Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ! Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản

Mật mã Tây Tạng – tập 7

Chương 167: Làng Người Qua Ba(2)

Tác giả: Hà Mã

Nhạc Dương và Triệu Trang Sinh mỗi người một bên đi theo sau Trương Lập, tuy cũng trông thấy tất cả các thứ ấy, nhưng chẳng ai có vẻ hứng thú như Trương Lập cả. Triệu Trang Sinh thì chỉ thấy một đống những phụ tùng linh kiện chẳng biết thứ gì là thứ gì. Nhạc Dương không kìm được hỏi: “Những cái này dùng để làm gì nhỉ?” Trương Lập tức thì quay ngoắt người lại chộp lấy Nhạc Dương, lắc mạnh nói: “Thế mà cậu cũng không nhìn ra à!” Rồi anh ta lại ngoác miệng lớn tiếng nói: “Đây chính là máy móc tự động hóa đấy! Có thấy những đường ray kia không? Bên dưới các máy móc này đều có ngạnh, có thể chuyển động tiến lui trên những đường ray ấy, hoàn toàn tự động, thật là đáng kinh ngạc! Hơn nữa họ còn dùng loại máy nhiều cánh tay, lắp lên các cánh tay máy khác nhau, cỗ máy sẽ có những công năng hoàn toàn khác nhau! Cái này để cày ruộng, để cấy mạ, đây là để thu hoạch, để đập lúa, cái kia để chặt cây, chắc là còn có loại đập đá nữa, nhưng đây không có, chắc là không ở trong nhà này, kia là để cắt kim loại, đây là… để để nhặt trứng à?”

Nhìn những cánh tay máy đã hoàn toàn bị phá hoại, mà Trương Lập vẫn có thể nói vèo vèo công năng. Càng nhìn lại càng thấy kỳ diệu, càng nhìn càng thấy khâm phục trí tuệ của người xưa, cuối cùng anh chàng cười ngây ngốc nói: “Tôi biết là vậy mà.” Anh huých huých Nhạc Dương, rồi lại thúc vào người Triệu Trang Sinh một cái, nói: “Các cậu biết không, ngay từ lúc vừa nhìn thấy những dãy nhà gỗ này, là tôi đã tự nhủ, cái làng này, hoàn toàn có thể coi như một công xưởng lớn, những dãy nhà gỗ sắp xếp như những dây chuyền sản xuất, từ thu thập nguyên liệu, tuyển lựa, đến gia công thô, gia công tinh, cuối cùng thì được lắp ráp thành hình, ha ha, thật là hoàn mỹ!”

Triệu Trang Sinh kiểm tra những máy móc đã nát bươm ấy rồi nói: “Hình như không có thiết bị điện thì phải, những thứ này hoạt động như thế nào nhỉ?” Trương Lập đập mạnh lên cánh tay Triệu Trang Sinh một cái, lớn tiếng nói: “Đây chính là chỗ giỏi nhất của người xưa đấy! Họ dùng nguyên lý đơn giản nhất, các linh kiện đơn giản nhất, vậy mà có thể lắp ráp lại thành những cỗ máy tự động hóa cao độ thế này! Hồi nhỏ các cậu có bao giờ chơi thứ nào giống thế chưa, chúng có đủ các hình dáng, trên lưng có một dây cót, vặn vài vòng, liền có thể tự động đi qua đi lại, có thứ còn kèm theo tiếng nhạc rất hay nữa! Còn cả đồng hồ lên dây cót, vặn một vòng thì có thể chạy cả một ngày… những máy móc này, chính là dùng nguyên lý ấy, có lò xo dây cót, bánh răng, mộng và chốt, cộng với sự dẻo dai của hợp kim, có thể tạo ra năng lượng rất lớn cho cỗ máy, hoàn toàn là sự chuyển hóa giữa cơ năng và cơ năng. Bên trong chúng dường như còn có thiết bị tự động, khi động năng không đủ, chúng sẽ tự động trở lại chỗ này, ở đây chắc chắn là có chỗ để lên dây cót cho chúng, à… hoặc là ở trong nữa, những thứ máy móc này, trông như dùng để làm chướng ngại vật ấy…”

“Kỳ lạ thật, nếu nếu kỹ thuật cơ khí đã phát triển thế này, tại sao còn phải làm vỏ gỗ nhỉ?” Câu hỏi của Nhạc Dương, lập tức khiến Trương Lập tắc tị.

Mấy người hội Sean và đội trưởng Hồ Dương thì đi sang phía bên kia công xưởng. Ở đây có một khúc xương động vật khổng lồ đặt nằm trên chiếc bàn lớn trông như một thứ tiêu bản, bên cạnh còn một đống đồ trông nhăn nheo như vải buồm. Sean nhìn khúc xương thở dài cảm khái: “Đúng là vĩ đại thật!”

Đội trưởng Hồ Dương hỏi: “Cái gì đấy?”

Sean đáp: “Khúc khấu đuôi của một loài động vật nào đó.”

“Khấu đuôi!” Giọng đội trưởng Hồ Dương nghe lạc cả đi. Cái thứ cao hơn hai mét, dài hơn chục mét ấy, không ngờ lại chỉ là một khúc khấu đuôi! Vậy thì… vậy thì con vật ấy, lúc còn sống rốt cuộc là to đến chừng nào?

“Ừm. Là một loài sinh vật biển hoặc lưỡng thê.” Sean bước tới cầm vật thể trông như vải buồm lên, khi ấy mới nhận ra độ dày của nó hơn xa anh ta nghĩ, bèn “a ha” lên một tiếng, lần tay ra tìm chỗ mép, hóa ra lại dày đến cả chục phân. Anh ta bèn gắng sức nhấc lên, thử cảm giác ở tay, rồi lại đưa mắt nhìn các thứ công cụ xung quanh, đoạn nói: “Nếu tôi đoán không lầm, đây chính là nguyên liệu chế tác ra con thuyền hình rắn chúng ta ngồi tới đây.”

