Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm. Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản

Mật mã Tây Tạng – tập 4

Chương 62: Tổng Kết

Tác giả: Hà Mã

Lúc gã về đến căn cứ huấn luyện, bọn Trương Lập, Nhạc Dương đã đến trước một bước, ánh mắt người nào người nấy đều vui vẻ hớn hở tràn trề, một điều khiến Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc hơn nữa là, đội trưởng Hồ Dương cũng có mặt ở đó. Hồ Dương nói: “Đằng nào thì sắp tới đây tôi cũng không có dự án khảo sát khoa học nào, vậy là cấp trên liền điều tôi đến nhập tổ với mọi người thay cho vai trò của Ngải Lực Khắc. Lần này mọi người phải đi Đại Tuyết Sơn, về mặt này thì tôi cũng có kinh nghiệm kha khá mà.” Dứt lời, anh mỉm cười đầy ngụ ý.

Trác Mộc Cường Ba vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ thốt lên: “Đại Tuyết Sơn nào thế? Đã quyết định rồi à?”

Hồ Dương làm ra vẻ thần bí nói: “Thiên cơ không thể tiết lộ.” Kế đó anh lại nói, “Mức độ nguy hiểm rất cao đấy, ngọn núi tuyết này không thể đem so sánh với những nơi khác được, băng nguyên ở Khả Khả Tây Lý mà đem so với nó cũng gần như là thiên đường đấy. Chưa nói chuyện gì khác, chỉ riêng môi trường không khí loãng ở độ cao trên bảy nghìn mét so với mực nước biển đã đủ khiến mọi người khó mà chịu đựng nổi rồi. Khu vực lạnh giá vùng cao ấy, nhiệt độ thấp đến nỗi thức ăn nấu không thể chín, vì nhiệt độ sôi của nước thấp hơn một trăm độ C rất nhiều. Gió thổi táp vào mặt như có lưỡi cưa cứa qua vậy.”

Nghe Trương Lập kể, sau khi mọi người rời viện, Lữ Cánh Nam và giáo sư Phương Tân nói chuyện với đội trưởng Hồ Dương rất lâu, sau đó giáo quan đã gửi báo cáo yêu cầu điều động đội trưởng Hồ Dương về làm cố vấn chuyên môn cho nhóm của họ. Lúc đầu đội trưởng Hồ Dương cảm thấy hết sức bất ngờ khi thấy cả người như Đường Mẫn cũng có thể tham gia đội ngũ, nhưng không biết giáo sư Phương Tân đã nói gì, cuối cùng Hồ Dương vẫn chấp nhận sự thực này một cách hết sức miễn cưỡng. Còn Nhạc Dương lại ra vẻ thần bí nói với mọi người, dường như giáo quan Lữ Cánh Nam đã mời thêm mấy vị giáo quan mới, chỉ là vẫn chưa thấy người đâu cả. Phía sau căn cứ huấn luyện đã được cải tạo lại rất nhiều, không biết là muốn huấn luyện gì nữa.

Lạt ma Á La cũng đã trợ lại, quả nhiên ông không nuốt lời, mang theo cả một bao Thiên châu phát cho mỗi người một chiếc mang theo bên mình để tránh các cơ quan chốt bẫy. Nhạc Dương cứ bám nằng nặc hỏi xem rốt cuộc đại sư kiếm ở đâu ra mà nhiều Thiên châu thế, nhưng lạt ma Á La tránh không đáp, chỉ nói rõ rằng số Thiên châu này đều là của đi mượn, dùng xong nhất định phải trả về cho chủ nhân, không được làm mất mát. Để phân biệt, các Thiên châu lạt ma Á La mang đến đều có số mắt khác nhau, chiếc của Nhạc Dương chỉ có một mắt, còn của Trương Lập lại có đến ba mắt. Anh chàng vì chuyện này mà phẫn nộ bất bình cả nửa ngày trời, mãi đến khi giáo sư Phương Tân đổi cho chiếc Thiên châu năm mắt mới chịu yên.

Chiều hôm đó Đường Mẫn cũng từ Mỹ trở về, hai mắt đỏ lựng, rõ ràng là từ đến đến giờ cô vẫn khóc suốt. Trác Mộc Cường Ba lại phải an ủi một hồi. Sau khi biết chuyện, Nhạc Dương liền bình tĩnh phân tích: “Chắc anh trai cô không gặp chuyện gì đâu. Nếu Ben hỏi được từ anh ấy chuyện gì thì hắn đã không liều mạng đến Đảo Huyền Không tự tranh cướp bản đồ với chúng ta nữa, chắc chắn là hắn đã đến Bạc Ba La thần miếu luôn rồi. Ngày nào tinh thần anh trai cô còn chưa hồi phục thì bọn hắn sẽ chẳng hỏi ra được gì đâu, mà bản đồ còn ở trong tay chúng ta, thì chúng ắt sẽ không làm gì anh trai cô.” Nghe Nhạc Dương phân tích, tâm trạng Đường Mẫn mới nguôi ngoai phần nào mà thôi không khóc lóc nữa.

Trong căn cứ, mọi người ngồi quây lại thành vòng tròn, cả Lữ Cánh Nam cũng không giấu nổi vẻ vui mừng. Cô tuyên bố: “Lần này yêu cầu mọi người về căn cứ, đặc biệt là tiến hành huấn luyện hồi phục ngay cả khi có thành viên vẫn chưa hoàn toàn khỏe lại, đó là vì, có lẽ đây là lần huấn luyện định hướng cuối cùng của chúng ta rồi.”

Mọi người đều mỉm cười lắng nghe, ai cũng hiểu rõ ý nghĩa của câu nói này. Trương Lập phấn khích thốt lên: “Giáo quan, nói cách khác đi, nói kiểu ấy không may mắn lắm đâu.”

Lữ Cánh Nam không phản đối cũng không nổi giận, chỉ mỉm cười nói: “Được rồi, vậy tôi sẽ nói theo cách khác, sau kỳ tập huấn đặc biệt này, chúng ta sẽ thẳng tiến đến điểm đích cuối cùng của nhiệm vụ lần này, mở ra cánh cửa Bạc Ba La thần miếu đã bị bụi mờ phủ lấp cả nghìn năm nay!”

Trương Lập, Nhạc Dương lập tức vỗ tay rú lên, cả những bậc lão thành như giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La cũng không kiềm chế nổi cảm giác xúc động dâng trào trong tâm khảm, nét mừng vui lộ hẳn ra mặt. Bao nhiêu đè nén và đau đớn phải chịu đựng trong Đảo Huyền Không tự, thảy đều tan biến trong bầu không khí phấn chấn hồ hởi này.

Lữ Cánh Nam cười cười bảo mọi người đừng làm ồn nữa, nhưng nói hai ba lần vẫn không được, tất cả cảm xúc đều bừng lên trong một khoảnh khắc, công sức bỏ ra đã thu về kết quả, chỉ riêng điểm này thôi đã khiến tất cả mọi người kích động khôn nguôi rồi. Cuối cùng, khi cảm xúc của mọi người đã phát tiết hết, căn phòng mới tĩnh lặng trở lại, Lữ Cánh Nam cố làm ra vẻ nghiêm túc, nói tiếp: “Nhưng nhiệm vụ lần này của chúng ta có thể nói cũng là nhiệm vụ khó khăn gian khổ nhất từ trước tới giờ, mức độ nguy hiểm của nó vượt xa bất cứ lần hành động nào trước đây. Để có thể hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ này, chúng ta cần phải chuẩn bị cho thật tốt, chính vì thế, tôi không thể không triệu tập mọi người sớm hơn dự kiến, tiến hành huấn luyện đặc biệt có định hướng. Phải nhớ cho kỹ, chúng ta chỉ có thời gian ba tháng mà thôi.”

Mọi người đều vui mừng không kể xiết, vì sau ba tháng là đã được khởi hành đến Bạc Ba La thần miếu. Mặc dù còn le lói, nhưng ánh sáng hy vọng đã thắp lên, cơ hồ cánh cửa thành công đã ở ngay trước mắt họ rồi vậy.

Lữ Cánh Nam nói: “Đầu tiên tôi sẽ tổng kết lại những gì đã biết, để mọi người nhận thức được tình hình chúng ta đang phải đối mặt một cách rõ ràng hơn. Bạc Ba La thần miếu mà chúng ta tìm kiếm, đại khái được xây dựng trong khoảng từ năm 840 đến 940 sau Công nguyên, vì thời điểm đó xảy ra cuộc tàn sát diệt Phật, nên có rất nhiều tăng lữ phải lưu vong, vô số chùa chiền miếu mạo bị phá hủy, một lượng lớn các văn vật quý giá đã bị mất. Thời ấy nổi tiếng nhất là Tứ Phương miếu, bốn ngôi miếu này hầu như đã tập trung đến hơn chín mươi phần trăm các văn vật Phật giáo của Tây Tạng trước thời Đường, trong cuộc tàn sát diệt Phật, để bảo vệ số văn vật này không bị thiêu hủy, các cao tăng đã nghĩ hết mọi cách, cầu cứu thế lực các phương, cuối cùng đã đưa được hầu hết các văn vật quý giá đến nơi bí mật trước khi Tứ Phương miếu bị hủy diệt. Sau đó, dưới chính sách đè nén áp bức Phật giáo của Lãng Đạt Mã, bọn họ buộc phải rời xa Tây Tạng, nhưng đường xá xa xôi, nếu mang theo một lượng văn vật lớn thì rất dễ bị phát hiện, mà bọn họ cũng không muốn để những bảo vật quý giá ấy lưu lạc ra ngoài đất Tạng. Do một phát hiện bất ngờ, họ tìm được một nơi xa lánh thế gian – các kinh sách ghi chép như thế này, đó là một nơi không thấy mặt trời mọc ở phương Đông, cũng không thấy mặt trời lặn ở phương Tây, quanh năm đều tắm mình trong ánh dương chói lọi. Những tín đồ có linh hồn trung thành vĩnh viễn đang bảo vệ nơi ấy. Bọn họ đã xây dựng Bạc Ba La thần miếu ở đó, đồng thời chia các báu vật đã được bí mật giấu kỹ vận chuyển thành nhiều đợt đến thần miếu. Còn ở Cánh cửa Sinh mệnh và Đảo Huyền Không tự chúng ta đã tiếp xúc với một tôn giáo hoàn toàn khác. Vì tôn giáo này hàm chứa giáo lý của cả Phật giáo lẫn Bản giáo cổ đại, trong hoàn cảnh không có lựa chọn nào khác, các tăng lữ Phật giáo đã ủy thác trách nhiệm vận chuyển bảo vật đến thần miếu cho tôn giáo có thân phận tương đối an toàn này. Nhưng tiếc một điều là, tôn giáo thần bí này đột nhiên biến mất trong lịch sử vì một nguyên nhân nào đó mà chúng ta chưa biết, hơn nữa còn biến mất một cách vô cùng triệt để, khiến đời sau không còn bất cứ tư liệu nào mà tra xét. Vậy là, Bạc Ba La thần miếu cũng như cả tôn giáo thần bí này đã vĩnh viễn vùi sâu trong lịch sử.” Nghe đến đây, Trác Mộc Cường Ba hơi nghiêng người ra phía trước, tựa hồ muốn nói điều gì, nhưng cuối cùng vẫn lắc lắc đầu, không nói ra miệng.

