ không phải bị bắn rơi, mà có lẽ vì không đủ sức đã tuột tay rơi xuống. Khi rơi khỏi xích sắt học không hề bị thương, cũng lắm là chỉ có mình Đa Cát bị thương mà thôi.”

Mọi người đều yên lặng lắng nghe, lúc rơi xuống xích sắt không bị thương, chuyện này thì có quan hệ gì với chuyện bọn Trác Mộc Cường Ba còn sống chứ?

Chỉ nghe Lữ Cánh Nam nói tiếp: “Nếu không bị thương, bọn họ hoàn toàn có thể ổn định thân hình trong không gian hẹp, rồi thực hiện bay lượn trong cự ly ngắn!”

Đến giờ mọi người mới định thần lại, áo cánh dơi! Mỗi người đều mặc một bộ áo cánh dơi mà, cái thứ cứu mạng này, chỉ đến lúc quan trọng mới sực nhớ ra, còn bình thường mọi người đều quên béng nó đi. Hai mắt Đường Mẫn long lanh ngấn lệ, nhưng lần này là những giọt nước mắt kích động.

Cuối cùng Lữ Cánh Nam nói: “Mặc dù không biết lúc này họ đang ở đâu, nhưng nòi không chừng chẳng mấy chốc nữa chúng ra sẽ gặp lại họ đâu đó trong pho tượng Phật khổng lồ. Vì vậy…chúng ta chỉ còn cách tiến lên!”

Cô nhìn Đường Mẫn với ánh mắt của bậc trưởng bối bề trên, vuốt nhẹ mái tóc rối bời, rồi hạ thấp giọng nói: “Đừng bỏ cuộc…”

Đường Mẫn gật mạnh đầu, đẹm mọi chua xót nghẹn ngào nuốt hết vào trong, mở to đôi mắt ầng ậng nước cảm kích nhìn Lữ Cánh Nam, rồi hướng xuống vực sâu tăm tối, ánh mắt mơ màng, đượm lên vẻ thê lương sầu thảm, thân thể lại run lên một chặp. Lữ Cánh Nam thấy vậy vội đưa tay đỡ lấy cô.

Một nhóm sáu người tiếp tục chầm chậm tiến lên. Bọn họ hiểu rất rõ, bám theo sợi dây bọn tên Ben để lại này sẽ là một con đường mới hoàn toàn bất ngờ. Nhạc Dương để ý nhìn Đường Mẫn, thấy cô gái trẻ đang lặng lẽ chỉnh lại ba lô, chuẩn bị bám vào dây thừng, mỗi động tác đều hết sức trầm ổn, mạnh mẽ, tựa hồ như đã chuyển hết bi thương thành sức mạnh. Anh thầm nhủ trong lòng: “Công chúa nước mũi đã dần trưởng thành lên rồi, tia hy vọng chìm bên dưới nỗi tuyệt vọng sâu hun hút đúng là quá sức đặc biệt, dù cho là nó nhỏ nhoi đến mức độ không thể nào tin được đi chăng nữa. Có điều, lúc khẳng định mấy người bọn Cường Ba thiếu gia vẫn còn sống, chút thất vọng thóang lộ ra ấy của giáo quan nghĩa là sao? Chẳng lẽ chỉ là một lời nói dối dành riêng cho cô Mẫn Mẫn thôi, hay ngoài ra còn có nguyên nhân nào khác?”

Hang sâu hút tối tăm, chủ yếu là những đường hầm tròn đường kính khoảng hai mét, vách trần sắp chạm xuống đỉnh đầu khiến người ta cảm thấy tù túng và sắp bị đè nén lạ thường. Khắp trong hang nhìn đâu cũng thấy nhưng thứ tựa như rễ cây, mềm mại mà rất chắc, chỉ mảnh như bông lúa, được bó cuộn lại thành từng tùm, phủ kín hết phần vách. Lạt ma Á La đưa tay giật thử, không ngờ chằng thấy gốc của bó rễ đâu, cứ như đều mọc từ trong vách đá ra vậy. Ánh sáng trên mũ hắt dài bóng người và những chùm rễ đung đưa, cảm giác tựa như có những bóng u linh đang không ngừng lắc lư thân mình.

Bước vào trong hang sâu, mọi người liền cảm thấy như đang đi vào một mê cung hệt cái tổ kiến, nhưng nói là mê cung cũng không giống cho lắm, mà đúng ra là khá giống hệ thống thoát nước thải ở Cánh cửa sinh mệnh, trong thông đạo có vô số đường vòng hình tròn thế này, “quy tắc tay trái” hoàn toàn không phát huy được chút tác dụng nào. Đi được một lúc lâu những đường hầm tròn mới dần hết, lòng hầm bắt đầu vừa dài vừa rộng ra, vô số thông đạo tròn nhỏ hội tu lại thành một đường hầm tròn lớn hơn.

Sau mấy lần thử chuyển hướng từ đường hầm lớn vào đường hầm nhỏ rồi cuối cùng đi vào ngõ cụt, bọn Trác Mộc Cường Ba khẳng định cần phải đi theo đường hầm lớn, còn các đường hầm nhỏ kia đều là dòng hội tụ về đường hầm lớn này, tựa như những đường gân trên phiến lá cây vậy. Ở nơi đường hầm hội tụ, hình thành nên những thạch thất lớn nhỏ không đồng đều có cửa mở thông sang những đường hầm khác nhau. Cơ quan, thứ duy nhất khiến họ phải lo lắng, không ngờ lại không xuất hiện trong những thạch thất ấy. Họ cứ thế đi chừng mười mấy phút, cuối cùng cũng nhìn thấy đường lên phía trên.

Sáu người vừa bám dây thừng sang được phía bên kia liền lập tức nhìn thầy một bãi xương trắng, tựa như có ai đánh đổ một giỏ đựng đầy quả hồ đào ra đất vậy. Xương đầu, xương tay lăn lông lốc khắp nơi khắp chốn, ngoài ra còn có cả đá vụn bắn tung tóe do nổ mìn nữa. Không giống như đám tên Ben và Soares, bọn giáo sư Phương Tân đều biết đây là miệng tượng Phật khổng lồ. Nhìn thấy một bãi đỗ xe thiên nhiên khổng lồ khoét sâu vào vách đá thế này đã đủ vô cùng chấn động rồi, lại còn có cả một núi xương cốt đủ để trải khắp cả bãi đỗ xe ấy nữa, dưới ánh sáng bập bùng của mười mấy ngọn đuốc đang cháy rừng rực, tất cả toát lên vẻ tà dị khôn cùng, Một hồi lâu sau, giáo sư Phương Tân mới lên tiếng hỏi: “Ở đây, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?”

Thế nhưng không một ai có thể trả lời ông, chỉ có ống kính máy quay đen ngòm lặng lẽ ghi lại tất cả.

