Bà mỉm cười tiếp nối:
-Còn vũ công của phái Vũ Đương thì phù bạc quá, phù bạc đến độ gần như thiếu sót, chẳng khác nào một món ăn mà đầu bếp quên cho gia vị vào! Cái mã võ rất đẹp, cái chất võ không tinh. Người ta dễ chận! Rồi bà hỏi:
-Có đúng vậy không?
Thiếu Lâm, Vũ Đương là đôi thần tượng trong làng võ, bà luận hai phái đó như luận một vật dụng thông thường, chẳng gán cho một điểm giá trị nhỏ nhặt nào! Bà cuồng ngạo thái quá, dù rằng lập luận của bà rất chính xác.
Tuy nhiên, tuyệt kỹ của bà ẩn ước mô phỏng theo vũ công của hai phái đó! Bà đã tuyển chọn một vài tinh hoa trong hai loại vũ công đó, phối hợp lại, sáng chế ra, thế mà bà lại khinh thị nguồn gốc.
Hồ Thiết Hoa muốn cười lớn! Thạch Quan Âm lại tiếp:
-Hai phái đó, sở đắc rất tầm thường, thế mà vẫn có thinh danh lừng lẫy, thật là lạ lùng! Càng lạ lùng hơn nữa, là điều đặt tên cho những chiêu thức! Cái gì là Đao Phách Sơn Nhạc? Cái gì là Hoàng Long Phục Hổ? Cái gì chứ? Thực ra, chỉ đáng gọi là Phách Mộc Sài, là Hoàng Miêu Phục Cẩu, không hơn không kém! Cho nên ta không dẫm dấu của họ, không dùng những danh từ rỗng tuếch, ta chỉ gọi đơn giản là Nam nhân bát kiến Đắc. Cái giá trị Ở chỗ diệu dụng chứ không ở danh từ.
Hồ Thiết Hoa thở dài:
-Như vậy những chiêu thức đó, do bà sáng chế ra?
Thách Quan Âm gật đầu:
-Muốn sáng chế một môn riêng biệt, phải am tường tất cả môn công của các phái hữu danh. Ngoài ra, phải sành tâm lý của con người! Sáng chế chiêu Nam nhân bát kiến Đắc, ta hiểu rõ nhược điểm của nam nhân. Cho nên ngoài ta ra, mà đừng hòng ai làm nổi! Hồ Thiết Hoa trầm ngâm một lúc lâu, đoạn cười khổ:
-Phải! Bà nghiên cứu nam nhân rất kỹ! Thạch Quan Âm hỏi:
-Bây giờ, ngươi còn tưởng là nên động thủ với ta không?
Hồ Thiết Hoa và Cơ Băng Nhạn cùng thở dài, cùng đáp:
-Không dám rồi! Ba tiếng “không dám rồi” vừa được buông ra, Quy tư Vương biến sắc mặt như màu đất.
Tỳ Bà công chúa lỏng lẻo bàn tay, thanh chuỷ thủ rơi xuống vang lên một tiếng keng lạnh lùng.
Ngờ đâu, Cơ Băng Nhạn và Hồ Thiết Hoa đã biến thành hai mũi tên, bay vút tới.
Cả hai nhích động thân pháp, gần như đồng thời gian, khó thể phân định ai trước ai sau.
Họ cũng liên thủ như gã râu xanh và Tỳ Bà công chúa, song phần tinh diệu phải hơn nhiều.
Họ xuất thủ, dù cho ai chú ý, cũng không nhận định kịp.
Hai bóng người vừa chớp lên, ba chiêu thức phát xuất.
Họ xuất thủ như thế nào, họ phát xuất chiêu thức gì, có họ biết nổi mà thôi! Họ chưa xuất thủ, người ta còn thấy bóng họ, họ xuất thủ rồi, liền biến thành hai đợt khói, không ai biết đợt nào của người nào! Gió cuốn vu vu trong lều, gió quyện chén rượu, bình rượu rung chuyển lắc lư.
Y phục của Quy Tư Vương, Tỳ Bà công chúa, gã râu xanh phất nghe phần phật.
Quy Tư Vương ghê sợ phi thường, có thể hôn mê bất cứ phút giây nào.