Lữ Cánh Nam hít vào một hơi, rồi nói tiếp: “Mặc dù tôn giáo đó và Bạc Ba La thần miếu đã biến mất, nhưng nhờ có các nghệ nhân hát rong mà thông tin về chúng vẫn được lưu truyền đến ngày nay trong các pho dã sử và truyện ký, sử thi, viên minh châu của cao nguyên ấy chắc chắn sẽ có ngày sáng rực lên lần nữa. Mãi đến năm 1944, nhà thám hiểm người Anh Stanley nghe được một đoạn truyền kỳ đã bị chôn vùi cả nghìn năm từ các nghệ nhân hát rong, và bắt đầu một đoạn hành trình huy hoang rực rỡ nhất trong đời ông ta. Nhưng sự huy hoàng ấy, lại được xây dựng trên cơ sở là hủy diệt nền văn hóa Tây Tạng của chúng ta. Với tư cách một nhà thám hiểm, vết chân Stanley đã đi khắp những nơi lúc đó còn chưa in dấu chân người ở Tây Tạng, đã có vô số di tích cổ được ông ta phát hiện, vô số văn vật cũng bị ông ta đưa đi, nhưng may mắn là, cả đời nhà thám hiểm này cũng không tìm được viên minh châu rực rỡ nhất Tây Tạng – Bạc Ba La thần miếu. Sau này, đã có vô số nhà thám hiểm khác tìm đến đất Tạng, dựa trên ghi chép và những đầu mối ôngta tìm được, bọn họ tham lam vơ vét hết số bảo vật còn sót lại, nhưng riêng chuyện tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu thì không người nào không phải thất vọng trở về. Thực ra, ở Trung Quốc, từ thời nhà Thanh, nhà cầm quyền đã rất quan tâm đến Bạc Ba La thần miếu, còn phái đại thần đặc trách đóng ở Tây Tạng nữa, sau rồi cục thế hỗn loạn rối ren, chuyện này cũng dần nhạt đi rồi trôi vào quên lãng. Giờ đây, nhiệm vụ của chúng ta là cần phải tìm được Bạc Ba La thần miếu trước các thế lực khác! Cuối cùng, tôi muốn nói về tôn giáo thần bí kia…”

Nói tới đây. Lữ Cánh Nam không khỏi tắc lời, đưa mắt nhìn sang phía lạt ma Á La, nhận được ánh mắt cổ vũ của ông, cô mới tiếp lời: “Chúng ta biết rất ít về tôn giáo thần bí ấy.” Mặt cô không giấu nổi nét ửng hồng, có điều mọi người cũng không hề chú ý đến, “từ những gì chúng ta nắm được đến giờ, tôn giáo này có tham gia hoặc đã độc lập hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Bạc Ba La thần miếu và vận chuyển bảo vật. Khi thần miếu xây xong, họ từng phái sứ giả đi, chuẩn bị giao ba tín vật có thể dẫn đến thần miếu cho ba vị trí giả của đất Tạng, nhưng vì nguyên nhân nào đó mà chúng ta chưa biết, cuối cùng họ chỉ giao ra một tín vật, còn hai thứ kia đã bị Cổ Cách vương giữ lại. Trong các tín vật, cố một là bản đồ, tương truyền đã bị Stanley mang đi, còn trong những tấm bản đồ mà chúng ta đang giữ, có lẽ cũng có một tấm tương đồng với tấm bị ông ta mang đi, do khi ấy Stanley vì sợ cơ quan cạm bẫy mà để lại. Ngoài ra trong thư tịch có ghi chép về một tín vật được gọi là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, chúng ta cũng từng thu được một tấm bản đồ, nhưng không rõ bản đồ này và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu có liên quan đến nhau không. Chúng ta chỉ dựa vào các ghi chép trong thư tịch cổ mà suy đoán rằng, Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu ấy vốn đã được sứ giả mang ra hải ngoại, rất có khả năng là tới khu vực Nam Mỹ ngày nay, và được chôn giấu trong một kim tự tháp. Địa cung Ahezt ở Bạch thành có rất nhiều nét tương đồng với văn hóa Tây Tạng, nhưng chúng ta cũng mới chỉ có lý do để tin tưởng rằng đó là nơi cất giấu Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, chứ không hề có chứng cứ xác thực. Còn về tín vật thứ ba, đến nay chúng ta vẫn hoàn toàn chưa có thông tin gì. Vì nguồn tin của chúng ta, đa phần đều dựa trên cơ sở là các ghi chép của vương cung Cổ Cách, mà những ghi chép ấy lại bị Stanley đưa cả về nước Anh, một hai năm gần đây mới trở về Trung Quốc, ngoài ra còn một số thông tin quan trọng khác thì đến sau khi chúng ta ở châu Mỹ trở về mới biết. Tôn giáo thần bí kia có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình xây dựng Bạc Ba La thần miếu và chôn giấu báu vật, nhưng đến giờ chúng ta mới chỉ biết, người dân thôn Công Bố có khả năng là hậu duệ của tôn giáo thần bí ấy, bọn họ phụ trách liên hệ giữa tôn giáo đó và thế giới bên ngoài. Chắc Stanley đã từng đến Cánh cửa Sinh mệnh, nhưng đã bị cơ quan ngăn lại từ bên ngoài, vì vậy ông ta không phát hiện ra đầu mối dẫn đến Đảo Huyền Không tự. Mà Đảo Huyền Không tự này, mới chính là nơi cung cấp cho chúng ta đầu mối quan trọng nhất về tôn giáo thần bí ấy.”

Lữ Cánh Nam nhấp một ngụm nước, rồi lại nói: “Với những thông tin hiện nay chúng ta đang có, có thể nói tôn giáo thần bí kia đã từng vô cùng lớn mạnh, tôi nghĩ, sau khi nếm trải các cơ quan trong Đảo Huyền Không tự, mọi người chắc đều không phản đối tôi nói như vậy phải không. Thành tựu về mặt cơ quan học của họ có thể dùng hai chữ “đỉnh cao” để hình dung, theo những gì chúng ta được biết, bọn họ đã lợi dụng công trình thủy lợi một cách hoàn hảo để cung cấp động lực vĩnh cữu, họ cũng có nghiên cứu rất sâu với các hiện tượng quang học, về mặt khí động lực học, họ cũng tuyệt đối thuộc hàng đỉnh cao thời bấy giờ; đáng sợ hơn nữa là, hiểu biết của họ về sinh vật và vi sinh vật học thậm chí còn đạt tới trình độ cao khó thể với kịp, về mặt này cả khoa học kỹ thuật hiện đại ngày nay cũng chưa thể bì kịp với tôn giáo từ nghìn năm về trước này. Bọn họ có một hệ thống tín ngưỡng độc lập của riêng mình, giữa Bản giáo và Phật giáo thì nghiêng về phía Bản giáo hơn, nhưng cũng không hề bài xích Phật giáo, đây có lẽ chính là nguyên nhân khiến các tăng lữ thời đó lựa chọn hợp tác với tôn giáo này. Hiện nay, những điều chúng ta sắp phải đối mặt có mấy thứ sau đây, thứ nhất, là cơ quan ở thời kỳ phát triển cao nhất. Cánh cửa Sinh mệnh và Đảo Huyền Không tự mà chúng ta đã đến đều được xây dựng trước Bạc Ba La thần miếu, vì vậy, cơ quan trong thần miếu có lẽ còn lợi hại ghê ghớm hơn rất nhiều so với những gì chúng ta gặp phải trước đây. Về mặt này, chúng ta có thể sử dụng các công cụ đo kiểm hiện đại, cố gắng giảm mức độ nguy hiểm xuống thấp nhất. Thứ hai, là quần thể các sinh vật cổ xưa thần bí. Thông tin của Trác Mộc Cường Ba mang về giúp chúng ta biết, tôn giáo thần bí kia có được rất nhiều loài sinh vật cổ mà chúng ta chưa từng trông thấy hoặc đến nay vẫn đang trong giai đoạn tìm tòi, bất kể là động vật lẫn thực vật, chúng ta cũng đều không có hiểu biết gì về chúng hết. Có điều, dường như chúng đều có khả năng tấn công, vì vậy, chỉ cần dùng hỏa lực mạnh áp chế, có lẽ là sẽ tránh được sự uy hiếp của chúng. Thứ ba, là tập đoàn hợp tác với bọn lính đánh thuê. Lần vừa rồi chúng ta đã được nếm mùi lợi hại của chúng, vũ trang và các thiết bị khoa học của chúng đều không thấp hơn chúng ta, thậm chí có thể nói là cao hơn chúng ta rất nhiều. Muốn đối phó với chúng, cần phải dựa vào thân thủ cứng cáp và chiến thuật cũng như kỹ năng cơ động linh hoạt…”

