Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Sự May Rủi Của Trái Tim

Chương 8

Tác giả: Barbara Cartland

Harriet Vulcan đặt một cọc tiền vàng và lại mất. Cọc thứ hai cũng chịu chung số phận. Bà nhìn sang bên bàn và bắt gặp ánh nhìn chiến thắng trong mắt quý ngài Wrotham.

“Quỷ bắt anh đi, Harry,” bà kêu lên, “vì rõ ràng hắn mang may mắn tới cho anh.”

Quý ngài Wrotham khoái chí nhìn xuống cọc tiền thắng lớn trên bàn cạnh hắn ta. Hắn vơ chúng lại bằng tay trái, xếp những đồng một guinea lên trên.

“Harriet tội nghiệp,” hắn thương cảm, “chắc chắn là bà đang không gặp may.”

“Nó sẽ thay đổi! Nó sẽ thay đổi!” bà hầu tước giận dữ nói.

“Bà có thách tôi nữa không?”

“Đương nhiên,” bà hầu tước đáp. “Anh nghĩ ta gan thỏ đế à?”

“Không đâu, Harriet,” hắn nhẹ nhàng đáp. “Hay chúng ta gọi đó là một chút táo bạo? Quy tắc đầu tiên cho mọi kẻ đánh bạc, bạn yêu quý, là không bao giờ làm trái ý lá bài của mình.”

“Vớ vẩn, ta bảo anh là vận may của ta sẽ đổi khác.”

“Vậy nếu bà muốn nó,” quý ngài Wrotham mỉm cười, “ta sẽ tiếp tục. Chúng ta đặt năm mươi guinea, Harriet, hay chỉ hai mươi lăm?”

“Năm mươi! Năm mươi!” bà sốt ruột nói.

Ngay lúc đó bà nhận thấy có ai đang đứng dưới khuỷu tay mình. Đó là thằng hầu da đen, và đầu óc bà nhận ra nó đã mang cho mình nhiều rượu hơn cần thiết. Rồi cái bàn tay da đen nhỏ bé của nó lại vươn ra và trải thứ gì đó bên cạnh bà. Tim Harriet gần như ngừng đập. Trong chốc lát chiếc bàn, tiền bạc và lá bài trên đó mờ đi trước mắt bà. Gần như phản xa, tay bà vươn về phía chiếc túi. Rồi bà nghe Harry Wrotham nói:

“Xin lỗi nhé, Harriet.”

Giọng hắn chẳng có vẻ rầu rĩ gì. Bà đẩy tất cả số tiền còn lại về phía hắn.

“Ta chỉ còn khoảng ba mươi đồng vàng. Ta sẽ để anh có nó một lúc nữa.”

“Không cần vội, Harriet. Cầu nguyện đâu có hại gì cho bà,” hắn nói. “Tôi có thể tin bà!”

Hắn đang nhại lại bà hay là lịch sự thật đây? Bà không chắc nữa. Bà đứng dậy khỏi chiếc bàn, tay chộp nhanh lên một vật nhỏ mà thằng hầu da đen đã đặt bên cạnh. Đó chỉ là một chai muối ngửi nhỏ xíu và bà thấy như những bề mặt tinh thể cắt vào da thịt ngón tay mình. Chỉ là một chai muối ngửi, nhưng nó mang thông điệp làm máu bà chảy nhanh hơn và tim bà chìm trong e ngại.

Bà đi qua phòng ra phía cửa. Bà đi không vội vã và vài người còn chuyện trò cùng bà khi bà qua. Một công tước già cả, hơi chuyến choáng, với lấy tay bà.

“Tôi muốn uống vì bà, Harriet,” ông ta lè nhè nói. “Người phụ nữ đẹp nhất nước Anh.”

“Cám ơn Barty,” bà đáp, nụ cười tự nhiên trở nên lả lơi, nhưng bà tự lảng đi rất thông minh khiến cho lúc đó ông ta chẳng hay bà đã rời khỏi rồi.

Lối đi ra cửa dường như dài vô tận. Người người cười nói, chuyện trò, tán dóc; tiếng leng keng của những đồng tiền và giọng nói nhỏ nhẹ, bình tĩnh đây đó gọi số lớn hơn.

Rốt cuộc bà cũng tới cửa, giờ thì bà mới có thể đi nhanh hơn, đi qua sàn đá hoa của Sảnh lớn và chạy nhanh lên những bậc rộng trên Cầu thang lớn. Bà đến phòng ngủ của mình. Martha đang đợi bà ở đó với bộ mặt lo lắng.