Sáu người đi lên phía trước mấy bước, bắt gặp cánh cửa cung điện hùng vĩ như cánh cửa vào Thiên cung kia, thảy đều chấn động tột đỉnh. Kiến trúc ba tầng hùng vĩ tựa Thiên cung ấy sao mà uy nghiêm, toát lên một vẻ thần thánh và cao quý không cho phép thế nhân có thể khinh lờn. Những thần những phật, rồi phi thiên, dạ xoa vẽ trên tường càng thể hiện rõ địa vị cao vời vợi có một không hai của tòa kiến trúc này. Sững sờ trước cổng một hồi lâu, Lữ Cánh Nam mới hạ lệnh: “Tiến vào”

Sáu người cẩn thận vượt qua núi xương cốt, đặt chân xuống đâu cũng phát ra tiếng xương cọ xát vào nhau khiến người ta rùng mình sởn tóc gáy. Xương cốt chồng chất ở giữa cửa nhiều nhất, từ cửa vào bên trong thì trải thành một con dốc dài. Thử nghĩ lại, thật không biết bao nhiêu con người bấy giờ đã ở sau cánh cửa này mà gào thét, mà khát khao được sống sót, ấy vậy mà cánh cửa khổng lồ hùng vĩ ấy lại trở thành Cánh cửa Địa ngục ngăn lìa ước vọng sống của họ. Nhưng điều khiến bọn giáo sư Phương Tân không thể tưởng tượng được là, đằng sau cánh cửa ấy không ngờ lại là một tòa đại điện, ở chính giữa dường như từng sừng sững năm pho tượng Phật. Có điều các tượng Phật này sớm đã sụp đổ, chỉ còn lại năm cái bệ đá lớn, một đứng ở giữa, bốn cái còn lại ở bốn góc của đại điện.

Giáo sư Phương Tân cũng hiểu biết sơ sơ, phỏng đoán đại điện sau cánh cửa này chắc là một kiểu Kim Cương điện, gần như Môn thần ở Trung Quốc, thường chỉ là hai pho Kim Cương, trấn thủ ở chùa chiền miếu mạo Phật giáo, nhưng trong điện này lại có đến năm tượng. Lữ Cánh Nam nhìn các đầu tượng Phật lẫn lộn trong đống xương cốt, lờ mờ nhận ra từng pho một. Bất Động minh vương, Giáng Tam Thế Minh Vương; Quân Đồ La Minh Vương; Đại Uy Đức Minh Vương; Kim Cương Dạ Xoa Minh Vương, trong bụng thầm nhủ: “Đây là pháp thân của Ngũ đại Minh Vương mà, có phải bị các thi thể chen chúc làm đổ? Không, đây là do con người phá hoại. Ở đây có nhiều người như vậy, bọn họ rốt cuộc là những ai? Tại sao lại chết ở đây? Là giáo đồ dị giáo đến tấn công Thánh miếu ư? Không, xưa này mình có bao giờ nghe đại pháp sư nhắc đến đâu.”

Đi qua điện Kim Cương, gian đại điện tiếp theo là Thiên Vương điện lại không phải là chính điện Phật giáo bình thường, bên trong không thờ Chủ tôn, nhìn các bệ tượng thì thấy có tới mười hai pho, quây thành hình tròn. Lữ Cánh Nam đoán thầm trong lòng: “Có lẽ đây là Thập Nhị Cung Tôn điện, bốn phía chắc là có Đại Luân Hồi Kim Cương luân chuyển.” Ngoảnh đầu quan sát, trên tường quả nhiên có trụ đồng để xoay bánh xe, tuy nhiên bánh xe khổng lồ cao năm mét đã bị phá, không biết đã mất đi đâu, có lẽ vẫn còn chôn vùi trong đống xương cốt này cũng nên. Cả những tượng Phật cao lớn đến mười mấy mét kia giờ đây cũng đã tan tành, lẫn lộn trong đống xương cốt, còn những tua châu rèm trướng, cờ quạt phướn thì chẳng cần nói đến làm gì, tất cả sớm đã hóa thành cát bụi bay đi rồi. Nghĩ đến đây, trong lòng Lữ Cánh nam không khỏi dâng lên cảm giác đau nhoi nhói.

Cho đến gian điện thứ ba, xương cốt mới bớt đi một chút, chỉ phủ lên mặt đất một tầng mỏng, nhưng vãn không có chỗ trống nào mà đặt chân. Diện tích gian điện này lớn hơn hai gian điện trước đôi chút, chủ yếu là độ dài tăng lên, hai bên mỗi bên có mười tám đôn đá, lớp vôi dày trên tường bong tróc hết cả, các tượng chư thần chư Phật loang lổ như tranh sơn dầu bị rửa trôi màu. “Có lẽ đây là cung Nhị thập Bát Tú.” Lữ Cánh Nam nghĩ.

Gian thứ tư có lẽ mới là chủ điện, điều này thì cả Ba Tang cũng nhận ra. Gian điện này cao lớn hùng vĩ, khí thế phi phàm, mười tám cây cột đá bốn người ôm tựa như mười tám người khổng lồ sừng sững đứng giữa đại điện, chọc vút tầng mây ngạo thị muôn vạn chúng sinh, bệ thờ chủ tọa ở giữa rộng gần một trăm mét vuông, tượng PHật trên đó năm xưa chắc hẳn là phải lớn lắm, bốn phía lại còn có bốn bệ khác, cũng chiếm khá nhiều diện tích. Giáo sư Phương Tân đoán có lẽ đó là bệ thờ của Tứ Đại Thiên Vương bảo hộ.

Bị điện đường hoa lệ nơi đây thu hút, mọi người phút chốc bất giác quên cả những xương cốt dưới chân. Sau khi quan sát cả gian đại điện, bọn họ mới để ý thấy xương cốt ở đây nhiều hơn ở gian thứ hai một chút. Tượng Phật khổng lồ đổ sập, cái đầu to tướng bửa đôi, chỉ còn thấy phần gáy không có khuôn mặt, các phần thân thể khác vỡ vụn, vùi sâu lẫn lộn trong xương cốt người chết.

Giáo sư Phương Tân định rút chân ra khỏi đống xương bước lên trước, thì vướng một vật sắc nhọn găm vào ống quần, khiến cái chân vừa nhấc lên lôi theo cả hai nửa bộ xương gãy lìa. Nhìn lại mới thấy một nửa bộ xương nắm ngũ cổ xử trong tay thọc sâu vào ngực nửa bộ xương kia, tư thế cho thấy hai nửa bộ xương rõ ràng là thuộc về hai cái xác khác nhau. Phát hiện bất ngờ này khiến giáo sư Phương Tân bắt đầu chú ý quan sát những xương cốt mà ai nấy đều cố ý tránh xa. Ông sững sờ nhận thấy lúc chết không ngờ tất cả các bộ xương đều đang trong tình trạng ẩu đả quy mô lớn, hỗn loạn, tay cầm các loại pháp khí như kim cương xử, kim cương linh, hộ ma sáo…để giết chết đối phương, có thứ đâm sâu vào tận xương, xuyên suốt xương lông ngực qua xương sống. Cần một sức mạnh thế nào mới làm được điều ấy chứ! Còn có cả thi thể hai tay đang nâng một mảnh sót lại của bánh xe khổng lồ, nhưng trong gian đại điện này không hề có chuyển luân, chẳng lẽ là ôm từ ngoài gian đại điện thứ ba vào đây? Giáo sư Phương Tân nghĩ đến những bánh xe khổng lồ cao năm mét ấy, băn khoăn không hiểu cần phải có sức mạnh nhường nào thì mới làm nổi điều đó? Những chuyện xảy ra từ mấy trăm năm hoặc thậm chí là cả nghìn năm trước, căn bản không thể nào đoán bừa đoán bãi được, điều lúc này giáo sư có thể làm chỉ là ghi hình toàn bộ vào máy tính một cách chân thực mà thôi.