“Thật không?” Lữ Cánh Nam hỏi. “Vỏ ngoài thuyền rắn đâu có dày đến vậy?”

Sean đáp: “Chắc chắn là họ đã dùng công nghệ đặc biệt gì đấy để khử lớp chất hữu cơ tích tụ trên tấm da này, rồi lại gia công chà xát, mới hình thành được lớp vỏ ngoài vô cùng bền chắc ấy.” Nghĩ ngợi giây lát, anh ta lại ngạc nhiên thốt lên: “Muốn bắt được sinh vật to lớn như thế để chế tạo thuyền, phải cần đến những vũ khí và công nghệ cực kỳ tiên tiến mới được đó!” Nói xong, Sean lại lấy ra một con dao găm, đâm mạnh xuống miếng da, kết quả giống như đâm vào một quả bóng cao su cứng, lớp da lõm xuống dưới, nhưng ấn dao xuống mãi cũng chẳng thấy rách. Cuối cùng Sean chán nản nói: “Khó hơn bắt cá voi nhiều lắm!”

Trác Mộc Cường Ba theo pháp sư Á La, Mẫn Mẫn đi theo Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang đi sau cùng, bốn người họ lại đi theo một hướng khác, theo dấu những khúc xương trắng nằm rải rác dưới đất, rẽ ngoặt đi về phía bức tường của công xưởng lớn. Ở đây có một cái thang gỗ, trông có vẻ vẫn dùng được. Đi theo bậc thang là có thể lên tầng hai, họ bước qua cửa gian phòng gần nhất, suy đoán dựa vào vài thứ đồ trang sức bày biện và quần áo, càng thêm khẳng định rằng đây chính là một ngôi làng của người Qua Ba.

Trong phòng có một bộ xương khô, thoạt trông đã rõ là xương của nữ giới, đang quỳ cuộn người dưới đất; trong lòng ôm chặt một bộ xương trẻ con. Ở mé xa bên ngoài cửa sổ có một bộ xương nằm rạp, cánh tay vươn thẳng về phía trước, hiển nhiên là sau khi ngã xuống vẫn còn bò thêm một đoạn nữa. Pháp sư Á La phân tích: “Ngôi làng này bên ngoài có tường đá cắm chông, lưng dựa vào vách núi, trên đầu lại có loài thực vật dạng như sương mù che phủ, có thể nói là địa thế vô cùng thuận lợi, các loài chim thú lớn căn bản không thể xông vào được. Còn nữa, nhìn mức độ mục rữa của xương cốt và quần áo, có thể khẳng định người ở đây ít nhất cũng chết được ba bốn năm rồi, vậy mà vẫn giữ được nguyên vẹn trạng thái lúc trước khi chết. Cũng có nghĩa là, trong ba bốn năm nay, ngoài thực vật ra, không có sinh vật nào đến đây cả.”

Ba Tang cũng nói: “Nhìn vị trí của các bộ xương, có thể thấy những người này đều đang hoảng loạn chạy trốn, mọi người tỏa ra các hướng khác nhau để đào vong, nhưng hung thủ đã chặn hết mọi ngả đường, không buông tha cho bất cứ ai. Dù là đàn ông đàn bà người già hay trẻ nhỏ, thậm chí cả trẻ sơ sinh cũng không thể thoát chết. Họ… họ đã bị tàn sát hàng loạt.”

Nói tới đây trong lòng anh ta chợt dâng lên một nỗi sợ, tựa hồ vừa nắm bắt được gì đó, dường như chính anh ta và đồng đội cũng từng gặp phải cuộc tàn sát thảm khốc đó rồi!

Pháp sư Á La gật đầu: “Đúng thế, những người ở đây, có lẽ đã chết trong một trận tàn sát lúc đêm khuya, trong các căn nhà phía trước vẫn còn mấy cái xác đang trong tư thế say ngủ.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đồ đạc, chum vại, nông cụ trong nhà vẫn còn nguyên vẹn, không có tài sản nào bị cướp đi, đến cả bàn ghế bị hất đổ cũng chỉ là do người chạy trốn va đập phải thôi. Nhưng các thứ máy móc thì lại bị phá hoại một cách hoàn toàn triệt để, cả người và súc vật cũng không một ai sống sót, đây rốt cuộc là…”

Mẫn Mẫn nói: “Liệu có phải những thứ kia đã giết chết người trong làng không?” Cô ngẩng đầu nhìn làn sương mù.

Pháp sư Á La lắc đầu: “Không phải, tôi đã nói rồi, đây là nơi được người xưa lựa chọn rất kỹ lưỡng, vừa bên bờ nước lại dựa lưng vào núi, có thể nói đã chiếm được địa lợi ở chốn rừng nguyên thủy này, còn khoảng trời bị loài thực vật như sương mù che phủ kia, lại có tác dụng ngăn cản sự tấn công của các loài chim dữ trên không trung. Nếu những người ở đây bị loại thực vật lơ lửng đó giết hại, thì không thể nào gây ra hiện tượng tất cả mọi người đều hoảng sợ chạy trốn trên quy mô lớn như thế được, đồng thời nó cũng không thể khiến người ta chết ngay lập tức. Nói không chừng, loài thực vật phun sương mù ấy chính là biện pháp người dân ở đây dùng để ngăn cản các loài động vật ngoại lai. Vả lại, mọi người có thấy xác lũ dê trong hàng rào kia không? Trước lúc chết chúng không hề kinh hoảng chạy loạn đi tứ phía, mà bị dồn vào một vòng quây nhỏ, xác chết chất đống lên nhau, đây là phương pháp tàn sát điển hình nhất. Còn tại sao mọi người lại hoảng loạn chạy trốn, tôi nghĩ là vì bọn hung thủ đến tàn sát không thể trao đổi một cách hiệu quả với người ở đây, vì vậy hung thủ không dồn người dân trong làng vào một chỗ, mà dùng biện pháp sét đánh không kịp bưng tai giết sạch hết tất cả mọi người.”

