Cả bọn liền xuống dốc, đến bên cạnh Trương Lập. Chỉ thấy khúc gỗ mà Trương Lập đụng phải ấy, không ngờ lại bị khoét rỗng ở giữa một hốc hình chữ nhật dài một mét, rộng chừng nửa mét. Nhìn vết cắt gọn ghẽ phẳng phiu, có thể khẳng định chắc chắn là do con người làm ra, chẳng trách Trương Lập lại kêu toáng lên như thế.
Trác Mộc Cường Ba đưa tay vuốt nhẹ dọc theo mép hốc lõm, bờ mép thẳng thớm mà trơn nhẵn, tuyệt đối không thể hình thành trong tự nhiên được. Gã quả quyết nói: “Đúng thế, là do con người tạo ra. Chắc là gần đây có người!”
Nhạc Dương lấy làm lạ nói: “Khúc gỗ này dùng để làm gì nhỉ? Xây nhà chắc?”
Sean lắc lắc đầu: “Không, không, nhìn hình dáng thì đây hẳn là một cái trống gỗ, có lẽ là loại trống nguyên thủy nhất rồi đấy. Người xưa khoét rỗng một khúc gỗ, gõ vào để phát ra âm thanh, nhiều nơi có loại trống nguyên thủy này lắm.” Nói đoạn, anh ta tiện tay nhặt lên một cục đá gõ vào mép khúc gỗ đó, khúc gỗ liền phát ra một loạt âm thanh “bung bung bung”.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Được rồi, nếu đã phát hiện đồ vật nhân tạo, thì chúng ta hãy tìm kiếm ở vùng quanh đây. Hai người một nhóm, tản ra theo hình rẻ quạt về ba hướng Đông, Nam, Bắc. Nhớ là phải giữ liên lạc, chú ý mọi động tĩnh khả nghi, cẩn thận có cạm bẫy, nếu gặp con người thì phải giữ bình tĩnh, kiềm chế, cố gắng không xung đột với họ. Mọi người hiểu cả chưa? Xuất phát.”
Ba Tang và Sean một nhóm, Nhạc Dương và Triệu Trang Sinh một nhóm, đội trưởng Hồ Dương và Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Trương Lập, Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn, năm nhóm người tản ra năm hướng khác nhau, liên lạc với nhau bằng đồng hồ nguyên tử đeo trên cổ tay.
Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn đi về phía Bắc được khoảng năm trăm mét, những thành viên khác trong đội cũng đã khuất sau tán cây rừng từ lâu. Sau khi dùng thiết bị liên lạc trên đồng hồ lần lượt hỏi han tình hình mọi người, không ai có phát hiện gì mới, Trác Mộc Cường Ba quyết định tiếp tục đi sâu vào rừng.
Đường Mẫn cầm súng trên tay, nhưng vẫn rất sợ hãi, căng thẳng bám sát sau lưng Trác Mộc Cường Ba, mỗi lần nghe thấy tiếng chim tiếng thú, cô đều giật thót mình dừng lại. Trác Mộc Cường Ba an ủi: “Không cần phải căng thẳng quá như vậy, không sao đâu.”
Lại đi được thêm năm trăm mét nữa, vành tai Trác Mộc Cường Ba khẽ giật giật, gã vội kéo Đường Mẫn lại thì thầm nói: “Em nghe thử xem.” Đường Mẫn bèn nghiêng tai chăm chú lắng nghe, rồi mỉm cười nói: “Nước, là tiếng nước đấy, phía trước hình như có nước.” Nói đoạn, cô ngẩng đầu lên nhìn, rồi nghi hoặc lẩm bẩm: “Ở đây đâu có thác nước, sao lại có tiếng nước được nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba vỗ nhẹ lên lưng Đường Mẫn, cười cười nói: “Em quên rồi à, ngoài thác nước ra, còn có nước trong khe núi nữa mà, đi thôi, xem thử thế nào.” Có nước, cũng đồng nghĩa với có khả năng con người cư trú quanh đây. Bởi sống bên cạnh nguồn nước, chính là tập quán của con người.
Tiếng nước lớn dần, xem ra phía trước không đơn giản là một con suối nhỏ. Vài phút sau, Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn đã đến được nguồn nước. Chỉ thấy trên mặt sông rộng gần trăm mét róc rách chảy xuyên qua rừng cây ấy, vẫn có vô số cây cổ thụ cao lớn, cành cây rễ cây rủ xuống mặt nước, hình thành nên kỳ quan sông giữa rừng cây, cây mọc trên sông. Dòng sông rất rộng, nhưng cũng rất nông, trông như một tấm khăn lụa trải giữa khu rừng, chỉ hướng dẫn đường. Dòng sông rẽ ngoặt ở khoảnh rừng dưới hạ du, rồi biến mất khỏi tầm mắt, có điều, nhìn theo hướng nó ngoằn ngoèo gấp khúc tiến về phía trước, dường như là có thể ra thẳng đến bờ biển! Càng khiến Trác Mộc Cường Ba cảm thấy kinh ngạc hơn là, khi nghĩ đến biển, dường như gã còn nghe thấy cả tiếng sóng dạt dào.
Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn vừa đi dọc lên theo dòng nước, vừa báo tình hình với những nhóm khác. Pháp sư Á La và Trương Lập cũng nhìn thấy dòng nước trong rừng, cũng đang đi ngược lên. Bọn Nhạc Dương cũng đã nghe thấy tiếng nước, đồng thời tìm được một số dấu vết do con người tạo ra trên thân cây, càng bất ngờ hơn nữa là, họ còn phát hiện ra hai đường ray bằng kim loại trong rừng, trông như đường ray xe lửa. Trương Lập cho rằng thứ này giống đường ray để tượng đồng di chuyển trong Đảo Huyền Không tự hơn. Họ sợ đụng phải cạm bẫy, đang đi vòng qua. Đội trưởng Hồ Dương và Lữ Cánh Nam đã đến được chân núi, phát hiện ra một số tảng đá có dấu vết bị mài giũa, hiện đang men theo chân núi tiếp tục vòng sang phía phải, ở chỗ họ cũng phát hiện ra đường ray bằng kim loại, còn nói đường ray đó hình như thông thẳng vào làng. Phạm vi tìm kiếm của mọi người bắt đầu được thu hẹp lại.
Càng tiến lên phía trước, những dấu vết của con người để lại càng thêm rõ rệt. Cuối cùng, một công trình kiến trúc điển hình của con người đã lấp ló giữa những tán cây, rồi hiện ra trước mặt bọn Trác Mộc Cường Ba. Đó là một bức tường đá cao, trên tường cắm đầy giáo sắt, cây nào cây nấy thẳng đứng hướng lên trời, dưới chân tường đá còn có vô số gò đá nhỏ, bên trên gò đá cắm đầy giáo sắt, mũi giáo nhọn hoắt chắn ngang đường phía trước. Nhìn cách bố trí ấy, Trác Mộc Cường Ba lập tức nhận ra đây là hàng rào mà người ở đây dùng để ngăn cản lũ thú dữ khổng lồ. Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn dừng bước, phía trước rất có thể là nơi người bộ tộc Qua Ba quần cư, tiếp tục mạo hiểm tiến lên e sẽ gặp phải những nguy hiểm khó lường. Gã thông báo cho các nhóm khác, yêu cầu mọi người đến dưới bức tường đá ấy tập hợp.
