Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn

Chương VII

Tác giả: Mark Twain

– Dậy! Mày định làm gì thế này?

Tôi mở choàng mắt ra nhình quanh, cố nghĩ xem mình đang ở đâu. Lúc đó mặt trời đã mọc, và tôi vừa đánh một giấc say. Bố tôi đang đứng trước mặt, coi vẻ buồn bã mệt mỏi. Bố tôi hỏi:
– Mày đem súng ra đây làm gì?
Tôi đoán là bố tôi chẳng biết gì về những cái ông ấy đã làm đêm trước, nên tôi nói:
– Có ai định vào nhà hay sao ấy, nên con phải ngồi đấy gác.
– Sao mày không gọi cho tao dậy?
– Có, con đã gọi bố dậy những không được. Lay mãi bố không dậy.
– Thôi được, mày đừng có ngồi đây nói lôi thôi nữa. Ra ngoài kia xem ở đầu dây có con cá nào không đem về ăn bữa sáng. Tí nữa tao ra.
Bố tôi mở khoá, tôi chạy vụt ra bờ sông. Thấy mấy cành củi trôi lềnh bềnh và lác đác những mảnh vỏ cây, tôi biết là nước đã bắt đầu lên. Tôi nghĩ bụng giá lúc này ở ngoài tỉnh thì đã đang chơi đùa thoả thích. Tháng sáu vào mùa nước lên, đối với tôi bao giờ cũng có nhiều may mắn. Vì hễ nước lên thì có củi gỗ trôi xuống, lại có những mảnh bè mảng, có khi đến mấy chục cái một lúc. Thế là chỉ việc vớt lên đem bán cho xưởng gỗ hay nhà máy cưa thôi.
Tôi theo dọc bờ sông đi ngược lên phía trên, một mặt để ý bố tôi, một mặt nhìn xem nước lên có gì kiếm chắc được chăng. Bỗng có một chiếc xuồng trôi tới, chiếc xuồng rất đẹp, khoảng ba bốn thước chiều dài, mũi xuồng nghểnh lên như con vịt. Từ trên bờ sông, tôi chui đầu nhảy tùm xuống như con ếch, cứ mặc nguyên quân áo như vậy bởi ra chỗ có chiếc xuồng. Tôi đoán thế nào cũng có người nằm trong xuồng, vì thường hay có những người nằm bên trong khi ấy mói thò đầu ra cười cho một mẻ. Nhưng lần này thì không. Chắc hẳn đây là một chiếc xuồng bị bỏ trôi. Tôi trèo lên rồi lấy chân khua nước đánh vào bờ. Tôi nghĩ bụng chắc bố tôi trông thấy sẽ thích lắm – cái xuồng đáng giá mười đô la – Nhưng vào đến bờ vẫn chưa thấy bố tôi đâu. Tôi đẩy xuồng vào một cái khe nhỏ, bên trên um tùm những lá nhỏ và liễu, lúc đó tôi bỗng nảy ra ý nghĩ khác. Tôi tính sẽ giấu kỹ chiếc xuồng đi, như vậy đáng lẽ chạy trốn vào rừng thì tôi sẽ xuôi dòng sông độ dăm chục dặm và cắm ở một chỗ, chả phải mất thì giờ mà không phải vất vả chạy bộ.
Chỗ này khá gần căn lều. Tôi tưởng như nghe thấy tiếng chân bố tôi đi tới. Nhưng tôi đã giấu xuống rồi, giấu xong tôi bước nhìn qua bụi liễu, thấy bố tôi đang bước xuống con đường nhỏ và đang giương súng lên ngắm bắn chim. Như vậy tức là ông ấy chưa biết gì cả.
Lúc bố tôi quay lại, tôi lúng túng vớ vội lấy một chiếc cần câu. Ông ấy hỏi tôi làm gì mà lâu thế, tôi bảo vừa ngã xuống sông nên mới lâu như vậy. Tôi biết ông ấy nhìn thấy quần áo tôi thì ướt sũng thì thế nào cũng hỏi. Hai người kéo được năm con cá to ở đầu dây rồi quay về căn lều.
Ăn bữa sáng xong, chúng tôi đi nằm ngủ lại. Hai người đều đã mệt nhừ. Tôi nghĩ xem có cách gì để bố tôi và bà goá đều không thể theo đuổi được nữa. Có lẽ tin vào may rủi, đi thật xa để họ không tìm được tôi nữa là chắc chắn hơn cả. Vì biết đâu lại không có chuyện gì xẩy ra. Nghĩ một hồi lâu, chẳng tìm ra cách gì. Bố tôi ngồi nhổm dậy một lát, uống nước, rồi nói:
– Lần sau có người nào đến rình mò chung quanh đây, mày phải gọi tao ra ngay, nghe không? Cái người đó đến đây không phải là muốn tốt đâu. Tao sẽ bắn chết. Lần sau nhớ gọi ra, nghe không?
Rồi ông ấy lại nằm vật xuống ngủ. Cái điều ông ấy vừa nói thật hợp lý với tôi. Tôi tự nhủ rằng mình có thể vin vào cái cớ đó, và từ nay sẽ không còn ai nghĩ đến chuyện đuổi theo tôi nữa.
Đến độ mười hai giờ trưa thì hai chúng tôi bước ta khỏi nhà đi dọc theo bờ sông. Nước sông lên khá nhanh. Cành cây mục cũng trôi theo với nước lên. Lúc sau có một cái bè chín mảnh trôi xuống. Chúng tôi đánh thuyền ra kéo vào bờ. Rồi đi ăn bữa trưa. Nếu là người nào khác không phải là bố tôi thì đã chờ đó suốt ngày xem có thể nhặt thêm cái gì khác, nhưng bố tôi không phải là người như vậy. Chín mảng bè ấy cũng đủ để kiếm ăn một lần, vì như vậy là ông ấy có thể đem lên tỉnh bán được rồi. Thế là ông ấy lại khoá trái cửa nhốt tôi vào và ra lấy thuyền con kéo những mảng bè đi. Lúc đó khoảng ba rưỡi chiều. Tôi đoán đêm nay ông ấy sẽ không về. Tôi chờ đến lúc tính rằng ông ấy đã đi khỏi rồi mới đem cái cưa ra và tiếp tục cưa chỗ tường gỗ ấy. Trước khi bố tôi sang bến bên kia bờ sông thì tôi cũng đã chui qua khỏi lỗ. Nhìn bố tôi với chiếc bè chỉ còn là một chấm nhỏ trên mặt nước rất xa.

