Phần I
Nguyện làm uyên ương
không ao ước thần tiên
Đoạn chêm
“Cổ kim chú” của Thôi Báo có viết: “Uyên ương, thủy cầm, loài vịt trời, con cái và con đực không bao giờ sống xa nhau. Con người cũng giống như vậy, nếu một người tương tư mà chết, sẽ được ví như loài chim này”. Uyên ương đậu cùng đậu, bay cùng bay.
Chương một
Tôi muốn kể một câu chuyện về một cô gái lầu xanh thời Bắc Tống.
Đương nhiên, không phải ngay từ khi mới được sinh ra, tôi đã nhuốm phải son phấn hồng trần. Từ một tiểu thư khuê các, chân chưa từng bước ra khỏi cửa, miệng cười không lộ răng đến một kỹ nữ uốn éo gợi tình dường như chỉ là một giấc mơ, khi bừng tỉnh, tôi lại trở về với khu vườn đào đó.
Dưới bóng cây râm mát, nụ cười nở trong đôi mắt, gió nhẹ hây hây thổi, trong không gian trầm bổng đó là một tình yêu mới chớm nở.
Rất lâu rất lâu sau đó, tất cả sẽ lại trở về rất lâu rất lâu trước đó, ai cũng không phải là ai của ai.
Tôi phải uốn lưỡi vài cái cho thuận miệng, bởi vì câu chuyện quá khứ mà tôi muốn kể rất dài và rất xa…
Cha tôi là một hào lý có tiếng trong vùng, trông ông lúc nào cũng nghiêm nghị, ít nói ít cười; mẹ là một người phụ nữ hiền thục, dịu dàng. Mỗi lần thấy tôi rơi nước mắt vì miếng vải bó chân bị thít chặt quá gây đau đớn, nhân lúc cha không có nhà, mẹ lại ôm tôi vào lòng rồi khóc. Đương nhiên, việc mẹ có thể làm được chỉ là khóc mà thôi.
Tôi vẫn không hiểu tại sao con gái lại phải bó chân, mà hình dạng đôi chân sau khi bó càng dị hình càng được coi là đẹp. Tôi mơ hồ, bất mãn nhưng cũng chưa từng nghĩ tới chuyện chống đối, mà tôi cũng chẳng có sức lực để chống đối.
Cha tôi hơi béo nhưng lại rất cao lớn. Cha là người đàn ông duy nhất mà tôi được thường xuyên nhìn thấy. Em trai còn quá nhỏ, vì vậy, tôi thường không coi nó là một người khác giới. Từ trước tới giờ, cha thường rất ít khi nói chuyện với tôi, còn tôi, cũng vì sợ hãi mà chưa bao giờ dám nhìn thẳng vào ông. Trong trí nhớ của tôi, cha chưa bao giờ mỉm cười, ít nhất là cũng chưa bao giờ cười với tôi.
Từ nhỏ, tôi đã được nuôi dạy để trở thành một cô gái con nhà thế gia vọng tộc, hiền thục, ngoan ngoãn và biết phục tùng. Cho tới tận năm mười lăm tuổi, tôi vẫn chưa từng một lần bước chân ra khỏi cổng nhà mình.
Tất nhiên, trước khi hiểu được thế nào là hạnh phúc, tôi vẫn rất bằng lòng với cuộc sống hiện tại; khi chưa biết đến tình yêu, tôi vẫn không hiểu thế nào là nhớ nhung da diết; trước khi thực sự được gặp những người khác giới, tôi vẫn cho rằng, tất cả những người đàn ông trên thế gian này đều đáng sợ như cha, vì thế tôi không nghĩ nhiều về chuyện này, chỉ dám kính nhi viễn chi.
Tôi cũng đã từng nghe một cô bé a hoàn, mặt mũi đỏ lựng, ấp a ấp úng kể về câu chuyện tình yêu chưa có mở đầu đã đến hồi kết thúc của nó. Sau khi nghe xong, tôi bèn cười giễu cợt nó bằng một ánh mắt hết sức ranh mãnh, cười đến nỗi chính bản thân cô a hoàn đó cũng cảm thấy rằng phụ nữ có dính dáng tới tình yêu thì thật đáng xấu hổ, không có lòng tự trọng. Cuối cùng, cô bé che mặt bỏ chạy. Từ đó, cô ấy cũng không bao giờ nhắc lại chuyện đó với tôi nữa.