Trác Mộc Cường Ba dường như đã nghe ra được điều gì đó trong lời pháp sư Á La, kinh ngạc thốt lên: “Hành vi động vật?”

Ba Tang đáp ngay: “Đúng vậy. Trên xương cốt còn dấu vết cắn và cào xé, xem ra hung thủ sở hữu móng vuốt và hàm răng sắc nhọn, nhìn vị trí của những cái xác chết trong lúc chạy trốn kia, có thể thấy hung thủ còn có tốc độ đáng sợ và thân thủ rất nhanh nhẹn nữa. Chỉ trong một lần mà bao vây tàn sát ngần ấy người, không buông tha một ai, tôi nghĩ chắc chắn bọn hung thủ này chiếm ưu thế rõ rệt về số lượng, hơn nữa còn rất giỏi tác chiến tập thể nữa.”

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại hỏi Mẫn Mẫn: “Còn nhớ những lời người điên ở Mông Hà ấy nói không?”

Mẫn Mẫn nói: “Á! Lẽ nào là…” Cô nhớ lại suy luận mà họ từng đưa ra, những sinh vật từng tấn công Ba Tang, những sinh vật đã tàn sát cả ngôi làng của người Qua Ba, rất có thể chính là lũ sói Khả Khả Tây Lý có trí tuệ tương đương với con người, hoặc giả phải nên nói là lũ sói của Shangri-la thì chính xác hơn.

Mọi người lại đưa mắt nhìn Ba Tang, dò xem cảnh tượng trước mắt có thể khơi gợi cho anh ta nhớ lại điều gì đó không. Nhưng Ba Tang vẫn hờ hững nhìn đống xương trắng chất đầy trước mắt, gương mặt không hề bộc lộ chút cảm xúc nào, rõ ràng là cảnh tượng này vẫn chưa đủ để kích thích lại những hồi ức đã bị vùi sâu.

Mẫn Mẫn nói: “Nếu nói là cả ngôi làng bị tàn sát hết, vậy thì người điên đó làm sao thoát ra được nhỉ? Còn nữa, những hung thủ còn đông hơn cả người làng ấy từ đâu đến? Làm sao chúng có thể băng qua khu rừng tăm tối kia để đến được đây? Tại sao lại đột nhiên tàn sát cả một ngôi làng? Sau khi giết hết mọi người, chúng đã đi đâu rồi?”

Mẫn Mẫn đưa ra một loạt câu hỏi, khiến mọi người đều cảm thấy khó có thể trả lời. Trước mắt bọn họ cũng mới chỉ nêu suy đoán, tất cả đều không có đầu mối gì cả.

“Ủa? Đây là?” Chỉ nghe tiếng “xoảng xoảng xoảng” vang lên, pháp sư Á La kéo một sợi xích sắt to tướng dưới giường ra, cúi người quan sát, thấy một đầu xích sắt không phải buộc vào chân giường, mà gắn chặt với cây cột chống đỡ toàn bộ căn nhà, còn vòng sắt to bằng ngón tay út ông đang cầm, dường như đã bị một sức mạnh rất lớn giật bung cả ra. Pháp sư Á La ngạc nhiên nhìn Trác Mộc Cường Ba nói: “Kỳ lạ thật đấy.”

Trác Mộc Cường Ba cũng chăm chú nhìn sợi xích sắt ấy, sắc mặt rất nghiêm túc: “Đúng là kỳ lạ thật.”

Mẫn Mẫn nói: “Sống chung với sói! Lẽ ra phải nghĩ ra từ trước rồi mới phải, hai người, tại sao lại cảm thấy kỳ lạ vậy?”

Trác Mộc Cường Ba kéo tay cô nói: “Không nên có xích sắt.”

Mẫn Mẫn thắc mắc: “Nhưng mà, em nhớ là lũ chó lớn ở quê, chẳng phải đều dùng xích sắt xích lại đấy sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Mẫn Mẫn à, người Qua Ba sống chung với sói tuyệt đối không như em tưởng tượng đâu. Người dưới quê xích chó lại, là để đề phòng người lạ bị chúng cắn; còn ở những khu vực chăn thả ít người lui tới, người Tạng không bao giờ dùng xích sắt xích chó của mình lại đâu.”

Mẫn Mẫn dường như đã hiểu, gật đầu nói: “Vì sợ hạn chế khả năng tự do hoạt động của chúng, khiến chúng không thể đuổi bắt trộm và dã thú phải không?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Quan trọng hơn là, người Tạng coi lũ chó như là một thành viên của gia đình, chẳng ai lại móc lên cổ người nhà mình một cái vòng, rồi lấy xích xích lại cả. Huống hồ đây lại là người Qua Ba sống chung với sói, tương truyền rằng, quan hệ của họ với sói, dường như còn thân thiết hơn cả với người nhà ấy chứ.”

Mẫn Mẫn nhìn sợi xích to tướng dưới đất, nói: “Vậy thì sợi xích này… đúng là kỳ lạ thật đấy…, à, anh bảo, liệu có lẽ nào là bọn chúng…”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu, trước khi có chứng cứ xác thực, gã không muốn dễ dàng đưa ra kết luận. Gã bèn chuyển chủ đề khác: “Không biết, xem ra ở đây còn ẩn giấu nhiều bí mật lắm, sợ rằng chúng ta phải nghỉ lại đây rồi. Vậy đi, Ba Tang, anh đi gọi Sean nữa, hai người và Trương Lập, Triệu Trang Sinh đi chôn hết những bộ xương này đi, sau đó anh bảo với đội trưởng Hồ Dương, để anh ấy cùng với Cánh Nam và Nhạc Dương tìm kiếm bên ngoài, chúng tôi sẽ lục soát bên trong, xem xem có còn đầu mối nào khác nữa không.”