Cả bọn đã tề tựu, nhìn những bức tường đá cắm đầy giáo sắc nhọn hoắt, không ai còn nghi ngờ gì nữa, phía sau bức tường đá này chắc chắn có một khu tập trung dân cư, nhưng bên trong có bao nhiêu người, tập tính của họ thế nào, phải xử sự với họ ra sao thì lại là một vấn đề phiền phức, mà bọn Trác Mộc Cường Ba dẫu sao cũng hoàn toàn chưa hay biết gì về nơi đây.
Nhạc Dương tinh mắt, hình như đã phát hiện ra gì đó, liền lùi lại hai bước, chỉ vào sườn núi đằng sau bức tường cao: “Mọi người nhìn xem, đó là gì vậy!” Nhìn theo ngón tay chỉ của Nhạc Dương, cả bọn mới để ý thấy, vách đá phía sau những bức tường cao đối diện với họ không giống những nơi khác. Vách đá ở những chỗ khác đều nghiêng vào phía trong, từ xa trông như một ngọn sóng khổng lồ đang ập tới trước mặt, chẳng những vậy, nước bên trong rỉ ra còn khiến chúng trở nên trơn nhẵn. Còn vách đá ở đây lại như có một thứ vật chất dạng keo màu nâu đỏ chầm chậm chảy dọc theo triền dốc, rồi đông đặc lại, những nếp uốn trên vách đá còn hình thành nên các bậc cấp khá rõ rệt, rất giống một tòa kim tự tháp dốc đứng hay đỉnh nhọn của tòa Đại giáo đường Cologne. Màu sắc của nó khác hẳn với đá núi xung quanh, trông như một mũi tên đánh dấu màu đỏ đang tiết lộ với họ rằng, từ đây đi lên, con đường của các ngươi chính xác rồi đấy.
Ngoài con dốc núi màu đỏ bắt mắt ấy ra, vách đá xung quanh cũng đều thuộc loại nghiêng vào bên trong. Vách đá ở phía Tây Nam khu làng là nghiêng nhiều nhất, trông như luôn sẵn sàng sụp xuống bất cứ lúc nào. Ánh sáng ở đây cũng rất ảm đạm, hắt về phía bóng tối, cơ hồ tạo nên một vòng cung chẳng khác nào một cái lỗ đen khổng lồ vô tận cả.
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt quan sát xung quanh, trong đầu đã từ từ phác họa ra hoàn cảnh địa lý của khu làng này. Không gian chỗ bọn họ đang đứng đây, có thể hình dung như là ở bên trong một chiếc giày khổng lồ, khu làng phía trước tọa lạc ở gần với mũi giày, trên đỉnh đầu họ chính là mặt trên của chiếc giày, tầng nham thạch nghiêng hẳn xuống, khiến người ta có cảm giác bị đè nén đến khó chịu. Còn chỗ gót giày thì đã bị đám thực vật kỳ dị đang phun hạt giống chắn mất, ngăn cách bọn họ với hầu hết các loài động vật hoang dã. Vách đá họ muốn leo lên, nằm ở một bên thành giày, thành giày phía bên kia là khu rừng giáp với biển ngầm dưới lòng đất.
“Đúng rồi, nếu nói chúng ta sắp đến chỗ khép lại của cả khe nứt, thì khoảng rừng này rất gần biển, vừa nãy tiếng sóng mà mình nghe thấy không phải là ảo giác! Nếu tiếp tục tiến về phía Tây Nam thì sẽ như thế nào? Hai bên vách đá khép dần lại, cuối cùng thì hẹp đến mức không thể lách người qua được, hay là giống như lúc chúng ta đến đây, bên dưới vách đá, là mặt biển tối tăm vô tận?” Nhìn hoàn cảnh độc đáo nơi đây cùng với con đường có thể tiến lên phía trước, trong đầu Trác Mộc Cường Ba nổi lên trăm mối tơ vò.
“Dung nham chồng chất!” đội trưởng Hồ Dương lớn tiếng kêu lên. “Chính là ở chỗ này rồi, chỉ có chỗ này, chúng ta mới có thể leo lên được. Có điều không biết những người sống bên trong có cho phép chúng ta đi qua không nhỉ?”
Trương Lập nói: “Nếu người ở đây đều nói tiếng Tạng cổ thì tốt quá, ít nhất cũng có thể giao lưu được. Chỉ sợ họ không phải người Qua Ba, mà là người gì khác ấy chứ.”
Nhạc Dương lắc đầu nói: “Đừng quên người điên kia, khả năng đây là làng của người Qua Ba là rất lớn, hay là để tôi leo lên tường kia quan sát xem sao.”
Pháp sư Á La lập tức phản đối: “Không được, nếu đây là địa giới của người Qua Ba, thì chạm vào bất cứ thứ gì cũng đều rất nguy hiểm. Cậu nhìn những cây giáo sắt kia mà xem, độ ẩm ở đây cao như thế, vậy mà không có lấy một vết gỉ, chứng tỏ rằng bên trên chắc chắn có bôi thứ gì đó.”
Ba Tang nói: “Chúng ta cứ thế mà vào thôi, bọn chúng mà dám ra tay thì xử lý luôn!”
“Hả?” Mọi người nghe vậy đều giật mình ngạc nhiên.
Đường Mẫn nói: “Chúng ta vốn đến để nhờ họ giúp đỡ, nếu vừa gặp mặt đã động tay động chân, chẳng phải là…”
Ba Tang nhìn nét mặt hoảng hốt của mọi người, nói: “Dùng vũ lực khuất phục bọn chúng, có gì không ổn đâu chứ?”
Pháp sư Á La nói: “Dĩ nhiên là không ổn. Trước hết, vũ khí của chúng ta chưa chắc đã mạnh hơn cổ độc, dù sao thì đó cũng là thứ chưa ai từng thấy bao giờ; thứ nữa, nếu dùng vũ lực khuất phục bọn họ, vậy thì họ sao còn chịu toàn tâm toàn ý cứu chữa cho Cường Ba thiếu gia nữa. Chi bằng, để tôi đi trước thăm dò xem sao.”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu đồng ý, chắc rằng pháp sư Á La có thể tránh được các cạm bẫy ấy, nếu có nguy hiểm, ít nhiều gì ông cũng có thể lùi về an toàn. Pháp sư Á La đặt ba lô xuống, bóng người khuất sau tường đá, thoắt cái đã biến mất, những người còn lại đều nhìn theo bóng pháp sư, ngẩng đầu chờ đợi. Không ngờ pháp sư Á La đi được một lúc mà vẫn bặt vô âm tín, hồi lâu sau cũng không thấy có động tĩnh gì; muốn liên lạc, thì lại sợ ông đang âm thầm bí mật tiến lên, sử dụng thiết bị truyền tin sẽ làm bại lộ hành tung.