Sau khi quan sát kỹ, Nhạc Dương cũng có phát hiện mới, thấy trong đống xương cốt có tản mát một vài món trang sức nhỏ, xem ra số lượng cũng không phải ít. Anh tiện tay nhặt lên một mảnh đồng vàng được người ta dùng thủ pháp điêu khắc khắc lên một tượng Phật, trải quan bao năm tháng bể dâu vậy mà vẫn giữ nguyên hình trạng. Nhạc Dương nhìn hình Phật ấy một chút, rồi cất mảnh đồng vào túi. Tiếp đó anh lại phát hiện ra một món đồ hết sức kỳ quái khá, bèn cầm lên tay lật đi lật lại xem xét.

Trương Lập bước lại gần hỏi: “Có phát hiện gì à?”

Nhạc Dương gật đầu: “Anh xem cái này đi.” Đó là một mảnh thép, rất mỏng, hình ký hiệu Ung Trọng, bên trên nối với một lưỡi kéo quái dị. Nói theo cách của Trương Lập thì đấy là cái đầu thỏ mọc đôi tai dài, trên tai có lỗ có thể xỏ dây vào. Trương Lập thắc mắc: “Đây là cái quái gì vậy?”

Nhạc Dương nói: “Tôi phát hiện ra bên cạnh khá nhiều xác chết có cái này. Anh nhìn phía sau đi, cái ký hiệu gồ lên này, mặc dù chúng ta xem không hiểu gì, nhưng tôi có cảm giác đó là số hiệu. cái thứ này chắc là một loại lệnh bài xác định thân phận ấy mà.”

Trương Lập lắc đầu: “Điều này chẳng chứng minh được gì hết, chỗ này nhiều thứ quái dị lắm rồi.”

Nhạc Dương cũng cho cả luôn miếng sắt vào túi.

Trong đống xương có khá nhiều đồ đạc, người đầu tiên chú ý đến điểm này không phải Nhạc Dương, mà là Lữ Cánh Nam. Có hộp đựng thức ăn bát bảo cát tường, khay Mạn Đà La, Ma Ni chuyển, búa đao, tam cổ xử, ngũ ý đến những thi thể vẫn giữ nguyên tư thế đang đánh nhau khi chết, nhưng những điều cô nhận ra đó cũng không hơn các đội viên khác là mấy. Tuy nhiên dựa vào kiến thức của mình, cô còn có một phát hiện đáng kinh ngạc hơn nữa: “Những bộ xương đã vỡ nát này có bộ bọ đập nát, có bộ bị pháp khí ném xuyên qua, lại có những bộ ở tư thế mà người ta không sao tưởng tượng nổi…Chỉ e rằng tất cả những kẻ bỏ xác chết la liệt trong đại điện này, nếu còn tại thế thì dù là bất kỳ ai cũng đều không phải là đối thủ của mình rồi. Đám người này, chắc trước khi chết đều là những cao thủ cực kỳ đáng sợ đây, lẽ nào đều là dũng sĩ của Thánh luyện đường? Tại sao họ lại tàn sát lẫn nhau? Tại sao trước khi chết lại phải hủy hoại ban thờ và đài tế? Đây vốn là những thứ họ dùng sinh mạng để bảo vệ kia mà? Trời ơi, trong Thánh luyện đường mất tích này rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Chỉ sợ rằng đến cả Á La đại nhân cũng không biết đây là chuyện gì nữa mất?”

Gian đại điện trung tâm có cửa mở ra cả bốn phương tám hướng, giáo sư Phương Tân và Lữ Cánh Nam đã đi kiểm tra hết lượt tất cả các phía. Toàn bộ tượng Phật ở đây đều đã bị hủy hoại, có tượng bị lấy thân đem làm vũ khí, khắp đại điện chỗ nào xương cốt cũng chất ngồn ngộn, cảnh tượng hỗn loạn vô cùng. Phía sau đại điện Thiên Vương ở trung tâm này có ba cánh cửa, cửa giữa dẫn đến một đại pháp đường chỉ có trơ trọi một trụ đá không thêm gì khác, là nơi để giảng kinh thuyết pháp; phía sau pháp đường có lẽ là Chuyển kinh điện, mặc dù nếu có sách vở thư tịch gì thì để cả nghìn năm chắc cũng sớm bị hủy hoại từ lâu rồi, đây chỉ là do giáo sư dựa vào một số mảnh gỗ mục còn sót lại mà suy đoàn ra thôi.

Ngoài ra đại điện còn có rất nhiều gian điện nho nhỏ ở mé bên, tượng đá bên trong đã bị hủy hoại sạch, không còn phân biệt được nữa, nhưng có lẽ đó chính là các điện như điện Tỳ Lô, điện Dược sư, điện Tam Thánh, điện Cường Ba, điện Quan m. Mặc dù vẫn còn phỏng đoán tôn giáo này không hẳn tin phật, nhưng dựa vào những kết cấu Phật đường này có thể đoán nó cũng ít nhiều liên quan đến phật giáo. Hai bên gian đại điện đều có cửa thông với Thiền đường, là nơi để tịnh tâm tu thiền; bên ngoài Thiền đường là vòng ngoài của cung điện, thẳng sang tầng thứ hai. Tầng thứ hai này thì đơn giản hơn nhiều, ngoài gian Phật điện ở giữa ra, xung quanh có các gian phòng nhỏ, tùy theo đẳng cấp mà kích cỡ khác nhau. Sát với vách núi là một gian bếp lớn,bên trong hãy còn một khối sừng sững phảng phất hình dáng ban đầu của một bếp lò cỡ đại thời cổ. Đằng sau lại có một gian phòng hết sức cổ quái, bên trong trống không, ở độ cao chừng hai mét trên tường có vài lỗ nhỏ. Nghiên cứu khảo sát một hồi, cuối cùng giáo sư Phương Tân cho rằng đây là nhà tắm, nếu nói nước chảy ra từ các lỗ nhỏ này thì đây còn là phòng tắm vòi sen nữa chứ không vừa. Chỉ là ông nghĩ mãi cũng không thể hiểu nổi, cổ nhân đã làm thế nào để dẫn nước vào tận đây, nếu bảo là từ dòng nước ở đáy khe vực tăm tối này, thì khoảng cách ấy phải lên đến cả mấy nghìn mét chứ chẳng chơi.