Tỳ Bà công chúa hấp tấp bước tới dìu lão, nhưng tay nàng rung bần bật.
Gã râu xanh chả phân biệt được gì, vẫn trừng mắt nhìn. Hai tròng mắt chực lòi ra.
Bình sanh gã từng trải nhiều cuộc chiến trí mạng, từng bị địch chém trúng trên mình, song chẳng hề sợ hãi.
Lần này gã khiếp đảm phi thường! Và gã khẩn trương ra mặt như chính mình đang giao đấu! Trong một căn lều, dù rộng đến đâu vẫn còn hẹp, hẹp cho một cuộc đấu giữa ba người.
Nhưng, họ xoay trở tài tình quá, chẳng một ai chạm ghế, chạm bàn.
Tỳ Bà công chúa và gã râu xanh không khỏi buột miệng thở dài.
Bây giờ, cả hai mới biết mình còn non nớt quá, đem so sánh với ba người đó, chẳng khác nào bảo con rùa đua tốc độ với tuấn mã! Đừng nói là họ làm gì được đối phương, nội cái việc tránh chạm ghế, chạm bàn, chạm vách lều cũng khó khăn lắm rồi.
Bỗng, gió ngừng.
Ba bóng người đứng yên ba nơi.
Hồ Thiết Hoa, nắm chặt hai bàn tay, gương mặt ửng đỏ đáng sợ.
Cơ Băng Nhạn thì trắng nhợt mặt.
Cả hai trừng mắ nhìn Thạch Quan Âm.
Thạch Quan Âm còn giữ nụ cười ở khoé miệng, xem ra, bà vẫn an tường, vẫn đẹp, vẫn bình thản tựa hồ chưa cùng người giao thủ.
Bất quá, bà như một người vừa tắm xong, trang phục chưa được tươm tất, chỉ chỉnh dung nhan tạm thời để tiếp khách bất ngờ.
Cả ba đứng lặng, bất động.
Tỳ Bà công chúa chẳng hiểu tại sao họ ngưng đấu. Mà nằng cũng chẳng hiểu bên nào thắng, bên nào bại.
Hồ Thiết Hoa và Cơ Băng Nhạn đứng lặng người tại chỗ, Quy Tư Vương, Tỳ Bà công chúa và gã râu xanh nghe tim đứng lại.
Mãi một lúc lâu, nơi khoé miệng Hồ Thiết Hoa, có máu rỉ ra, chầm chậm chảy xuống cằm… Nhưng, y đứng thẳng người như cán bút.
Thấy máu rỉ nơi miệng Hồ Thiết Hoa, Tỳ Bà công chúa tựa hồ không đứng vững nữa.
Nàng đã hiểu, bên nào thắng bên nào bại rồi! Với cái bại này, phụ vương chết, nàng chết, bao nhiêu thần dân Quy tư quốc chết! Không phải là cái bại của Hồ Thiết Hoa, của Cơ Băng Nhạn. Cái bại này của cha con nàng, của cả nước Quy tư! Thạch Quan Âm thở dài hỏi:
đã biết không phải đối thủ của ta, sao các ngươi lại muốn động thủ, để chuốc lấy cái nhục?
Hồ Thiết Hoa cắn răng, trầm ngâm một lúc, đoạn cao giọng:
đại trượng phu, sanh giữa dòng đời, có những việc phải làm, có những việc không nên làm. Những việc phải làm, biết ràng làm mà chẳng thành công, cũng phải làm như thường! Thì ra y đang nghĩ đến cái triết lý của danh từ võ hiệp.
Danh từ đó, là danh từ kép, nếu phân tách ra thì nó thành ra danh từ đơn là võ và hiệp.
Võ, ai ai cũng là con nhà võ, biết múa may, quay cuồng, dùng võ làm bất cứ gì tuỳ thích, không giới hạn, không khép vào một quy củ nào cả.
Làm bất cứ việc gì, nếu có đủ sức bất chấp nên làm hay không nên làm.
Nhưng, hiệp ở trên võ nhiều bậc.