Sau mười phút đằng đẵng chờ đợi trong lo lắng, mọi người mới nghe thấy tiếng pháp sư Á La vang lên trong thiết bị truyền tin: “Không có cạm bẫy, không có nguy hiểm… Mọi người, mau vào đây đi, mau vào đây xem… Rốt cuộc… rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy trời!” m thanh ấy, dường như không phải của một ông già năm sáu chục tuổi, mà giống một đứa trẻ năm sáu tuổi hơn, ngữ khí không giấu nổi sự mừng rỡ và kinh ngạc, khiến ai nấy đều trở nên kích động. Duy chỉ có mình Lữ Cánh Nam là nhận ra sự hụt hẫng to lớn trong câu nói cuối cùng của pháp sư Á La, bên trong chắc chắn đã xảy ra chuyện gì mà họ không thể nào tưởng tượng nổi.
Con đường bên trong trận địa tường đá ngoằn ngoèo khúc khuỷu, những chỗ chật hẹp chỉ có thể đi từng người qua, nhưng hoàn toàn không thể ngăn được tâm trạng nôn nóng muốn vào bên trong của mọi người. Vòng qua bức tường chắn cuối cùng, cảnh tượng phía trước bỗng mở bừng ra… Trước mắt họ, là một bức tranh hoàn toàn không thể nào tưởng tượng nổi.
Tầm mắt họ hoàn toàn bị phủ kín bởi màu xanh ngút ngàn, như thể họ vừa đột nhiên từ khu rừng nguyên sinh bốn bề đầy những hiểm nguy rình rập đến mảnh đất đào nguyên thế ngoại. Ở nơi đây, rừng cây cổ thụ cao rợp trời đã được con người khai phá thành một mảnh đất phì nhiêu màu mỡ, cỏ non xanh rợp chân trời, tre trúc hắt bóng nước, chồi non lộc biếc, cây cỏ tốt tươi, hoa đào đỏ thắm, hoa lê trắng muốt, điểm xuyết trên thảm cỏ xanh ngắt như thể sao trời lấp lánh. Bức tường đá xám xịt cắm đầy những ngọn giáo sắt sau lưng họ, tựa như đường ranh giới giữa địa ngục và thiên đường, tách rời hai thế giới hoàn toàn khác nhau ấy. Đồng thời, cũng giống như một tấm màn ma thuật, mang đến cho những vị khách bất ngờ này những cảm nhận thị giác như mộng như ảo.
Những kiến trúc ở đây lại càng khó tin hơn nữa. Nếu nói sự thay đổi về thực vật làm môi trường nơi đây khiến tâm trạng của đám người vừa thoát ra khỏi địa ngục ấy khó thể bình tĩnh được, thì cảm giác mà kiến trúc ở nơi đây mang đến cho họ, hoàn toàn chỉ có chấn động và kinh ngạc mà thôi, thậm chí cả pháp sư Á La, cũng khó kiềm chế được cảm giác ấy.
Cảm giác đầu tiên của tất cả mọi người đều là, không thể hình dung, không thể tin nổi, bởi vì ở trước mắt họ đây, là một kiểu kiến trúc mà họ chưa từng thấy bao giờ… Từng dãy từng dãy nhà gỗ được ghép từ những tấm ván màu vàng kim, giống như những hàng cây hoa 1 trồng ngay ngắn ở đầu bờ ruộng; những dây leo trông như loài tử la lan phủ trên mái nhà thành rèm che, rừng trúc xanh biếc vây chúng vào giữa, như thể một hàng rào. Mỗi dãy nhà gỗ đều được phân bố cân đối theo tiêu chuẩn hình học hết sức nghiêm khắc, diện tích ruộng đất hai bên nhà gỗ cũng hoàn toàn bằng nhau, hệt như là soi gương vậy. Nhìn tổng thể, khu làng này trông như một chiếc quạt xếp khổng lồ xòe rộng, những dãy nhà gỗ chụm lại một phía, như những nan quạt, còn ruộng đất giữa các căn nhà thì giống giấy bồi giữa những nan quạt. Ngoài ra lại có một đường phân giới màu xanh nhạt ngăn tách phần nan quạt màu xanh ngọc và phần giấy quạt màu xanh lá mạ ra, đó là một trảng cỏ rộng chừng hơn ba chục mét hình chữ “S”, quây quanh nhà gỗ và đất ruộng. Vô số kênh dẫn nước chảy xuyên qua trảng cỏ và ruộng đất, cuối cùng chảy ra phần đỉnh chiếc quạt xếp, hợp lại thành một dòng sông lớn.
Kết cấu các dãy nhà gỗ giống hệt nhau. Các căn nhà ở gần vòng ngoài làng to lớn nhất, càng vào bên trong càng nhỏ dần lại, nhưng đều chia làm ba tầng trên, dưới và giữa, mỗi tầng có hành lang có thể đi thông khắp các phòng. Nhìn phía ngoài hình lăng trụ của các gian phòng, có thể thấy tất cả các phòng đều có hình lục lăng hoàn mỹ, chỉ là diện tích lớn nhỏ hơi khác nhau một chút, sắp xếp khít chặt như tổ ong. Giữa các dãy nhà gỗ tỏa ra ấy, cứ cách chừng trăm bước, lại có một cây cầu gỗ nối liền hai dãy nhà lại với nhau. Không biết người xưa đã dùng kỹ thuật gì mà bên dưới cây cầu gỗ dài cả trăm mét chẳng hề có trụ cầu, mố cầu chống đỡ, hoàn toàn chỉ là bắc qua không trung. Trên cầu mọc đầy các dây leo đủ màu sắc rực rỡ, cả nghìn cây cầu gỗ lơ lửng đan chéo nhau, nhìn từ xa trông hệt như một dải hành lang làm bằng hoa và dây leo lơ lửng giữa không trung.