Lữ Cánh Nam đột nhiên ngừng lại, quét ánh mắt nghiêm khắc nhìn từng thành viên đang ngồi bên dưới, nói với giọng đầy ẩn ý: “Chỉ cần mọi người đồng tâm hiệp lực, chúng ta vẫn có cơ hội giành thắng lợi. Thứ tư, cũng là vấn đề khó khăn nguy hiểm nhất mà chúng ta phải đối mặt trong hành trình này, đó chính là vu thuật cổ của Bản giáo. Có thể nói đây là lĩnh vực hoàn toàn xa lạ đối với chúng ta, lại liên quan đến một loạt ngành khoa học phức tạp có độ khó cao như vi sinh vật, hóa sinh vật. Người xưa không có cơ sở khoa học vững chắc gì, toàn bộ đều dựa vào vô số lần thực nghiệm để cho ra kết quả khiến họ hài lòng, vì vậy, giải đáp bí mật của vu thuật cổ từ góc độ khoa học là một chuyện tuyệt đối không thể hoàn thành trong thời gian ngắn được. Về vấn đề này, yêu cầu của tôi đối với mọi người là, phải tuyệt đối cẩn thận ở những chỗ có cơ quan, gặp phải cơ quan nào không tểh hoàn toàn lý giải thì gắng hết sức không nên đụng chạm vào. Một khi không may trúng phải vu thuật cổ, cần lập tức cách ly quan sát, nếu quả thực không thể chịu đựng được nữa, hoặc giả vì quá đau đớn mà mất đi lý trí… thì… nhất thiết phải diệt trừ! Kể cả tôi cũng không ngoại lệ, đến lúc ấy không ai được mềm lòng hết, đã hiểu chưa!”

Nhạc Dương lấy làm kỳ quái nói: “Mặc dù chúng ta có gặp phải cổ độc ở Cánh cửa Sinh mệnh, nhưng ở Đảo Huyền Không tự thì đâu có gặp thứ đáng sợ ấy, thật sự chúng ta sẽ gặp phải thứ đó sao?”

Lữ Cánh Nam gật đầu khẳng định chắc nịch: “Đúng vậy, lần ở Đảo Huyền Không tự chỉ có thể nói là chúng ta may mắn. Thực ra, bọn giun phun ra axit mà mấy người Trác Mộc Cường Ba gặp phải trong hang động cũng có thể tính là một loại cổ độc, lợi dụng một số đặc tính sinh hóa nào đấy của sinh vật. Hơn nữa, mấu chốt là ở gian điện phía Tây gian Thiên Phật điện, giáo sư Phương Tân đã vô tình quay được một số tư liệu, khiến chúng tôi khẳng định chuyến đi này chúng ta sẽ gặp phải cổ độc.”

Trương Lập lớn tiếng hỏi: “Là gì vậy? Sao chúng tôi không thấy?” Họ đã xem đi xem lại những đoạn phim tư liệu đó rất nhiều lần, nhưng không hề phát hiện ra nội dung nào liên quan đến vu thuật cổ.

Lữ Cánh Nam trầm giọng nói: “Còn nhớ chúng ta đã thấy rất nhiều những tấm thangka màu đen trong gian điện ở mé Tây không?”

“A…” “A!” Cùng lúc có hai tiếng kêu kinh ngạc thốt lên. Trương Lập thì sực nhớ ra những tấm thangka màu đen ấy, lúc đó khung cảnh tối tăm, họ cũng không lưu ý xem nội dung của những tấm thangka đó là gì; còn Trác Mộc Cường Ba thì bởi vừa mới nghe chính cha mình nói gia tộc nhà gã không có quan hệ gì với tôn giáo thần bí ấy. Vậy thì, thangka màu đen đó là như thế nào? Càng đi sâu điều tra, gã càng cảm thấy quan hệ giữa gia tộc mình và tôn giáo thần bí kia dường như không hề đơn giản, đáp án nằm ở đâu đây? Ở Bạc Ba La thần miếu chăng?

Lữ Cánh Nam không thể đoán được tâm tư hai người, cô nói: “Hình ảnh những tấm thangka đen đó đã được xử lý bằng máy tính, hoàn nguyên lại bản lai diện mục, trên đó đều vẽ những vu thuật cổ cực kỳ đáng sợ, hiện giờ chuyên gia vẫn đang phân tích chỉnh lý các bức vẽ đó. Nhưng vì niên đại quá xa xôi, thêm nữa là chúng ta vẫn chưa thể hoàn toàn lý giải được nội dung các bức vẽ, có lẽ việc làm rõ cổ nhân chế tạo cổ độc như thế nào vẫn còn chưa hiện thực cho lắm.” Lữ Cánh Nam hồi tưởng lại nội dung những bức thangka đen ấy, không khỏi run người lên, vì chúng quả thực là vô cùng tàn nhẫn tanh máu, thực tình cô không muốn tiết lộ với mọi người, vậy nên đã che giấu đi một phần. Bên rìa những bức thangka ấy còn có cả giải thích bằng văn tự, nhưng những ký hiệu đó không phải tiếng Tạng cổ mà họ biết, dường như là để che giấu nội dung nên đã cố ý thay đổi cách viết, các chuyên gia nói, loại văn tự ký hiệu ấy có thể nói là mật mã của tiếng Tạng cổ.

Những người ngồi phía dưới không ai dám thở mạnh, đến giờ họ mới hiểu, Lữ Cánh Nam nói họ sẽ phải đối mặt với những khó khăn xưa nay chưa từng thấy, đó tuyệt đối không phải là nói cho có mà thôi, sau khi cơn hưng phấn vì sắp xuất phát đến thần miếu qua đi, một thoáng sợ hãi dâng lên trong tâm trí mỗi người. Lữ Cánh Nam lại an ủi mọi người: “Có điều cũng không cần quá lo lắng, chúng ta sắp tới sẽ triển khai huấn luyện đặc biệt nhằm vào bốn tình huống đó. Sau khi hoàn thành lần huấn luyện đặc biệt này, năng lực đối diện với khó khăn của mọi người sẽ được nâng cao đáng kể, chúng ta cần phải có lòng tin tuyệt đối rằng mình có thể chiến thắng bất cứ khó khăn nào để đạt được mục tiêu một cách viên mãn.”

Mọi người đều phấn chấn tinh thần, lại hoan hô thêm một lượt nữa. Lữ Cánh Nam để mọi người yên lặng trở lại, đoạn nói tiếp: “Bây giờ, tôi sẽ cho mọi người biết kế hoạch cụ thể của lần huấn luyện này. Đợt huấn luyện này chia làm ba giai đoạn, giai đoạn thứ nhất, vì hầu hết mọi người vừa mới hồi phục sức khỏe, nên sẽ tiến hành huấn luyện nửa trị liệu nửa hồi phục thể lực, cố gắng sau khi kết thúc giai đoạn này, thể lực của mọi người sẽ hồi phục trở lại trạng thái trước khi đến Cánh cửa Sinh mệnh. Tôi dành cho giai đoạn này mười ngày; giai đoạn hai, là nhằm vào những khuyết điểm trong biểu hiện của mọi người khi đối mặt với các cơ quan trong Đảo Huyền Không tự, vì vậy, tôi sẽ giới thiệu với mọi người mấy vị giáo quan mới, bọn họ sẽ tiến hành chỉ đạo từ xa thông qua mạng Internet. Nhớ kỹ, mặc dù thân phận của họ đã được xác minh là không vấn đề gì, nhưng mọi người vẫn phải đặc biệt chú ý cho, chuyện gì không nên nói chuyện thì không nên nói.” Kế đó, cô bật đèn laser lên, trên màn hình liền xuất hiện ba gương mặt mới, một người Trung Quốc, hai người nước ngoài, ba người này đều có đặc điểm chung là thân hình săn chắc tráng kiện, đường nét cơ bắp đều toát lên mỹ cảm đồng thời lại có độ đàn hồi. Lữ Cánh Nam giới thiệu: “Vị này là Vương Nhất Dân, ông ta là trụ cột của Đoàn Nghệ thuật Tạp kỹ Trung Quốc, mọi người có biết các diễn viên tạp kỹ leo cột như thế nào không?”