Muốn hành hiêp phải biết võ, biết võ rồi, phải biết xét suy, có những việc không nên làm dù là có lợi lớn. Có những việc phải làm dù làm là có hại.
Trong vũ lâm, sở dĩ có hai hạng người, chánh và tà, bạch và hắc, là vì con nhà võ quên mất chữ hiệp, nhiều người chỉ lợi dụng võ mà không cẩn trọng chữ nghĩa hiệp, do đó, võ mới đi ngược với hiệp, và hiệp phải có bổn phận ngăn ngừa về hành động quá đáng.
Lâu dần, võ và hiệp biến thành đối lập, và danh từ võ hiệp ngày nay không phải bất cứ ai cũng có thể khoác vào mình, khoác xứng đáng.
Tựu chung, danh từ võ hiệp bị lạm dụng quá nhiều! Con nhà võ, hành động quấy, ỷ tài, dám giết chết để giữ chủ trương, con người đó là ngu, chứ đâu phải là hiệp? Bởi họ chết cho cá nhân họ, mà hành động cho cá nhân mình, là ích kỷ, sao gọi là hiệp?
-Cho nên, hiệp là phải vị tha, hiệp không còn là cá nhân nữa.
Bỗng Cơ Băng Nhạn hỏi:
-Bà có hai dịp hạ sát tại hạ, sao bà không hạ thủ?
Thạch Quan Âm thở dài:
-Hơn hai mươi năm rồi, chẳng có một ai dám động thủ với ta. Mãi đến hôm nay, mới có các ngươi! Ta phải suốt hơn hai mươi năm dài mới gặp người dám động thủ với ta! Kể ra tìm được người dám động thủ với ta nào phải việc dễ làm? Cho nên ta mến tài, ta không nỡ xuống tay với kẻ thừa can đảm! Hồ Thiết Hoa và Cơ Băng Nhạn không hẹn mà đồng buông tiếng thở ra.
Cả hai cùng có một ý nghĩ:
-Tại sao Lưu Hương chưa trở về? Giá như có Lưu Hương tiếp trợ, cả ba cùng hợp lực, dù Thạch Quan Âm có bản lĩnh quán thế, vị tất đã thắng nổi?
Hồ Thiết Hoa tặc lưỡi thốt lên ý niệm đó:
-Rất tiếc Đạo Soái Lưu Hương vắng mặt! Nếu không thì… Thạch Quan Âm cũng tặc lưỡi:
đáng tiếc thật đó! Ta từng nghe người đời ca tụng vũ công của Đạo Soái Lưu Hương! Bình thời hắn chẳng tỏ ra đặc biệt gì, song càng gặp đối thủ cao tài, hắn càng chứng tỏ khả năng tuyệt diệu. Không được cùng hắn động thủ một lần, kể ra cũng là điều đáng hận cho ta! -Bà khỏi phải hận! Sớm muộn gì, hắn cũng tìm gặp bà, động thủ với bà! Thạch Quan Âm thở dài:
-Chỉ sợ không có cơ hội thôi, ít nhất cũng trong lúc này, và các ngươi cũng không nên chờ đợi hắn! Hồ Thiết Hoa cười lớn:
-Bà cho rằng hắn ra đi lần này vĩnh viễn không trở lại? Bà tưởng rằng Ngô Cúc Hiên có đủ tài ba dồn hắn vào tử địa?
Thạch Quan Âm điềm nhiên:
-Trên thế gian này, nếu có một người có đủ tài năng dồn Đạo Soái Lưu Hương vào tử cảnh, thì người đó là Ngô Cúc Hiên. Chỉ có Ngô Cúc Hiên mới làm nổi một việc như vậy. Bởi vì Ngô Cúc Hiên nghiên cứu Lưu Hương quá kỹ, nghiên cứu từ đầu đến chân, từ ngoài vào trong, nghiên cứu như nhà giải phẫu dùng ngàn nhát dao phân tách những bộ phận nhỏ nhặt nhất của mỗi con người. Ngô Cúc Hiên biết rõ Lưu Hương có những nhược điểm nào… Bà dừng lại một chút, điểm nhẹ một nụ cười rồi tiếp:
-Các ngươi nghĩ, giả như ta không tin tưởng là Lưu Hương nhất định chẳng trở về đây, thì ta làm gì hao phí thời gian, ở lại đây đùa cợt với các ngươi? ít nhất ta cũng phải theo sát Ngô cúc Hiên, tiếp trợ y chứ?