Tầng ba xem ra là nơi cư trú của các giáo đồ có địa vị cao hơn. Các căn phòng được chạm khắc hoa văn và sơn vôi rất đẹp, những mẩu hoa văn hình muông thú hãy còn nét lờ mờ nhìn được trên tường đá và từng mảng từng mảng vôi dày chính là minh chứng cho suy đoán này. Trong gian đại điện ở giữa có một cái giá bằng đá khổng lồ hình bậc thang, thoạt nhìn trông như Tổ sư đường vậy; phía sau Tổ sư đường lại là một gian điện lớn nữa, có vẻ như một gian Giảng kinh đường khổng lồ; phía sau cánh cửa mé bên giống như là Tang kinh các để cất giữ các kinh sách quý, có điều giá gỗ đều đã mục thành bột vụn, kinh sách thì hoàn toàn không còn chút tăm tích. Giáo sư Phương Tân biết rõ, những kinh sách Tạng cổ bằng da dê này toàn bộ đều viết bằng nước hòa với bột vàng bột bạc, nên dù có hóa thành tro bụi thì cũng phải để lại một chút dấu tích. Ông đưa mắt quan sát những bộ xương nằm thưa thớt xung quanh, cuộc chiến ở đây không kịch liệt như ở các gian đại điện bên dưới, có lẽ kinh sách đã được chuyển đi rồi chẳng? Giáo sư thầm suy đoán.

Phía ngoài cả ba tầng đại điện đều có những giá đỡ dạng ngầm bên dưới, chắc là đều dùng để đặt những vòng Đại pháp chuyển kinh luân khổng lồ. Tường cung điện, hành lang ngoài, trụ đá và lan can đều nhuộm thành màu đỏ sẫm thường thấy ở đất Tạng, hiềm nỗi xung quanh xương cốt chất chồng, khiến cho sắc đỏ ấy lại càng giống màu máu khô hơn. Sau khi đi theo những ngọn đuốc đánh dấu đường của bọn tên Ben để lại, phát hiện ra con đường thông thẳng ra vách vực sâu phía sau gian Giảng kinh đường, mấy người bọn giáo sư Phương Tân không hề do dự mà chui ngay vào đường hầm tối tăm nhỏ hẹp ấy. Bên trong tòa cung điện hùng vĩ này không hề hoa lệ như bên ngoài, nhưng chẳng ai muốn nán lại nhìn xương cốt chồng chất như núi thêm một chút nào nữa. Họ đi giữa những ngọn đuốc làm dấu chỉ đường mà bọn tên Ben không thể không để lại kia, bằng không chính bọn chúng cũng sẽ lạc đường trong bóng tối mịt mùng không tìm thấy đường ra này, không ai dám đụng đến một cây đuốc nào cả.

Trác Mộc Cường Ba tuyệt vọng ngoảnh lại nhìn lạt ma Á La, thấy vị sư già vẫn còn nghi hoặc hỏi: “Thế nào? Liệu có phải nói cả mười tám tòa tháp ngược trước đó đều không tính, tới đây mới là khảo nghiệm thực sự?”

Trác Mộc Cường Ba khó nhọc gật gật đầu, song lạt ma Á La chừng như vẫn không tin tưởng lắm: “Không phải chứ? Có khả năng nào là chúng ta đọc nhầm không, những hàng chữ này còn cách giải thích nào khác không? Chuyện này không thể nào là thật chứ?”

Đa Cát nói: “Thế này thì khác gì rơi thẳng xuống vực sâu nữa đâu, chỉ có là đau đớn hơn mà thôi. Đây…đây gần như là…!”

Trác Mộc Cường Ba đứng quay lưng về phía ánh sáng, nhìn hàng chữ khắc trên vách đá một hồi lâu, cuối cùng, gã khẽ nói: “Đa Cát, giờ anh thấy sao rồi? Có còn đi được không?”

Đa Cát nhìn vết thương đã ngừng rỉ máu, gật đầu nói: “Ừm, khá nhiều rồi.”

“Vậy thì chúng ta đi thôi.” Trác Mộc Cường Ba ngoảnh mặt lại, nửa gương mặt được ánh đèn rọi sáng, đường nét như khắc bằng dao trổ ấy không ngờ lại kiên nghị đến thế, giọng nói nhẹ nhàng toát lên vẻ thong dong, tự tin khôn tả. Nhìn vùng tối đen trong hang động phía trước, Trác Mộc Cường Ba sải chân bước thẳng vào, tựa như bước trở về nhà gã vậy, hoàn toàn không một chút do dự chần chừ. Lạt ma Á La lẩm bẩm: “Cường Ba thiếu gia…”

Trên đỉnh tòa tháp ngược thứ mười bảy.

Quần áo cả sáu người đều rách rưới thảm hại, song tiếng súng đã ngừng. Đường Mẫn lặng lẽ nhìn đầu bên kia sợi xích sắt, Nhạc Dương nước mắt rơm rớm, Trương Lập mặt trắng bệch ra, cuối cùng vẫn là anh kéo Lữ Cánh Nam sang một bên báo cáo tình hình trên xích sắt lúc đó. Sắc mặt Lữ Cánh Nam cũng lập tức biến đổi, cô nắm chặt vạt áo Trương Lập nói mấy câu gì đó, cuối cùng cũng loạng choạng buông ra. Sau đó Ba Tang hai hàng lông mày của anh ta nhíu chặt lại thành hình chữ “xuyên”, bàn tay nắm chặt phát ra những tiếng răng rắc. Khóe miệng giáo sư Phương Tân mấp máy nhích động, nhưng không một lời nào được thốt ra. Năm người đứng vây thành một vòng xung quanh Đường Mẫn, ánh mắt ảm đạm, nhưng không một ai dám lên tiếng. Đường Mẫn xoay mặt lại, mái tóc cô hơi rối, trên mặt cũng có thêm mấy hạt máu bắn vào và vài chỗ thâm tím, cô cất tiếng hỏi: “Tại sao mấy người đại sư vẫn chưa qua? Không phải là đã phát tín hiệu rồi sao?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Ở đây khu vực từ trường hỗn loạn, thiết bị thông tin bị nhiễu sóng rất nghiêm trọng, nói không chừng họ đang ở đâu đó phát tín hiệu cho chúng ta đấy.”

Nói đến đây, ông gần như tắc nghẹn lời lại.

Nhìn gương mặt búp bê xinh đẹp hoàn toàn không hay biết chuyện gì kia, thật hy vọng cô sẽ không bao giờ biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng sự thực vốn tàn khốc, cuối cùng Trương Lập đành lắp bắp kể lại những gì Nhạc Dương nhìn thấy. Đường Mẫn ngây người, ánh mắt trống rỗng thoáng hiện sắc giận dữ: “Giờ không phải là lúc nói đùa đâu đấy.”

Nhưng bỗng thấy vẻ mặt cả năm người, trong đầu cô bỗng nổ “ầm” một tiếng, trời đất đảo lộn, đột nhiên mất trọng tâm, trong không khí cuộn lên những sắc màu ảo ảnh, cô tựa như mất đi linh hồn, sắc mặt trắng bệch như xác chết trong cổ mộ. “Không thể nào, mọi người gạt tôi…mọi người gạt tôi…Không thể nào, anh Cường Ba không thể gặp chuyện gì được…”

Cô giật lùi từng bước một, phía sau chính là vực sâu muôn trượng. Trương Lập vội kêu lên: “Đừng lùi nữa, phía sau nguy hiểm!” rồi vội lao một bước dài đến, tóm chặt Đường Mẫn lại, chỉ thấy Đường Mẫn hai mắt trắng dã, ngất xỉu tại chỗ.