Tầng dưới ngoài khu công xưởng lớn ra thì là chuồng gia súc được quây rào, tầng hai tầng ba lần lượt có phòng khách, phòng ngủ, phòng quản gia, kho, những rường cột, mái hiên, bậu cửa đều vẽ hoặc điêu khắc những hình vẽ hết sức tinh xảo đẹp đẽ, cầu thang lên xuống đều dùng nguyên một khối gỗ đẽo hình răng cưa tạo thành. Chỉ có máy móc là bị phá hủy, còn đâu đa phần các đồ bày biện trong nhà của cư dân, các chum vại đều còn nguyên vẹn không hề suy suyển, thoạt nhìn chẳng hề giống như đã xảy ra một trận tàn sát. Nhưng cũng chính vì nguyên nhân đó, tất thảy mọi thứ ở đây ngược lại đều trở nên càng thêm kỳ dị và bí ẩn. Một điều nữa khiến Trác Mộc Cường Ba càng lấy làm khó hiểu là, mỗi gian phòng đều có xích sắt, đồng thời mỗi sợi xích sắt đều bị giật bung ra, nhưng lại không hề phát hiện ra bộ xương chó sói hoặc chó ngao nào. Cuối cùng, họ cũng tìm được chút đầu mối còn sót lại trong một gian phòng lớn đã bị cháy ở tầng hai. Chỗ đó hóa ra là một đàn tế, tầng dưới là phòng họp, tầng trên còn có các tư liệu văn bản. Lúc trông thấy những hàng chữ Tạng cổ viết trên da dê, bọn Trác Mộc Cường Ba thảy đều vô cùng kích động. Tuy rằng đa phần đều đã bị thiêu hủy, nhưng dù sao cũng là những ghi chép lịch sử, đối với một nền văn minh, đây có thể coi là những tư liệu quan trọng nhất rồi.

Hầu hết các cuộn văn bản đều dùng vàng bạc lỏng viết lên da dê, ngoài ra cũng có những quyển trục giống với quyển trục Cổ Cách, được viết trên da sói.

Pháp sư Á La đọc thật kỹ lưỡng, cuối cùng cũng hiểu đại khái nội dung của những cuộn da dê ấy. Những cuộn da dê gần như là nhật ký của làng, đã được ghi chép liên tục từ một nghìn năm trước cho đến bây giờ.

Ngôi làng này, không ngờ cũng được gọi là thôn Công Bố, có điều về sau đã đổi sang tên khác, cả pháp sư Á La cũng không thể dịch được một cách chính xác, hình như mang máng có nghĩa là “cuối cùng”; người ở đây sử dụng phương pháp ghi năm theo kiểu “hỏa không hải 2”, sau khi xem qua, pháp sư Á La nói, cách ghi năm này hơi khác với cách ghi năm theo kiểu “hỏa không hải” mà biết, có điều tính toán sơ qua, thì có lẽ là bắt đầu từ năm Lãng Đạt Mã cấm Phật. Trong các bản ghi chép không thấy viết về nguyên nhân họ đến Shangri-la, chỉ loáng thoáng nhắc đến, viết rằng các vị trí giả quyết định từ bỏ, lần theo dấu vết tiền nhân để lại tìm đến Shangri-la… còn những gò Mã Ni chất trên mu bàn chân người khổng lồ thì hóa ra đã có từ trước khi họ đến đây, là nơi tế bái của những người đến đây từ trước trước nữa, sớm nhất có thể truy ngược lại từ khoảng ba nghìn năm trước. Hẳn là người dân ở đây có thể đọc hiểu được cách ghi năm của Tượng Hùng cổ. Những người dân trong làng này đều tự nguyện ở lại, họ sẽ đời đời canh giữ tầng đầu tiên của thánh địa Shangri-la, đồng thời chuẩn bị nghênh tiếp những vị dũng sĩ đến sau; còn rất nhiều người Qua Ba khác đã cùng họ tiến vào đây thì tiếp tục tiến lên trên, cuối cùng ở lại tầng bình đài thứ ba. Người dân thôn Công Bố từ bấy giờ vẫn canh giữ và bảo vệ thôn làng và con đường duy nhất thông lên tầng bình đài phía trên. Những dòng ghi chép cuối cùng kết thúc vào khoảng bốn năm về trước…

Trong các quyển da dê đa phần đều chép lại những sự kiện quan trọng như tế lễ, thiên tai, hoặc thần tích hiển linh… Trong đó có mấy điểm thu hút sự chú ý của pháp sư Á La. Vào năm này năm này, người bộ tộc… từ thang trời đi xuống, mượn đi bao nhiêu lương thực; năm nào năm nào… người bộ tộc… đến tuyên bố tin tức…, vua nước… mở ra… vào… năm…, trong làng đã phái đi bao nhiêu sứ giả đến thánh đàn Shangri-la tham gia nghi thức trọng đại ấy, rồi có bao nhiêu người trở về vào lúc nào…

Dựa trên những thông tin đó, họ biết được, Shangri-la này không chỉ có một ngôi làng. Ở tầng bình đài thứ hai, thứ ba, còn có những dân tộc cổ xưa hơn nữa tồn tại, đồng thời đã hình thành nên cả một vương quốc, mà có thể là không chỉ có một vương quốc. Cũng có nghĩa là, vương quốc Shangri-la mà thế gian vẫn đồn đại, thực sự có tồn tại.

2 Phương pháp tính năm độc đáo của người Tạng, lấy thời điểm năm bắt đầu là năm 624 sau Công nguyên. Ví dụ: năm 132 theo cách tính “hỏa không hải” là năm 755 sau Công nguyên.