“Chúng ở đây, thưa phu nhân.”

“Ta đoán vậy.” Bà hầu tước xòe bàn tay ra và ném chai thủy tinh lên giường. “Đêm của mọi đêm,” bà lẩm bẩm, “nhưng ta mới dại làm sao, ta phải đoán ra nó chứ. Biển lặng.”

“Bà đang lo lắng, phu nhân.”

“Lo à?” Không thể nhầm lẫn sự lo lắng với tông giọng bà hầu tước đang nhắc lại. “Tiền của bọn chúng đâu, Martha?”

Người nữ tì đi qua phòng và kéo mở ngăn kéo dưới cùng của bàn trang điểm. Một cái túi vải đang nằm ở đó. Bà nhấc nó lên và đôi tay bà siết chặt ngạc nhiên bởi sức nặng của nó.

“Nó nhẹ đến lạ,” bà kêu lên.

“Ta biết,” bà hầu tước ngắt lời.

“Ý của người là, thưa phu nhân,” Martha nói giọng hoảng hốt, “người đã lấy một ít vàng từ đó?”

“Phải, phải, dĩ nhiên ta lấy. Không hiển nhiên sao hả mụ ngốc kia? Ta không biết chúng sẽ đến đêm nay. Ta mượn một ít đồng vàng. Ta đoán giờ là lúc để ta trả lại.”

“Chúng sẽ nói sao, thưa phu nhân?”

“Chúng phải đợi, thế thôi. Này, đưa cái túi cho ta, đừng có đứng đó mà bép xép.”

Bà hầu tước lấy cái túi từ Martha, và cùng lúc bà rút chiếc can bằng ngà với cán nạm ngọc đang nằm trên chiếc ghế trước cửa lò sưởi.

“Tôi đi với người được không, phu nhân?” Martha hỏi.

“Không, đương nhiên không! Canh cửa ở đây. Nếu có ai tới hỏi ta, thì là ta sẽ quay lại salon ngay.”

“Đã rõ, thưa phu nhân.”

Bà hầu tước nhìn quanh một cách điên dại như mong chờ có phép lạ nào hiện ra từ những góc tối của căn phòng.

“Trời,” bà tự lẩm bẩm, “nhưng ta dại thật,” rồi bà quay lại và vội vã đi xuống hành lang, chiếc khăn choàng bằng vải sa nhẹ bay bay phía sau bà như đôi cánh.

Bà đi qua gần hết cả tầng nhất cho đến khi tới được chiếc cầu thang nhỏ ở phần cũ kỹ trong tòa nhà. Bà bước xuống, chỉ dừng ở chân cầu thang để lấy một dây nến trên bàn và thắp sáng chiếc nến gắn trên giá tường. Rồi bà thấy bí mật hiện ra trong bức tường đối diện và tấm ván ốp bật mở.

Không khí ẩm ướt và giá lạnh trong hành lang kiểu đường hầm này. Bà mạnh mẽ đi về phía trước, chỉ dừng lại đây đó để thắp nến sao cho con đường trước mặt bà sáng sủa. Sau khi đi được chừng năm mươi thước, bà đến một dãy bậc thang dài bằng đá dẫn xuống phía dưới. Không khí càng lạnh hơn, nồng mùi tảo biển và tiếng vọng yếu ớt của sóng từ phía xa xa. Những bậc thang này hẹp và bà hầu tước phải đi rất từ từ, cẩn thận nhờ chiếc can bằng ngà.

Khi xuống dưới đáy, vẫn còn một hành lang dài nữa cần phải qua, một hành lang được đục từ đá tảng, nền bằng đất ẩm ướt và bẩn thỉu. Nến được giữ trên những giá sắt gắn bên tường được bà hầu tước thắp sáng mỗi khi qua. Hành lang cong lại và có ánh sáng hắt ra ở phía trước. Đột nhiên bà bước vào một cái động lớn nơi có nhiều người đàn ông đang khuân vác các kiện hàng và thùng ra khỏi một hành lang tối tăm rồi để trong một hành lang khác mở về phía tây, đối diện với nơi bà hầu tước đã tới.

Bà đứng đó một lúc quan sát những hành động đang diễn ra xung quanh. Những người đàn ông liếc nhìn bà khi họ chất hàng qua, vài người trong số họ quay lại, trút bỏ xong gánh nặng, vuốt tóc trên trán, nhưng không một ai nói gì.