Hồ Thiết Hoa mồ hôi lạnh ướt đầu.
Nhưng y bật cười lớn:
-Trên thế gian, chắc chắn chẳng một ai hiểu được con người của Đạo Soái Lưu Hương như thế nào, chính bọn tại hạ đây, từng sống chung với hắn suốt hai ba mươi năm, vậy mà bọn tại hạ chẳng hiểu nổi hắn mảy may! Nói chi đến cái tên Ngô cúc Hiên kia, là người chưa từng ở bên cạnh hắn phút giây nào?
Thạch Quan Âm điềm nhiên:
-Các ngươi không nhận xét được hắn, là vì các ngươi lấy con mắt bằng hữu mà nhìn hắn, chứ không lấy cái tâm kẻ thù mà lượng tư cách của hắn. Là bằng hữu, các ngươi cần gì hiểu biết hắn rõ ràng? Là bằng hữu, các ngươi cần gì phải dè dặt với hắn? Chỉ có những kẻ thù mới cần hiểu rõ hắn, để tìm cách đối phó. Các ngươi không cần tìm hiểu thì hiểu thế nào được? Cho nên, biết người, chăng ai biết hơn kẻ thù của người. Nói một cách khác, việc mình thì mù quáng, nhưng người ở ngoài sáng! Trong khi các ngươi thản nhiên bên nhau, kẻ thù âm thầm theo dõi nghiên cứu tỉ mỉ… Hồ Thiết Hoa một lượt nữa đổ mồ hôi lạnh.
Y lẩm nhẩm:
-Ngô cúc Hiên có cừu hận gì với hắn?… Thạch Quan Âm không lưu ý đến Hồ Thiết Hoa nữa, bước đến trước mặt Quy tư Vương, hai tay nâng chén vàng, miệng nở nụ cười duyên.
Nhìn bà trong tư thái đó, dù là con người tượng đá, tượng đá cũng chuyển động.
Rồi bà cất giọng dịu dàng thốt:
-Xin người uống chén rượu này, bao nhiêu cố nhân đang chờ hội kiếm chốn huỳnh tuyền! Nơi đó vương gia sẽ gặp lại Mẫn Hồng Khuê, Hồng Học Hán, An Đắc Sơn, có lẽ không đến nỗi quá tịch mịch.
Đêm trên sa mạc, chừng như quá dài, dài hơn bất cứ nơi nào ở cõi trần gian.
Đêm bắt đầu từ cuối ngày trước, đêm còn lan rộng đến đầu ngày sau.
Đêm đã lấn một phần ngày, do đó phải dài.
Mới vào giờ tuất mà đêm như xuống lâu rồi.
Tiểu Phi biến sắc mặt, nhưng lấy ngay bình tĩnh, bật cười lớn:
-Thuật cũ đem ra dùng lại, chẳng không là bất trí sao? Bên bờ hồ Đại Minh, ngươi đã trốn thoát một lần. Hôm nay lại nuôi hy vọng nữa sao? Chẳng lẽ ta không có cách đối phó?
Tràng cười dứt, câu nói ngưng. Tiểu Phi tung bổng người lên lơ lửng trên cao khỏi vầng khói mờ.
Chàng đã biết bí kỹ ẩn trốn của Nhẫn Thuật. Chỉ cần vượt mình cao khỏi vầng khói, là trông thấy rõ người dùng Nhẫn Thuật chạy đi về hướng nào.
Vầng khói tan mau, màn khói không lan rộng, nhưng Tiểu Phi lên cao rồi, nhìn ra bên ngoài vầng khói chiếm độ ba trượng tròn, mênh mang nào có một bóng người trên nền cát trắng trải dài tận phương trời xa?
Ngô cúc Hiền đã biến mất.
Nhưng y chẳng đi đâu xa.
Y vẫn còn ở trong vầng khói mờ, và từ nơi đó y phát lên một tràng cười, vọng ra sang sảng.