Nói đoạn, Lữ Cánh Nam bấm nút trên bộ điều khiển, trên màn hình liền hiện ra cảnh một diễn viên tạp kỹ leo cột, linh hoạt như khỉ vượn, tốc độ cực nhanh, lại còn nhảy nhót nhào lộn giữa hai cột tre nữa. “Tôi yêu cầu mọi người cũng phải làm được như vậy.” Lữ Cánh Nam nói. “Ngoài ra, ông Vương Nhất Dân còn hướng dẫn mọi người một số kỹ năng đặc biệt của nghệ thuật tạp kỹ như đu dây trên cao, kỹ thuật giữ thăng bằng, thuật co xương rút cốt…”

Đầu roi của Lữ Cánh Nam chỉ vào bên cạnh người thứ hai, cơ bắp của người đàn ông ngoại quốc hơi thâm thấp này lực lương nhất, tuổi tác tầm như Trác Mộc Cường Ba, sống mũi rất cao. “Vị này là Divari, người Nga, từng là vận động viên thể dục toàn năng, sau khi nghỉ thi đấu lại huấn luyện ra mấy quán quân nữa, ông ta sẽ hướng dẫn mọi người về mặt kỹ xảo và hình thể.” Cô vừa nói dứt lời, màn hình đã chuyển sang cảnh người đàn ông đó đang tập xà đơn, chỉ nghe giọng Lữ Cánh Nam lại cất lên: “Những kỹ xảo nhào lộn này có tác dụng rất lớn khi phải đối phó với các cơ quan cạm bẫy thời cổ đại. Tôi không yêu cầu động tác của mọi người phải quy phạm như vận động viên thể thao, nhưng tốt nhất là có thể đồng thời ngắm chuẩn, xạ kích trong khi nào lộn, mắt phải nhìn bốn phương, tai nghe tám hướng…”

Trương Lập, Nhạc Dương nghe mà cặp mắt trợn tròn lên như muốn rơi ra ngoài.

Tiếp đó, màn hình lại biến đổi. Chỉ thấy một thanh niên ngoại quốc ăn mặc rất thời trang đang chạy nhanh vun vút trên nóc một tòa nhà cao tầng, sau đó nhảy vọt qua khoảng trống rộng mấy mét sang nóc một tòa nhà khác, rồi bám vào mép tường mà nhảy thẳng xuống. Hai anh chàng Trương Lập, Nhạc Dương xem mà lạnh hết cả người. Lữ Cánh Nam lại chuyển cảnh, chỉ vào người thứ ba nói: “Vị này là Frank, người Pháp, là một người yêu thích môn chạy bộ vận động cực hạn. Môn thể thao này yêu cầu rất cao về sức mạnh cũng như khả năng thăng bằng của cơ thể, tôi hy vọng, mọi người có thể chạy nhanh trên mọi địa hình giống như họ vậy.” Nói xong, màn hình lại chuyển về cảnh trong thành phố, một đám người đang chạy kiểu dích dắc giữa các cầu thang và tường bao, nhanh nhẹn vượt chướng ngại vật, nhảy lấy đà tại chỗ đã đạt độ cao ngang đầu người, đạp chân lên tường là có thể trực tiếp bám mặt tường mà leo thẳng lên tâng hai, nhìn họ chạy thật khác gì đang xem phim kungfu của Thành Long hay Lý Liên Kiệt vậy.

Trương Lập thấp giọng hỏi: “Chúng ta làm được không nhỉ?”

Lữ Cánh Nam nói: “Tôi không yêu cầu mọi người làm tốt như họ. Tạp kỹ, thể dục, chạy bộ mọi địa hình, ba loại vận động này đều có thể coi như một sự khiêu chiến và mở rộng đối với khả năng linh hoạt của cơ thể, chúng có những điểm chung, đồng thời có những nét đặc sắc riêng, và sẽ nâng cực hạn thân thể của mọi người lên một tầm cao mới. Tôi không yêu cầu phải là tốt nhất, nhưng yêu cầu tốt hơn, đây chính là yêu cầu của tôi dành cho mọi người. Đồng thời, ở giai đoạn thứ hai này, mọi người còn phải hoàn thành một khóa huấn luyện mô phòng bằng máy tính, đây là một phần mềm máy tính thiết kế như trò chơi chống khủng bố mà các chuyên gia phần mềm trong nước đã biên soạn dựa trên số liệu Ba Tang và Trương Lập cung cấp, hy vọng mọi người có thể tìm hiểu được phương thức tác chiến của kẻ địch thông qua phần mềm mô phỏng này. Còn nữa, về vu thuật cô, mọi người cũng phải tiến hành huấn luyện đặc biệt…”

Lữ Cánh Nam yêu cầu các thành viên trong đội có thể mặc và cởi trang phục cách ly, hoàn thành hai người cấp cứu cách ly một người, bao gồm cả loại bỏ tất cả tạp vật bên ngoài, phun thuốc tiêu độc sát khuẩn và thiết lập khu vực quan sát cách ly đơn giản với tốc độ nhanh nhất trong tình huống vẫn mặc đồ leo núi vừa dày vừa nặng. Giai đoạn cuối cùng là huấn luyện leo núi tuyết, mọi người được yêu cầu phải nắm sơ lược kỹ năng phân tích địa lý tình hình, cách thăm dò các khu vực có khe nứt phủ tuyết, cách chống lại gió mạnh cấp mười, giữa lưng chừng núi dùng đinh tán và dây thừng tiến lên. Dưới ngọn roi giáo quan và giọng nói vang vang dễ nghe của Lữ Cánh Nam, đợt huấn luyện gian khổ đã được triển khai như vậy đó…

Không chỉ thế, khi một ngày huấn luyện mệt nhọc kết thúc, mọi người lại phải bắt đầu một hạng mục huấn luyện khác, mỗi người đều không thể không ra sức nghiên cứu tìm hiểu về tôn giáo ở Tây Tạng cổ đại. Theo cách nói của Lữ Cánh Nam, điều này có tác dụng hỗ trợ mang tính quyết định khi họ phải đối mặt với các cơ quan sau này. Ngoài lạt ma Á La, giáo sư Phương Tân và Trác Mộc Cường Ba biết một số kinh điển của Phật giáo, hiểu biết của những người người khác về Phật học đều rất ít, càng không cần nói đến Mật tông Tây Tạng hay Bản giáo cổ đại làm gì. Gay go hơn nữa là, khu vực Tây Tạng thời Phật giáo chưa thống nhất có vô số các tông phái khác nhau, giáo lý nhiều không kể xiết, mà bọn họ thì chỉ có thể hoàn toàn dựa vào học thuộc lòng, học đến khi có thể nhận biết được hết các loại tượng Phật khác nhau trong Đại Mạn Đà La, Tam Vị Gia Mạn Đà La, Pháp Mạn Đà La, Kiệt Ma Mạn Đà La…, những thứ như Luân Vương Thất Bảo, Lục Nỗ Cụ, Thất Đại Trát Khắc La cũng đều nắm được đại thể, cả các khái niệm của Bản giáo như thần Sinh mệnh, Tán thần, Úy Nhĩ Mã, Mã Ma, Dạ Xoa, Đề Lung, Đốn, Đặc, Thủy Thũng Ma, Quán Ba… cũng nằm trong phạm vi buộc phải học thuộc lòng của họ.

Lữ Cánh Nam còn thông qua nhiều nguồn khác nhau, tra ra được loại mìn mà bọn tên Ben đã sử dụng. Theo tư liệu cô tìm được, loại mìn này có thiết kế kiểu đồng hồ điện tử, hai đầu là keo siêu dính bóc ra là dán được, có thể dính mìn vào bề mặt của bất cứ vật thể nào, hơn nữa dù xuống nước cũng không bị ảnh hưởng. Phần ở giữa lớn bằng cái cúc áo là bộ phận chính của quả bom, trong đó thuốc nổ chỉ chiếm hai phần ba thể tích cái cúc áo ấy, một phần ba còn lại là linh kiện điện tử rất tinh vi. Nguyên liệu tạo ra loại thuốc nổ cực mạnh này có chứa uranocene nitro dioxit và nhiều nguyên tố khác. Đến mấy năm gần đây, quân đội Mỹ mới đưa loại này vào sử dụng, và được xưng là loại thuốc nổ thế hệ mới, uy lực vụ nổ chỉ đứng sau có vũ khí hạt nhân, khả năng phá hoại của cái “cúc áo” đó tương đương với 15 cân thuốc nổ TNT. Còn lớp vỏ bên ngoài, một là có thể tính giờ, sử dụng như bom mìn hẹn giờ thông thường, hai là có thể điều khiển cho nổ từ xa, tác dụng trong phạm vi năm trăm mét, ba là bên trên lớp vỏ này có thiết bị cảm biến áp lực, có thể lực chọn sử dụng hay không, một khi đã khởi động thiết bị này, quả bom sẽ tự cảm ứng được áp lực đè lên nó, nếu có người muốn bóc ra, bom sẽ tự động phát nổ. Cũng có nghĩa là, đây là loại bom không thể tháo gỡ. Quân đội Mỹ vẫn chưa công khai thông tin về loại bom này, cũng chỉ có quan hệ của tên Ben mới kiếm được, trước mắt có thể nói đó chính là loại vũ khí mạnh nhất của phe đối phương.

Cuối cùng, Lữ Cánh Nam nói: “Mặc dù chúng ta đã biết về bọn chúng có bom hẹn giờ có thể dính ngay dùng ngay, nhưng vẫn chưa biết nhiều về uy lực của nó… Còn nữa, rốt cuộc Soares có phải tên thao thú sư trong hàng ngũ kẻ địch hay không, thân phận y là thế nào, những việc này chúng tôi cũng đang điều tra thêm.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Về con người này thì tôi cũng có biết chút ít, có lẽ mọi người không tìm được mấy tư liệu về y đâu. Trước khi thành danh, y cũng giống như những nhà nghiên cứu khác, cả ngày vùi đầu vào phòng thí nghiệm, không ai biết y là ai cả. Cho đến… tôi nhớ xem nào, có lẽ là tám năm trước, bản báo cáo luận văn của y công bố đã làm chấn động cả Diễn đàn Sức khỏe Thái Bình Dương. Khi đó, những vị có uy tín trong giới học thuật bình luận rằng, Soares đã ném bom nguyên tử vào giới sinh vật học. Bản luận văn ấy, thực sự là đã dẫn tới đột phá mang tính cách mạng trong cả giới sinh vật học.”

“Tám năm trước…” lạt ma Á La lặng lẽ suy tư, tựa hồ như liên tưởng đến điều gì đó.