Tôi lấy bao mì và đem ra chỗ giấu xuống gạt cành lá um tùm ra đặt xuồng vào đó. Rồi lấy mỡ, lấy chai rượu uýt sky, lấy tất cả cà phê với đường để trong nhà ra lấy hết đạn, cả bông nhồi thuốc, cả gáo múc nước, chậu gỗ, lấy một cái thìa với một cốc sắt, lấy cưa của tôi và hai cái chăn, cái xoong và ấm pha cà phê. Tôi lấy cả cần câu, diêm và những thứ khác, bất cứ cái gì chỉ đáng một xu cũng lấy. Xong rồi, tôi quét dọn sạch sẽ. Tôi cần có một cái rìu, nhưng trong nhà chẳng có cái nào. Chỉ có một cái để ở tận đống củi, nhưng tôi đã có ý định trước rồi nên cứ để đó. Tôi lấy khẩu súng nữa. Thế là xong tất cả mọi thứ.
Vì phải bò qua cái lỗ ra ngoài và chuyển nhiều thứ đồ đạc qua lỗ nên mặt đất ở chỗ này bị cày lên một khoảng lớn. Cho nên tôi tính rằng từ phía ngoài tôi sẽ phủ lên để che chỗ gồ ghề với vết mùn cưa. Rồi tôi lắp mảng gỗ trở lại chỗ cũ. Tôi kệ hai hòn cuội ở dưới và một hòn ở trên để giữ cho chặt mảnh gỗ vào đó, và chỗ ấy nghiêng dốc đi mà lại không chạm tới đất. Nếu như có người đứng cách xa bốn năm bước thì không thể nhìn thấy chỗ bị cưa và không thể biết được, vả lại đây là phía sau nhà và có lẽ cũng chẳng ai vớ vẩn đi vòng ra đó làm gì.
Còn từ trong này ra đến chỗ giấu xuống thì toàn là cỏ nên không có dấu vết gì để lại cả. Tôi dạo quanh một lượt xem lại. Tôi đứng trên bờ sông nhìn ra phía xa. Tất cả đều an toàn. Rồi tôi cầm cây súng đi một quãng vào rừng. Thường lợn nhà hễ bỏ chuồng trong trại mà đi thì dễ biến thành lợn rừng. Tôi liền bắn ngay cho anh lợn này một phát rồi kéo về nhà.
Tôi lấy cái rìu choàng một nhát thật mạnh vào cửa. Đập mãi, đập khá lâu mới phá được cửa. Tôi kéo con lợn vào trong, lôi đến gần cái bàn rồi bổ một nhát rìu vào cổ con lợn, để nó nằm dưới đất như thế một lúc cho tuôn máu ra. Tôi nói đất vì đó là đất thực, đất nện thôi, chẳng lát gỗ gì cả, sau đó tôi kiễm một cái bao cũ nhét đầy những hòn cuội to vào bao, đủ nặng cho tôi có thể kéo được, rồi tính từ chỗ con lợn tôi kéo cái bao cuội ra cửa, kéo qua rừng cây đến chỗ bờ sông, rồi vứt xuống đó. Chiếc bao cuội chìm nghỉm, mất tăm. Ai nhìn cũng có thể thấy rằng đã có một vật gì bị kéo lê trên mặt đất. Tôi muốn thằng Tom Sawyer có mặt ở đây lúc này vì tôi biết nó sẽ rất thích cái chuyện như thế này và còn thêm thắt vào đó cho có vẻ ly kỳ nữa. Vì những chuyện như thế thì chẳng có ai huênh hoang hơn thằng Tom Sawyer được đâu.
Rồi tôi nhổ mấy sợi tóc, bôi đầy máu vào lưỡi rìu, dính mấy sợi tóc vào cái rìu, đem vứt ở góc nhà. Tôi bế con lợn lên ôm vào ngực, lấy vạt áo chùm ta ngoài (để cho nói khỏi rỏ máu xuống) ra đến một chỗ phía sau nhà quẳng con lợn xuống sông. Bấy giờ tôi lại nghĩ đến một cái khác nữa. Tôi ra xuồng lấy bao bột mì và cái cưa đem vào nhà. Tôi để bao mì vào chỗ cũ, lấy cưa chọc một lỗ dưới đấy bao, phải lấy cưa mà chọc vì ở đây chẳng có con dao nhíp làm mọi việc. Rồi tôi xách cái bao mì đi chừng một trăm thước qua bỏ bãi cỏ, rồi qua bụi liễu ở phía đông của căn lều, đến một cái hố nông nhưng rộng đến năm dặm mọc đầy những cây sậy có thể đến mùa thì cũng đầy những vịt nữa. Có một con ngòi nhỏ dẫn đến bờ bên kia hồ xa tới mấy dặm. Tôi không biết chỗ nào nhưng chắc chắn nó không chạy ra sông. Mì rơi qua lỗ bao ra ngoài, vạch thành một vệt dài suốt từ nhà nó ra đến hồ. Tôi vứt cả hòn đá mài của bố tôi ở đó nữa, để cho có vẻ vô tình mà làm như vậy. Rồi tôi lấy một sợi dây buộc tím cái lỗ ở bao mì lại cho nó khỏi tuôn ra nữa. Rồi lại đem cả bao mì với cái cưa trở về xuồng.