Nhạc Dương và Triệu Trang Sinh mỗi người một bên đi theo sau Trương Lập, tuy cũng trông thấy tất cả các thứ ấy, nhưng chẳng ai có vẻ hứng thú như Trương Lập cả. Triệu Trang Sinh thì chỉ thấy một đống những phụ tùng linh kiện chẳng biết thứ gì là thứ gì. Nhạc Dương không kìm được hỏi: “Những cái này dùng để làm gì nhỉ?” Trương Lập tức thì quay ngoắt người lại chộp lấy Nhạc Dương, lắc mạnh nói: “Thế mà cậu cũng không nhìn ra à!” Rồi anh ta lại ngoác miệng lớn tiếng nói: “Đây chính là máy móc tự động hóa đấy! Có thấy những đường ray kia không? Bên dưới các máy móc này đều có ngạnh, có thể chuyển động tiến lui trên những đường ray ấy, hoàn toàn tự động, thật là đáng kinh ngạc! Hơn nữa họ còn dùng loại máy nhiều cánh tay, lắp lên các cánh tay máy khác nhau, cỗ máy sẽ có những công năng hoàn toàn khác nhau! Cái này để cày ruộng, để cấy mạ, đây là để thu hoạch, để đập lúa, cái kia để chặt cây, chắc là còn có loại đập đá nữa, nhưng đây không có, chắc là không ở trong nhà này, kia là để cắt kim loại, đây là… để để nhặt trứng à?”

Nhìn những cánh tay máy đã hoàn toàn bị phá hoại, mà Trương Lập vẫn có thể nói vèo vèo công năng. Càng nhìn lại càng thấy kỳ diệu, càng nhìn càng thấy khâm phục trí tuệ của người xưa, cuối cùng anh chàng cười ngây ngốc nói: “Tôi biết là vậy mà.” Anh huých huých Nhạc Dương, rồi lại thúc vào người Triệu Trang Sinh một cái, nói: “Các cậu biết không, ngay từ lúc vừa nhìn thấy những dãy nhà gỗ này, là tôi đã tự nhủ, cái làng này, hoàn toàn có thể coi như một công xưởng lớn, những dãy nhà gỗ sắp xếp như những dây chuyền sản xuất, từ thu thập nguyên liệu, tuyển lựa, đến gia công thô, gia công tinh, cuối cùng thì được lắp ráp thành hình, ha ha, thật là hoàn mỹ!”

Triệu Trang Sinh kiểm tra những máy móc đã nát bươm ấy rồi nói: “Hình như không có thiết bị điện thì phải, những thứ này hoạt động như thế nào nhỉ?” Trương Lập đập mạnh lên cánh tay Triệu Trang Sinh một cái, lớn tiếng nói: “Đây chính là chỗ giỏi nhất của người xưa đấy! Họ dùng nguyên lý đơn giản nhất, các linh kiện đơn giản nhất, vậy mà có thể lắp ráp lại thành những cỗ máy tự động hóa cao độ thế này! Hồi nhỏ các cậu có bao giờ chơi thứ nào giống thế chưa, chúng có đủ các hình dáng, trên lưng có một dây cót, vặn vài vòng, liền có thể tự động đi qua đi lại, có thứ còn kèm theo tiếng nhạc rất hay nữa! Còn cả đồng hồ lên dây cót, vặn một vòng thì có thể chạy cả một ngày… những máy móc này, chính là dùng nguyên lý ấy, có lò xo dây cót, bánh răng, mộng và chốt, cộng với sự dẻo dai của hợp kim, có thể tạo ra năng lượng rất lớn cho cỗ máy, hoàn toàn là sự chuyển hóa giữa cơ năng và cơ năng. Bên trong chúng dường như còn có thiết bị tự động, khi động năng không đủ, chúng sẽ tự động trở lại chỗ này, ở đây chắc chắn là có chỗ để lên dây cót cho chúng, à… hoặc là ở trong nữa, những thứ máy móc này, trông như dùng để làm chướng ngại vật ấy…”

“Kỳ lạ thật, nếu nếu kỹ thuật cơ khí đã phát triển thế này, tại sao còn phải làm vỏ gỗ nhỉ?” Câu hỏi của Nhạc Dương, lập tức khiến Trương Lập tắc tị.

Mấy người hội Sean và đội trưởng Hồ Dương thì đi sang phía bên kia công xưởng. Ở đây có một khúc xương động vật khổng lồ đặt nằm trên chiếc bàn lớn trông như một thứ tiêu bản, bên cạnh còn một đống đồ trông nhăn nheo như vải buồm. Sean nhìn khúc xương thở dài cảm khái: “Đúng là vĩ đại thật!”

Đội trưởng Hồ Dương hỏi: “Cái gì đấy?”

Sean đáp: “Khúc khấu đuôi của một loài động vật nào đó.”

“Khấu đuôi!” Giọng đội trưởng Hồ Dương nghe lạc cả đi. Cái thứ cao hơn hai mét, dài hơn chục mét ấy, không ngờ lại chỉ là một khúc khấu đuôi! Vậy thì… vậy thì con vật ấy, lúc còn sống rốt cuộc là to đến chừng nào?

“Ừm. Là một loài sinh vật biển hoặc lưỡng thê.” Sean bước tới cầm vật thể trông như vải buồm lên, khi ấy mới nhận ra độ dày của nó hơn xa anh ta nghĩ, bèn “a ha” lên một tiếng, lần tay ra tìm chỗ mép, hóa ra lại dày đến cả chục phân. Anh ta bèn gắng sức nhấc lên, thử cảm giác ở tay, rồi lại đưa mắt nhìn các thứ công cụ xung quanh, đoạn nói: “Nếu tôi đoán không lầm, đây chính là nguyên liệu chế tác ra con thuyền hình rắn chúng ta ngồi tới đây.”