Khi Đường Mẫn mở mắt trở lại, cô lờ đờ nhìn vào bóng tồi, thì thào hỏi: “Tại sao lại như thế?”

Nhạc Dương nói: “Cô đừng nghĩ ngợi nhiều nữa, bọn họ, bọn họ chỉ rơi xuống thôi, có lẽ…có lẽ là rơi xuống tòa tháp ở bên dưới, cũng không chừng…” nhưng mười tám tóa tháp ngược này từ trên không xuống dưới, khoảng cách càng lúc càng xa, căn bản là không có khả năng rơi từ trên xuống đỉnh tháp ở tầng dưới. Hơn nữa, bọn họ cũng đã trở lại tìm kiếm rồi, đương nhiên, phạm vị tìm kiếm chỉ dừng lại ở tòa tháp ngược thứ mười hai.

Trương Lập nói: “Cường Ba thiếu gia thân thủ phi phàm, độ cao này…độ cao này…” nói được hai câu không ngờ đã nghẹn lời, không thể nói gì thêm được nữa.

Đường Mẫn nước mắt đầm đìa, thẫn thờ đờ đãn nói: “Mọi người, không cần…an ủi tôi.” Nói đoạn, cô liền vùng vẫy đứng dậy.

Lữ Cánh Nam sợ cô nghĩ không thông, liền lao đến giữ chặt cô lại lắc mạnh, nghiêm giọng lại nói: “Đủ rồi, đừng có nhu nhược như thế nữa! Cường Ba lúc nào cũng ở bên cạnh cô, đưa cô vào cái trại huấn luyện này, chắc là cô cũng biết anh ấy muốn nhìn thấy gì rồi chứ! Anh ấy muốn nhìn thấy cô kiên cường, tự lập, muốn thấy cô trưởng thành và trở thành một nhà thám hiểm chân chính như anh trai cô vậy! Nếu hôm nay anh ấy thật sự đã gặp điều bất hạnh, e rằng anh ấy cũng không hy vọng cô chết uổng chết phí theo anh ấy đâu. Nguyện vọng lớn nhất của anh ấy là tìm được Bạc Ba La thần miếu, đến xem con chiến ngao mà mình thần hồn ngơ ngẩn trong mơ kia mà! Nếu cô thật sư yêu Cường Ba thiếu gia, vậy thì hãy coi chuyện hoàn thành tâm nguyện đó là điều khiến anh ấy được an ủi nhất đi! Hơn nữa…” Lữ Cánh Nam buông tay ra, ánh mắt hướng về vực tối sâu không thấy đáy, nói một cách kiên định: “Tôi có cảm giác rất mãnh liệt, rằng bọn họ vẫn chưa chết.”

“A” Trương Lập kinh ngạc kêu lên, những người khác cũng đều lấy làm ngạc nhiên không hiểu giáo quan dựa vào cái gì để khẳng định như vậy. Câu nói cuối cùng này có tác dụng rất lớn, cặp mắt màu xám tro chết chóc của Đường Mẫn lại ánh lên những tia hy vọng. Mặc dù cô cảm thấy chuyện này hết sức mong manh xa vời, nhưng ánh mắt tự tin của Lữ Cánh Nam đã mang đến cho cô một niềm khao khát mới.

Lữ Cánh Nam nói: “Nhạc Dương, hãy kể lại một cách tường tận những gì cậu trông thấy.”

Nhạc Dương lại tường thuật lại một lượt từ đầu đến cuối tình hình lúc ba người lạt ma Á La, Trác Mộc Cường Ba và Đa Cát rơi khỏi xích sắt mà anh nhìn thấy. Lữ Cánh Nam gật đầu hỏi: “Ba người bọn họ cùng lúc rơi xuống, và người ở dưới cùng là Đa Cát. Lúc đó mọi người có nghe thấy tiếng kêu hét gì không?”

Lúc ấy, tình hình hỗn loạn bát nháo, bên này tiếng súng không ngừng, có ai còn chú ý xem có người kêu hét hay không, mọi người đều lắc lắc đầu. Lữ Cánh Nam nói: “Vậy là đúng rồi, nếu bọn họ bị bắn rơi xuống, thì cho dù ý chí kiên định mấy cũng sẽ vì đau đớn mà phát ra tiếng kêu đúng không, mà ở cái nơi cách mấy mét vẫn còn nghe thấy tiếng thở của người khác này, chỉ cách nhau có thế làm sao chúng ta lại không nghe thấy tiếng kêu của họ được. Vậy cũng có nghĩa là, bọn họ không phải bị bắn rơi, mà có lẽ vì không đủ sức đã tuột tay rơi xuống. Khi rơi khỏi xích sắt học không hề bị thương, cũng lắm là chỉ có mình Đa Cát bị thương mà thôi.”

Mọi người đều yên lặng lắng nghe, lúc rơi xuống xích sắt không bị thương, chuyện này thì có quan hệ gì với chuyện bọn Trác Mộc Cường Ba còn sống chứ?

Chỉ nghe Lữ Cánh Nam nói tiếp: “Nếu không bị thương, bọn họ hoàn toàn có thể ổn định thân hình trong không gian hẹp, rồi thực hiện bay lượn trong cự ly ngắn!”

Đến giờ mọi người mới định thần lại, áo cánh dơi! Mỗi người đều mặc một bộ áo cánh dơi mà, cái thứ cứu mạng này, chỉ đến lúc quan trọng mới sực nhớ ra, còn bình thường mọi người đều quên béng nó đi. Hai mắt Đường Mẫn long lanh ngấn lệ, nhưng lần này là những giọt nước mắt kích động.

Cuối cùng Lữ Cánh Nam nói: “Mặc dù không biết lúc này họ đang ở đâu, nhưng nòi không chừng chẳng mấy chốc nữa chúng ra sẽ gặp lại họ đâu đó trong pho tượng Phật khổng lồ. Vì vậy…chúng ta chỉ còn cách tiến lên!”

Cô nhìn Đường Mẫn với ánh mắt của bậc trưởng bối bề trên, vuốt nhẹ mái tóc rối bời, rồi hạ thấp giọng nói: “Đừng bỏ cuộc…”

Đường Mẫn gật mạnh đầu, đẹm mọi chua xót nghẹn ngào nuốt hết vào trong, mở to đôi mắt ầng ậng nước cảm kích nhìn Lữ Cánh Nam, rồi hướng xuống vực sâu tăm tối, ánh mắt mơ màng, đượm lên vẻ thê lương sầu thảm, thân thể lại run lên một chặp. Lữ Cánh Nam thấy vậy vội đưa tay đỡ lấy cô.