Tôi cũng có những thú vui riêng của mình: Tôi thích thả cho diều giấy bay cao thật cao, cao tới nỗi dường như có thể chạm được cả vào bầu trời. Sáng sớm, tôi thường dạo chơi trong vườn hoa, để váy áo được nhuốm đẫm mùi hương hoa nhài. Tôi còn dùng chiếc vợt tự tay đan lấy để bắt những chú bướm cánh tím, nhưng bắt xong, thấy thương xót, tôi lại mở lòng từ bi, thả chúng bay đi. Thả chúng đi rồi, tôi còn vẩy vẩy tay áo, ra vẻ không màng tới sự biết ơn của chúng. Những lúc ấy, tôi cảm thấy vô cùng hài lòng, giống như mình vừa làm được một việc thiện vậy. Sau bữa cơm tối, tôi thường ngồi trên căn gác lửng, khe khẽ gảy khúc Tứ Trương Cơ… Cuộc sống dường như không biết tới u sầu, lúc nào cũng cảm thấy vui vẻ. Ngày tháng trôi đi một cách êm đềm như mặt hồ phẳng lặng, thong dong tự tại.
Phía sau nhà tôi là khu vườn đào khá rộng. Những cây hoa đào đứng sừng sững, bao bọc bởi hồ nước và những hòn giả sơn. Ánh nắng ban mai đầu mùa hạ còn vương vấn những giọt sương đêm, mây mù khi tỏ khi mờ, cảnh sắc như chốn bồng lai luôn khiến lòng người say đắm.
Hôm đó, tôi vô tư dạo bước trong vườn đào, chốc chốc lại dừng bước ngắm những bóng nắng xuyên qua kẽ lá.
Khi đó, tôi đã nhìn thấy chàng, nhìn thấy người đàn ông mà tôi vương vấn suốt cả cuộc đời.
Năm đó, tôi vừa tròn mười lăm tuổi, lần đầu tiên được nhìn thấy một người khác giới trạc độ tuổi hai mươi. Tôi chăm chăm nhìn chàng một cách hiếu kỳ, chàng cũng quan sát tôi một cách không hề khách khí. Tôi nghi ngờ, phải chăng chú chim đang đậu trên cành cây kia đã thay tôi chuyển đi thông điệp từ trái tim, bởi vì, chàng đang bất ngờ tiến về phía tôi.
Tôi vội vã cúi đầu xuống, nhưng sâu thẳm tận đáy lòng, tôi đã yêu thích ánh nhìn chăm chú ấy của chàng mất rồi! Suy nghĩ đó khiến tôi cảm thấy vô cùng hổ thẹn.
Dù là bộ quần áo trắng muốt chàng đang mặc trên người hay là những bước chân mạnh mẽ mà dứt khoát, dù là ánh mắt tự nhiên phóng khoáng hay đôi môi nhìn như đang cười mà không phải là cười kia, trong mắt tôi, đó đều là sự lịch thiệp và khoáng đạt vô bờ bến!
Tôi đang đứng trước một cây hoa đào, cành cây như những sợi dây tình cảm vấn vương, lá cây tựa như những đôi mắt đẹp. Khuôn mặt tôi được những cánh hoa nhuộm thành một màu hồng rực. Trước khi cụp mắt xuống, tôi còn kịp nhìn thấy chàng đưa tay lên.
Chàng hái một cành hoa đào, cài lên mái tóc của tôi, tay áo chàng khẽ lướt qua tôi, tôi ngửi thấy một mùi hương vô cùng mạnh mẽ, hấp dẫn. Chàng là người đầu tiên khiến tôi cảm nhận được cảm giác ấm áp khi tiếp xúc giữa một chàng trai và một cô gái.