Sự nhanh chóng, trơn tru và đồng bộ trong xuất hiện và tái xuất hiện không hề bị cản trở của những người chất hàng cho thấy sự trông nom khá tốt.

Bà hầu tước nhìn xuống hành lang nơi họ đang tụ lại. Gió lạnh thổi từ bờ biển khiến chiếc váy quấn chặt quanh bà, phả hơi ấm khỏi đôi má bà và quay những lọn tóc được thả khéo léo trước trán. Một người đàn ông đi thẳng vào trong động, không mang vác gì trên vai, nhưng mang dáng vẻ quyền hành ngược với chiếc áo len jersey thủy thủ tả tơi ông ta đang mặc, đôi bốt da chắp vá và chiếc khăn bẩn thỉu quấn quanh cổ.

“Buổi tối tốt lành, thưa phu nhân.”

Ông ta nói lịch sự, nhưng lạ kỳ thay không hề có vẻ quỵ lụy trong giọng.

“Chào buổi tối, Padlett. Mọi thứ ổn cả chứ?”

“Một chuyến đi tốt lành – hai giờ và năm mươi phút. Chiếc tàu mới này xứng đáng với mọi đồng phu nhân đã trả.”

“Ta vui mừng vì điều đó. Thế còn hàng hóa?”

“Đây là danh sách, thưa phu nhân, giống như Froggy đưa nó cho tôi. Tôi đã kiểm tra chúng và tất cả đều chuẩn xác, chỉ có một chai rượu có thể bị gạch bỏ.”

“Thế tại sao?”

Câu hỏi của bà hầu tước đanh lại.

“Một gã trong thủy thủ đoàn, thưa phu nhân. Chúng tôi nhận gã tháng trước. Gã hơi lắm chuyện. Gã đã giật một chai rượu khi tôi không quan sát.”

“Ngươi biết, Padlett, là ta không chịu nổi những kẻ ăn cắp vặt.”

“Tôi xin lỗi, phu nhân, nhưng nếu chúng tôi không thâu nhận gã thì sẽ thiếu một tay chèo. Phu nhân biết rằng giờ đây kiếm được người giỏi không dễ.”

“Vớ vẩn, lúc trước ta chưa bao giờ có những rắc rối như thế.”

“Cũng có thể, thưa phu nhân, nhưng những người khác trả tiền cho họ cao hơn và thưởng nhiều hơn.”

“Ta lúc nào cũng trả hào phóng,” bà hầu tước lưu ý.

“Tôi không nói là phu nhân không công bằng,” Padlett đáp lại. “Nhưng những gã đàn ông muốn làm việc cho cả bản thân. Họ kiếm được tiền, rõ là thế, song bà không cho họ làm bất cứ việc gì khác.”

“Chúng có thể tiêu tiền khi tới bờ nước Pháp, nhưng ta đã ra quy định ngay từ đầu, Padlett, là không được đưa rượu hay bất cứ thứ gì cho những gã sẽ xuất hiện quanh đây, chuyện này sẽ gây nghi ngờ không chỉ cho chúng mà cả ta. Chúng ta bàn về chuyện này quá đủ rồi.”

“Vâng, tôi hiểu, thưa phu nhân,” Padlett trả lời, song hiển nhiên hắn chẳng hề được thuyết phục.

“Chuyện xảy ra, ta đã không trông mong các ngươi đến trong ít nhất hai đêm nữa,” bà hầu tước nói.

“Đúng vậy, thưa phu nhân. Tôi không nghĩ chúng tôi lại có thể tới đây trước thứ năm hoặc thứ sáu, nhưng hàng hóa đã sẵn sàng và thời tiết lại tốt.”

“Quá rõ rồi,” bà hầu tước nghi ngờ nói, nhìn về phía cuối đường hầm nơi tiếng sóng vọng. “Và lại có trăng nữa, nó đang bị mây che.”

“Đúng thế.”

“Vậy tại sao?”

“Thẳng thắn mà nói, thưa phu nhân, đó là Matthew – chắc bà còn nhớ hắn, hắn đã ở với chúng tôi từ đầu – vợ hắn sắp sinh và hắn hết sức lo lắng chỉ muốn về nhà nếu có thể sắp xếp được.”

Môi bà hầu tước mím lại.

“Chết tiệt, Padlett, ngươi nghĩ là ta quan tâm đến những mong ước của mọi thằng cản đần độn đang làm việc cho ta sao? Ta quan tâm gì nếu vợ hắn sinh đôi hay sinh ba? Việc của ngươi là không được làm bất cứ chuyện gì mạo hiểm và mạo hiểm nó trong một đêm như đêm nay.”