Bức tường gỗ cao mấy chục mét màu vàng kim đã ở ngay trước mắt, những hình vẽ thần bí và ô cửa sổ được chạm trổ hết sức kỳ công đã có thể thấy rõ mồn một. Bất ngờ hiện ra trước mắt như vậy, rồi vươn dài ra đến tưởng chừng như vô tận. Vô số những ống mềm lớn nhỏ khác nhau vươn ra từ hai tầng dưới của những tòa nhà gỗ màu vàng thấp thoáng ẩn hiện giữa rừng trúc cũng giống như những dây leo kia. Ống nhỏ thì đung đưa trong gió, ống lớn thì giống những cẳng chân bằng máy to tướng, cắm thẳng xuống đất. Những đường ray bằng kim loại vươn ra từ dưới chân các căn nhà gỗ này, có vô số đường giao nhau, giống như một tấm lưới mảnh bằng kim loại trải trên ruộng đồng. Tấm lưới cứ vươn ra xa, cuối cùng vươn đến ngoài khu làng… đến khu rừng tăm tối đầy rẫy những hiểm nguy.
Nhìn những đường ray ấy, Trác Mộc Cường Ba cảm giác dường như mình đang đứng trước một đoàn tàu khổng lồ màu vàng kim, đầu tàu hướng về phía mình, thân tàu kéo dài ra vô tận. Đoàn tàu chạy đến Thiên quốc ấy nghiến qua cả lịch sử, đang hú lên “tu tu” chạy về phía xa xa. Phóng tầm mắt nhìn ra xa, bốn bề đều là những bạn đồng hành của nó đang chở trên mình vô số linh hồn muốn sang miền hạnh phúc ở thế giới bên kia.
Tất cả những người còn lại cũng hoàn toàn bị quần thể kiến trúc trước mặt chinh phục. Tuy trông có vẻ hơi quái dị một chút, nhưng không thể nghi ngờ gì, chúng hết sức hùng vĩ, hoành tráng, và đẹp tuyệt trần. Những kiến trúc ấy trông như cánh tay lực lưỡng căng đầy nhựa sống của người khổng lồ, những cây cầu gỗ thì giống đình đài lầu các lúc ẩn lúc hiện trên không trung, còn ruộng đồng và cây ăn quả thì càng chẳng khác nào ở chốn thế ngoại đào nguyên cả. Tất cả những điều ấy lại kết hợp với nhau một cách hoàn mỹ, không phân biệt đâu là chính, đâu là phụ. Ngôi làng kỳ diệu này cứ vậy mà nằm lặng lẽ bên dưới vách núi ngất ngưởng, một mình hưởng thụ sự yên bình tĩnh lặng của chốn hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài.
Nhưng rồi mọi người lại mau chóng phát hiện ra, ngôi làng này yên tĩnh đến độ có gì đó kỳ lạ. Ngoài tiếng gió, tiếng nước róc rách, tiếng cây cỏ xôn xao xào xạc, thì nơi đây không còn bất cứ âm thanh gì khác.
Liền sau đó, tiếng thở dài của pháp sư Á La đã đưa họ từ những tưởng tượng đẹp đẽ đến với vùng đất u ám của ác quỷ Tu la.
Pháp sư Á La từ đằng xa bước trở lại, lắc đầu nói: “Không có một người sống nào.” Ông ngừng giây lát, rồi lại nói: “Không có một động vật sống nào hết.”
Tâm trạng cả bọn chùng hẳn xuống. Giờ họ mới để ý thấy, giữa những bụi cỏ thấp thoáng xương cốt trắng hếu; bên trong hành lang những căn nhà gỗ, dường như cũng có những bộ xương đang dựa vào với đủ tư thế khác nhau; phía xa xa cuối dãy nhà gỗ, cũng có khá nhiều vệt đen, tựa như vết cháy. Triệu Trang Sinh bước lên vài bước, đột nhiên giẫm phải một vật tròn lông lốc, giật bắn mình tung chân sút mạnh, cả một cái đầu lâu liền bay vút lên theo đường parabol.
Đúng vào khoảnh khắc nhìn thấy cảnh tượng đó, Trác Mộc Cường Ba lập tức nhớ đến những lời của người điên ở Mông Hà: “Tất cả dê, đều bị cắn chết hết cả rồi! Tất cả mọi người, đều bị cắn chết hết cả rồi!” Giờ đây khi ở trong cảnh tượng ấy, gã bỗng rùng mình ớn lạnh, sự tàn khốc trong câu nói ấy, không ngờ lại khiến người ta khó chấp nhận đến nhường ấy!
Đường Mẫn thất thanh kêu lên: “Ở đây, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?”
Ngôi làng thanh bình yên tĩnh này, hóa ra lại là một ngôi làng chết, nhà cửa vẫn còn giữ nguyên không suy suyển, nhưng không hề có một sinh vật sống nào. Đứng trên khu ruộng đất rộng mênh mông trống trải, nhìn xương trắng rải đầy dưới chân, cả bọn đều lạnh toát cả người.
“Chúng ta vào trong xem sao.” Mang trong lòng tâm trạng kính sợ cùng vô số nghi hoặc, Trác Mộc Cường Ba bước về phía tòa kiến trúc cao lớn màu vàng kim.
Dồn sức đẩy hai cánh cửa gỗ nặng nề ra, âm thanh “kẽo… kẹt” được không gian rộng rãi bên trong nhà gỗ phóng đại lên, gây cảm giác như họ đẩy cánh cửa dẫn đến một thế giới khác. Một cảnh tượng bừa bãi lộn xộn đập vào mắt lại khiến họ kinh ngạc đến bần thần người ra một lần nữa.
“Đây là…”
“Tôi biết là sẽ thế này mà.”
“Không thể tin được, không thể tin được.”
Trong nhà là một gian công xưởng khổng lồ, rộng bảy tám chục mét, vào sâu cả trăm mét, ở giữa dường như chỉ có một vài cột chống, một cánh cửa lớn khác chỉ có khung cửa, nối liền với gian xưởng phía sau. Trong công xưởng xếp bừa bãi đủ các loại máy móc vỏ gỗ, nằm nghiêng nằm ngửa, tất cả đều bị phá hoại nghiêm trọng, linh kiện, lò xo, giống như những món nội tạng bị banh khỏi ổ bụng nằm rải rác khắp nơi nhưng vẫn còn vương vấn nối liền với vỏ máy.
Vừa nhìn thấy những thứ máy móc bị tàn phá nặng nề ấy, Trương Lập tức thì trở nên hưng phấn, trông thực chẳng khác nào kẻ nghèo rớt mồng tơi thình lình phát hiện ra kho báu, hai mắt sáng bừng, chạy đi chạy lại giữa đống máy móc vỡ bung vỡ bét, miệng không ngừng kêu lên: “Tuy chỉ là vỏ gỗ, nhưng hầu hết bộ phận bên trong đều làm bằng kim loại cả! Không! Là thép hợp kim đấy, còn nhẹ hơn thép nữa, độ giãn và độ cứng cũng hơn nhiều!”
“Ha ha! Lò xo gấp đây mà, hóa ra họ cũng phát minh ra thứ này rồi!”
