Đó là ngày dài nhất từ trước tới nay: nóng khủng khiếp, nóng không tả xiết, cái nóng làm cho người ta không thể đi lại, thậm chí không thể nghĩ ngơi. Cánh đồng, làng Treegap, khu rừng – tất cả nằm đó, bị cái nóng hạ gục. Không gì động đậy nổi. Mặt trời là một vòng tròn kềnh càng không giới hạn, một tiếng gầm không âm thanh, một quẳng lửa chói lòa quá gay gắt và cuồng bạo đến độ ngay cả trong phòng khách buông kín rèm của nhà Foster cũng thấy nó hiện diện rõ rệt. Không gì ngăn cản được nó.
Bà và mẹ Winnie ngồi rầu rĩ suốt cả chiều trong phòng khách, vừa quạt phành phạch vừa nhấm nháp nước chanh, tóc không búi gọn, đầu gối không khép. Thật hoàn toàn chẳng giống họ chút nào, không còn cái vẻ lịch thiệp kiểu cách nữa và điều đó khiến họ thú vị hơn nhiều. Nhưng Winnie không ở cùng họ mà mang theo một ly nước đầy về phòng và ngồi sau chiếc ghế đu nhỏ bên cửa sổ. Sau khi đã giấu chai nước của Jesse vào cái tủ ngăn kéo, cô chẳng còn việc gì phải làm ngoài chờ đợi. Ở hành lang bên ngoài, chiếc đồng hồ của ông nội chậm rãi gõ nhịp, chẳng buồn quan tâm tới sự sốt ruột của bất cứ ai, và Winne thấy mình đang du đưa theo nhịp điệu ấy – tới rồi lui, tới rồi lui, tíc, tắc, tíc, tắc. Cô cố đọc sách, nhưng xung quanh yên lặng đến nỗi không thể nào tập trung được và vì thế mà cô vui mừng biết bao khi cuối cùng cũng đến giờ ăn tối. Dù sao thì cũng có việc để làm, dù chẳng ai trong nhà cố ăn thêm được một miếng.
Nhưng sau đó, khi Winnie ra hàng rào lần nữa, cô thấy bầu trời đang thay đổi. Không nhiều mây đến độ dày tầng tầng lớp lớp, nhưng cùng lúc từ bốn phương, cái màu xanh biếc không một gợn mây ấy đã chuyển sang có mây mỏng. Và rồi, khi mặt trời miễn cưỡng lặn xuống sau ngọn cây, những làng mây mỏng ấy đồn tụ thành một màu vàng nâu sáng chói. Trong rừng, lá cây bị tốc ngươc mặt dưới lên khoác lên cây cối một màu ánh bạc.
Không khí nặng nề hơn thấy rõ, đè nặng trên ngực Winnie và làm cô thấy khó thở. Cô quay trở vào nhà. “Chắc là sắp mưa rồi, con nghĩ vậy.” Cô nói với cả nhà đang nằm bệp uể oải trong phòng khách, và tin này được đón nhận bằng tiếng rên khe khẽ biết ơn.
Mọi người đi ngủ sớm, cài chặt mọi cửa sổ trên đường về phòng ngủ. Vì ngoài trời, dù đã tối nhưng vài tia sáng gắt ánh vàng nâu vẫn còn nấn lại trên rìa mọi vật, và gió bắt đầu thổi, từng cơn nhỏ làm cổng rào lạch cạch và hàng cây xào xạc. Mùi mưa phảng phất ngọt ngào trong không khí. “Đúng là một tuần kinh khủng!” bà Winnie nói. “Nhưng mà, tạ ơn Chúa, sắp qua rồi.” Winnie cũng tự nhủ: Phải, sắp qua rồi.
Còn phải đợi ba tiếng nữa mới đến nửa đêm mà chẳng còn gì để làm cả. Winnie bồn chồn đi loanh quanh trong phòng, hết ngồi lên ghế đu lại nằm trên giường, đếm tiếng đồng hồ gõ. Đằng sau sự hào hứng, cô vẫn cảm thấy đầy tội lỗi. Đây là lần thứ hai chỉ trong vòng ba ngày ngắn ngủi – dù ba ngày này có vẻ dài hơn thế – cô lại sắp sửa làm một chuyện mà cô biết rằngkhông được phép. Chẳng cần phải hỏi cũng biết.