Lúc này trời đã gần tối. Tôi đẩy chiếc xuồng xuống phía dưới, chỗ lùm cây liễu ở trên bờ rủ xuống, và tôi ngồi đó chờ trăng lên. Tôi buộc xuồng vào gốc liễu, lấy một miếng banh ra ăn, ăn xong nằm ngả ra xuồng, hút một điếu thuốc để nghĩ ra kế hoạch mới. Tôi tự bảo thế nào rồi họ cũng theo vết cái bao cuội lần ra bờ sông rồi dọc theo bờ đi tìm mình. Rồi lại theo vết bột mì ra đến hố, và theo ngòi đi đến chỗ nào đó để tìm bọn cướp đã giết tôi và lấy đồ đạc. Họ sẽ sục sạo trên sông với mỗi cái việc là đi tìm xác tôi thôi.

Tìm mãi họ sẽ mệt và chán chả buồn nghĩ đến tôi nữa. Hay lắm, tôi có thể dừng lại bất cứ nơi nào tôi muốn. Đảo Jackson là nơi tôi có thể trú chân được. Tôi biết kỹ cái đảo ấy lắm, chẳng có ai đến đó bao giờ. Rồi đêm đêm tôi có thể đánh xuồng lên đỉnh, đi mò quanh quẩn, và lấy cắp những thứ gì tôi cần dùng đến.
Lúc đó tôi đã khá mệt. Điều trước nhất là phải ngủ. Khi tỉnh dậy phải mất đến một phút tôi không biết là mình đang ở đâu. Tôi ngồi dậy, nhìn quanh, hơi sợ. Rồi tôi nhớ ra. Con sông rộng bao la hàng dặm. Trăng sáng quá. Tôi không sao đêm hết những mảnh gỗ trôi, đen sì, lặng lẽ cách bờ vài trăm thước. Mọi vật đều im lặng như chết. Hình như đã khuya lắm rồi thì phải, tôi ngửi thấy như đã khuya lắm. Chắc các bạn cũng hiểu tôi định nói gì – tôi không tìm ra chữ để nói cho đúng được.
Tôi ngáp một cái thật dài, vươn vai. Vừa định cởi áo ra và bắt đầu lên đường thì bỗng nghe thấy tiếng gì xa xa trên mặt nước. Tôi lắng tai nghe và nhận ra ngay đó là tiếng cọt kẹt của mái chèo nghiến vào cọc chèo trong đêm khuya tĩnh mịch. Tôi thò đầu ra ngoài bụi liễu, thấy một chiếc thuyền đang lướt trên sông. Không thể đoán được trên thuyền có bao nhiêu người. Chờ cho nó đến gần qua mặt mới thấy trên thuyền chỉ có một người. Tôi đoán có lẽ là bố tôi, mặc dầu trong bụng tôi nghĩ rằng ông ấy chưa thể về được. Chiếc thuyền vẫn trôi theo dòng nước, qua chỗ tôi nấp, rồi lát sau ghé vào bờ, chỗ nước đứng. Nó ghé gần đến nỗi suýt nữa thì tôi vội tay ra lấy khẩu súng và nhằm hắn. Ôi, thôi đúng là bố tôi rồi – mà lại không say rượu nữa, vì cứ xem cái cách gác mái chèo thì đủ biết.