“Đây là mộng và chốt… đây là bánh răng xích… đây là con lăn… đây là…”
1 Một loại cây ở miền Đông Bắc Trung Quốc.
Cả bọn liền xuống dốc, đến bên cạnh Trương Lập. Chỉ thấy khúc gỗ mà Trương Lập đụng phải ấy, không ngờ lại bị khoét rỗng ở giữa một hốc hình chữ nhật dài một mét, rộng chừng nửa mét. Nhìn vết cắt gọn ghẽ phẳng phiu, có thể khẳng định chắc chắn là do con người làm ra, chẳng trách Trương Lập lại kêu toáng lên như thế.
Trác Mộc Cường Ba đưa tay vuốt nhẹ dọc theo mép hốc lõm, bờ mép thẳng thớm mà trơn nhẵn, tuyệt đối không thể hình thành trong tự nhiên được. Gã quả quyết nói: “Đúng thế, là do con người tạo ra. Chắc là gần đây có người!”
Nhạc Dương lấy làm lạ nói: “Khúc gỗ này dùng để làm gì nhỉ? Xây nhà chắc?”
Sean lắc lắc đầu: “Không, không, nhìn hình dáng thì đây hẳn là một cái trống gỗ, có lẽ là loại trống nguyên thủy nhất rồi đấy. Người xưa khoét rỗng một khúc gỗ, gõ vào để phát ra âm thanh, nhiều nơi có loại trống nguyên thủy này lắm.” Nói đoạn, anh ta tiện tay nhặt lên một cục đá gõ vào mép khúc gỗ đó, khúc gỗ liền phát ra một loạt âm thanh “bung bung bung”.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Được rồi, nếu đã phát hiện đồ vật nhân tạo, thì chúng ta hãy tìm kiếm ở vùng quanh đây. Hai người một nhóm, tản ra theo hình rẻ quạt về ba hướng Đông, Nam, Bắc. Nhớ là phải giữ liên lạc, chú ý mọi động tĩnh khả nghi, cẩn thận có cạm bẫy, nếu gặp con người thì phải giữ bình tĩnh, kiềm chế, cố gắng không xung đột với họ. Mọi người hiểu cả chưa? Xuất phát.”
Ba Tang và Sean một nhóm, Nhạc Dương và Triệu Trang Sinh một nhóm, đội trưởng Hồ Dương và Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Trương Lập, Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn, năm nhóm người tản ra năm hướng khác nhau, liên lạc với nhau bằng đồng hồ nguyên tử đeo trên cổ tay.
Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn đi về phía Bắc được khoảng năm trăm mét, những thành viên khác trong đội cũng đã khuất sau tán cây rừng từ lâu. Sau khi dùng thiết bị liên lạc trên đồng hồ lần lượt hỏi han tình hình mọi người, không ai có phát hiện gì mới, Trác Mộc Cường Ba quyết định tiếp tục đi sâu vào rừng.
Đường Mẫn cầm súng trên tay, nhưng vẫn rất sợ hãi, căng thẳng bám sát sau lưng Trác Mộc Cường Ba, mỗi lần nghe thấy tiếng chim tiếng thú, cô đều giật thót mình dừng lại. Trác Mộc Cường Ba an ủi: “Không cần phải căng thẳng quá như vậy, không sao đâu.”
Lại đi được thêm năm trăm mét nữa, vành tai Trác Mộc Cường Ba khẽ giật giật, gã vội kéo Đường Mẫn lại thì thầm nói: “Em nghe thử xem.” Đường Mẫn bèn nghiêng tai chăm chú lắng nghe, rồi mỉm cười nói: “Nước, là tiếng nước đấy, phía trước hình như có nước.” Nói đoạn, cô ngẩng đầu lên nhìn, rồi nghi hoặc lẩm bẩm: “Ở đây đâu có thác nước, sao lại có tiếng nước được nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba vỗ nhẹ lên lưng Đường Mẫn, cười cười nói: “Em quên rồi à, ngoài thác nước ra, còn có nước trong khe núi nữa mà, đi thôi, xem thử thế nào.” Có nước, cũng đồng nghĩa với có khả năng con người cư trú quanh đây. Bởi sống bên cạnh nguồn nước, chính là tập quán của con người.
Tiếng nước lớn dần, xem ra phía trước không đơn giản là một con suối nhỏ. Vài phút sau, Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn đã đến được nguồn nước. Chỉ thấy trên mặt sông rộng gần trăm mét róc rách chảy xuyên qua rừng cây ấy, vẫn có vô số cây cổ thụ cao lớn, cành cây rễ cây rủ xuống mặt nước, hình thành nên kỳ quan sông giữa rừng cây, cây mọc trên sông. Dòng sông rất rộng, nhưng cũng rất nông, trông như một tấm khăn lụa trải giữa khu rừng, chỉ hướng dẫn đường. Dòng sông rẽ ngoặt ở khoảnh rừng dưới hạ du, rồi biến mất khỏi tầm mắt, có điều, nhìn theo hướng nó ngoằn ngoèo gấp khúc tiến về phía trước, dường như là có thể ra thẳng đến bờ biển! Càng khiến Trác Mộc Cường Ba cảm thấy kinh ngạc hơn là, khi nghĩ đến biển, dường như gã còn nghe thấy cả tiếng sóng dạt dào.
Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn vừa đi dọc lên theo dòng nước, vừa báo tình hình với những nhóm khác. Pháp sư Á La và Trương Lập cũng nhìn thấy dòng nước trong rừng, cũng đang đi ngược lên. Bọn Nhạc Dương cũng đã nghe thấy tiếng nước, đồng thời tìm được một số dấu vết do con người tạo ra trên thân cây, càng bất ngờ hơn nữa là, họ còn phát hiện ra hai đường ray bằng kim loại trong rừng, trông như đường ray xe lửa. Trương Lập cho rằng thứ này giống đường ray để tượng đồng di chuyển trong Đảo Huyền Không tự hơn. Họ sợ đụng phải cạm bẫy, đang đi vòng qua. Đội trưởng Hồ Dương và Lữ Cánh Nam đã đến được chân núi, phát hiện ra một số tảng đá có dấu vết bị mài giũa, hiện đang men theo chân núi tiếp tục vòng sang phía phải, ở chỗ họ cũng phát hiện ra đường ray bằng kim loại, còn nói đường ray đó hình như thông thẳng vào làng. Phạm vi tìm kiếm của mọi người bắt đầu được thu hẹp lại.
Càng tiến lên phía trước, những dấu vết của con người để lại càng thêm rõ rệt. Cuối cùng, một công trình kiến trúc điển hình của con người đã lấp ló giữa những tán cây, rồi hiện ra trước mặt bọn Trác Mộc Cường Ba. Đó là một bức tường đá cao, trên tường cắm đầy giáo sắt, cây nào cây nấy thẳng đứng hướng lên trời, dưới chân tường đá còn có vô số gò đá nhỏ, bên trên gò đá cắm đầy giáo sắt, mũi giáo nhọn hoắt chắn ngang đường phía trước. Nhìn cách bố trí ấy, Trác Mộc Cường Ba lập tức nhận ra đây là hàng rào mà người ở đây dùng để ngăn cản lũ thú dữ khổng lồ. Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn dừng bước, phía trước rất có thể là nơi người bộ tộc Qua Ba quần cư, tiếp tục mạo hiểm tiến lên e sẽ gặp phải những nguy hiểm khó lường. Gã thông báo cho các nhóm khác, yêu cầu mọi người đến dưới bức tường đá ấy tập hợp.