“Thôi, thôi, phu nhân,” Padlett mềm mỏng nói. “Tôi có thể thấy không có nguy hại gì.”

“Còn phải mang lên bao nhiêu nữa?” bà hầu tước hỏi.

“Thêm vài thùng rượu nữa, tôi nghĩ thế. Tôi sẽ đi và kiểm tra cho chắc, thưa phu nhân.”

Hắn quay lại và Harriet đứng nhìn hắn đi. Bà gõ chân nôn nóng xuống sàn và tay bà nắm chiếc can ngà không rời. Bà liếc nhìn danh sách Padlett đã đưa. Đó là một chuyến hàng có giá. Có chè, ren, rượu, thuốc lá và vải vóc. Bà hi vọng có cả nhung nữa vì đã bán chúng rất tốt lần trước. Phải, đúng là một chuyến hàng có giá.

Không nghi ngờ gì về việc bà có thể dễ dàng kiếm được hai nghìn đồng vàng cho mỗi chuyến tàu, một khi chúng được chuyển tới London. Nó không thể đậu lại lâu trong đường hầm dưới Mandrake. Đang có thêm một nguy cơ nếu chiếc tàu đến không định trước. Bà phải gửi tin đi lúc bình minh và đêm mai các xe chở sẽ bí mật tới hành lang ở phía cuối công viên được rào tường. Nguy trang dưới những lớp cỏ, chúng sẽ sầm sập trên đường tới một nhà trọ nhỏ, hẻo lánh nằm sâu trong đất liền bốn dặm. Rồi đại lý ở London sẽ tới gặp, trước khi đêm xuống hàng hóa sẽ được dọn sạch khỏi Mandrake và trên đường tới các khu buôn bán.

Quả là một tính toán sâu xa và tổ chức khôn ngoan, ở đây bà là người hưởng lợi. Bà hầu tước hơi mỉm cười trước ý nghĩ đó. Hơn một lần bà bị chọc giận bởi phải nài xin hoặc hối lộ để kiếm đồng minh, nhưng bà thích làm việc một mình hơn. Bà muốn tất cả tiền – phải, mọi xu – là của bà.

Bà đã lo lắng làm sao khi bỏ tiền ra mua một trong những tàu mới nhất. Phải mất một số tiền lớn, nhưng không có tàu thuế vụ nào ở bờ biển phía nam có thể đuổi kịp chiếc tàu ba mươi sáu tay chèo. Hai giờ và năm mươi phút. Nó có thể là một kỷ lục, thật không may bà vẫn không thể so đo chúng với thời gian mà những tàu khác chạy. Dù sao thế cũng đủ để biết họ đã tới nơi an toàn. Tất nhiên cũng có nguy hiểm, nhưng thực sự nguy cơ rất nhỏ. Lính phòng vệ bờ biển rất kém cỏi và họ cũng đang dần trở nên sợ, những kẻ buôn lậu.

Bà hầu tước liếc nhìn những chiếc dao găm lớn mà mỗi gã đàn ông đeo ở hông. Quân kỵ binh có thể nổ súng, nhưng trong các cuộc đấu giáp la cà bà sẽ hậu thuẫn cho người của bà. Mặc cho bầu không khí lạnh buốt, bà hầu tước bỗng thấy có một luồn khí ấm chạy trong huyết quản. Người của bà không sợ hãi hơn bà chút nào. Bà đã chấp nhận nguy hiểm và chúng mới đáng giá làm sao.

Bà nhớ lại lần đầu tiên bà gửi tiền vàng đi nước Pháp. Bà chẳng nghĩ nổi gì khác suốt bao ngày đêm cho tới khi thủy thủ đoàn trở lại với hàng hóa. Lúc đó bà còn biết rất ít. Đó là khoảng thời gian ngắn sau khi bà trở lại Mandrake. Bà đã nghe mọi người nói về chuyện buôn lậu và bà biết những cư dân giàu có ở Folkestone và Dover cũng đều kiếm được đôi chút từ công việc mờ ám này. Một người bạn cũ nói với bà chuyện ấy rất dễ dàng. Ông ta đã đi nước ngoài một năm nay, trốn khỏi hệ lụy của một cuộc đấu mà địch thủ của ông ta bị chết.

“Đơn giản ấy mà, Harriet,” ông ta nói, “và với những ai có tiền đằng sau thì có thể kiếm được một gia tài lớn.”