Tiểu Phi chợt cảm thấy khí lực tiêu tan, lúc bay lên thì nhẹ nhàng như cánh nhạn, giờ nghe nặng như xác tợ có đeo chì.
Chàng rơi phịch xuống mặt cát.
Ngô cúc Hiền càng cười lớn:
-Thuật cũ đem ra dùng lại, chẳng thể gọi là bất trí được! Bởi đã dùng lại thuật cũ, là bớt đi ngu xuẩn, thêm phần cao minh! Trên thế gian này, trước mặt Đạo Soái Lưu Hương, ai muốn thi thố một cái gì, cái đó hẳn không kém phần nghiên cứu.
Gió đêm quét qua từng cơn, cuốn dần khói mờ, khói tan dần, cuối cùng Ngô cúc Hiên hiện thân rõ rệt.
Tiểu Phi thở dài:
Phải! Bởi trước kia, trong vầng khói của ngươi, không có độc khí! Ta cứ tưởng hôm nay vầng khói này cũng như vầng khói trước ngờ đâu ngươi có để mê hương! Ngô cúc Hiên cười nhẹ:
-Tự nhiên ngươi chẳng hề tưởng đến điều đó. Cái nhược điểm của con người là không phòng bị những kẻ mà mình cho là đã hiểu rõ như lòng bàn taỵVì không phòng bị nên để rơi vào cạm bẫy! Cho nên, con người hoàn toàn đến đâu, vẫn không thể không có một vài nhược điểm!… Và chính những nhược điểm đó bị đối phương khai thác, thành ra phải thất bại! Y cười.
Rồi y tiếp:
-Ngươi biết không, nhược điểm của ngươi là tự tin, mà sự tự tin lại quá mạnh.
Ngoài ra cái tâm của ngươi lại quá mềm, nếu ngươi không mềm lòng thì ngày đó ngươi đã tặng ta một đao rồi, như vậy có còn đâu đến ngày nay?
Tiểu Phi cười khổ:
-Ta biết cái nhược điểm của ta nên ngày nay ta xem ngươi quá quan trọng. Tuy ta biết rõ trên thế gian này, có những kẻ yếu hèn vì muốn sống nên giả chết, nhưng ta không tưởng là một người tài nghệ như Diệu Tăng Kim vô Hoa lại là một trong những kẻ yếu hèn đó! Ta xem trọng ngươi nên ngươi đắc ý, rồi ngươi cho là ta có nhược điểm! Điều mỉa mai cho ta là trọng ngươi mà thành nhược điểm! Ngô cúc Hiên cười nhẹ:
-Ta biết, ngươi khó chịu lắm! Từng tung hoành trong thiên hạ, từng xem mình là vô địch trong thiên hạ, hôm nay lại thất bại nặng nề! Để đền đáp ân tình của ngươi ngày trước đối với ta, hôm nay ta dành cho ngươi một điều thống khoái. Ngươi cứ trút mọi niềm oán hận, vô luận là ngươi dùng danh từ nào mắng ta, ta vẫn nghiêng tai nghe kỹ. Khi ngươi còn mắng, ta không hạ thủ, ta kiên nhẫn chờ đến lúc ngươi dứt lời.
Y lật chiếc mũ trên đầu, cẩn thận gỡ bộ tóc giả ra. Lấy hai món đó xuống rồi, y còn một chiếc mặt nạ da người rất mỏng.
Một khuôn mặt đẹp trai hiện ra sau khi chiếc nạ rơi luôn.
Gương mặt của Diệu Tăng Kim vô Hoa! Tiểu Phi bình tĩnh nhìn y, không vội nói một lời nào.
Và chính y cất tiếng trước với vẻ cao ngạo:
-Xem ra, thì không sánh bằng Đạo Soái Lưu Hương về tài cải sửa dung mạo, ta vẫn là một tay khá chứ?
Tiểu Phi điềm nhiên:
-Ngươi còn kém xa! Diệu Tăng Kim vô Hoa hỏi:
-Nếu ta còn kém, thì sao qua được mắt ngươi?