Cả bọn đã tề tựu, nhìn những bức tường đá cắm đầy giáo sắc nhọn hoắt, không ai còn nghi ngờ gì nữa, phía sau bức tường đá này chắc chắn có một khu tập trung dân cư, nhưng bên trong có bao nhiêu người, tập tính của họ thế nào, phải xử sự với họ ra sao thì lại là một vấn đề phiền phức, mà bọn Trác Mộc Cường Ba dẫu sao cũng hoàn toàn chưa hay biết gì về nơi đây.
Nhạc Dương tinh mắt, hình như đã phát hiện ra gì đó, liền lùi lại hai bước, chỉ vào sườn núi đằng sau bức tường cao: “Mọi người nhìn xem, đó là gì vậy!” Nhìn theo ngón tay chỉ của Nhạc Dương, cả bọn mới để ý thấy, vách đá phía sau những bức tường cao đối diện với họ không giống những nơi khác. Vách đá ở những chỗ khác đều nghiêng vào phía trong, từ xa trông như một ngọn sóng khổng lồ đang ập tới trước mặt, chẳng những vậy, nước bên trong rỉ ra còn khiến chúng trở nên trơn nhẵn. Còn vách đá ở đây lại như có một thứ vật chất dạng keo màu nâu đỏ chầm chậm chảy dọc theo triền dốc, rồi đông đặc lại, những nếp uốn trên vách đá còn hình thành nên các bậc cấp khá rõ rệt, rất giống một tòa kim tự tháp dốc đứng hay đỉnh nhọn của tòa Đại giáo đường Cologne. Màu sắc của nó khác hẳn với đá núi xung quanh, trông như một mũi tên đánh dấu màu đỏ đang tiết lộ với họ rằng, từ đây đi lên, con đường của các ngươi chính xác rồi đấy.
Ngoài con dốc núi màu đỏ bắt mắt ấy ra, vách đá xung quanh cũng đều thuộc loại nghiêng vào bên trong. Vách đá ở phía Tây Nam khu làng là nghiêng nhiều nhất, trông như luôn sẵn sàng sụp xuống bất cứ lúc nào. Ánh sáng ở đây cũng rất ảm đạm, hắt về phía bóng tối, cơ hồ tạo nên một vòng cung chẳng khác nào một cái lỗ đen khổng lồ vô tận cả.
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt quan sát xung quanh, trong đầu đã từ từ phác họa ra hoàn cảnh địa lý của khu làng này. Không gian chỗ bọn họ đang đứng đây, có thể hình dung như là ở bên trong một chiếc giày khổng lồ, khu làng phía trước tọa lạc ở gần với mũi giày, trên đỉnh đầu họ chính là mặt trên của chiếc giày, tầng nham thạch nghiêng hẳn xuống, khiến người ta có cảm giác bị đè nén đến khó chịu. Còn chỗ gót giày thì đã bị đám thực vật kỳ dị đang phun hạt giống chắn mất, ngăn cách bọn họ với hầu hết các loài động vật hoang dã. Vách đá họ muốn leo lên, nằm ở một bên thành giày, thành giày phía bên kia là khu rừng giáp với biển ngầm dưới lòng đất.
“Đúng rồi, nếu nói chúng ta sắp đến chỗ khép lại của cả khe nứt, thì khoảng rừng này rất gần biển, vừa nãy tiếng sóng mà mình nghe thấy không phải là ảo giác! Nếu tiếp tục tiến về phía Tây Nam thì sẽ như thế nào? Hai bên vách đá khép dần lại, cuối cùng thì hẹp đến mức không thể lách người qua được, hay là giống như lúc chúng ta đến đây, bên dưới vách đá, là mặt biển tối tăm vô tận?” Nhìn hoàn cảnh độc đáo nơi đây cùng với con đường có thể tiến lên phía trước, trong đầu Trác Mộc Cường Ba nổi lên trăm mối tơ vò.
“Dung nham chồng chất!” đội trưởng Hồ Dương lớn tiếng kêu lên. “Chính là ở chỗ này rồi, chỉ có chỗ này, chúng ta mới có thể leo lên được. Có điều không biết những người sống bên trong có cho phép chúng ta đi qua không nhỉ?”
Trương Lập nói: “Nếu người ở đây đều nói tiếng Tạng cổ thì tốt quá, ít nhất cũng có thể giao lưu được. Chỉ sợ họ không phải người Qua Ba, mà là người gì khác ấy chứ.”
Nhạc Dương lắc đầu nói: “Đừng quên người điên kia, khả năng đây là làng của người Qua Ba là rất lớn, hay là để tôi leo lên tường kia quan sát xem sao.”
Pháp sư Á La lập tức phản đối: “Không được, nếu đây là địa giới của người Qua Ba, thì chạm vào bất cứ thứ gì cũng đều rất nguy hiểm. Cậu nhìn những cây giáo sắt kia mà xem, độ ẩm ở đây cao như thế, vậy mà không có lấy một vết gỉ, chứng tỏ rằng bên trên chắc chắn có bôi thứ gì đó.”
Ba Tang nói: “Chúng ta cứ thế mà vào thôi, bọn chúng mà dám ra tay thì xử lý luôn!”
“Hả?” Mọi người nghe vậy đều giật mình ngạc nhiên.
Đường Mẫn nói: “Chúng ta vốn đến để nhờ họ giúp đỡ, nếu vừa gặp mặt đã động tay động chân, chẳng phải là…”
Ba Tang nhìn nét mặt hoảng hốt của mọi người, nói: “Dùng vũ lực khuất phục bọn chúng, có gì không ổn đâu chứ?”
Pháp sư Á La nói: “Dĩ nhiên là không ổn. Trước hết, vũ khí của chúng ta chưa chắc đã mạnh hơn cổ độc, dù sao thì đó cũng là thứ chưa ai từng thấy bao giờ; thứ nữa, nếu dùng vũ lực khuất phục bọn họ, vậy thì họ sao còn chịu toàn tâm toàn ý cứu chữa cho Cường Ba thiếu gia nữa. Chi bằng, để tôi đi trước thăm dò xem sao.”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu đồng ý, chắc rằng pháp sư Á La có thể tránh được các cạm bẫy ấy, nếu có nguy hiểm, ít nhiều gì ông cũng có thể lùi về an toàn. Pháp sư Á La đặt ba lô xuống, bóng người khuất sau tường đá, thoắt cái đã biến mất, những người còn lại đều nhìn theo bóng pháp sư, ngẩng đầu chờ đợi. Không ngờ pháp sư Á La đi được một lúc mà vẫn bặt vô âm tín, hồi lâu sau cũng không thấy có động tĩnh gì; muốn liên lạc, thì lại sợ ông đang âm thầm bí mật tiến lên, sử dụng thiết bị truyền tin sẽ làm bại lộ hành tung.