Một nhóm sáu người tiếp tục chầm chậm tiến lên. Bọn họ hiểu rất rõ, bám theo sợi dây bọn tên Ben để lại này sẽ là một con đường mới hoàn toàn bất ngờ. Nhạc Dương để ý nhìn Đường Mẫn, thấy cô gái trẻ đang lặng lẽ chỉnh lại ba lô, chuẩn bị bám vào dây thừng, mỗi động tác đều hết sức trầm ổn, mạnh mẽ, tựa hồ như đã chuyển hết bi thương thành sức mạnh. Anh thầm nhủ trong lòng: “Công chúa nước mũi đã dần trưởng thành lên rồi, tia hy vọng chìm bên dưới nỗi tuyệt vọng sâu hun hút đúng là quá sức đặc biệt, dù cho là nó nhỏ nhoi đến mức độ không thể nào tin được đi chăng nữa. Có điều, lúc khẳng định mấy người bọn Cường Ba thiếu gia vẫn còn sống, chút thất vọng thóang lộ ra ấy của giáo quan nghĩa là sao? Chẳng lẽ chỉ là một lời nói dối dành riêng cho cô Mẫn Mẫn thôi, hay ngoài ra còn có nguyên nhân nào khác?”

Hang sâu hút tối tăm, chủ yếu là những đường hầm tròn đường kính khoảng hai mét, vách trần sắp chạm xuống đỉnh đầu khiến người ta cảm thấy tù túng và sắp bị đè nén lạ thường. Khắp trong hang nhìn đâu cũng thấy nhưng thứ tựa như rễ cây, mềm mại mà rất chắc, chỉ mảnh như bông lúa, được bó cuộn lại thành từng tùm, phủ kín hết phần vách. Lạt ma Á La đưa tay giật thử, không ngờ chằng thấy gốc của bó rễ đâu, cứ như đều mọc từ trong vách đá ra vậy. Ánh sáng trên mũ hắt dài bóng người và những chùm rễ đung đưa, cảm giác tựa như có những bóng u linh đang không ngừng lắc lư thân mình.

Bước vào trong hang sâu, mọi người liền cảm thấy như đang đi vào một mê cung hệt cái tổ kiến, nhưng nói là mê cung cũng không giống cho lắm, mà đúng ra là khá giống hệ thống thoát nước thải ở Cánh cửa sinh mệnh, trong thông đạo có vô số đường vòng hình tròn thế này, “quy tắc tay trái” hoàn toàn không phát huy được chút tác dụng nào. Đi được một lúc lâu những đường hầm tròn mới dần hết, lòng hầm bắt đầu vừa dài vừa rộng ra, vô số thông đạo tròn nhỏ hội tu lại thành một đường hầm tròn lớn hơn.

Sau mấy lần thử chuyển hướng từ đường hầm lớn vào đường hầm nhỏ rồi cuối cùng đi vào ngõ cụt, bọn Trác Mộc Cường Ba khẳng định cần phải đi theo đường hầm lớn, còn các đường hầm nhỏ kia đều là dòng hội tụ về đường hầm lớn này, tựa như những đường gân trên phiến lá cây vậy. Ở nơi đường hầm hội tụ, hình thành nên những thạch thất lớn nhỏ không đồng đều có cửa mở thông sang những đường hầm khác nhau. Cơ quan, thứ duy nhất khiến họ phải lo lắng, không ngờ lại không xuất hiện trong những thạch thất ấy. Họ cứ thế đi chừng mười mấy phút, cuối cùng cũng nhìn thấy đường lên phía trên.

Sáu người vừa bám dây thừng sang được phía bên kia liền lập tức nhìn thầy một bãi xương trắng, tựa như có ai đánh đổ một giỏ đựng đầy quả hồ đào ra đất vậy. Xương đầu, xương tay lăn lông lốc khắp nơi khắp chốn, ngoài ra còn có cả đá vụn bắn tung tóe do nổ mìn nữa. Không giống như đám tên Ben và Soares, bọn giáo sư Phương Tân đều biết đây là miệng tượng Phật khổng lồ. Nhìn thấy một bãi đỗ xe thiên nhiên khổng lồ khoét sâu vào vách đá thế này đã đủ vô cùng chấn động rồi, lại còn có cả một núi xương cốt đủ để trải khắp cả bãi đỗ xe ấy nữa, dưới ánh sáng bập bùng của mười mấy ngọn đuốc đang cháy rừng rực, tất cả toát lên vẻ tà dị khôn cùng, Một hồi lâu sau, giáo sư Phương Tân mới lên tiếng hỏi: “Ở đây, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?”

Thế nhưng không một ai có thể trả lời ông, chỉ có ống kính máy quay đen ngòm lặng lẽ ghi lại tất cả.

Sáu người đi lên phía trước mấy bước, bắt gặp cánh cửa cung điện hùng vĩ như cánh cửa vào Thiên cung kia, thảy đều chấn động tột đỉnh. Kiến trúc ba tầng hùng vĩ tựa Thiên cung ấy sao mà uy nghiêm, toát lên một vẻ thần thánh và cao quý không cho phép thế nhân có thể khinh lờn. Những thần những phật, rồi phi thiên, dạ xoa vẽ trên tường càng thể hiện rõ địa vị cao vời vợi có một không hai của tòa kiến trúc này. Sững sờ trước cổng một hồi lâu, Lữ Cánh Nam mới hạ lệnh: “Tiến vào”

Sáu người cẩn thận vượt qua núi xương cốt, đặt chân xuống đâu cũng phát ra tiếng xương cọ xát vào nhau khiến người ta rùng mình sởn tóc gáy. Xương cốt chồng chất ở giữa cửa nhiều nhất, từ cửa vào bên trong thì trải thành một con dốc dài. Thử nghĩ lại, thật không biết bao nhiêu con người bấy giờ đã ở sau cánh cửa này mà gào thét, mà khát khao được sống sót, ấy vậy mà cánh cửa khổng lồ hùng vĩ ấy lại trở thành Cánh cửa Địa ngục ngăn lìa ước vọng sống của họ. Nhưng điều khiến bọn giáo sư Phương Tân không thể tưởng tượng được là, đằng sau cánh cửa ấy không ngờ lại là một tòa đại điện, ở chính giữa dường như từng sừng sững năm pho tượng Phật. Có điều các tượng Phật này sớm đã sụp đổ, chỉ còn lại năm cái bệ đá lớn, một đứng ở giữa, bốn cái còn lại ở bốn góc của đại điện.

Giáo sư Phương Tân cũng hiểu biết sơ sơ, phỏng đoán đại điện sau cánh cửa này chắc là một kiểu Kim Cương điện, gần như Môn thần ở Trung Quốc, thường chỉ là hai pho Kim Cương, trấn thủ ở chùa chiền miếu mạo Phật giáo, nhưng trong điện này lại có đến năm tượng. Lữ Cánh Nam nhìn các đầu tượng Phật lẫn lộn trong đống xương cốt, lờ mờ nhận ra từng pho một. Bất Động minh vương, Giáng Tam Thế Minh Vương; Quân Đồ La Minh Vương; Đại Uy Đức Minh Vương; Kim Cương Dạ Xoa Minh Vương, trong bụng thầm nhủ: “Đây là pháp thân của Ngũ đại Minh Vương mà, có phải bị các thi thể chen chúc làm đổ? Không, đây là do con người phá hoại. Ở đây có nhiều người như vậy, bọn họ rốt cuộc là những ai? Tại sao lại chết ở đây? Là giáo đồ dị giáo đến tấn công Thánh miếu ư? Không, xưa này mình có bao giờ nghe đại pháp sư nhắc đến đâu.”