Tôi không để mất một tí thì giờ nào. Chỉ một phút sau đó là tôi đã lướt xuồng xuống phía dưới sông, nhẹ và nhanh, trong bóng tối sát gần bờ. Tôi chèo đi đến hơn hai dặm, rồi chèo thêm mấy trăm thước nữa ra giữa sông. Vì chỉ lát nữa là tôi sẽ đi qua bến đò, nhỡ có người trông thấy họ sẽ gọi.

Tôi cho xuồng đi giữa đám củi trôi trên sông, nhét mấy cây xuống đáy xuồng để cho nó cứ thế trôi đi. Tôi lại nằm xuống nghỉ, hút một điều thuốc, mắt nhìn lên bầu trời trong không vẩn một đám mây. Đêm sáng trăng mà nằm ngửa mặt lên nhìn trời thì thấy nó cao vô cùng; tôi chưa bao giờ thấy trời cao như thế. Những đêm như vậy, người ta có thể nghe rõ tiếng động trên mặt nước rất xa. Tôi nghe có tiếng người nói chuyện ở phía bến đò. Tôi nghe rõ mồn một từng câu hò. Một người nói bây giờ đã đến độ ngày dài mà đêm thì ngắn rồi.
Một người khác nói đây chưa phải là một trong những đêm ngắn; và cả hai cùng cười. Rồi họ đánh thức một người khác dậy để lại cười, nhưng người kia không cười văng một câu tục bảo để cho anh ta ngủ yên. Người thứ nhất bảo thôi để đem cái đó về nói với mụ vợ già – mụ sẽ nghe lọt tai. Rồi bảo rằng cái đó chưa thấm gì đối với những cái hắn nói từ trước đến giờ. Tôi lại nghe một người nói bây giờ đã gần ba giờ sáng rồi; muốn đừng để cho phải chờ đến hơn một tuần lễ nữa mới sáng. Rồi sau đó câu chuyện xa dần; xa dần, tôi không nghe rõ từng tiếng nữa. Nhưng vẫn còn nghe thấy tiếng rì rầm, thỉnh thoảng vài tiếng cười, nhưng hình như đã xa lắm.
Bây giờ, tôi đã cách xa phải dưới bến đò. Tôi ngồi dạy, nhìn thấy đảo Jackson, khoảng hơn hai dặm phía dưới dòng sông. Đảo có nhiều cây cối rậm rạp, nằm giữa sông, vừa to vừa tối, vừa vững vàng như một chiếc tàu thuỷ lớn không có đèn. Đường cập vào cảng không có gì ngăn trở cả, những mô đất đã chìm xuống dưới mặt nước.
Tôi chèo đến nơi không mất nhiều thì giờ lắm. Tôi quành xuồng qua chỗ nước xoáy và rẽ vào dòng êm, rồi, lướt hắn vào chỗ nước đứng, cập vào bờ về phía Illinois. Tôi đẩy xuồng vào một cái vũng sâu ở trong bờ mà tôi đã biết từ trước. Tôi phải rẽ những đám liễu ra để đẩy xuồng vào, và tôi làm thật nhanh để khỏi có ai ở phía ngoài trông thấy.

Tôi lên ngồi trên một cây gỗ đã ngả xuống ở đầu hòn đảo và nhìn ra sông rộng. Nhìn những đám gỗ trôi đen xì, rồi nhìn về phía tỉnh cách đó ba dặm, thấy có ba bốn ánh đèn lấp lánh. Một chiếc bè gỗ to tướng đang từ phía trên đi xuống, cách chỗ tôi ngồi chừng một dặm; giữa hè thắp một ngòn đèn. Tôi nhìn theo một chiếc bè lừ lừ trôi đến ngay chỗ tôi một người nói: Chèo khoẻ lên! Thế! Miết cạnh má chèo xuống cơ! Tôi nghe tiếng oang oang như người đó đứng ngay cạnh mình vậy.

Trời đã bắt đầu xam xám. Tôi bước vào trong rừng nằm xuống ngủ một giấc trước khi ăn bữa sáng.