“Thật không?” Lữ Cánh Nam hỏi. “Vỏ ngoài thuyền rắn đâu có dày đến vậy?”

Sean đáp: “Chắc chắn là họ đã dùng công nghệ đặc biệt gì đấy để khử lớp chất hữu cơ tích tụ trên tấm da này, rồi lại gia công chà xát, mới hình thành được lớp vỏ ngoài vô cùng bền chắc ấy.” Nghĩ ngợi giây lát, anh ta lại ngạc nhiên thốt lên: “Muốn bắt được sinh vật to lớn như thế để chế tạo thuyền, phải cần đến những vũ khí và công nghệ cực kỳ tiên tiến mới được đó!” Nói xong, Sean lại lấy ra một con dao găm, đâm mạnh xuống miếng da, kết quả giống như đâm vào một quả bóng cao su cứng, lớp da lõm xuống dưới, nhưng ấn dao xuống mãi cũng chẳng thấy rách. Cuối cùng Sean chán nản nói: “Khó hơn bắt cá voi nhiều lắm!”

Trác Mộc Cường Ba theo pháp sư Á La, Mẫn Mẫn đi theo Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang đi sau cùng, bốn người họ lại đi theo một hướng khác, theo dấu những khúc xương trắng nằm rải rác dưới đất, rẽ ngoặt đi về phía bức tường của công xưởng lớn. Ở đây có một cái thang gỗ, trông có vẻ vẫn dùng được. Đi theo bậc thang là có thể lên tầng hai, họ bước qua cửa gian phòng gần nhất, suy đoán dựa vào vài thứ đồ trang sức bày biện và quần áo, càng thêm khẳng định rằng đây chính là một ngôi làng của người Qua Ba.

Trong phòng có một bộ xương khô, thoạt trông đã rõ là xương của nữ giới, đang quỳ cuộn người dưới đất; trong lòng ôm chặt một bộ xương trẻ con. Ở mé xa bên ngoài cửa sổ có một bộ xương nằm rạp, cánh tay vươn thẳng về phía trước, hiển nhiên là sau khi ngã xuống vẫn còn bò thêm một đoạn nữa. Pháp sư Á La phân tích: “Ngôi làng này bên ngoài có tường đá cắm chông, lưng dựa vào vách núi, trên đầu lại có loài thực vật dạng như sương mù che phủ, có thể nói là địa thế vô cùng thuận lợi, các loài chim thú lớn căn bản không thể xông vào được. Còn nữa, nhìn mức độ mục rữa của xương cốt và quần áo, có thể khẳng định người ở đây ít nhất cũng chết được ba bốn năm rồi, vậy mà vẫn giữ được nguyên vẹn trạng thái lúc trước khi chết. Cũng có nghĩa là, trong ba bốn năm nay, ngoài thực vật ra, không có sinh vật nào đến đây cả.”

Ba Tang cũng nói: “Nhìn vị trí của các bộ xương, có thể thấy những người này đều đang hoảng loạn chạy trốn, mọi người tỏa ra các hướng khác nhau để đào vong, nhưng hung thủ đã chặn hết mọi ngả đường, không buông tha cho bất cứ ai. Dù là đàn ông đàn bà người già hay trẻ nhỏ, thậm chí cả trẻ sơ sinh cũng không thể thoát chết. Họ… họ đã bị tàn sát hàng loạt.”

Nói tới đây trong lòng anh ta chợt dâng lên một nỗi sợ, tựa hồ vừa nắm bắt được gì đó, dường như chính anh ta và đồng đội cũng từng gặp phải cuộc tàn sát thảm khốc đó rồi!

Pháp sư Á La gật đầu: “Đúng thế, những người ở đây, có lẽ đã chết trong một trận tàn sát lúc đêm khuya, trong các căn nhà phía trước vẫn còn mấy cái xác đang trong tư thế say ngủ.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đồ đạc, chum vại, nông cụ trong nhà vẫn còn nguyên vẹn, không có tài sản nào bị cướp đi, đến cả bàn ghế bị hất đổ cũng chỉ là do người chạy trốn va đập phải thôi. Nhưng các thứ máy móc thì lại bị phá hoại một cách hoàn toàn triệt để, cả người và súc vật cũng không một ai sống sót, đây rốt cuộc là…”

Mẫn Mẫn nói: “Liệu có phải những thứ kia đã giết chết người trong làng không?” Cô ngẩng đầu nhìn làn sương mù.

Pháp sư Á La lắc đầu: “Không phải, tôi đã nói rồi, đây là nơi được người xưa lựa chọn rất kỹ lưỡng, vừa bên bờ nước lại dựa lưng vào núi, có thể nói đã chiếm được địa lợi ở chốn rừng nguyên thủy này, còn khoảng trời bị loài thực vật như sương mù che phủ kia, lại có tác dụng ngăn cản sự tấn công của các loài chim dữ trên không trung. Nếu những người ở đây bị loại thực vật lơ lửng đó giết hại, thì không thể nào gây ra hiện tượng tất cả mọi người đều hoảng sợ chạy trốn trên quy mô lớn như thế được, đồng thời nó cũng không thể khiến người ta chết ngay lập tức. Nói không chừng, loài thực vật phun sương mù ấy chính là biện pháp người dân ở đây dùng để ngăn cản các loài động vật ngoại lai. Vả lại, mọi người có thấy xác lũ dê trong hàng rào kia không? Trước lúc chết chúng không hề kinh hoảng chạy loạn đi tứ phía, mà bị dồn vào một vòng quây nhỏ, xác chết chất đống lên nhau, đây là phương pháp tàn sát điển hình nhất. Còn tại sao mọi người lại hoảng loạn chạy trốn, tôi nghĩ là vì bọn hung thủ đến tàn sát không thể trao đổi một cách hiệu quả với người ở đây, vì vậy hung thủ không dồn người dân trong làng vào một chỗ, mà dùng biện pháp sét đánh không kịp bưng tai giết sạch hết tất cả mọi người.”