HẾT TẬP 4

Lúc gã về đến căn cứ huấn luyện, bọn Trương Lập, Nhạc Dương đã đến trước một bước, ánh mắt người nào người nấy đều vui vẻ hớn hở tràn trề, một điều khiến Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc hơn nữa là, đội trưởng Hồ Dương cũng có mặt ở đó. Hồ Dương nói: “Đằng nào thì sắp tới đây tôi cũng không có dự án khảo sát khoa học nào, vậy là cấp trên liền điều tôi đến nhập tổ với mọi người thay cho vai trò của Ngải Lực Khắc. Lần này mọi người phải đi Đại Tuyết Sơn, về mặt này thì tôi cũng có kinh nghiệm kha khá mà.” Dứt lời, anh mỉm cười đầy ngụ ý.

Trác Mộc Cường Ba vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ thốt lên: “Đại Tuyết Sơn nào thế? Đã quyết định rồi à?”

Hồ Dương làm ra vẻ thần bí nói: “Thiên cơ không thể tiết lộ.” Kế đó anh lại nói, “Mức độ nguy hiểm rất cao đấy, ngọn núi tuyết này không thể đem so sánh với những nơi khác được, băng nguyên ở Khả Khả Tây Lý mà đem so với nó cũng gần như là thiên đường đấy. Chưa nói chuyện gì khác, chỉ riêng môi trường không khí loãng ở độ cao trên bảy nghìn mét so với mực nước biển đã đủ khiến mọi người khó mà chịu đựng nổi rồi. Khu vực lạnh giá vùng cao ấy, nhiệt độ thấp đến nỗi thức ăn nấu không thể chín, vì nhiệt độ sôi của nước thấp hơn một trăm độ C rất nhiều. Gió thổi táp vào mặt như có lưỡi cưa cứa qua vậy.”

Nghe Trương Lập kể, sau khi mọi người rời viện, Lữ Cánh Nam và giáo sư Phương Tân nói chuyện với đội trưởng Hồ Dương rất lâu, sau đó giáo quan đã gửi báo cáo yêu cầu điều động đội trưởng Hồ Dương về làm cố vấn chuyên môn cho nhóm của họ. Lúc đầu đội trưởng Hồ Dương cảm thấy hết sức bất ngờ khi thấy cả người như Đường Mẫn cũng có thể tham gia đội ngũ, nhưng không biết giáo sư Phương Tân đã nói gì, cuối cùng Hồ Dương vẫn chấp nhận sự thực này một cách hết sức miễn cưỡng. Còn Nhạc Dương lại ra vẻ thần bí nói với mọi người, dường như giáo quan Lữ Cánh Nam đã mời thêm mấy vị giáo quan mới, chỉ là vẫn chưa thấy người đâu cả. Phía sau căn cứ huấn luyện đã được cải tạo lại rất nhiều, không biết là muốn huấn luyện gì nữa.

Lạt ma Á La cũng đã trợ lại, quả nhiên ông không nuốt lời, mang theo cả một bao Thiên châu phát cho mỗi người một chiếc mang theo bên mình để tránh các cơ quan chốt bẫy. Nhạc Dương cứ bám nằng nặc hỏi xem rốt cuộc đại sư kiếm ở đâu ra mà nhiều Thiên châu thế, nhưng lạt ma Á La tránh không đáp, chỉ nói rõ rằng số Thiên châu này đều là của đi mượn, dùng xong nhất định phải trả về cho chủ nhân, không được làm mất mát. Để phân biệt, các Thiên châu lạt ma Á La mang đến đều có số mắt khác nhau, chiếc của Nhạc Dương chỉ có một mắt, còn của Trương Lập lại có đến ba mắt. Anh chàng vì chuyện này mà phẫn nộ bất bình cả nửa ngày trời, mãi đến khi giáo sư Phương Tân đổi cho chiếc Thiên châu năm mắt mới chịu yên.

Chiều hôm đó Đường Mẫn cũng từ Mỹ trở về, hai mắt đỏ lựng, rõ ràng là từ đến đến giờ cô vẫn khóc suốt. Trác Mộc Cường Ba lại phải an ủi một hồi. Sau khi biết chuyện, Nhạc Dương liền bình tĩnh phân tích: “Chắc anh trai cô không gặp chuyện gì đâu. Nếu Ben hỏi được từ anh ấy chuyện gì thì hắn đã không liều mạng đến Đảo Huyền Không tự tranh cướp bản đồ với chúng ta nữa, chắc chắn là hắn đã đến Bạc Ba La thần miếu luôn rồi. Ngày nào tinh thần anh trai cô còn chưa hồi phục thì bọn hắn sẽ chẳng hỏi ra được gì đâu, mà bản đồ còn ở trong tay chúng ta, thì chúng ắt sẽ không làm gì anh trai cô.” Nghe Nhạc Dương phân tích, tâm trạng Đường Mẫn mới nguôi ngoai phần nào mà thôi không khóc lóc nữa.

Trong căn cứ, mọi người ngồi quây lại thành vòng tròn, cả Lữ Cánh Nam cũng không giấu nổi vẻ vui mừng. Cô tuyên bố: “Lần này yêu cầu mọi người về căn cứ, đặc biệt là tiến hành huấn luyện hồi phục ngay cả khi có thành viên vẫn chưa hoàn toàn khỏe lại, đó là vì, có lẽ đây là lần huấn luyện định hướng cuối cùng của chúng ta rồi.”

Mọi người đều mỉm cười lắng nghe, ai cũng hiểu rõ ý nghĩa của câu nói này. Trương Lập phấn khích thốt lên: “Giáo quan, nói cách khác đi, nói kiểu ấy không may mắn lắm đâu.”

Lữ Cánh Nam không phản đối cũng không nổi giận, chỉ mỉm cười nói: “Được rồi, vậy tôi sẽ nói theo cách khác, sau kỳ tập huấn đặc biệt này, chúng ta sẽ thẳng tiến đến điểm đích cuối cùng của nhiệm vụ lần này, mở ra cánh cửa Bạc Ba La thần miếu đã bị bụi mờ phủ lấp cả nghìn năm nay!”

Trương Lập, Nhạc Dương lập tức vỗ tay rú lên, cả những bậc lão thành như giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La cũng không kiềm chế nổi cảm giác xúc động dâng trào trong tâm khảm, nét mừng vui lộ hẳn ra mặt. Bao nhiêu đè nén và đau đớn phải chịu đựng trong Đảo Huyền Không tự, thảy đều tan biến trong bầu không khí phấn chấn hồ hởi này.

Lữ Cánh Nam cười cười bảo mọi người đừng làm ồn nữa, nhưng nói hai ba lần vẫn không được, tất cả cảm xúc đều bừng lên trong một khoảnh khắc, công sức bỏ ra đã thu về kết quả, chỉ riêng điểm này thôi đã khiến tất cả mọi người kích động khôn nguôi rồi. Cuối cùng, khi cảm xúc của mọi người đã phát tiết hết, căn phòng mới tĩnh lặng trở lại, Lữ Cánh Nam cố làm ra vẻ nghiêm túc, nói tiếp: “Nhưng nhiệm vụ lần này của chúng ta có thể nói cũng là nhiệm vụ khó khăn gian khổ nhất từ trước tới giờ, mức độ nguy hiểm của nó vượt xa bất cứ lần hành động nào trước đây. Để có thể hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ này, chúng ta cần phải chuẩn bị cho thật tốt, chính vì thế, tôi không thể không triệu tập mọi người sớm hơn dự kiến, tiến hành huấn luyện đặc biệt có định hướng. Phải nhớ cho kỹ, chúng ta chỉ có thời gian ba tháng mà thôi.”

Mọi người đều vui mừng không kể xiết, vì sau ba tháng là đã được khởi hành đến Bạc Ba La thần miếu. Mặc dù còn le lói, nhưng ánh sáng hy vọng đã thắp lên, cơ hồ cánh cửa thành công đã ở ngay trước mắt họ rồi vậy.

Lữ Cánh Nam nói: “Đầu tiên tôi sẽ tổng kết lại những gì đã biết, để mọi người nhận thức được tình hình chúng ta đang phải đối mặt một cách rõ ràng hơn. Bạc Ba La thần miếu mà chúng ta tìm kiếm, đại khái được xây dựng trong khoảng từ năm 840 đến 940 sau Công nguyên, vì thời điểm đó xảy ra cuộc tàn sát diệt Phật, nên có rất nhiều tăng lữ phải lưu vong, vô số chùa chiền miếu mạo bị phá hủy, một lượng lớn các văn vật quý giá đã bị mất. Thời ấy nổi tiếng nhất là Tứ Phương miếu, bốn ngôi miếu này hầu như đã tập trung đến hơn chín mươi phần trăm các văn vật Phật giáo của Tây Tạng trước thời Đường, trong cuộc tàn sát diệt Phật, để bảo vệ số văn vật này không bị thiêu hủy, các cao tăng đã nghĩ hết mọi cách, cầu cứu thế lực các phương, cuối cùng đã đưa được hầu hết các văn vật quý giá đến nơi bí mật trước khi Tứ Phương miếu bị hủy diệt. Sau đó, dưới chính sách đè nén áp bức Phật giáo của Lãng Đạt Mã, bọn họ buộc phải rời xa Tây Tạng, nhưng đường xá xa xôi, nếu mang theo một lượng văn vật lớn thì rất dễ bị phát hiện, mà bọn họ cũng không muốn để những bảo vật quý giá ấy lưu lạc ra ngoài đất Tạng. Do một phát hiện bất ngờ, họ tìm được một nơi xa lánh thế gian – các kinh sách ghi chép như thế này, đó là một nơi không thấy mặt trời mọc ở phương Đông, cũng không thấy mặt trời lặn ở phương Tây, quanh năm đều tắm mình trong ánh dương chói lọi. Những tín đồ có linh hồn trung thành vĩnh viễn đang bảo vệ nơi ấy. Bọn họ đã xây dựng Bạc Ba La thần miếu ở đó, đồng thời chia các báu vật đã được bí mật giấu kỹ vận chuyển thành nhiều đợt đến thần miếu. Còn ở Cánh cửa Sinh mệnh và Đảo Huyền Không tự chúng ta đã tiếp xúc với một tôn giáo hoàn toàn khác. Vì tôn giáo này hàm chứa giáo lý của cả Phật giáo lẫn Bản giáo cổ đại, trong hoàn cảnh không có lựa chọn nào khác, các tăng lữ Phật giáo đã ủy thác trách nhiệm vận chuyển bảo vật đến thần miếu cho tôn giáo có thân phận tương đối an toàn này. Nhưng tiếc một điều là, tôn giáo thần bí này đột nhiên biến mất trong lịch sử vì một nguyên nhân nào đó mà chúng ta chưa biết, hơn nữa còn biến mất một cách vô cùng triệt để, khiến đời sau không còn bất cứ tư liệu nào mà tra xét. Vậy là, Bạc Ba La thần miếu cũng như cả tôn giáo thần bí này đã vĩnh viễn vùi sâu trong lịch sử.” Nghe đến đây, Trác Mộc Cường Ba hơi nghiêng người ra phía trước, tựa hồ muốn nói điều gì, nhưng cuối cùng vẫn lắc lắc đầu, không nói ra miệng.