– Dậy! Mày định làm gì thế này?

Tôi mở choàng mắt ra nhình quanh, cố nghĩ xem mình đang ở đâu. Lúc đó mặt trời đã mọc, và tôi vừa đánh một giấc say. Bố tôi đang đứng trước mặt, coi vẻ buồn bã mệt mỏi. Bố tôi hỏi:
– Mày đem súng ra đây làm gì?
Tôi đoán là bố tôi chẳng biết gì về những cái ông ấy đã làm đêm trước, nên tôi nói:
– Có ai định vào nhà hay sao ấy, nên con phải ngồi đấy gác.
– Sao mày không gọi cho tao dậy?
– Có, con đã gọi bố dậy những không được. Lay mãi bố không dậy.
– Thôi được, mày đừng có ngồi đây nói lôi thôi nữa. Ra ngoài kia xem ở đầu dây có con cá nào không đem về ăn bữa sáng. Tí nữa tao ra.
Bố tôi mở khoá, tôi chạy vụt ra bờ sông. Thấy mấy cành củi trôi lềnh bềnh và lác đác những mảnh vỏ cây, tôi biết là nước đã bắt đầu lên. Tôi nghĩ bụng giá lúc này ở ngoài tỉnh thì đã đang chơi đùa thoả thích. Tháng sáu vào mùa nước lên, đối với tôi bao giờ cũng có nhiều may mắn. Vì hễ nước lên thì có củi gỗ trôi xuống, lại có những mảnh bè mảng, có khi đến mấy chục cái một lúc. Thế là chỉ việc vớt lên đem bán cho xưởng gỗ hay nhà máy cưa thôi.
Tôi theo dọc bờ sông đi ngược lên phía trên, một mặt để ý bố tôi, một mặt nhìn xem nước lên có gì kiếm chắc được chăng. Bỗng có một chiếc xuồng trôi tới, chiếc xuồng rất đẹp, khoảng ba bốn thước chiều dài, mũi xuồng nghểnh lên như con vịt. Từ trên bờ sông, tôi chui đầu nhảy tùm xuống như con ếch, cứ mặc nguyên quân áo như vậy bởi ra chỗ có chiếc xuồng. Tôi đoán thế nào cũng có người nằm trong xuồng, vì thường hay có những người nằm bên trong khi ấy mói thò đầu ra cười cho một mẻ. Nhưng lần này thì không. Chắc hẳn đây là một chiếc xuồng bị bỏ trôi. Tôi trèo lên rồi lấy chân khua nước đánh vào bờ. Tôi nghĩ bụng chắc bố tôi trông thấy sẽ thích lắm – cái xuồng đáng giá mười đô la – Nhưng vào đến bờ vẫn chưa thấy bố tôi đâu. Tôi đẩy xuồng vào một cái khe nhỏ, bên trên um tùm những lá nhỏ và liễu, lúc đó tôi bỗng nảy ra ý nghĩ khác. Tôi tính sẽ giấu kỹ chiếc xuồng đi, như vậy đáng lẽ chạy trốn vào rừng thì tôi sẽ xuôi dòng sông độ dăm chục dặm và cắm ở một chỗ, chả phải mất thì giờ mà không phải vất vả chạy bộ.
Chỗ này khá gần căn lều. Tôi tưởng như nghe thấy tiếng chân bố tôi đi tới. Nhưng tôi đã giấu xuống rồi, giấu xong tôi bước nhìn qua bụi liễu, thấy bố tôi đang bước xuống con đường nhỏ và đang giương súng lên ngắm bắn chim. Như vậy tức là ông ấy chưa biết gì cả.
Lúc bố tôi quay lại, tôi lúng túng vớ vội lấy một chiếc cần câu. Ông ấy hỏi tôi làm gì mà lâu thế, tôi bảo vừa ngã xuống sông nên mới lâu như vậy. Tôi biết ông ấy nhìn thấy quần áo tôi thì ướt sũng thì thế nào cũng hỏi. Hai người kéo được năm con cá to ở đầu dây rồi quay về căn lều.
Ăn bữa sáng xong, chúng tôi đi nằm ngủ lại. Hai người đều đã mệt nhừ. Tôi nghĩ xem có cách gì để bố tôi và bà goá đều không thể theo đuổi được nữa. Có lẽ tin vào may rủi, đi thật xa để họ không tìm được tôi nữa là chắc chắn hơn cả. Vì biết đâu lại không có chuyện gì xẩy ra. Nghĩ một hồi lâu, chẳng tìm ra cách gì. Bố tôi ngồi nhổm dậy một lát, uống nước, rồi nói:
– Lần sau có người nào đến rình mò chung quanh đây, mày phải gọi tao ra ngay, nghe không? Cái người đó đến đây không phải là muốn tốt đâu. Tao sẽ bắn chết. Lần sau nhớ gọi ra, nghe không?
Rồi ông ấy lại nằm vật xuống ngủ. Cái điều ông ấy vừa nói thật hợp lý với tôi. Tôi tự nhủ rằng mình có thể vin vào cái cớ đó, và từ nay sẽ không còn ai nghĩ đến chuyện đuổi theo tôi nữa.
Đến độ mười hai giờ trưa thì hai chúng tôi bước ta khỏi nhà đi dọc theo bờ sông. Nước sông lên khá nhanh. Cành cây mục cũng trôi theo với nước lên. Lúc sau có một cái bè chín mảnh trôi xuống. Chúng tôi đánh thuyền ra kéo vào bờ. Rồi đi ăn bữa trưa. Nếu là người nào khác không phải là bố tôi thì đã chờ đó suốt ngày xem có thể nhặt thêm cái gì khác, nhưng bố tôi không phải là người như vậy. Chín mảng bè ấy cũng đủ để kiếm ăn một lần, vì như vậy là ông ấy có thể đem lên tỉnh bán được rồi. Thế là ông ấy lại khoá trái cửa nhốt tôi vào và ra lấy thuyền con kéo những mảng bè đi. Lúc đó khoảng ba rưỡi chiều. Tôi đoán đêm nay ông ấy sẽ không về. Tôi chờ đến lúc tính rằng ông ấy đã đi khỏi rồi mới đem cái cưa ra và tiếp tục cưa chỗ tường gỗ ấy. Trước khi bố tôi sang bến bên kia bờ sông thì tôi cũng đã chui qua khỏi lỗ. Nhìn bố tôi với chiếc bè chỉ còn là một chấm nhỏ trên mặt nước rất xa.