Trác Mộc Cường Ba dường như đã nghe ra được điều gì đó trong lời pháp sư Á La, kinh ngạc thốt lên: “Hành vi động vật?”

Ba Tang đáp ngay: “Đúng vậy. Trên xương cốt còn dấu vết cắn và cào xé, xem ra hung thủ sở hữu móng vuốt và hàm răng sắc nhọn, nhìn vị trí của những cái xác chết trong lúc chạy trốn kia, có thể thấy hung thủ còn có tốc độ đáng sợ và thân thủ rất nhanh nhẹn nữa. Chỉ trong một lần mà bao vây tàn sát ngần ấy người, không buông tha một ai, tôi nghĩ chắc chắn bọn hung thủ này chiếm ưu thế rõ rệt về số lượng, hơn nữa còn rất giỏi tác chiến tập thể nữa.”

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại hỏi Mẫn Mẫn: “Còn nhớ những lời người điên ở Mông Hà ấy nói không?”

Mẫn Mẫn nói: “Á! Lẽ nào là…” Cô nhớ lại suy luận mà họ từng đưa ra, những sinh vật từng tấn công Ba Tang, những sinh vật đã tàn sát cả ngôi làng của người Qua Ba, rất có thể chính là lũ sói Khả Khả Tây Lý có trí tuệ tương đương với con người, hoặc giả phải nên nói là lũ sói của Shangri-la thì chính xác hơn.

Mọi người lại đưa mắt nhìn Ba Tang, dò xem cảnh tượng trước mắt có thể khơi gợi cho anh ta nhớ lại điều gì đó không. Nhưng Ba Tang vẫn hờ hững nhìn đống xương trắng chất đầy trước mắt, gương mặt không hề bộc lộ chút cảm xúc nào, rõ ràng là cảnh tượng này vẫn chưa đủ để kích thích lại những hồi ức đã bị vùi sâu.

Mẫn Mẫn nói: “Nếu nói là cả ngôi làng bị tàn sát hết, vậy thì người điên đó làm sao thoát ra được nhỉ? Còn nữa, những hung thủ còn đông hơn cả người làng ấy từ đâu đến? Làm sao chúng có thể băng qua khu rừng tăm tối kia để đến được đây? Tại sao lại đột nhiên tàn sát cả một ngôi làng? Sau khi giết hết mọi người, chúng đã đi đâu rồi?”

Mẫn Mẫn đưa ra một loạt câu hỏi, khiến mọi người đều cảm thấy khó có thể trả lời. Trước mắt bọn họ cũng mới chỉ nêu suy đoán, tất cả đều không có đầu mối gì cả.

“Ủa? Đây là?” Chỉ nghe tiếng “xoảng xoảng xoảng” vang lên, pháp sư Á La kéo một sợi xích sắt to tướng dưới giường ra, cúi người quan sát, thấy một đầu xích sắt không phải buộc vào chân giường, mà gắn chặt với cây cột chống đỡ toàn bộ căn nhà, còn vòng sắt to bằng ngón tay út ông đang cầm, dường như đã bị một sức mạnh rất lớn giật bung cả ra. Pháp sư Á La ngạc nhiên nhìn Trác Mộc Cường Ba nói: “Kỳ lạ thật đấy.”

Trác Mộc Cường Ba cũng chăm chú nhìn sợi xích sắt ấy, sắc mặt rất nghiêm túc: “Đúng là kỳ lạ thật.”

Mẫn Mẫn nói: “Sống chung với sói! Lẽ ra phải nghĩ ra từ trước rồi mới phải, hai người, tại sao lại cảm thấy kỳ lạ vậy?”

Trác Mộc Cường Ba kéo tay cô nói: “Không nên có xích sắt.”

Mẫn Mẫn thắc mắc: “Nhưng mà, em nhớ là lũ chó lớn ở quê, chẳng phải đều dùng xích sắt xích lại đấy sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Mẫn Mẫn à, người Qua Ba sống chung với sói tuyệt đối không như em tưởng tượng đâu. Người dưới quê xích chó lại, là để đề phòng người lạ bị chúng cắn; còn ở những khu vực chăn thả ít người lui tới, người Tạng không bao giờ dùng xích sắt xích chó của mình lại đâu.”

Mẫn Mẫn dường như đã hiểu, gật đầu nói: “Vì sợ hạn chế khả năng tự do hoạt động của chúng, khiến chúng không thể đuổi bắt trộm và dã thú phải không?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Quan trọng hơn là, người Tạng coi lũ chó như là một thành viên của gia đình, chẳng ai lại móc lên cổ người nhà mình một cái vòng, rồi lấy xích xích lại cả. Huống hồ đây lại là người Qua Ba sống chung với sói, tương truyền rằng, quan hệ của họ với sói, dường như còn thân thiết hơn cả với người nhà ấy chứ.”

Mẫn Mẫn nhìn sợi xích to tướng dưới đất, nói: “Vậy thì sợi xích này… đúng là kỳ lạ thật đấy…, à, anh bảo, liệu có lẽ nào là bọn chúng…”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu, trước khi có chứng cứ xác thực, gã không muốn dễ dàng đưa ra kết luận. Gã bèn chuyển chủ đề khác: “Không biết, xem ra ở đây còn ẩn giấu nhiều bí mật lắm, sợ rằng chúng ta phải nghỉ lại đây rồi. Vậy đi, Ba Tang, anh đi gọi Sean nữa, hai người và Trương Lập, Triệu Trang Sinh đi chôn hết những bộ xương này đi, sau đó anh bảo với đội trưởng Hồ Dương, để anh ấy cùng với Cánh Nam và Nhạc Dương tìm kiếm bên ngoài, chúng tôi sẽ lục soát bên trong, xem xem có còn đầu mối nào khác nữa không.”