Tiểu Phi lắc đầu:
-Không qua mặt ta nổi đâu! Ta đã biết ngay từ lúc đầu Ngô cúc Hiên là một con người nguỵ trang, bất quá trong nhất thời ta chưa nhận ra con người thật dưới cái lốt giả mạo đó thôi! Vô Hoa thở dài:
-Ta cứ tưởng là chẳng bao giờ ngươi hoài nghi ta, bởi ta hao phí biết bao nhiêu tâm lực, lừa Nhất điểm Hồng đến đây, ta lại dàn mọi cảnh cho ngươi tin là chính Hắc Trân Châu chủ trì mọi việc, ta hết sức thận trọng trong mưu đồ, cốt làm sao cho ngươi càng suy tưởng càng nhận thấy sự tình rất phức tạp, cho ngươi càng ngày càng mù mờ, như con người đui đi đêm trong rừng, chẳng tìm được lối ra.
Tiểu Phi thốt:
-Khá lắm! Và chính ta cũng nhận thấy là mình mê man trong sự tình, không tìm thấy một điểm sáng nhỏ! Mãi đến lúc ta nhận ra Thạch Đà là một trong bảy tay kiếm của phái Hoa Sơn, ta mới thức ngộ Thạch Quan Âm là Lý cô nương của một thế gia tại Huỳnh Sơn! Bây giờ Vô Hoa cúi mặt xuống và nụ cười đã tắt.
Tiểu Phi tiếp:
-Năm xưa kiếm phái Hoa Sơn và thế gia Huỳnh Sơn khai diễn trưòng ác chiến, chỉ một mình Lý cô nương thoát nạn diệt vong, trong cảnh đó, Lý cô nương không còn một chỗ đứng ở Trung Nguyên thành phải xuất ngoại, hường về Đông đô, ẩn náu tại Phù Tang đảo. Nơi đó Lý cô nương gặp lại cố nhân là Thiên phong Điền tứ Lang, tình xưa dễ dàng hâm nóng lại, và qua một cuộc chắp nối mối tình dang dở đó, Lý cô nương hạ sanh hai con. Khi học nghệ thành tài rồi, cô nương lại ly khai ba cha con Thiên phong Điền tứ lang, trở về Trung thổ, hạ sát Thất kiếm Hoa Sơn, để báo thù ngày trước……Sau đó, đột nhiên Lý cô nương thất tung hết sức thần bí. Trên giang hồ không ai còn nghe nói đến người! Và cũng từ ngày đó, xuất hiện một nữ ác ma, lấy cái hiệu Thạch Quan Âm, dành chỗ đứng trong vũ lâm……Có ai ngờ đâu nữ ác ma đó lại là Lý cô nương ngày trước.
Điều bí mật đó, vĩnh viễn không ai khám phá ra nổi, nếu Lý cô nương đừng lưu lại một mạng trong Thất Kiếm Hoa Sơn! Tiểu Phi mỉm cười rồi tiếp:
-Có lẽ người sống sót đó, có tính khí quật cường, vô luận bị bức bách, hành hạ thế nào, vẫn không hề chịu khuất phục dưới gấu quần của Lý cô nương, mà Lý cô nương thì mê tít y, vô luận làm sao, cũng quyết chiếm cho được con tim người đó! Cho nên bà ta không hạ sát y. Ngờ đâu y lại trốn thoát! Gương mặt Vô Hoa hết sức lạnh lùng. Y trầm giọng bảo gọn:
-Cứ nói tiếp.
Tiểu Phi gật đầu:
đạo soái lưu Hương dù biết rõ việc của cha con Thiên phong Điền tứ Lang, nhưng không ngờ họ có liên quan đến Thạch quan Âm. Hai sự kiện đó tự nó rất khác biệt với nhau như trời với vực. Mãi sau này môn hạ Hoa Sơn sau thời gian thất tung, xuất hiện trở lại trên giang hồ, hai sự kiện đó mới nhập lại làm một! Chàng nhìn Vô Hoa, điểm nụ cười nhẹ:
-Ta chỉ còn có việc chấp ráp các diễn tiến, là có một đoạn cố sự rõ ràng! Kể ra nếu ta hiểu được đoạn cố sử đó, cũng chẳng phải là điều lạ lùng! Vô Hoa trầm ngâm một lúc:
-Phải! Ngươi đã biết Vô Hoa là con của Thạch quan Âm, hẳn cũng biết luôn bà thất bại thê thảm tại Trung Nguyên, Vô Hoa không còn cách nào khác hơn là ra vùng quan ngoại tìm mụ, chỉ có cách nếu nương nơi mụ, vừa được an toàn vừa có phương tiện nên sự nghiệp bá vương! Bỗng y chớp mắt rồi cười lạnh tiếp:
-Nhưng tại sao Vô Hoa biết được Thạch quan Âm là mẫu thân? Đạo soái lưu Hương có đoán ra chăng?