Ông ta nói đúng. Một nghìn đồng vàng được gửi tới Pháp quốc sẽ tự nhân đôi trong chuyến trở về. Tất nhiên cũng có vài người kêu chuyện này là không yêu nước. Napoleon muốn vàng đến cùng cực và ở Quốc hội đã nói rằng vàng được nhập lậu đến Pháp đều được quân của Bonarparte thu lại. Nhưng sao mọi người chắc được chứ?

Harriet nhún vai, rồi tiếng rên rĩ triền miên bắt đầu, bà thà mất một chân còn hơn phải từ bỏ hoạt động buôn lậu màu mỡ này. Gần đây việc kiếm vàng trở nên khó khăn. Justin trở nên phiền hà. Bà lo ngại anh đang nghi ngờ rằng tất cả số tiền anh đưa cho bà không được dùng cho Mandrake. Lúc đầu bà có thể rút của anh nhiều và nhiều tiền hơn vì bà nói đó là cho ngôi nhà. Anh mới yêu ngôi nhà làm sao! Thật dễ dàng để dụ dỗ anh đưa vàng cho bà bởi anh nghĩ tất cả chúng được dùng cho việc mở mang thêm vẻ đẹp của nơi anh yêu quý.

“Mandrake là người tình của con,” bà đã nói với anh một lần, và anh dường như rất ấn tượng với điều đó. Rồi bà lại làm ra vẻ thống thiết. Bà nói với anh rằng bà thua bài bị mất tiền không tránh nổi rồi bà phải trả tiền bác sĩ,… tiền thợ may. Nhưng với những lý do đó Justin chẳng hề động tâm. Không! Chỉ có cho Mandrake thì anh mới chịu chi tiền và giờ đây bà đang thấy anh ngày càng miễn cưỡng đưa những đồng vàng mà bà cần đến tuyệt vọng.

Giá như bà may mắn hơn tại bàn đánh bạc! Bà đã mất những khoản tiền lớn trong ba tháng qua. Bà Roxana đã hứa hẹn vận may của bà sẽ trở lại, nhưng đêm này qua đêm khác bà vẫn tiếp tục thua. Đó là lý do bà đi lấy tiền từ túi vải luôn sẵn sàng để trả công cho những thủy thủ khi họ tới. Năm đồng vàng cho mỗi người! Thật là quá nhiều, thế mà Padlett còn cứ nói với bà hơn một lần rằng những gã kia còn đòi nhiều hơn.

Chúng muốn hoa hồng – một chai rượu mạnh, thuốc lá hay một súc vải vóc cho vợ chúng. Harriet đanh mặt lại trước ý nghĩ đó. Bà biết đàn ông dễ dàng ba hoa trong những quán trọ địa phương, và nếu vợ một người đánh cá mặc váy mới hay một đứa trẻ có chiếc áo choàng mới thì chuyện sẽ lan khắp làng. Không, chúng chỉ có thể lấy tiền và thỏa mãn với điều đó. Nếu chúng không muốn, chúng…

Ngay cả khi bà nghĩ tới giải pháp thay thế, tim Harriet như cứng lại. Nếu chúng không muốn, chúng có thể bỏ bà; và bà sợ điều đó. Một kẻ chẳng bao giờ chắc chắn lòng trung thành như bà biết những người phục vụ ở Mandrake sẽ trung thành và yêu mến bà.

Những gã đàn ông này thật thô ráp và lỗ mãng. Padlett có vẻ hơn một chút , cha hắn là một thương gia cho một gia đình lớn, nhưng ông ta mất việc, chuyển sang nghề câu trộm và bị treo cổ ở Assizes14. Padlett có thể đọc và viết nhưng phần còn lại của thủy thủ đoàn thì chỉ được dạy dỗ có mỗi một điều – vi phạm pháp luật, và lấy những gì chúng muốn bằng bất cứ cách nào, ngoài vòng pháp luật. Bạo lực là những gì chúng hiểu, và Harriet nghĩ đôi khi chúng chẳng hơn gì loài vật.

Ngày xưa việc tìm dân chài mạo hiểm mất hơn một đồng vàng hoặc tương tự thế là có thể. Chúng là những gã tử tế, hầu hết trong số đó, làm chỉ cho vui chứ không vì tham lam hay kiếm tiền. Những ngày đó đã qua – những gã tử tế sợ bị bắt, nếu có thoát khỏi án treo cổ thì cũng chịu cảnh lưu đày suốt đời. Để làm công việc một cách hệ thống chỉ còn những gã này – hung ác và đầy thú tính; những gã chuẩn bị cho nguy hiểm cũng như chuẩn bị cắt cổ họng ai đó nếu phù hợp cho mục đích của chúng.