Lữ Cánh Nam hít vào một hơi, rồi nói tiếp: “Mặc dù tôn giáo đó và Bạc Ba La thần miếu đã biến mất, nhưng nhờ có các nghệ nhân hát rong mà thông tin về chúng vẫn được lưu truyền đến ngày nay trong các pho dã sử và truyện ký, sử thi, viên minh châu của cao nguyên ấy chắc chắn sẽ có ngày sáng rực lên lần nữa. Mãi đến năm 1944, nhà thám hiểm người Anh Stanley nghe được một đoạn truyền kỳ đã bị chôn vùi cả nghìn năm từ các nghệ nhân hát rong, và bắt đầu một đoạn hành trình huy hoang rực rỡ nhất trong đời ông ta. Nhưng sự huy hoàng ấy, lại được xây dựng trên cơ sở là hủy diệt nền văn hóa Tây Tạng của chúng ta. Với tư cách một nhà thám hiểm, vết chân Stanley đã đi khắp những nơi lúc đó còn chưa in dấu chân người ở Tây Tạng, đã có vô số di tích cổ được ông ta phát hiện, vô số văn vật cũng bị ông ta đưa đi, nhưng may mắn là, cả đời nhà thám hiểm này cũng không tìm được viên minh châu rực rỡ nhất Tây Tạng – Bạc Ba La thần miếu. Sau này, đã có vô số nhà thám hiểm khác tìm đến đất Tạng, dựa trên ghi chép và những đầu mối ôngta tìm được, bọn họ tham lam vơ vét hết số bảo vật còn sót lại, nhưng riêng chuyện tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu thì không người nào không phải thất vọng trở về. Thực ra, ở Trung Quốc, từ thời nhà Thanh, nhà cầm quyền đã rất quan tâm đến Bạc Ba La thần miếu, còn phái đại thần đặc trách đóng ở Tây Tạng nữa, sau rồi cục thế hỗn loạn rối ren, chuyện này cũng dần nhạt đi rồi trôi vào quên lãng. Giờ đây, nhiệm vụ của chúng ta là cần phải tìm được Bạc Ba La thần miếu trước các thế lực khác! Cuối cùng, tôi muốn nói về tôn giáo thần bí kia…”

Nói tới đây. Lữ Cánh Nam không khỏi tắc lời, đưa mắt nhìn sang phía lạt ma Á La, nhận được ánh mắt cổ vũ của ông, cô mới tiếp lời: “Chúng ta biết rất ít về tôn giáo thần bí ấy.” Mặt cô không giấu nổi nét ửng hồng, có điều mọi người cũng không hề chú ý đến, “từ những gì chúng ta nắm được đến giờ, tôn giáo này có tham gia hoặc đã độc lập hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Bạc Ba La thần miếu và vận chuyển bảo vật. Khi thần miếu xây xong, họ từng phái sứ giả đi, chuẩn bị giao ba tín vật có thể dẫn đến thần miếu cho ba vị trí giả của đất Tạng, nhưng vì nguyên nhân nào đó mà chúng ta chưa biết, cuối cùng họ chỉ giao ra một tín vật, còn hai thứ kia đã bị Cổ Cách vương giữ lại. Trong các tín vật, cố một là bản đồ, tương truyền đã bị Stanley mang đi, còn trong những tấm bản đồ mà chúng ta đang giữ, có lẽ cũng có một tấm tương đồng với tấm bị ông ta mang đi, do khi ấy Stanley vì sợ cơ quan cạm bẫy mà để lại. Ngoài ra trong thư tịch có ghi chép về một tín vật được gọi là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, chúng ta cũng từng thu được một tấm bản đồ, nhưng không rõ bản đồ này và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu có liên quan đến nhau không. Chúng ta chỉ dựa vào các ghi chép trong thư tịch cổ mà suy đoán rằng, Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu ấy vốn đã được sứ giả mang ra hải ngoại, rất có khả năng là tới khu vực Nam Mỹ ngày nay, và được chôn giấu trong một kim tự tháp. Địa cung Ahezt ở Bạch thành có rất nhiều nét tương đồng với văn hóa Tây Tạng, nhưng chúng ta cũng mới chỉ có lý do để tin tưởng rằng đó là nơi cất giấu Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, chứ không hề có chứng cứ xác thực. Còn về tín vật thứ ba, đến nay chúng ta vẫn hoàn toàn chưa có thông tin gì. Vì nguồn tin của chúng ta, đa phần đều dựa trên cơ sở là các ghi chép của vương cung Cổ Cách, mà những ghi chép ấy lại bị Stanley đưa cả về nước Anh, một hai năm gần đây mới trở về Trung Quốc, ngoài ra còn một số thông tin quan trọng khác thì đến sau khi chúng ta ở châu Mỹ trở về mới biết. Tôn giáo thần bí kia có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình xây dựng Bạc Ba La thần miếu và chôn giấu báu vật, nhưng đến giờ chúng ta mới chỉ biết, người dân thôn Công Bố có khả năng là hậu duệ của tôn giáo thần bí ấy, bọn họ phụ trách liên hệ giữa tôn giáo đó và thế giới bên ngoài. Chắc Stanley đã từng đến Cánh cửa Sinh mệnh, nhưng đã bị cơ quan ngăn lại từ bên ngoài, vì vậy ông ta không phát hiện ra đầu mối dẫn đến Đảo Huyền Không tự. Mà Đảo Huyền Không tự này, mới chính là nơi cung cấp cho chúng ta đầu mối quan trọng nhất về tôn giáo thần bí ấy.”

Lữ Cánh Nam nhấp một ngụm nước, rồi lại nói: “Với những thông tin hiện nay chúng ta đang có, có thể nói tôn giáo thần bí kia đã từng vô cùng lớn mạnh, tôi nghĩ, sau khi nếm trải các cơ quan trong Đảo Huyền Không tự, mọi người chắc đều không phản đối tôi nói như vậy phải không. Thành tựu về mặt cơ quan học của họ có thể dùng hai chữ “đỉnh cao” để hình dung, theo những gì chúng ta được biết, bọn họ đã lợi dụng công trình thủy lợi một cách hoàn hảo để cung cấp động lực vĩnh cữu, họ cũng có nghiên cứu rất sâu với các hiện tượng quang học, về mặt khí động lực học, họ cũng tuyệt đối thuộc hàng đỉnh cao thời bấy giờ; đáng sợ hơn nữa là, hiểu biết của họ về sinh vật và vi sinh vật học thậm chí còn đạt tới trình độ cao khó thể với kịp, về mặt này cả khoa học kỹ thuật hiện đại ngày nay cũng chưa thể bì kịp với tôn giáo từ nghìn năm về trước này. Bọn họ có một hệ thống tín ngưỡng độc lập của riêng mình, giữa Bản giáo và Phật giáo thì nghiêng về phía Bản giáo hơn, nhưng cũng không hề bài xích Phật giáo, đây có lẽ chính là nguyên nhân khiến các tăng lữ thời đó lựa chọn hợp tác với tôn giáo này. Hiện nay, những điều chúng ta sắp phải đối mặt có mấy thứ sau đây, thứ nhất, là cơ quan ở thời kỳ phát triển cao nhất. Cánh cửa Sinh mệnh và Đảo Huyền Không tự mà chúng ta đã đến đều được xây dựng trước Bạc Ba La thần miếu, vì vậy, cơ quan trong thần miếu có lẽ còn lợi hại ghê ghớm hơn rất nhiều so với những gì chúng ta gặp phải trước đây. Về mặt này, chúng ta có thể sử dụng các công cụ đo kiểm hiện đại, cố gắng giảm mức độ nguy hiểm xuống thấp nhất. Thứ hai, là quần thể các sinh vật cổ xưa thần bí. Thông tin của Trác Mộc Cường Ba mang về giúp chúng ta biết, tôn giáo thần bí kia có được rất nhiều loài sinh vật cổ mà chúng ta chưa từng trông thấy hoặc đến nay vẫn đang trong giai đoạn tìm tòi, bất kể là động vật lẫn thực vật, chúng ta cũng đều không có hiểu biết gì về chúng hết. Có điều, dường như chúng đều có khả năng tấn công, vì vậy, chỉ cần dùng hỏa lực mạnh áp chế, có lẽ là sẽ tránh được sự uy hiếp của chúng. Thứ ba, là tập đoàn hợp tác với bọn lính đánh thuê. Lần vừa rồi chúng ta đã được nếm mùi lợi hại của chúng, vũ trang và các thiết bị khoa học của chúng đều không thấp hơn chúng ta, thậm chí có thể nói là cao hơn chúng ta rất nhiều. Muốn đối phó với chúng, cần phải dựa vào thân thủ cứng cáp và chiến thuật cũng như kỹ năng cơ động linh hoạt…”

