Tuần lễ đầu tiên của tháng Tám đã qua lâu rồi. Và giờ đây, dù hãy còn vài tuần nữa mới đến mùa thu, nhưng có cảm giác rằng năm đã bắt đầu chặng đường vòng xuống, bánh xe thời gian lại tiếp tục quay, giờ thì chậm rãi thôi nhưng chẳng mấy chốc sẽ nhanh lên, lặp lại cái vòng xoay của sự đổi thay không bao giờ thay đổi. Winnie, lúc này đang đứng bên cạnh hàng rào trước cửa ngôi nhà đừng-đụng-vào-tôi, nghe thấy âm hưởng mới trong tiếng hót của bầy chim. Cả đàn tụ lại, bay tít lên cao, vừa ríu rít vừa hoà vào bầu trời phía trên khu rừng, rồi dừng lại nghỉ ngơi trước khi lại bay tiếp. Bên kia đường, những đóa hoa hoàng anh vàng rực đang nở rộ. Một cây bông tai nứt sớm tách mở lớp vỏ thô ráp, lộ ra vô vàng hạt đầu có lông tơ mềm như lụa. Khi cô đang quan sát một hạt tách mình ra cuốn theo làn gió nhẹ bất ngờ thổi tới và bình thản bay đi mất, những hạt khác rướn theo như thể quan sát chuyến khởi hành.
Winnie ngồi phịch xuống bắt chéo chân trên bãi cỏ. Đã hai tuần trôi qua kể từ đêm dông bão ấy, cái đêm bà Mae Tuck vượt ngục. Và cho đến giờ vẫn chưa ai tìm ra bà. Chẳng có chút dấu vết của bà, cả của ông Tuck, Miles và Jesse cũng vậy. Winnie biết ơn sâu sắc vì chuyện đó. Nhưng cô cũng vô cùng mệt mỏi nữa. Thật đúng là hai tuần lễ lắm chuyện phiền hà.Cô hồi tưởng cảnh đó cả trăm lần: viên cảnh sát đi vào phòng giam sau khi cô đã nằm yên vị trên chiếc giường xếp như thế nào; ông đóng cánh cửa chớp lại để nước mưa khỏi tạt vào ra sao; cảnh ông đứng đó nhìn cô trong lúc cô cong mình dưới tấm chăn, hơi thở nặng nề, cố làm cho mình trông càng to lên càng tốt; và sau cùng là cảnh ông bỏ đi đến tận sáng ngày hôm sau mới trở lại.
Nhưng cô chẳng dám ngủ vì sợ làm tuột chăn ra và vô tình để lộ mình – để lộ gia đình Tuck. Vì thế mà cô nằm đó, mạch đập thình thịch, mắt mở to thao láo. Cô sẽ không bao giờ quên được tiếng mưa rơi lộp độp trên mái nhà tù hay mùi gỗ ẩm ướt, màn đêm đen tối đã cứu tất cả họ hay cảm giác khó chịu khi phải nhịn để khỏi ho. Cô suýt nữa là phát ho trước khi nhớ ra rằng mình không được làm vậy, và cả giờ đồng hồ trôi qua cô nằm đó, cố nuốt cơn ngứa vẫn ngoan cố bám trụ nơi cổ họng. Và cô cũng sẽ chẳng thể nào quên được tiếng đổ sầm bên ngoài làm trống ngực đập thình thình, rằng cô không biết, không hiểu đó là tiếng động gì cho đến tận sáng hôm sau trên đường về nhà và nhìn thấy cái giá treo cổ đổ sập trong cơn gió.