Sau mười phút đằng đẵng chờ đợi trong lo lắng, mọi người mới nghe thấy tiếng pháp sư Á La vang lên trong thiết bị truyền tin: “Không có cạm bẫy, không có nguy hiểm… Mọi người, mau vào đây đi, mau vào đây xem… Rốt cuộc… rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy trời!” m thanh ấy, dường như không phải của một ông già năm sáu chục tuổi, mà giống một đứa trẻ năm sáu tuổi hơn, ngữ khí không giấu nổi sự mừng rỡ và kinh ngạc, khiến ai nấy đều trở nên kích động. Duy chỉ có mình Lữ Cánh Nam là nhận ra sự hụt hẫng to lớn trong câu nói cuối cùng của pháp sư Á La, bên trong chắc chắn đã xảy ra chuyện gì mà họ không thể nào tưởng tượng nổi.
Con đường bên trong trận địa tường đá ngoằn ngoèo khúc khuỷu, những chỗ chật hẹp chỉ có thể đi từng người qua, nhưng hoàn toàn không thể ngăn được tâm trạng nôn nóng muốn vào bên trong của mọi người. Vòng qua bức tường chắn cuối cùng, cảnh tượng phía trước bỗng mở bừng ra… Trước mắt họ, là một bức tranh hoàn toàn không thể nào tưởng tượng nổi.
Tầm mắt họ hoàn toàn bị phủ kín bởi màu xanh ngút ngàn, như thể họ vừa đột nhiên từ khu rừng nguyên sinh bốn bề đầy những hiểm nguy rình rập đến mảnh đất đào nguyên thế ngoại. Ở nơi đây, rừng cây cổ thụ cao rợp trời đã được con người khai phá thành một mảnh đất phì nhiêu màu mỡ, cỏ non xanh rợp chân trời, tre trúc hắt bóng nước, chồi non lộc biếc, cây cỏ tốt tươi, hoa đào đỏ thắm, hoa lê trắng muốt, điểm xuyết trên thảm cỏ xanh ngắt như thể sao trời lấp lánh. Bức tường đá xám xịt cắm đầy những ngọn giáo sắt sau lưng họ, tựa như đường ranh giới giữa địa ngục và thiên đường, tách rời hai thế giới hoàn toàn khác nhau ấy. Đồng thời, cũng giống như một tấm màn ma thuật, mang đến cho những vị khách bất ngờ này những cảm nhận thị giác như mộng như ảo.
Những kiến trúc ở đây lại càng khó tin hơn nữa. Nếu nói sự thay đổi về thực vật làm môi trường nơi đây khiến tâm trạng của đám người vừa thoát ra khỏi địa ngục ấy khó thể bình tĩnh được, thì cảm giác mà kiến trúc ở nơi đây mang đến cho họ, hoàn toàn chỉ có chấn động và kinh ngạc mà thôi, thậm chí cả pháp sư Á La, cũng khó kiềm chế được cảm giác ấy.
Cảm giác đầu tiên của tất cả mọi người đều là, không thể hình dung, không thể tin nổi, bởi vì ở trước mắt họ đây, là một kiểu kiến trúc mà họ chưa từng thấy bao giờ… Từng dãy từng dãy nhà gỗ được ghép từ những tấm ván màu vàng kim, giống như những hàng cây hoa 1 trồng ngay ngắn ở đầu bờ ruộng; những dây leo trông như loài tử la lan phủ trên mái nhà thành rèm che, rừng trúc xanh biếc vây chúng vào giữa, như thể một hàng rào. Mỗi dãy nhà gỗ đều được phân bố cân đối theo tiêu chuẩn hình học hết sức nghiêm khắc, diện tích ruộng đất hai bên nhà gỗ cũng hoàn toàn bằng nhau, hệt như là soi gương vậy. Nhìn tổng thể, khu làng này trông như một chiếc quạt xếp khổng lồ xòe rộng, những dãy nhà gỗ chụm lại một phía, như những nan quạt, còn ruộng đất giữa các căn nhà thì giống giấy bồi giữa những nan quạt. Ngoài ra lại có một đường phân giới màu xanh nhạt ngăn tách phần nan quạt màu xanh ngọc và phần giấy quạt màu xanh lá mạ ra, đó là một trảng cỏ rộng chừng hơn ba chục mét hình chữ “S”, quây quanh nhà gỗ và đất ruộng. Vô số kênh dẫn nước chảy xuyên qua trảng cỏ và ruộng đất, cuối cùng chảy ra phần đỉnh chiếc quạt xếp, hợp lại thành một dòng sông lớn.
Kết cấu các dãy nhà gỗ giống hệt nhau. Các căn nhà ở gần vòng ngoài làng to lớn nhất, càng vào bên trong càng nhỏ dần lại, nhưng đều chia làm ba tầng trên, dưới và giữa, mỗi tầng có hành lang có thể đi thông khắp các phòng. Nhìn phía ngoài hình lăng trụ của các gian phòng, có thể thấy tất cả các phòng đều có hình lục lăng hoàn mỹ, chỉ là diện tích lớn nhỏ hơi khác nhau một chút, sắp xếp khít chặt như tổ ong. Giữa các dãy nhà gỗ tỏa ra ấy, cứ cách chừng trăm bước, lại có một cây cầu gỗ nối liền hai dãy nhà lại với nhau. Không biết người xưa đã dùng kỹ thuật gì mà bên dưới cây cầu gỗ dài cả trăm mét chẳng hề có trụ cầu, mố cầu chống đỡ, hoàn toàn chỉ là bắc qua không trung. Trên cầu mọc đầy các dây leo đủ màu sắc rực rỡ, cả nghìn cây cầu gỗ lơ lửng đan chéo nhau, nhìn từ xa trông hệt như một dải hành lang làm bằng hoa và dây leo lơ lửng giữa không trung.