Lữ Cánh Nam đột nhiên ngừng lại, quét ánh mắt nghiêm khắc nhìn từng thành viên đang ngồi bên dưới, nói với giọng đầy ẩn ý: “Chỉ cần mọi người đồng tâm hiệp lực, chúng ta vẫn có cơ hội giành thắng lợi. Thứ tư, cũng là vấn đề khó khăn nguy hiểm nhất mà chúng ta phải đối mặt trong hành trình này, đó chính là vu thuật cổ của Bản giáo. Có thể nói đây là lĩnh vực hoàn toàn xa lạ đối với chúng ta, lại liên quan đến một loạt ngành khoa học phức tạp có độ khó cao như vi sinh vật, hóa sinh vật. Người xưa không có cơ sở khoa học vững chắc gì, toàn bộ đều dựa vào vô số lần thực nghiệm để cho ra kết quả khiến họ hài lòng, vì vậy, giải đáp bí mật của vu thuật cổ từ góc độ khoa học là một chuyện tuyệt đối không thể hoàn thành trong thời gian ngắn được. Về vấn đề này, yêu cầu của tôi đối với mọi người là, phải tuyệt đối cẩn thận ở những chỗ có cơ quan, gặp phải cơ quan nào không tểh hoàn toàn lý giải thì gắng hết sức không nên đụng chạm vào. Một khi không may trúng phải vu thuật cổ, cần lập tức cách ly quan sát, nếu quả thực không thể chịu đựng được nữa, hoặc giả vì quá đau đớn mà mất đi lý trí… thì… nhất thiết phải diệt trừ! Kể cả tôi cũng không ngoại lệ, đến lúc ấy không ai được mềm lòng hết, đã hiểu chưa!”

Nhạc Dương lấy làm kỳ quái nói: “Mặc dù chúng ta có gặp phải cổ độc ở Cánh cửa Sinh mệnh, nhưng ở Đảo Huyền Không tự thì đâu có gặp thứ đáng sợ ấy, thật sự chúng ta sẽ gặp phải thứ đó sao?”

Lữ Cánh Nam gật đầu khẳng định chắc nịch: “Đúng vậy, lần ở Đảo Huyền Không tự chỉ có thể nói là chúng ta may mắn. Thực ra, bọn giun phun ra axit mà mấy người Trác Mộc Cường Ba gặp phải trong hang động cũng có thể tính là một loại cổ độc, lợi dụng một số đặc tính sinh hóa nào đấy của sinh vật. Hơn nữa, mấu chốt là ở gian điện phía Tây gian Thiên Phật điện, giáo sư Phương Tân đã vô tình quay được một số tư liệu, khiến chúng tôi khẳng định chuyến đi này chúng ta sẽ gặp phải cổ độc.”

Trương Lập lớn tiếng hỏi: “Là gì vậy? Sao chúng tôi không thấy?” Họ đã xem đi xem lại những đoạn phim tư liệu đó rất nhiều lần, nhưng không hề phát hiện ra nội dung nào liên quan đến vu thuật cổ.

Lữ Cánh Nam trầm giọng nói: “Còn nhớ chúng ta đã thấy rất nhiều những tấm thangka màu đen trong gian điện ở mé Tây không?”

“A…” “A!” Cùng lúc có hai tiếng kêu kinh ngạc thốt lên. Trương Lập thì sực nhớ ra những tấm thangka màu đen ấy, lúc đó khung cảnh tối tăm, họ cũng không lưu ý xem nội dung của những tấm thangka đó là gì; còn Trác Mộc Cường Ba thì bởi vừa mới nghe chính cha mình nói gia tộc nhà gã không có quan hệ gì với tôn giáo thần bí ấy. Vậy thì, thangka màu đen đó là như thế nào? Càng đi sâu điều tra, gã càng cảm thấy quan hệ giữa gia tộc mình và tôn giáo thần bí kia dường như không hề đơn giản, đáp án nằm ở đâu đây? Ở Bạc Ba La thần miếu chăng?

Lữ Cánh Nam không thể đoán được tâm tư hai người, cô nói: “Hình ảnh những tấm thangka đen đó đã được xử lý bằng máy tính, hoàn nguyên lại bản lai diện mục, trên đó đều vẽ những vu thuật cổ cực kỳ đáng sợ, hiện giờ chuyên gia vẫn đang phân tích chỉnh lý các bức vẽ đó. Nhưng vì niên đại quá xa xôi, thêm nữa là chúng ta vẫn chưa thể hoàn toàn lý giải được nội dung các bức vẽ, có lẽ việc làm rõ cổ nhân chế tạo cổ độc như thế nào vẫn còn chưa hiện thực cho lắm.” Lữ Cánh Nam hồi tưởng lại nội dung những bức thangka đen ấy, không khỏi run người lên, vì chúng quả thực là vô cùng tàn nhẫn tanh máu, thực tình cô không muốn tiết lộ với mọi người, vậy nên đã che giấu đi một phần. Bên rìa những bức thangka ấy còn có cả giải thích bằng văn tự, nhưng những ký hiệu đó không phải tiếng Tạng cổ mà họ biết, dường như là để che giấu nội dung nên đã cố ý thay đổi cách viết, các chuyên gia nói, loại văn tự ký hiệu ấy có thể nói là mật mã của tiếng Tạng cổ.

Những người ngồi phía dưới không ai dám thở mạnh, đến giờ họ mới hiểu, Lữ Cánh Nam nói họ sẽ phải đối mặt với những khó khăn xưa nay chưa từng thấy, đó tuyệt đối không phải là nói cho có mà thôi, sau khi cơn hưng phấn vì sắp xuất phát đến thần miếu qua đi, một thoáng sợ hãi dâng lên trong tâm trí mỗi người. Lữ Cánh Nam lại an ủi mọi người: “Có điều cũng không cần quá lo lắng, chúng ta sắp tới sẽ triển khai huấn luyện đặc biệt nhằm vào bốn tình huống đó. Sau khi hoàn thành lần huấn luyện đặc biệt này, năng lực đối diện với khó khăn của mọi người sẽ được nâng cao đáng kể, chúng ta cần phải có lòng tin tuyệt đối rằng mình có thể chiến thắng bất cứ khó khăn nào để đạt được mục tiêu một cách viên mãn.”

Mọi người đều phấn chấn tinh thần, lại hoan hô thêm một lượt nữa. Lữ Cánh Nam để mọi người yên lặng trở lại, đoạn nói tiếp: “Bây giờ, tôi sẽ cho mọi người biết kế hoạch cụ thể của lần huấn luyện này. Đợt huấn luyện này chia làm ba giai đoạn, giai đoạn thứ nhất, vì hầu hết mọi người vừa mới hồi phục sức khỏe, nên sẽ tiến hành huấn luyện nửa trị liệu nửa hồi phục thể lực, cố gắng sau khi kết thúc giai đoạn này, thể lực của mọi người sẽ hồi phục trở lại trạng thái trước khi đến Cánh cửa Sinh mệnh. Tôi dành cho giai đoạn này mười ngày; giai đoạn hai, là nhằm vào những khuyết điểm trong biểu hiện của mọi người khi đối mặt với các cơ quan trong Đảo Huyền Không tự, vì vậy, tôi sẽ giới thiệu với mọi người mấy vị giáo quan mới, bọn họ sẽ tiến hành chỉ đạo từ xa thông qua mạng Internet. Nhớ kỹ, mặc dù thân phận của họ đã được xác minh là không vấn đề gì, nhưng mọi người vẫn phải đặc biệt chú ý cho, chuyện gì không nên nói chuyện thì không nên nói.” Kế đó, cô bật đèn laser lên, trên màn hình liền xuất hiện ba gương mặt mới, một người Trung Quốc, hai người nước ngoài, ba người này đều có đặc điểm chung là thân hình săn chắc tráng kiện, đường nét cơ bắp đều toát lên mỹ cảm đồng thời lại có độ đàn hồi. Lữ Cánh Nam giới thiệu: “Vị này là Vương Nhất Dân, ông ta là trụ cột của Đoàn Nghệ thuật Tạp kỹ Trung Quốc, mọi người có biết các diễn viên tạp kỹ leo cột như thế nào không?”