Tiểu Phi không cần suy nghĩ đáp ngay:
điều đó có liên quan đến Nhậm phu nhân Thu Linh Tố! Vô Hoa cau mày:
-Thu linh Tố? Bà ấy có liên quan gì?
Tiểu Phi tiếp:
-Thạch quan Âm đố kỵ tất cả những người đẹp trên đời, không hề dung thứ cho một ai có dung mạo hơn bà. Cho nên bà ta phá huỷ nhan sắc của Thu linh Tố, khiến Thu linh Tố sông không bằng chết, suốt đời chịu khổ! Ngờ đâu Nhậm bang chủ lại có tình sâu, dù Thu linh Tố thành xấu xí, Nhậm bang chủ vẫn cưới làm vợ như thường… Chàng dừng lại một chút, lại tiếp:
-Thạch quan Âm phá hoại, Nhậm bang chủ cứu giải đương nhiên Thạch quan Âm phải bất bình. Vì bất bình nên không buông tha họ Nhậm! Ngờ đâu, Thiên phong Điền tứ Lang lại tính nhanh hơn bà đem con trai gửi gấm cho Nhậm Từ. Khi biết được điều đó, bà đổi chủ ý ngay, bà nghĩ giết một người, không thích thú bằng huỷ diệt cả cơ đồ và sự nghiệp người đó, và bà chờ.
Chàng thở dài,rồi tiếp:
-Không ai kiên nhẫn hơn bà! Muốn giết một người lại chịu khó chờ đợi suốt mười mấy năm sau, chứ không chịu giết liền, chờ đợi để có dịp phá huỷ luôn cơ đồ sự nghiệp của người đó! Chờ đợi cho con trai trưởng thành rồi mới tìm đến! Vô Hoa mơ màng:
-Sao ngươi quá biết rõ sự tình?
Tiểu Phi mỉm cười:
-Ngươi nghĩ, nếu bà không cho Nam cung Linh biết, Nhậm từ chẳng phải là người ân, mà lại là kẻ có cái thù sát phụ, thì làm sao Nam Cung Linh tàn độc với Nhậm Từ? Ngươi vào Thiếu lâm Tự là lúc ngươi có đầy đủ trí khôn, nhưng Nam cung Linh thì còn nhỏ quá, nào biết xét suy? Dù hắn có tánh khinh bạc như thế nào, hắn cũng được nhậm Từ nuôi dưỡng, và cảm hoá hắn ít nhiều, hắn đâu có thể nhẫn tâm làm được cái việc quá vô nhân đạo quá như vậy? Bởi ta kỳ quái, nên ta tìm hiểu!… Vô Hoa lạnh lùng:
-Và bây giờ ngươi đã hiểu?
Tiểu Phi gật đầu:
-Bà ấy gặo các ngươi, nói rõ thân thế các ngươi, do đó các ngươi mới biết mình là huynh đệ với nhau. Rồi cả hai oán hận người ân vô tưởng. Các ngươi nên làm việc đó, chẳng những dọn đường cho sự nghiệp, tranh ngôi bá chủ võ lâm, mà còn muốn báo phục thù nhà! Vô Hoa thở dài:
-Ngươi thông minh thật! Điều đáng tiếc là ngươi quá thông minh! Tiểu Phi mỉm cười:
-Câu đó ta đã nghe nhiều người nói qua! Vô Hoa điềm nhiên:
-Nhưng nghe lần này, là lần cuối cùng của ngươi! Tiểu Phi chớp mắt trầm giọng:
-Hiện tại trúng mê hương của ngươi, ta không cử động được. Chẳng lẽ ngươi hạ thủ đối với một người bất lực không phản kháng rồi! -Thực ra ta không nỡ giết ngươi, song ta học nơi ngươi một điều.