Bức tường gỗ cao mấy chục mét màu vàng kim đã ở ngay trước mắt, những hình vẽ thần bí và ô cửa sổ được chạm trổ hết sức kỳ công đã có thể thấy rõ mồn một. Bất ngờ hiện ra trước mắt như vậy, rồi vươn dài ra đến tưởng chừng như vô tận. Vô số những ống mềm lớn nhỏ khác nhau vươn ra từ hai tầng dưới của những tòa nhà gỗ màu vàng thấp thoáng ẩn hiện giữa rừng trúc cũng giống như những dây leo kia. Ống nhỏ thì đung đưa trong gió, ống lớn thì giống những cẳng chân bằng máy to tướng, cắm thẳng xuống đất. Những đường ray bằng kim loại vươn ra từ dưới chân các căn nhà gỗ này, có vô số đường giao nhau, giống như một tấm lưới mảnh bằng kim loại trải trên ruộng đồng. Tấm lưới cứ vươn ra xa, cuối cùng vươn đến ngoài khu làng… đến khu rừng tăm tối đầy rẫy những hiểm nguy.
Nhìn những đường ray ấy, Trác Mộc Cường Ba cảm giác dường như mình đang đứng trước một đoàn tàu khổng lồ màu vàng kim, đầu tàu hướng về phía mình, thân tàu kéo dài ra vô tận. Đoàn tàu chạy đến Thiên quốc ấy nghiến qua cả lịch sử, đang hú lên “tu tu” chạy về phía xa xa. Phóng tầm mắt nhìn ra xa, bốn bề đều là những bạn đồng hành của nó đang chở trên mình vô số linh hồn muốn sang miền hạnh phúc ở thế giới bên kia.
Tất cả những người còn lại cũng hoàn toàn bị quần thể kiến trúc trước mặt chinh phục. Tuy trông có vẻ hơi quái dị một chút, nhưng không thể nghi ngờ gì, chúng hết sức hùng vĩ, hoành tráng, và đẹp tuyệt trần. Những kiến trúc ấy trông như cánh tay lực lưỡng căng đầy nhựa sống của người khổng lồ, những cây cầu gỗ thì giống đình đài lầu các lúc ẩn lúc hiện trên không trung, còn ruộng đồng và cây ăn quả thì càng chẳng khác nào ở chốn thế ngoại đào nguyên cả. Tất cả những điều ấy lại kết hợp với nhau một cách hoàn mỹ, không phân biệt đâu là chính, đâu là phụ. Ngôi làng kỳ diệu này cứ vậy mà nằm lặng lẽ bên dưới vách núi ngất ngưởng, một mình hưởng thụ sự yên bình tĩnh lặng của chốn hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài.
Nhưng rồi mọi người lại mau chóng phát hiện ra, ngôi làng này yên tĩnh đến độ có gì đó kỳ lạ. Ngoài tiếng gió, tiếng nước róc rách, tiếng cây cỏ xôn xao xào xạc, thì nơi đây không còn bất cứ âm thanh gì khác.
Liền sau đó, tiếng thở dài của pháp sư Á La đã đưa họ từ những tưởng tượng đẹp đẽ đến với vùng đất u ám của ác quỷ Tu la.
Pháp sư Á La từ đằng xa bước trở lại, lắc đầu nói: “Không có một người sống nào.” Ông ngừng giây lát, rồi lại nói: “Không có một động vật sống nào hết.”
Tâm trạng cả bọn chùng hẳn xuống. Giờ họ mới để ý thấy, giữa những bụi cỏ thấp thoáng xương cốt trắng hếu; bên trong hành lang những căn nhà gỗ, dường như cũng có những bộ xương đang dựa vào với đủ tư thế khác nhau; phía xa xa cuối dãy nhà gỗ, cũng có khá nhiều vệt đen, tựa như vết cháy. Triệu Trang Sinh bước lên vài bước, đột nhiên giẫm phải một vật tròn lông lốc, giật bắn mình tung chân sút mạnh, cả một cái đầu lâu liền bay vút lên theo đường parabol.
Đúng vào khoảnh khắc nhìn thấy cảnh tượng đó, Trác Mộc Cường Ba lập tức nhớ đến những lời của người điên ở Mông Hà: “Tất cả dê, đều bị cắn chết hết cả rồi! Tất cả mọi người, đều bị cắn chết hết cả rồi!” Giờ đây khi ở trong cảnh tượng ấy, gã bỗng rùng mình ớn lạnh, sự tàn khốc trong câu nói ấy, không ngờ lại khiến người ta khó chấp nhận đến nhường ấy!
Đường Mẫn thất thanh kêu lên: “Ở đây, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?”
Ngôi làng thanh bình yên tĩnh này, hóa ra lại là một ngôi làng chết, nhà cửa vẫn còn giữ nguyên không suy suyển, nhưng không hề có một sinh vật sống nào. Đứng trên khu ruộng đất rộng mênh mông trống trải, nhìn xương trắng rải đầy dưới chân, cả bọn đều lạnh toát cả người.
“Chúng ta vào trong xem sao.” Mang trong lòng tâm trạng kính sợ cùng vô số nghi hoặc, Trác Mộc Cường Ba bước về phía tòa kiến trúc cao lớn màu vàng kim.
Dồn sức đẩy hai cánh cửa gỗ nặng nề ra, âm thanh “kẽo… kẹt” được không gian rộng rãi bên trong nhà gỗ phóng đại lên, gây cảm giác như họ đẩy cánh cửa dẫn đến một thế giới khác. Một cảnh tượng bừa bãi lộn xộn đập vào mắt lại khiến họ kinh ngạc đến bần thần người ra một lần nữa.
“Đây là…”
“Tôi biết là sẽ thế này mà.”
“Không thể tin được, không thể tin được.”
Trong nhà là một gian công xưởng khổng lồ, rộng bảy tám chục mét, vào sâu cả trăm mét, ở giữa dường như chỉ có một vài cột chống, một cánh cửa lớn khác chỉ có khung cửa, nối liền với gian xưởng phía sau. Trong công xưởng xếp bừa bãi đủ các loại máy móc vỏ gỗ, nằm nghiêng nằm ngửa, tất cả đều bị phá hoại nghiêm trọng, linh kiện, lò xo, giống như những món nội tạng bị banh khỏi ổ bụng nằm rải rác khắp nơi nhưng vẫn còn vương vấn nối liền với vỏ máy.
Vừa nhìn thấy những thứ máy móc bị tàn phá nặng nề ấy, Trương Lập tức thì trở nên hưng phấn, trông thực chẳng khác nào kẻ nghèo rớt mồng tơi thình lình phát hiện ra kho báu, hai mắt sáng bừng, chạy đi chạy lại giữa đống máy móc vỡ bung vỡ bét, miệng không ngừng kêu lên: “Tuy chỉ là vỏ gỗ, nhưng hầu hết bộ phận bên trong đều làm bằng kim loại cả! Không! Là thép hợp kim đấy, còn nhẹ hơn thép nữa, độ giãn và độ cứng cũng hơn nhiều!”
“Ha ha! Lò xo gấp đây mà, hóa ra họ cũng phát minh ra thứ này rồi!”
“Đây là mộng và chốt… đây là bánh răng xích… đây là con lăn… đây là…”
1 Một loại cây ở miền Đông Bắc Trung Quốc.