Khi tay của chàng chạm vào tóc tôi, trống ngực tôi đập liên hồi, tôi bất an, tôi lo lắng, tôi xấu hổ, tôi hoảng loạn, tôi không biết mình nên làm gì… nhưng cảm giác mơ hồ đó lại đem tới cho tôi một chút lưu luyến và chờ đợi.
Chờ đợi? Tôi không biết rằng tôi đang chờ đợi điều gì. Tôi chỉ cảm thấy mặt mũi mình đang đỏ lựng lên vì ý nghĩ táo bạo đó.
Cuối cùng, tôi cũng ngẩng đầu lên, khoảng cách gần gũi giữa chàng và tôi khiến tôi cảm thấy vô cùng ngột ngạt.
Chàng đang mỉm cười, nụ cười của chàng thật đẹp, đôi mắt của chàng trong veo và hiền hậu.
Thế là, tôi lại chỉ dám cúi đầu, nhìn xuống bàn chân chàng.
Chàng có đôi bàn chân rất lớn. Tôi đã tưởng tượng được sự vững chắc và mạnh mẽ trong mỗi bước đi của chàng.
Đứng đối diện với nhau hồi lâu mà không nói được lời nào, tôi muốn trốn chạy, muốn xua tan cảm giác bất an mà chàng đã mang đến cho tôi. Nhưng tôi lại không hề nhúc nhích, chân tay tôi như bị một sợi dây vô hình nào đó trói chặt lại. Đó là cảm giác mà tôi không thể chế ngự nổi.
“Tiểu thư…”
Vừa hay, con bé a hoàn thân cận chạy tới tìm tôi. Tôi quay người lại trả lời theo bản năng, hồn vía cuối cùng cũng đã trở về với thân xác tôi.
Tôi quay lại nhìn chàng trai xa lạ rồi che mặt, vội vàng rời khỏi nơi đó.
Tôi thề rằng, ánh nhìn lần cuối đó, là ánh nhìn dào dạt ý xuân về một tình yêu mơ hồ mới chớm nở.
Tôi thấy mình rất không tự trọng, giống như cô bé a hoàn ấp ủ tình xuân dạo đó, nhưng lại không thể tự dằn lòng mình được.
Phần I
Nguyện làm uyên ương
không ao ước thần tiên
Đoạn chêm
“Cổ kim chú” của Thôi Báo có viết: “Uyên ương, thủy cầm, loài vịt trời, con cái và con đực không bao giờ sống xa nhau. Con người cũng giống như vậy, nếu một người tương tư mà chết, sẽ được ví như loài chim này”. Uyên ương đậu cùng đậu, bay cùng bay.
Chương một
Tôi muốn kể một câu chuyện về một cô gái lầu xanh thời Bắc Tống.
Đương nhiên, không phải ngay từ khi mới được sinh ra, tôi đã nhuốm phải son phấn hồng trần. Từ một tiểu thư khuê các, chân chưa từng bước ra khỏi cửa, miệng cười không lộ răng đến một kỹ nữ uốn éo gợi tình dường như chỉ là một giấc mơ, khi bừng tỉnh, tôi lại trở về với khu vườn đào đó.
Dưới bóng cây râm mát, nụ cười nở trong đôi mắt, gió nhẹ hây hây thổi, trong không gian trầm bổng đó là một tình yêu mới chớm nở.
Rất lâu rất lâu sau đó, tất cả sẽ lại trở về rất lâu rất lâu trước đó, ai cũng không phải là ai của ai.
Tôi phải uốn lưỡi vài cái cho thuận miệng, bởi vì câu chuyện quá khứ mà tôi muốn kể rất dài và rất xa…
Cha tôi là một hào lý có tiếng trong vùng, trông ông lúc nào cũng nghiêm nghị, ít nói ít cười; mẹ là một người phụ nữ hiền thục, dịu dàng. Mỗi lần thấy tôi rơi nước mắt vì miếng vải bó chân bị thít chặt quá gây đau đớn, nhân lúc cha không có nhà, mẹ lại ôm tôi vào lòng rồi khóc. Đương nhiên, việc mẹ có thể làm được chỉ là khóc mà thôi.