Đi qua điện Kim Cương, gian đại điện tiếp theo là Thiên Vương điện lại không phải là chính điện Phật giáo bình thường, bên trong không thờ Chủ tôn, nhìn các bệ tượng thì thấy có tới mười hai pho, quây thành hình tròn. Lữ Cánh Nam đoán thầm trong lòng: “Có lẽ đây là Thập Nhị Cung Tôn điện, bốn phía chắc là có Đại Luân Hồi Kim Cương luân chuyển.” Ngoảnh đầu quan sát, trên tường quả nhiên có trụ đồng để xoay bánh xe, tuy nhiên bánh xe khổng lồ cao năm mét đã bị phá, không biết đã mất đi đâu, có lẽ vẫn còn chôn vùi trong đống xương cốt này cũng nên. Cả những tượng Phật cao lớn đến mười mấy mét kia giờ đây cũng đã tan tành, lẫn lộn trong đống xương cốt, còn những tua châu rèm trướng, cờ quạt phướn thì chẳng cần nói đến làm gì, tất cả sớm đã hóa thành cát bụi bay đi rồi. Nghĩ đến đây, trong lòng Lữ Cánh nam không khỏi dâng lên cảm giác đau nhoi nhói.

Cho đến gian điện thứ ba, xương cốt mới bớt đi một chút, chỉ phủ lên mặt đất một tầng mỏng, nhưng vãn không có chỗ trống nào mà đặt chân. Diện tích gian điện này lớn hơn hai gian điện trước đôi chút, chủ yếu là độ dài tăng lên, hai bên mỗi bên có mười tám đôn đá, lớp vôi dày trên tường bong tróc hết cả, các tượng chư thần chư Phật loang lổ như tranh sơn dầu bị rửa trôi màu. “Có lẽ đây là cung Nhị thập Bát Tú.” Lữ Cánh Nam nghĩ.

Gian thứ tư có lẽ mới là chủ điện, điều này thì cả Ba Tang cũng nhận ra. Gian điện này cao lớn hùng vĩ, khí thế phi phàm, mười tám cây cột đá bốn người ôm tựa như mười tám người khổng lồ sừng sững đứng giữa đại điện, chọc vút tầng mây ngạo thị muôn vạn chúng sinh, bệ thờ chủ tọa ở giữa rộng gần một trăm mét vuông, tượng PHật trên đó năm xưa chắc hẳn là phải lớn lắm, bốn phía lại còn có bốn bệ khác, cũng chiếm khá nhiều diện tích. Giáo sư Phương Tân đoán có lẽ đó là bệ thờ của Tứ Đại Thiên Vương bảo hộ.

Bị điện đường hoa lệ nơi đây thu hút, mọi người phút chốc bất giác quên cả những xương cốt dưới chân. Sau khi quan sát cả gian đại điện, bọn họ mới để ý thấy xương cốt ở đây nhiều hơn ở gian thứ hai một chút. Tượng Phật khổng lồ đổ sập, cái đầu to tướng bửa đôi, chỉ còn thấy phần gáy không có khuôn mặt, các phần thân thể khác vỡ vụn, vùi sâu lẫn lộn trong xương cốt người chết.

Giáo sư Phương Tân định rút chân ra khỏi đống xương bước lên trước, thì vướng một vật sắc nhọn găm vào ống quần, khiến cái chân vừa nhấc lên lôi theo cả hai nửa bộ xương gãy lìa. Nhìn lại mới thấy một nửa bộ xương nắm ngũ cổ xử trong tay thọc sâu vào ngực nửa bộ xương kia, tư thế cho thấy hai nửa bộ xương rõ ràng là thuộc về hai cái xác khác nhau. Phát hiện bất ngờ này khiến giáo sư Phương Tân bắt đầu chú ý quan sát những xương cốt mà ai nấy đều cố ý tránh xa. Ông sững sờ nhận thấy lúc chết không ngờ tất cả các bộ xương đều đang trong tình trạng ẩu đả quy mô lớn, hỗn loạn, tay cầm các loại pháp khí như kim cương xử, kim cương linh, hộ ma sáo…để giết chết đối phương, có thứ đâm sâu vào tận xương, xuyên suốt xương lông ngực qua xương sống. Cần một sức mạnh thế nào mới làm được điều ấy chứ! Còn có cả thi thể hai tay đang nâng một mảnh sót lại của bánh xe khổng lồ, nhưng trong gian đại điện này không hề có chuyển luân, chẳng lẽ là ôm từ ngoài gian đại điện thứ ba vào đây? Giáo sư Phương Tân nghĩ đến những bánh xe khổng lồ cao năm mét ấy, băn khoăn không hiểu cần phải có sức mạnh nhường nào thì mới làm nổi điều đó? Những chuyện xảy ra từ mấy trăm năm hoặc thậm chí là cả nghìn năm trước, căn bản không thể nào đoán bừa đoán bãi được, điều lúc này giáo sư có thể làm chỉ là ghi hình toàn bộ vào máy tính một cách chân thực mà thôi.

Sau khi quan sát kỹ, Nhạc Dương cũng có phát hiện mới, thấy trong đống xương cốt có tản mát một vài món trang sức nhỏ, xem ra số lượng cũng không phải ít. Anh tiện tay nhặt lên một mảnh đồng vàng được người ta dùng thủ pháp điêu khắc khắc lên một tượng Phật, trải quan bao năm tháng bể dâu vậy mà vẫn giữ nguyên hình trạng. Nhạc Dương nhìn hình Phật ấy một chút, rồi cất mảnh đồng vào túi. Tiếp đó anh lại phát hiện ra một món đồ hết sức kỳ quái khá, bèn cầm lên tay lật đi lật lại xem xét.

Trương Lập bước lại gần hỏi: “Có phát hiện gì à?”

Nhạc Dương gật đầu: “Anh xem cái này đi.” Đó là một mảnh thép, rất mỏng, hình ký hiệu Ung Trọng, bên trên nối với một lưỡi kéo quái dị. Nói theo cách của Trương Lập thì đấy là cái đầu thỏ mọc đôi tai dài, trên tai có lỗ có thể xỏ dây vào. Trương Lập thắc mắc: “Đây là cái quái gì vậy?”

Nhạc Dương nói: “Tôi phát hiện ra bên cạnh khá nhiều xác chết có cái này. Anh nhìn phía sau đi, cái ký hiệu gồ lên này, mặc dù chúng ta xem không hiểu gì, nhưng tôi có cảm giác đó là số hiệu. cái thứ này chắc là một loại lệnh bài xác định thân phận ấy mà.”

Trương Lập lắc đầu: “Điều này chẳng chứng minh được gì hết, chỗ này nhiều thứ quái dị lắm rồi.”

Nhạc Dương cũng cho cả luôn miếng sắt vào túi.