Nói đoạn, Lữ Cánh Nam bấm nút trên bộ điều khiển, trên màn hình liền hiện ra cảnh một diễn viên tạp kỹ leo cột, linh hoạt như khỉ vượn, tốc độ cực nhanh, lại còn nhảy nhót nhào lộn giữa hai cột tre nữa. “Tôi yêu cầu mọi người cũng phải làm được như vậy.” Lữ Cánh Nam nói. “Ngoài ra, ông Vương Nhất Dân còn hướng dẫn mọi người một số kỹ năng đặc biệt của nghệ thuật tạp kỹ như đu dây trên cao, kỹ thuật giữ thăng bằng, thuật co xương rút cốt…”

Đầu roi của Lữ Cánh Nam chỉ vào bên cạnh người thứ hai, cơ bắp của người đàn ông ngoại quốc hơi thâm thấp này lực lương nhất, tuổi tác tầm như Trác Mộc Cường Ba, sống mũi rất cao. “Vị này là Divari, người Nga, từng là vận động viên thể dục toàn năng, sau khi nghỉ thi đấu lại huấn luyện ra mấy quán quân nữa, ông ta sẽ hướng dẫn mọi người về mặt kỹ xảo và hình thể.” Cô vừa nói dứt lời, màn hình đã chuyển sang cảnh người đàn ông đó đang tập xà đơn, chỉ nghe giọng Lữ Cánh Nam lại cất lên: “Những kỹ xảo nhào lộn này có tác dụng rất lớn khi phải đối phó với các cơ quan cạm bẫy thời cổ đại. Tôi không yêu cầu động tác của mọi người phải quy phạm như vận động viên thể thao, nhưng tốt nhất là có thể đồng thời ngắm chuẩn, xạ kích trong khi nào lộn, mắt phải nhìn bốn phương, tai nghe tám hướng…”

Trương Lập, Nhạc Dương nghe mà cặp mắt trợn tròn lên như muốn rơi ra ngoài.

Tiếp đó, màn hình lại biến đổi. Chỉ thấy một thanh niên ngoại quốc ăn mặc rất thời trang đang chạy nhanh vun vút trên nóc một tòa nhà cao tầng, sau đó nhảy vọt qua khoảng trống rộng mấy mét sang nóc một tòa nhà khác, rồi bám vào mép tường mà nhảy thẳng xuống. Hai anh chàng Trương Lập, Nhạc Dương xem mà lạnh hết cả người. Lữ Cánh Nam lại chuyển cảnh, chỉ vào người thứ ba nói: “Vị này là Frank, người Pháp, là một người yêu thích môn chạy bộ vận động cực hạn. Môn thể thao này yêu cầu rất cao về sức mạnh cũng như khả năng thăng bằng của cơ thể, tôi hy vọng, mọi người có thể chạy nhanh trên mọi địa hình giống như họ vậy.” Nói xong, màn hình lại chuyển về cảnh trong thành phố, một đám người đang chạy kiểu dích dắc giữa các cầu thang và tường bao, nhanh nhẹn vượt chướng ngại vật, nhảy lấy đà tại chỗ đã đạt độ cao ngang đầu người, đạp chân lên tường là có thể trực tiếp bám mặt tường mà leo thẳng lên tâng hai, nhìn họ chạy thật khác gì đang xem phim kungfu của Thành Long hay Lý Liên Kiệt vậy.

Trương Lập thấp giọng hỏi: “Chúng ta làm được không nhỉ?”

Lữ Cánh Nam nói: “Tôi không yêu cầu mọi người làm tốt như họ. Tạp kỹ, thể dục, chạy bộ mọi địa hình, ba loại vận động này đều có thể coi như một sự khiêu chiến và mở rộng đối với khả năng linh hoạt của cơ thể, chúng có những điểm chung, đồng thời có những nét đặc sắc riêng, và sẽ nâng cực hạn thân thể của mọi người lên một tầm cao mới. Tôi không yêu cầu phải là tốt nhất, nhưng yêu cầu tốt hơn, đây chính là yêu cầu của tôi dành cho mọi người. Đồng thời, ở giai đoạn thứ hai này, mọi người còn phải hoàn thành một khóa huấn luyện mô phòng bằng máy tính, đây là một phần mềm máy tính thiết kế như trò chơi chống khủng bố mà các chuyên gia phần mềm trong nước đã biên soạn dựa trên số liệu Ba Tang và Trương Lập cung cấp, hy vọng mọi người có thể tìm hiểu được phương thức tác chiến của kẻ địch thông qua phần mềm mô phỏng này. Còn nữa, về vu thuật cô, mọi người cũng phải tiến hành huấn luyện đặc biệt…”

Lữ Cánh Nam yêu cầu các thành viên trong đội có thể mặc và cởi trang phục cách ly, hoàn thành hai người cấp cứu cách ly một người, bao gồm cả loại bỏ tất cả tạp vật bên ngoài, phun thuốc tiêu độc sát khuẩn và thiết lập khu vực quan sát cách ly đơn giản với tốc độ nhanh nhất trong tình huống vẫn mặc đồ leo núi vừa dày vừa nặng. Giai đoạn cuối cùng là huấn luyện leo núi tuyết, mọi người được yêu cầu phải nắm sơ lược kỹ năng phân tích địa lý tình hình, cách thăm dò các khu vực có khe nứt phủ tuyết, cách chống lại gió mạnh cấp mười, giữa lưng chừng núi dùng đinh tán và dây thừng tiến lên. Dưới ngọn roi giáo quan và giọng nói vang vang dễ nghe của Lữ Cánh Nam, đợt huấn luyện gian khổ đã được triển khai như vậy đó…

Không chỉ thế, khi một ngày huấn luyện mệt nhọc kết thúc, mọi người lại phải bắt đầu một hạng mục huấn luyện khác, mỗi người đều không thể không ra sức nghiên cứu tìm hiểu về tôn giáo ở Tây Tạng cổ đại. Theo cách nói của Lữ Cánh Nam, điều này có tác dụng hỗ trợ mang tính quyết định khi họ phải đối mặt với các cơ quan sau này. Ngoài lạt ma Á La, giáo sư Phương Tân và Trác Mộc Cường Ba biết một số kinh điển của Phật giáo, hiểu biết của những người người khác về Phật học đều rất ít, càng không cần nói đến Mật tông Tây Tạng hay Bản giáo cổ đại làm gì. Gay go hơn nữa là, khu vực Tây Tạng thời Phật giáo chưa thống nhất có vô số các tông phái khác nhau, giáo lý nhiều không kể xiết, mà bọn họ thì chỉ có thể hoàn toàn dựa vào học thuộc lòng, học đến khi có thể nhận biết được hết các loại tượng Phật khác nhau trong Đại Mạn Đà La, Tam Vị Gia Mạn Đà La, Pháp Mạn Đà La, Kiệt Ma Mạn Đà La…, những thứ như Luân Vương Thất Bảo, Lục Nỗ Cụ, Thất Đại Trát Khắc La cũng đều nắm được đại thể, cả các khái niệm của Bản giáo như thần Sinh mệnh, Tán thần, Úy Nhĩ Mã, Mã Ma, Dạ Xoa, Đề Lung, Đốn, Đặc, Thủy Thũng Ma, Quán Ba… cũng nằm trong phạm vi buộc phải học thuộc lòng của họ.

Lữ Cánh Nam còn thông qua nhiều nguồn khác nhau, tra ra được loại mìn mà bọn tên Ben đã sử dụng. Theo tư liệu cô tìm được, loại mìn này có thiết kế kiểu đồng hồ điện tử, hai đầu là keo siêu dính bóc ra là dán được, có thể dính mìn vào bề mặt của bất cứ vật thể nào, hơn nữa dù xuống nước cũng không bị ảnh hưởng. Phần ở giữa lớn bằng cái cúc áo là bộ phận chính của quả bom, trong đó thuốc nổ chỉ chiếm hai phần ba thể tích cái cúc áo ấy, một phần ba còn lại là linh kiện điện tử rất tinh vi. Nguyên liệu tạo ra loại thuốc nổ cực mạnh này có chứa uranocene nitro dioxit và nhiều nguyên tố khác. Đến mấy năm gần đây, quân đội Mỹ mới đưa loại này vào sử dụng, và được xưng là loại thuốc nổ thế hệ mới, uy lực vụ nổ chỉ đứng sau có vũ khí hạt nhân, khả năng phá hoại của cái “cúc áo” đó tương đương với 15 cân thuốc nổ TNT. Còn lớp vỏ bên ngoài, một là có thể tính giờ, sử dụng như bom mìn hẹn giờ thông thường, hai là có thể điều khiển cho nổ từ xa, tác dụng trong phạm vi năm trăm mét, ba là bên trên lớp vỏ này có thiết bị cảm biến áp lực, có thể lực chọn sử dụng hay không, một khi đã khởi động thiết bị này, quả bom sẽ tự cảm ứng được áp lực đè lên nó, nếu có người muốn bóc ra, bom sẽ tự động phát nổ. Cũng có nghĩa là, đây là loại bom không thể tháo gỡ. Quân đội Mỹ vẫn chưa công khai thông tin về loại bom này, cũng chỉ có quan hệ của tên Ben mới kiếm được, trước mắt có thể nói đó chính là loại vũ khí mạnh nhất của phe đối phương.

Cuối cùng, Lữ Cánh Nam nói: “Mặc dù chúng ta đã biết về bọn chúng có bom hẹn giờ có thể dính ngay dùng ngay, nhưng vẫn chưa biết nhiều về uy lực của nó… Còn nữa, rốt cuộc Soares có phải tên thao thú sư trong hàng ngũ kẻ địch hay không, thân phận y là thế nào, những việc này chúng tôi cũng đang điều tra thêm.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Về con người này thì tôi cũng có biết chút ít, có lẽ mọi người không tìm được mấy tư liệu về y đâu. Trước khi thành danh, y cũng giống như những nhà nghiên cứu khác, cả ngày vùi đầu vào phòng thí nghiệm, không ai biết y là ai cả. Cho đến… tôi nhớ xem nào, có lẽ là tám năm trước, bản báo cáo luận văn của y công bố đã làm chấn động cả Diễn đàn Sức khỏe Thái Bình Dương. Khi đó, những vị có uy tín trong giới học thuật bình luận rằng, Soares đã ném bom nguyên tử vào giới sinh vật học. Bản luận văn ấy, thực sự là đã dẫn tới đột phá mang tính cách mạng trong cả giới sinh vật học.”

“Tám năm trước…” lạt ma Á La lặng lẽ suy tư, tựa hồ như liên tưởng đến điều gì đó.

HẾT TẬP 4

Bình luận