Tôi lấy bao mì và đem ra chỗ giấu xuống gạt cành lá um tùm ra đặt xuồng vào đó. Rồi lấy mỡ, lấy chai rượu uýt sky, lấy tất cả cà phê với đường để trong nhà ra lấy hết đạn, cả bông nhồi thuốc, cả gáo múc nước, chậu gỗ, lấy một cái thìa với một cốc sắt, lấy cưa của tôi và hai cái chăn, cái xoong và ấm pha cà phê. Tôi lấy cả cần câu, diêm và những thứ khác, bất cứ cái gì chỉ đáng một xu cũng lấy. Xong rồi, tôi quét dọn sạch sẽ. Tôi cần có một cái rìu, nhưng trong nhà chẳng có cái nào. Chỉ có một cái để ở tận đống củi, nhưng tôi đã có ý định trước rồi nên cứ để đó. Tôi lấy khẩu súng nữa. Thế là xong tất cả mọi thứ.
Vì phải bò qua cái lỗ ra ngoài và chuyển nhiều thứ đồ đạc qua lỗ nên mặt đất ở chỗ này bị cày lên một khoảng lớn. Cho nên tôi tính rằng từ phía ngoài tôi sẽ phủ lên để che chỗ gồ ghề với vết mùn cưa. Rồi tôi lắp mảng gỗ trở lại chỗ cũ. Tôi kệ hai hòn cuội ở dưới và một hòn ở trên để giữ cho chặt mảnh gỗ vào đó, và chỗ ấy nghiêng dốc đi mà lại không chạm tới đất. Nếu như có người đứng cách xa bốn năm bước thì không thể nhìn thấy chỗ bị cưa và không thể biết được, vả lại đây là phía sau nhà và có lẽ cũng chẳng ai vớ vẩn đi vòng ra đó làm gì.
Còn từ trong này ra đến chỗ giấu xuống thì toàn là cỏ nên không có dấu vết gì để lại cả. Tôi dạo quanh một lượt xem lại. Tôi đứng trên bờ sông nhìn ra phía xa. Tất cả đều an toàn. Rồi tôi cầm cây súng đi một quãng vào rừng. Thường lợn nhà hễ bỏ chuồng trong trại mà đi thì dễ biến thành lợn rừng. Tôi liền bắn ngay cho anh lợn này một phát rồi kéo về nhà.
Tôi lấy cái rìu choàng một nhát thật mạnh vào cửa. Đập mãi, đập khá lâu mới phá được cửa. Tôi kéo con lợn vào trong, lôi đến gần cái bàn rồi bổ một nhát rìu vào cổ con lợn, để nó nằm dưới đất như thế một lúc cho tuôn máu ra. Tôi nói đất vì đó là đất thực, đất nện thôi, chẳng lát gỗ gì cả, sau đó tôi kiễm một cái bao cũ nhét đầy những hòn cuội to vào bao, đủ nặng cho tôi có thể kéo được, rồi tính từ chỗ con lợn tôi kéo cái bao cuội ra cửa, kéo qua rừng cây đến chỗ bờ sông, rồi vứt xuống đó. Chiếc bao cuội chìm nghỉm, mất tăm. Ai nhìn cũng có thể thấy rằng đã có một vật gì bị kéo lê trên mặt đất. Tôi muốn thằng Tom Sawyer có mặt ở đây lúc này vì tôi biết nó sẽ rất thích cái chuyện như thế này và còn thêm thắt vào đó cho có vẻ ly kỳ nữa. Vì những chuyện như thế thì chẳng có ai huênh hoang hơn thằng Tom Sawyer được đâu.
Rồi tôi nhổ mấy sợi tóc, bôi đầy máu vào lưỡi rìu, dính mấy sợi tóc vào cái rìu, đem vứt ở góc nhà. Tôi bế con lợn lên ôm vào ngực, lấy vạt áo chùm ta ngoài (để cho nói khỏi rỏ máu xuống) ra đến một chỗ phía sau nhà quẳng con lợn xuống sông. Bấy giờ tôi lại nghĩ đến một cái khác nữa. Tôi ra xuồng lấy bao bột mì và cái cưa đem vào nhà. Tôi để bao mì vào chỗ cũ, lấy cưa chọc một lỗ dưới đấy bao, phải lấy cưa mà chọc vì ở đây chẳng có con dao nhíp làm mọi việc. Rồi tôi xách cái bao mì đi chừng một trăm thước qua bỏ bãi cỏ, rồi qua bụi liễu ở phía đông của căn lều, đến một cái hố nông nhưng rộng đến năm dặm mọc đầy những cây sậy có thể đến mùa thì cũng đầy những vịt nữa. Có một con ngòi nhỏ dẫn đến bờ bên kia hồ xa tới mấy dặm. Tôi không biết chỗ nào nhưng chắc chắn nó không chạy ra sông. Mì rơi qua lỗ bao ra ngoài, vạch thành một vệt dài suốt từ nhà nó ra đến hồ. Tôi vứt cả hòn đá mài của bố tôi ở đó nữa, để cho có vẻ vô tình mà làm như vậy. Rồi tôi lấy một sợi dây buộc tím cái lỗ ở bao mì lại cho nó khỏi tuôn ra nữa. Rồi lại đem cả bao mì với cái cưa trở về xuồng.