Tôi vẫn không hiểu tại sao con gái lại phải bó chân, mà hình dạng đôi chân sau khi bó càng dị hình càng được coi là đẹp. Tôi mơ hồ, bất mãn nhưng cũng chưa từng nghĩ tới chuyện chống đối, mà tôi cũng chẳng có sức lực để chống đối.
Cha tôi hơi béo nhưng lại rất cao lớn. Cha là người đàn ông duy nhất mà tôi được thường xuyên nhìn thấy. Em trai còn quá nhỏ, vì vậy, tôi thường không coi nó là một người khác giới. Từ trước tới giờ, cha thường rất ít khi nói chuyện với tôi, còn tôi, cũng vì sợ hãi mà chưa bao giờ dám nhìn thẳng vào ông. Trong trí nhớ của tôi, cha chưa bao giờ mỉm cười, ít nhất là cũng chưa bao giờ cười với tôi.
Từ nhỏ, tôi đã được nuôi dạy để trở thành một cô gái con nhà thế gia vọng tộc, hiền thục, ngoan ngoãn và biết phục tùng. Cho tới tận năm mười lăm tuổi, tôi vẫn chưa từng một lần bước chân ra khỏi cổng nhà mình.
Tất nhiên, trước khi hiểu được thế nào là hạnh phúc, tôi vẫn rất bằng lòng với cuộc sống hiện tại; khi chưa biết đến tình yêu, tôi vẫn không hiểu thế nào là nhớ nhung da diết; trước khi thực sự được gặp những người khác giới, tôi vẫn cho rằng, tất cả những người đàn ông trên thế gian này đều đáng sợ như cha, vì thế tôi không nghĩ nhiều về chuyện này, chỉ dám kính nhi viễn chi.
Tôi cũng đã từng nghe một cô bé a hoàn, mặt mũi đỏ lựng, ấp a ấp úng kể về câu chuyện tình yêu chưa có mở đầu đã đến hồi kết thúc của nó. Sau khi nghe xong, tôi bèn cười giễu cợt nó bằng một ánh mắt hết sức ranh mãnh, cười đến nỗi chính bản thân cô a hoàn đó cũng cảm thấy rằng phụ nữ có dính dáng tới tình yêu thì thật đáng xấu hổ, không có lòng tự trọng. Cuối cùng, cô bé che mặt bỏ chạy. Từ đó, cô ấy cũng không bao giờ nhắc lại chuyện đó với tôi nữa.
Tôi cũng có những thú vui riêng của mình: Tôi thích thả cho diều giấy bay cao thật cao, cao tới nỗi dường như có thể chạm được cả vào bầu trời. Sáng sớm, tôi thường dạo chơi trong vườn hoa, để váy áo được nhuốm đẫm mùi hương hoa nhài. Tôi còn dùng chiếc vợt tự tay đan lấy để bắt những chú bướm cánh tím, nhưng bắt xong, thấy thương xót, tôi lại mở lòng từ bi, thả chúng bay đi. Thả chúng đi rồi, tôi còn vẩy vẩy tay áo, ra vẻ không màng tới sự biết ơn của chúng. Những lúc ấy, tôi cảm thấy vô cùng hài lòng, giống như mình vừa làm được một việc thiện vậy. Sau bữa cơm tối, tôi thường ngồi trên căn gác lửng, khe khẽ gảy khúc Tứ Trương Cơ… Cuộc sống dường như không biết tới u sầu, lúc nào cũng cảm thấy vui vẻ. Ngày tháng trôi đi một cách êm đềm như mặt hồ phẳng lặng, thong dong tự tại.
Phía sau nhà tôi là khu vườn đào khá rộng. Những cây hoa đào đứng sừng sững, bao bọc bởi hồ nước và những hòn giả sơn. Ánh nắng ban mai đầu mùa hạ còn vương vấn những giọt sương đêm, mây mù khi tỏ khi mờ, cảnh sắc như chốn bồng lai luôn khiến lòng người say đắm.
Hôm đó, tôi vô tư dạo bước trong vườn đào, chốc chốc lại dừng bước ngắm những bóng nắng xuyên qua kẽ lá.
Khi đó, tôi đã nhìn thấy chàng, nhìn thấy người đàn ông mà tôi vương vấn suốt cả cuộc đời.