Nhưng chao ôi! – cô vẫn còn run khi nhớ lại vẻ mặt của viên cảnh sát khi ông thấy cô. Đầu tiên cô nghe thấy tiếng ồn ào trước nhà tù, rồi mùi cà phê mới pha bốc lên, và cô ngồi dậy, đờ người vì sợ hãi. Rồi cánh cửa bên trong mở ra – cánh cửa, giờ cô mới nhìn thấy, ngăn cách giữa văn phòng và hai buồng giam – và trong ánh sáng tràn vào trước ông, viên cảnh sát xuất hiện, tay mang khay đồ ăn sáng, miệng huýt sáo vui vẻ. Rồi ông bước đến ô cửa sổ có chấn song nơi phòng giam và nhìn vào. Và tiếng huýt sáo chết lịm trên môi ông như thể đã hết hơi và cần lên dây cót lại. Nhưng rồi sự kinh ngạc khôi hài chẳng kéo dài được lâu. Khuôn mặt ấy lập tức chuyển sang đỏ bầm vì tức giận.
Winnie ngồi trên giường xếp, mắt dán chặt xuống nền nhà, cảm thấy mình vô cùng nhỏ bé – và rất giống một tên tội phạm. Thật đúng là như vậy, viên cảnh sát đã thét ngay vào cô rằng nếu cô lớn hơn thì ông đã tống giam cô luôn rồi – đó là phạm tội, điều mà cô đã làm. Cô chính là… kẻ đồng lõa, giúp cho kẻ sát nhân chạy trốn. Cô chính xác cũng là tội phạm. Nhưng còn quá nhỏ để bị pháp luật trừng trị. Đáng tiếc làm sao, ông nói, vì cô đáng bị trừng phạt đích đáng.
Nhưng rồi cô cũng được thả ra, để ba mẹ quản thúc. Và tất cả những từ ngữ mới lạ này “đồng lõa” và “quản thúc” làm máu trong người cô đông lại. Cả nhà đã hỏi đi hỏi lại cơ, đầu tiên là sững sờ và kế đến là buồn bã: tại sao cô lại làm một điều như vậy? Tại sao? Cô là con gái của ba mẹ mà. Họ tin tưởng cô. Họ đã cố nuôi dạy cô đàng hoàng, biết phân biệt phải trái đúng sai. Họ không thể tin nào hiểu nổu. Và thế là sau cùng cô khóc nức nở dụi đầu vào vai mẹ nói lên sự thật duy nhất, lời giải thích duy nhất rằng: gia đình Tuck là bạn của cô. Cô đã làm điều đó chỉ bởi vì – dù chuyện gì đã xảy ra đi chăng nữa – cô yêu quý họ.
Đến đây thì mọi người hiểu, và sau cùng họ bảo bọc vững vàng quanh cô. Thật khó cho cả nhà cô với xóm giềng, Winnie biết điều đó và nó làm cô đau đớn. Vì họ là những người kiêu hãnh. Và cô đã làm họ hổ thẹn. Dù vậy, chuyện này không phải là không có lợi, ít nhất là với Winnie. Dù cô bị giới hạn ở trong sân nhà và không được đi đâu hết ngay cả cùng với bà và mẹ, nhưng những đứa trẻ khác vẫn ghé ngang để nhìn thấy cô, trò chuyện cùng cô qua hàng rào. Chúng ấn tượng vì những việc mà cô đã làm. Giờ đây, cô đã trở thành hình mẫu lãng mạn đối với chúng, khác hẳn cái vẻ nền nếp, đoan trang trước đây; hầu như quá trong sạch để trở thành một người bạn thật sự.Winnie thở dài và thò tay nhổ cỏ quanh mắt cá chân. Sắp đến mùa tựu trường rồi. Sẽ không đến nỗi tệ như cũ nữa. Trên thực tế cô nghĩ, khi tinh thần lên cao, năm học này còn có thể sẽ rất thú vị là đằng khác.