Lúc này trời đã gần tối. Tôi đẩy chiếc xuồng xuống phía dưới, chỗ lùm cây liễu ở trên bờ rủ xuống, và tôi ngồi đó chờ trăng lên. Tôi buộc xuồng vào gốc liễu, lấy một miếng banh ra ăn, ăn xong nằm ngả ra xuồng, hút một điếu thuốc để nghĩ ra kế hoạch mới. Tôi tự bảo thế nào rồi họ cũng theo vết cái bao cuội lần ra bờ sông rồi dọc theo bờ đi tìm mình. Rồi lại theo vết bột mì ra đến hố, và theo ngòi đi đến chỗ nào đó để tìm bọn cướp đã giết tôi và lấy đồ đạc. Họ sẽ sục sạo trên sông với mỗi cái việc là đi tìm xác tôi thôi.

Tìm mãi họ sẽ mệt và chán chả buồn nghĩ đến tôi nữa. Hay lắm, tôi có thể dừng lại bất cứ nơi nào tôi muốn. Đảo Jackson là nơi tôi có thể trú chân được. Tôi biết kỹ cái đảo ấy lắm, chẳng có ai đến đó bao giờ. Rồi đêm đêm tôi có thể đánh xuồng lên đỉnh, đi mò quanh quẩn, và lấy cắp những thứ gì tôi cần dùng đến.
Lúc đó tôi đã khá mệt. Điều trước nhất là phải ngủ. Khi tỉnh dậy phải mất đến một phút tôi không biết là mình đang ở đâu. Tôi ngồi dậy, nhìn quanh, hơi sợ. Rồi tôi nhớ ra. Con sông rộng bao la hàng dặm. Trăng sáng quá. Tôi không sao đêm hết những mảnh gỗ trôi, đen sì, lặng lẽ cách bờ vài trăm thước. Mọi vật đều im lặng như chết. Hình như đã khuya lắm rồi thì phải, tôi ngửi thấy như đã khuya lắm. Chắc các bạn cũng hiểu tôi định nói gì – tôi không tìm ra chữ để nói cho đúng được.
Tôi ngáp một cái thật dài, vươn vai. Vừa định cởi áo ra và bắt đầu lên đường thì bỗng nghe thấy tiếng gì xa xa trên mặt nước. Tôi lắng tai nghe và nhận ra ngay đó là tiếng cọt kẹt của mái chèo nghiến vào cọc chèo trong đêm khuya tĩnh mịch. Tôi thò đầu ra ngoài bụi liễu, thấy một chiếc thuyền đang lướt trên sông. Không thể đoán được trên thuyền có bao nhiêu người. Chờ cho nó đến gần qua mặt mới thấy trên thuyền chỉ có một người. Tôi đoán có lẽ là bố tôi, mặc dầu trong bụng tôi nghĩ rằng ông ấy chưa thể về được. Chiếc thuyền vẫn trôi theo dòng nước, qua chỗ tôi nấp, rồi lát sau ghé vào bờ, chỗ nước đứng. Nó ghé gần đến nỗi suýt nữa thì tôi vội tay ra lấy khẩu súng và nhằm hắn. Ôi, thôi đúng là bố tôi rồi – mà lại không say rượu nữa, vì cứ xem cái cách gác mái chèo thì đủ biết.