Năm đó, tôi vừa tròn mười lăm tuổi, lần đầu tiên được nhìn thấy một người khác giới trạc độ tuổi hai mươi. Tôi chăm chăm nhìn chàng một cách hiếu kỳ, chàng cũng quan sát tôi một cách không hề khách khí. Tôi nghi ngờ, phải chăng chú chim đang đậu trên cành cây kia đã thay tôi chuyển đi thông điệp từ trái tim, bởi vì, chàng đang bất ngờ tiến về phía tôi.
Tôi vội vã cúi đầu xuống, nhưng sâu thẳm tận đáy lòng, tôi đã yêu thích ánh nhìn chăm chú ấy của chàng mất rồi! Suy nghĩ đó khiến tôi cảm thấy vô cùng hổ thẹn.
Dù là bộ quần áo trắng muốt chàng đang mặc trên người hay là những bước chân mạnh mẽ mà dứt khoát, dù là ánh mắt tự nhiên phóng khoáng hay đôi môi nhìn như đang cười mà không phải là cười kia, trong mắt tôi, đó đều là sự lịch thiệp và khoáng đạt vô bờ bến!
Tôi đang đứng trước một cây hoa đào, cành cây như những sợi dây tình cảm vấn vương, lá cây tựa như những đôi mắt đẹp. Khuôn mặt tôi được những cánh hoa nhuộm thành một màu hồng rực. Trước khi cụp mắt xuống, tôi còn kịp nhìn thấy chàng đưa tay lên.
Chàng hái một cành hoa đào, cài lên mái tóc của tôi, tay áo chàng khẽ lướt qua tôi, tôi ngửi thấy một mùi hương vô cùng mạnh mẽ, hấp dẫn. Chàng là người đầu tiên khiến tôi cảm nhận được cảm giác ấm áp khi tiếp xúc giữa một chàng trai và một cô gái.
Khi tay của chàng chạm vào tóc tôi, trống ngực tôi đập liên hồi, tôi bất an, tôi lo lắng, tôi xấu hổ, tôi hoảng loạn, tôi không biết mình nên làm gì… nhưng cảm giác mơ hồ đó lại đem tới cho tôi một chút lưu luyến và chờ đợi.
Chờ đợi? Tôi không biết rằng tôi đang chờ đợi điều gì. Tôi chỉ cảm thấy mặt mũi mình đang đỏ lựng lên vì ý nghĩ táo bạo đó.
Cuối cùng, tôi cũng ngẩng đầu lên, khoảng cách gần gũi giữa chàng và tôi khiến tôi cảm thấy vô cùng ngột ngạt.
Chàng đang mỉm cười, nụ cười của chàng thật đẹp, đôi mắt của chàng trong veo và hiền hậu.
Thế là, tôi lại chỉ dám cúi đầu, nhìn xuống bàn chân chàng.
Chàng có đôi bàn chân rất lớn. Tôi đã tưởng tượng được sự vững chắc và mạnh mẽ trong mỗi bước đi của chàng.
Đứng đối diện với nhau hồi lâu mà không nói được lời nào, tôi muốn trốn chạy, muốn xua tan cảm giác bất an mà chàng đã mang đến cho tôi. Nhưng tôi lại không hề nhúc nhích, chân tay tôi như bị một sợi dây vô hình nào đó trói chặt lại. Đó là cảm giác mà tôi không thể chế ngự nổi.
“Tiểu thư…”
Vừa hay, con bé a hoàn thân cận chạy tới tìm tôi. Tôi quay người lại trả lời theo bản năng, hồn vía cuối cùng cũng đã trở về với thân xác tôi.
Tôi quay lại nhìn chàng trai xa lạ rồi che mặt, vội vàng rời khỏi nơi đó.
Tôi thề rằng, ánh nhìn lần cuối đó, là ánh nhìn dào dạt ý xuân về một tình yêu mơ hồ mới chớm nở.
Tôi thấy mình rất không tự trọng, giống như cô bé a hoàn ấp ủ tình xuân dạo đó, nhưng lại không thể tự dằn lòng mình được.