Trong đống xương có khá nhiều đồ đạc, người đầu tiên chú ý đến điểm này không phải Nhạc Dương, mà là Lữ Cánh Nam. Có hộp đựng thức ăn bát bảo cát tường, khay Mạn Đà La, Ma Ni chuyển, búa đao, tam cổ xử, ngũ ý đến những thi thể vẫn giữ nguyên tư thế đang đánh nhau khi chết, nhưng những điều cô nhận ra đó cũng không hơn các đội viên khác là mấy. Tuy nhiên dựa vào kiến thức của mình, cô còn có một phát hiện đáng kinh ngạc hơn nữa: “Những bộ xương đã vỡ nát này có bộ bọ đập nát, có bộ bị pháp khí ném xuyên qua, lại có những bộ ở tư thế mà người ta không sao tưởng tượng nổi…Chỉ e rằng tất cả những kẻ bỏ xác chết la liệt trong đại điện này, nếu còn tại thế thì dù là bất kỳ ai cũng đều không phải là đối thủ của mình rồi. Đám người này, chắc trước khi chết đều là những cao thủ cực kỳ đáng sợ đây, lẽ nào đều là dũng sĩ của Thánh luyện đường? Tại sao họ lại tàn sát lẫn nhau? Tại sao trước khi chết lại phải hủy hoại ban thờ và đài tế? Đây vốn là những thứ họ dùng sinh mạng để bảo vệ kia mà? Trời ơi, trong Thánh luyện đường mất tích này rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Chỉ sợ rằng đến cả Á La đại nhân cũng không biết đây là chuyện gì nữa mất?”

Gian đại điện trung tâm có cửa mở ra cả bốn phương tám hướng, giáo sư Phương Tân và Lữ Cánh Nam đã đi kiểm tra hết lượt tất cả các phía. Toàn bộ tượng Phật ở đây đều đã bị hủy hoại, có tượng bị lấy thân đem làm vũ khí, khắp đại điện chỗ nào xương cốt cũng chất ngồn ngộn, cảnh tượng hỗn loạn vô cùng. Phía sau đại điện Thiên Vương ở trung tâm này có ba cánh cửa, cửa giữa dẫn đến một đại pháp đường chỉ có trơ trọi một trụ đá không thêm gì khác, là nơi để giảng kinh thuyết pháp; phía sau pháp đường có lẽ là Chuyển kinh điện, mặc dù nếu có sách vở thư tịch gì thì để cả nghìn năm chắc cũng sớm bị hủy hoại từ lâu rồi, đây chỉ là do giáo sư dựa vào một số mảnh gỗ mục còn sót lại mà suy đoàn ra thôi.

Ngoài ra đại điện còn có rất nhiều gian điện nho nhỏ ở mé bên, tượng đá bên trong đã bị hủy hoại sạch, không còn phân biệt được nữa, nhưng có lẽ đó chính là các điện như điện Tỳ Lô, điện Dược sư, điện Tam Thánh, điện Cường Ba, điện Quan m. Mặc dù vẫn còn phỏng đoán tôn giáo này không hẳn tin phật, nhưng dựa vào những kết cấu Phật đường này có thể đoán nó cũng ít nhiều liên quan đến phật giáo. Hai bên gian đại điện đều có cửa thông với Thiền đường, là nơi để tịnh tâm tu thiền; bên ngoài Thiền đường là vòng ngoài của cung điện, thẳng sang tầng thứ hai. Tầng thứ hai này thì đơn giản hơn nhiều, ngoài gian Phật điện ở giữa ra, xung quanh có các gian phòng nhỏ, tùy theo đẳng cấp mà kích cỡ khác nhau. Sát với vách núi là một gian bếp lớn,bên trong hãy còn một khối sừng sững phảng phất hình dáng ban đầu của một bếp lò cỡ đại thời cổ. Đằng sau lại có một gian phòng hết sức cổ quái, bên trong trống không, ở độ cao chừng hai mét trên tường có vài lỗ nhỏ. Nghiên cứu khảo sát một hồi, cuối cùng giáo sư Phương Tân cho rằng đây là nhà tắm, nếu nói nước chảy ra từ các lỗ nhỏ này thì đây còn là phòng tắm vòi sen nữa chứ không vừa. Chỉ là ông nghĩ mãi cũng không thể hiểu nổi, cổ nhân đã làm thế nào để dẫn nước vào tận đây, nếu bảo là từ dòng nước ở đáy khe vực tăm tối này, thì khoảng cách ấy phải lên đến cả mấy nghìn mét chứ chẳng chơi.

Tầng ba xem ra là nơi cư trú của các giáo đồ có địa vị cao hơn. Các căn phòng được chạm khắc hoa văn và sơn vôi rất đẹp, những mẩu hoa văn hình muông thú hãy còn nét lờ mờ nhìn được trên tường đá và từng mảng từng mảng vôi dày chính là minh chứng cho suy đoán này. Trong gian đại điện ở giữa có một cái giá bằng đá khổng lồ hình bậc thang, thoạt nhìn trông như Tổ sư đường vậy; phía sau Tổ sư đường lại là một gian điện lớn nữa, có vẻ như một gian Giảng kinh đường khổng lồ; phía sau cánh cửa mé bên giống như là Tang kinh các để cất giữ các kinh sách quý, có điều giá gỗ đều đã mục thành bột vụn, kinh sách thì hoàn toàn không còn chút tăm tích. Giáo sư Phương Tân biết rõ, những kinh sách Tạng cổ bằng da dê này toàn bộ đều viết bằng nước hòa với bột vàng bột bạc, nên dù có hóa thành tro bụi thì cũng phải để lại một chút dấu tích. Ông đưa mắt quan sát những bộ xương nằm thưa thớt xung quanh, cuộc chiến ở đây không kịch liệt như ở các gian đại điện bên dưới, có lẽ kinh sách đã được chuyển đi rồi chẳng? Giáo sư thầm suy đoán.

Phía ngoài cả ba tầng đại điện đều có những giá đỡ dạng ngầm bên dưới, chắc là đều dùng để đặt những vòng Đại pháp chuyển kinh luân khổng lồ. Tường cung điện, hành lang ngoài, trụ đá và lan can đều nhuộm thành màu đỏ sẫm thường thấy ở đất Tạng, hiềm nỗi xung quanh xương cốt chất chồng, khiến cho sắc đỏ ấy lại càng giống màu máu khô hơn. Sau khi đi theo những ngọn đuốc đánh dấu đường của bọn tên Ben để lại, phát hiện ra con đường thông thẳng ra vách vực sâu phía sau gian Giảng kinh đường, mấy người bọn giáo sư Phương Tân không hề do dự mà chui ngay vào đường hầm tối tăm nhỏ hẹp ấy. Bên trong tòa cung điện hùng vĩ này không hề hoa lệ như bên ngoài, nhưng chẳng ai muốn nán lại nhìn xương cốt chồng chất như núi thêm một chút nào nữa. Họ đi giữa những ngọn đuốc làm dấu chỉ đường mà bọn tên Ben không thể không để lại kia, bằng không chính bọn chúng cũng sẽ lạc đường trong bóng tối mịt mùng không tìm thấy đường ra này, không ai dám đụng đến một cây đuốc nào cả.

Bình luận
× sticky