Tôi không để mất một tí thì giờ nào. Chỉ một phút sau đó là tôi đã lướt xuồng xuống phía dưới sông, nhẹ và nhanh, trong bóng tối sát gần bờ. Tôi chèo đi đến hơn hai dặm, rồi chèo thêm mấy trăm thước nữa ra giữa sông. Vì chỉ lát nữa là tôi sẽ đi qua bến đò, nhỡ có người trông thấy họ sẽ gọi.

Tôi cho xuồng đi giữa đám củi trôi trên sông, nhét mấy cây xuống đáy xuồng để cho nó cứ thế trôi đi. Tôi lại nằm xuống nghỉ, hút một điều thuốc, mắt nhìn lên bầu trời trong không vẩn một đám mây. Đêm sáng trăng mà nằm ngửa mặt lên nhìn trời thì thấy nó cao vô cùng; tôi chưa bao giờ thấy trời cao như thế. Những đêm như vậy, người ta có thể nghe rõ tiếng động trên mặt nước rất xa. Tôi nghe có tiếng người nói chuyện ở phía bến đò. Tôi nghe rõ mồn một từng câu hò. Một người nói bây giờ đã đến độ ngày dài mà đêm thì ngắn rồi.
Một người khác nói đây chưa phải là một trong những đêm ngắn; và cả hai cùng cười. Rồi họ đánh thức một người khác dậy để lại cười, nhưng người kia không cười văng một câu tục bảo để cho anh ta ngủ yên. Người thứ nhất bảo thôi để đem cái đó về nói với mụ vợ già – mụ sẽ nghe lọt tai. Rồi bảo rằng cái đó chưa thấm gì đối với những cái hắn nói từ trước đến giờ. Tôi lại nghe một người nói bây giờ đã gần ba giờ sáng rồi; muốn đừng để cho phải chờ đến hơn một tuần lễ nữa mới sáng. Rồi sau đó câu chuyện xa dần; xa dần, tôi không nghe rõ từng tiếng nữa. Nhưng vẫn còn nghe thấy tiếng rì rầm, thỉnh thoảng vài tiếng cười, nhưng hình như đã xa lắm.
Bây giờ, tôi đã cách xa phải dưới bến đò. Tôi ngồi dạy, nhìn thấy đảo Jackson, khoảng hơn hai dặm phía dưới dòng sông. Đảo có nhiều cây cối rậm rạp, nằm giữa sông, vừa to vừa tối, vừa vững vàng như một chiếc tàu thuỷ lớn không có đèn. Đường cập vào cảng không có gì ngăn trở cả, những mô đất đã chìm xuống dưới mặt nước.
Tôi chèo đến nơi không mất nhiều thì giờ lắm. Tôi quành xuồng qua chỗ nước xoáy và rẽ vào dòng êm, rồi, lướt hắn vào chỗ nước đứng, cập vào bờ về phía Illinois. Tôi đẩy xuồng vào một cái vũng sâu ở trong bờ mà tôi đã biết từ trước. Tôi phải rẽ những đám liễu ra để đẩy xuồng vào, và tôi làm thật nhanh để khỏi có ai ở phía ngoài trông thấy.

Tôi lên ngồi trên một cây gỗ đã ngả xuống ở đầu hòn đảo và nhìn ra sông rộng. Nhìn những đám gỗ trôi đen xì, rồi nhìn về phía tỉnh cách đó ba dặm, thấy có ba bốn ánh đèn lấp lánh. Một chiếc bè gỗ to tướng đang từ phía trên đi xuống, cách chỗ tôi ngồi chừng một dặm; giữa hè thắp một ngòn đèn. Tôi nhìn theo một chiếc bè lừ lừ trôi đến ngay chỗ tôi một người nói: Chèo khoẻ lên! Thế! Miết cạnh má chèo xuống cơ! Tôi nghe tiếng oang oang như người đó đứng ngay cạnh mình vậy.

Trời đã bắt đầu xam xám. Tôi bước vào trong rừng nằm xuống ngủ một giấc trước khi ăn bữa sáng.

Bình luận