Và rồi lúc ấy có hai việc diễn ra. Đầu tiên, con cóc nhảy ra khỏi đám cỏ, lần này là đến cùng bên đường với cô. Nó búng mình ra khỏi đám cỏ bồ công anh già và hạ cánh – hấp! – ngay bên ngoài hàng rào. Chỉ cần cô thò tay ra ngoài chấn song là có thể chạm vào nó. Việc tiếp theo, một con chó nâu to lớn, có dáng thân thiện và cái lưỡi thè ra lủng lẳng, đang tung tăng trên đường về phía họ. Nó dừng lại đối diện hàng rào, vừa nhìn Winnie vừa thân thiện vẫy đuôi, nhưng rồi nó nhìn thấy con cóc. Lập tức nó sủa đổng lên, hai con mắt sáng rực. Nó nhảy cẫng lên, phần thân sau nhảy qua nhảy lại trong khi chân trước vẫn ở nguyên vị trí, mũi gí vào con cóc, gào sủa ỏm tỏi đầy kích động.
“Đừng!” Winne la lên, bật ngay dạy và xua xua tay. “Cút đi, chó! Dừng lại! Cút đi – sùyyy!”
Con chó dừng lại. Nó ngước lên nhìn Winnie đang nhảy nhót điên cuồng rồi nhìn con cóc, lúc này đang dán chặt mình xuống mặt đất, mắt nhắm tịt. Như vậy là quá đối với nó. Thế là nó lại bắt đầu sủa và thò một chân dài về phía trước.
“Á!” Winnie thét lên. “Á – đừng làm vậy! Để con cóc của tao yên!” Và trước khi kịp nhận ra mình đang làm gì, cô cúi xuống, thò tay ra ngoài hàng rào và chộp lấy con cóc, đưa nó ra khỏi vùng nguy hiểm, thả nó lên bãi cỏ bên trong hàng rào.
Một cảm giác ghê tởm lan tỏa khắp người cô. Trong khi con chó vẫn đứng đó tên ư ử, cào cào bất lực vào hàng rào thì cô đứng đó đờ và người, nhìn chằm chằm vào chú cóc, chùi đi chùi lại bàn tay vào váy. Rồi cô nhớ lại cảm giác thật khi chạm vào con cóc và bỗng dưng không còn thấy ghê nữa. Cô quỳ xuống và chạm vào da lưng nó, vừa mềm lại vừa thô ráp, và còn mát nữa chứ.
Rồi Winnie đứng dậy, và nhìn con chó. Nó đang đứng đợi bên ngoài hàng rào, cái đầu ngoẹo sang bên, nhìn cô không chớp mắt đầy thèm khát. “Đó là con cóc của tao,” Winnie nói với nó. “Nên tốt hơn hết là mày để nó được yên.” Và rồi, trong cơn bốc đồng, cô quay người lại chạy vào nhà, thẳng lên phòng, đến cái ngăn kéo cô đã giấu nước của Jesse – chai nước lấy từ con suối ấy. Chẳng mấy chốc cô đã quay trở lại. Con cóc vẫn ngồi thù lù ngay chỗ cô đã để nó xuống, con chó vẫn tiếp tục đợi nơi hàng rào. Winnie gỡ cái nút bấc ra khỏi miệng chai và vừa quỳ xuống vừa đổ thứ nước quý giá đó, từ từ và cẩn thận lên mình con cóc.
Con chó nhìn cảnh này, ngáp dài một cái, và rồi đột nhiên nó thấy chán. Nó quay mình lại và lê những bước dài trở lại con đường về phía làng. Winnie nhặt con cóc lên và giữ nó lại một lúc lâu trên lòng bàn tay cô, chẳng cảm thấy chút ghê tởm nào. Nó ngồi đó bình thản, chớp mắt, nước lấp lóa trên lưng.
Chai nước giờ đã rỗng rồi, nằm trên cỏ dưới chân Winnie. Nhưng nếu tất cả điều này là sự thật thì hãy còn nước ở trong rừng. Nhiều vô kể. Chỉ để phòng hờ thôi mà. Khi cô mười bảy tuổi. Nếu cô quyết định thì vẫn còn nước ở trong rừng. Winnie chợt mỉm cười. Rồi có gập người xuống và đưa tay qua hàng rào thả chú cóc ra. “Rồi đó!” cô nói. “Mày an toàn rồi đấy. Vĩnh viễn.”