Winnie tự biết thế nào là phải trái đúng sai. Cô cũng biết rằng mình luôn có thể nói với mọi người, khi mọi chuyện đã xong, rằng. “Ba mẹ có bao giờ bảo là không được làm thế đâu!” Nhưng như vậy mới ngốc ngếch làm sao? Dĩ nhiên là ba mẹ và bà chưa từng nghĩ đến việc phải thêm một thứ như vậy vào danh sách những việc không được phép làm rồi. Cô suýt nữa là mỉm cười khi tưởng tượng ra cảnh mọi người nói. “Giờ thì nhớ đây, Winnifred – không được cắn móng tay, không ngắt lời khi người khác đang nói và không được đi xuống nhà giam vào lúc nửa đêm để đổi chỗ cho tù nhân.”
Nhưng cũng chẳng buồn cười cho lắm. Điều gì sẽ xảy ra vào sáng hôm sau, khi viên cảnh sát phát hiện ra cô trong nhà giam và lần thứ hai phải mang cô về nhà? Cả nhà sẽ nói gì? Liệu mọi người có còn tin tưởng cô nữa không? Ngồi trên chiếc ghế đi, Winnie co mình lại, và khó nhọc nuốt khan. Vậy thì, cô sẽ phải làm cho mọi người hiểu, bằng cách nào mà không cần giải thích.Đồng hồ điểm mười một giờ. Ngoài trời, gió đã lặng. Mọi thứ đều như đang chờ đợi. Winnie nằm xuống và nhắm mắt lại. Ý nghĩ về ông Tuck, bà Mae, anh Miles và Jesse làm nhẹ lòng cô. Họ cần đến cô. Để quan tâm lo lắng cho họ. Bởi vì, theo cái cách buồn cười khiến cô ấn tượng từ lần đầu tiên ấy, họ không thể tự lo. Hoặc họ quá cả tin. Đại loại như vậy. Dù sao thì họ cần đến cô. Cô không thể làm họ thất vọng. Bà Mae phải được tự do. Sẽ không ai có thể khám phá ra – cả Winnie cũng không thể biết được thật hư rằng – bà Mae không thể… đến đây Winnie xua đuổi hình ảnh ấy ra khỏi tâm trí cô, xua đuổi nỗi kinh hoàng khi chứng minh được điều bí mật. Thay vì vậy, cô chuyển suy nghĩ của mình sang Jesse. Khi cô mười bảy tuổi – liệu cô có nên…? Nếu điều đó là sự thật thì có nên chăng? Và nếu cô làm vậy, thì cô có phải hối tiếc về sau? Ông Tuck đã từng nói rằng, “Đó là điều mà mãi sau con mới biết mình cảm thấy thế nào.” Nhưng không – điều đó không đúng. Cô biết như vậy, vào lúc này đây, trong phòng ngủ của mình. Có thể họ thật sự là những người điện. Nhưng dù sao thì cô cũng yêu họ. Họ cần đến cô. Nghĩ đến đây Winnie chìm vào giấc ngủ.
Chỉ một lát sau cô giật mình tỉnh giấc và ngồi dậy, hốt hoảng. Chiếc đồng hồ vẫn gõ nhịp đều đều, xung quanh tối đen như mực. Ngoài trời, màn đêm dường như cũng đang rón rén, chờ đợi, đợi chờ, nín thở trông cơn bão đến, Winnie lẻn ra ngoài hành lang và nhíu mày nhìn mặt đồng hồ chìm trong tối. Cuối cùng cô cũng nhìn ra được, vì dù không nhìn rõ những con số La Mã màu đen trên nền trắng, nhưng kim đồng hồ bằng đồng hơi ánh lên. Trong lúc cô chăm chăm nhìn, cây kim dài nhích tới một khắc cùng một tiếng tắc lớn. Cô vẫn chưa lỡ hẹn – năm phút nữa mới đến nửa đêm.