Tiểu Phi hỏi:
điều gì?
Vô Hoa gằn từng tiếng:
-Là con người, tuyệt đối giữ cái tâm đừng bao giờ mềm! Nếu tâm mềm thì chắc chắn là phải chết nơi tay kẻ khác. Vì ngươi mềm lòng, nên ngày trước tha chết cho ta, để hôm nay lại phải chết nơi ta! Tiểu Phi thở dài, buông giọng trầm buồn:
-Vô Hoa! Vô Hoa! Ta lầm ngươi! Ta đánh giá ngươi quá sai lầm! Một tiếng soảng vang lên, tiếng đao chạm vỏ, bàn tay Diệu tăng Kim vô Hoa đã nắm chắc một thanh đao.
Thanh đao loại trường đao thân trắng chớp ngời.
Vô Hoa nhìn thanh trường đao, điềm nhiên hỏi:
-Ngươi còn nhớ, thế nào là cây Nghinh phong Nhất đao Trảm chứ?
Tiểu Phi cười khổ:
-Ta làm sao quên được?
Vô Hoa tiếp:
-Với cách đó người bị giết không hề đau đớn. Với cách đó, người bị chém không hề cảm giác là đao chạm ở bộ phận nào. Ta bảo chừng, trên thế gian này, chẳng có cái chết nào sướng bằng chết với chiêu đao Nginh phong nhất Trảm! Rồi y than:
-Như ta đã nói, đó là cái thống khoái ta dành cho ngươi, lúc ngươi ly khai nhân thế. Ta đáp lại ân ngươi ngày nào tha chết cho ta! Y đưa tay lên cao.
Ánh đao chớp sáng, ánh đao từ trên chiếu xuống.
Trong sơn cốc chẳng có một mạng người nào sống.
Bao nhiêu xác chết nằm dọc theo hành lang, đều được bọn Tiểu Phi dùng bố phủ lên trên, che dấu cái rợn rùng thê thảm.
Nếu còn người sống sót, thì những người đó ở rất xa mấy ngôi nhà, những người đó ở dọc theo con đường cái, ngoằn nghoèo suốt tháng quanh năm, quét mãi trên lối đi, quét mãi mà không biết là quét những gì.
Những ngôi nhà vẫn còn y nguyên đó. Gian phòng của Thạch quan Âm vẫn còn có vẻ quyến rũ như thường, ánh đèn vẫn còn chiếu ra ngoài.
Thạch quan Âm đã trở về đó.
Thạch quan Âm trở về đương nhiên bà phải thấy những gì đã xảy ra tại nhà, trong khi bà đi vắng.
Nhưng thần sắc của bà an tường như chẳng có gì xảy ra.
Chừng như vĩnh viễn chẳng có việc gì làm cho bà kinh tâm táng đởm, làm cho bà phải mất bình tĩnh.
Nơi góc tường có một tấm kiếng, bên ngoài kiếng có tấm lụa xanh che khuất.
Thạch quan Âm vẹt tấm lụa đứng trước kiếng soi mình.
Bà soi mình một lúc lâu, gương mặt trắng nhợt từ từ ửng hồng lên.
Rồi bà từ từ cởi bỏ những y phục nơi mình bà.
Trong khoảnh khắc bà hoàn toàn loã lồ, và cái loã lồ đó là một công trình tuyệt xảo của hoá công. Trên thế gian chẳng có một pho tượng khoa? thân nào sánh được.
Bà nhìn bà trong kiếng lẩm nhẩm:
-Có ai bảo trì được dung mạo như ta chăng?
Bà ngã mình xuống chiếc ghế.
Chừng như bà có vẻ nhọc mệt, nhưng ánh mắt sáng quá, chứng tỏ bà đang hồi sảng khoái nhất đời.
Sảng khoái vì nhận ra, mình vẫn còn trẻ trung như thời hoa niên