Tầng dưới ngoài khu công xưởng lớn ra thì là chuồng gia súc được quây rào, tầng hai tầng ba lần lượt có phòng khách, phòng ngủ, phòng quản gia, kho, những rường cột, mái hiên, bậu cửa đều vẽ hoặc điêu khắc những hình vẽ hết sức tinh xảo đẹp đẽ, cầu thang lên xuống đều dùng nguyên một khối gỗ đẽo hình răng cưa tạo thành. Chỉ có máy móc là bị phá hủy, còn đâu đa phần các đồ bày biện trong nhà của cư dân, các chum vại đều còn nguyên vẹn không hề suy suyển, thoạt nhìn chẳng hề giống như đã xảy ra một trận tàn sát. Nhưng cũng chính vì nguyên nhân đó, tất thảy mọi thứ ở đây ngược lại đều trở nên càng thêm kỳ dị và bí ẩn. Một điều nữa khiến Trác Mộc Cường Ba càng lấy làm khó hiểu là, mỗi gian phòng đều có xích sắt, đồng thời mỗi sợi xích sắt đều bị giật bung ra, nhưng lại không hề phát hiện ra bộ xương chó sói hoặc chó ngao nào. Cuối cùng, họ cũng tìm được chút đầu mối còn sót lại trong một gian phòng lớn đã bị cháy ở tầng hai. Chỗ đó hóa ra là một đàn tế, tầng dưới là phòng họp, tầng trên còn có các tư liệu văn bản. Lúc trông thấy những hàng chữ Tạng cổ viết trên da dê, bọn Trác Mộc Cường Ba thảy đều vô cùng kích động. Tuy rằng đa phần đều đã bị thiêu hủy, nhưng dù sao cũng là những ghi chép lịch sử, đối với một nền văn minh, đây có thể coi là những tư liệu quan trọng nhất rồi.

Hầu hết các cuộn văn bản đều dùng vàng bạc lỏng viết lên da dê, ngoài ra cũng có những quyển trục giống với quyển trục Cổ Cách, được viết trên da sói.

Pháp sư Á La đọc thật kỹ lưỡng, cuối cùng cũng hiểu đại khái nội dung của những cuộn da dê ấy. Những cuộn da dê gần như là nhật ký của làng, đã được ghi chép liên tục từ một nghìn năm trước cho đến bây giờ.

Ngôi làng này, không ngờ cũng được gọi là thôn Công Bố, có điều về sau đã đổi sang tên khác, cả pháp sư Á La cũng không thể dịch được một cách chính xác, hình như mang máng có nghĩa là “cuối cùng”; người ở đây sử dụng phương pháp ghi năm theo kiểu “hỏa không hải 2”, sau khi xem qua, pháp sư Á La nói, cách ghi năm này hơi khác với cách ghi năm theo kiểu “hỏa không hải” mà biết, có điều tính toán sơ qua, thì có lẽ là bắt đầu từ năm Lãng Đạt Mã cấm Phật. Trong các bản ghi chép không thấy viết về nguyên nhân họ đến Shangri-la, chỉ loáng thoáng nhắc đến, viết rằng các vị trí giả quyết định từ bỏ, lần theo dấu vết tiền nhân để lại tìm đến Shangri-la… còn những gò Mã Ni chất trên mu bàn chân người khổng lồ thì hóa ra đã có từ trước khi họ đến đây, là nơi tế bái của những người đến đây từ trước trước nữa, sớm nhất có thể truy ngược lại từ khoảng ba nghìn năm trước. Hẳn là người dân ở đây có thể đọc hiểu được cách ghi năm của Tượng Hùng cổ. Những người dân trong làng này đều tự nguyện ở lại, họ sẽ đời đời canh giữ tầng đầu tiên của thánh địa Shangri-la, đồng thời chuẩn bị nghênh tiếp những vị dũng sĩ đến sau; còn rất nhiều người Qua Ba khác đã cùng họ tiến vào đây thì tiếp tục tiến lên trên, cuối cùng ở lại tầng bình đài thứ ba. Người dân thôn Công Bố từ bấy giờ vẫn canh giữ và bảo vệ thôn làng và con đường duy nhất thông lên tầng bình đài phía trên. Những dòng ghi chép cuối cùng kết thúc vào khoảng bốn năm về trước…

Trong các quyển da dê đa phần đều chép lại những sự kiện quan trọng như tế lễ, thiên tai, hoặc thần tích hiển linh… Trong đó có mấy điểm thu hút sự chú ý của pháp sư Á La. Vào năm này năm này, người bộ tộc… từ thang trời đi xuống, mượn đi bao nhiêu lương thực; năm nào năm nào… người bộ tộc… đến tuyên bố tin tức…, vua nước… mở ra… vào… năm…, trong làng đã phái đi bao nhiêu sứ giả đến thánh đàn Shangri-la tham gia nghi thức trọng đại ấy, rồi có bao nhiêu người trở về vào lúc nào…

Dựa trên những thông tin đó, họ biết được, Shangri-la này không chỉ có một ngôi làng. Ở tầng bình đài thứ hai, thứ ba, còn có những dân tộc cổ xưa hơn nữa tồn tại, đồng thời đã hình thành nên cả một vương quốc, mà có thể là không chỉ có một vương quốc. Cũng có nghĩa là, vương quốc Shangri-la mà thế gian vẫn đồn đại, thực sự có tồn tại.

2 Phương pháp tính năm độc đáo của người Tạng, lấy thời điểm năm bắt đầu là năm 624 sau Công nguyên. Ví dụ: năm 132 theo cách tính “hỏa không hải” là năm 755 sau Công nguyên.

Bình luận