Harriet hơi rùng mình. Trong một hay hai khoảnh khắc nữa bà phải nói một điều với chúng. Chiếc tủi vải trên tay trái bà thật quá nhẹ. Bà bỗng cảm thấy lạnh ghê gớm. Mấy giây phút này bà đang đứng giữa đợt gió thổi ào về phía mình. Chắc là Padlett sẽ quay lại chứ? Bà nhìn xuống hành lang tối tăm dẫn ra biển. Chỉ có rất ít người biết rằng con lạch dưới đá sâu đến mức một con tàu có thể tới ngay bên bờ vách và hàng hóa được dỡ xuống cửa một hành lang ngầm dẫn thẳng tới trung tâm Mandrake!

Đó là bí mật đã nhiều năm nay. Ngay cả những sơ đồ cổ của ngồi nhà cũng không thể hiện điều đó; không có ghi chép gì về việc này trừ một vài bản đồ nhỏ, bí mật được giữ bởi người chủ gia đình.

Harriet phát hiện ra chồng mình đang xem những bản đồ nhỏ này ngay sau khi họ kết hôn, bà ép ông kể cho nghe bí mật, thấy chúng thật đáng kinh ngạc.

“Các hành lang này được xây dựng sao cho gián điệp đột nhập vào trong nước mà không bị phát hiện,” ông giải thích, “hoặc đó chỉ là một con đường dễ dàng để loại bỏ cảnh giam cầm những tù nhân không cần nữa.”

Harriet đã rất quan tâm lúc đó và sau đó bà cũng quên đi tất cả. Chỉ tới khi việc buôn lậu trở thành chủ đề sốt dẻo trong các cuộc hội thoại thì bà mới nhớ ra mình đã biết thứ gì. Chúng mới chứng tỏ được hữu ích làm sao! Rất, rất hữu ích!

Padlett tới gần, phần trên đôi bốt da lỏng lẻo cứ đập đập vào chân khi hắn đi về phía bà.

“Dỡ xong rồi, thưa phu nhân,” hắn nói. “Chúng tôi đã làm xong rồi.”

Hai gã đàn ông cuối cùng đi qua bà với lưng còng hẳn xuống, trong khi những kẻ khác quay lại đứng chờ. Có hai ngọn đuốc dính trên tay hai người đứng hai bên cửa hang tạo thành ánh sáng dữ dằn, cho thấy những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán những người đã chèo thuyền bằng tất cả sức lực trong hai giờ và năm mươi phút. Họ cũng xuất hiện, gương mặt xù xì, hàm bạnh, hung dữ, đôi môi cục súc và xảo trá, mắt tính toán.

Harriet nhìn quanh. Một vài tên trơ tráo bắt gặp ánh nhìn của bà. Chúng đã từng gặp bà, nhưng bà không bao giờ ngừng gây ngạc nhiên cho chúng. Đôi vai trần của bà lấp lánh trang sức, đường cong trên cơ thể lộ ra bởi chiếc váy dạ hội gần như trong suốt, mỏng nhẹ như sa, mái tóc màu lửa, vẻ đẹp kỳ lạ và sự kiêu hãnh trong cái nhìn của bà – chẳng ngạc nhiên gì khi chúng lại nhìn chằm chằm. Nhưng có những người liếc ngang lươn lẹo qua tấm mạng, mắt đảo láo liên qua đôi mi màu hung. Đó là những kẻ bà ít ưa nhất. Những kẻ khác bà còn hiểu được. Chúng là những tên cướp biển; chúng là loại đàn ông trong những thời phiêu lưu mạo hiểm xa xưa sẵn sàng giong buồm với Drake15 hay các tên cướp biển hải ngoại ngoài biển khơi.

Với chúng đàn bà luôn là đàn bà bất kể ả ta là nữ hầu tước hay đứa gái điếm chờ đợi uống cùng chúng trong những con phố nhỏ tối tăm ở Dover. Phải, bà có thể hiểu những gã đàn ông như vậy, và bà không nghĩ đó là sự ngạo mạn, như hầu hết phụ nữ trong vị trí của bà sẽ nghĩ, rằng chúng dám nhìn bà với con mắt xét đoán.

Bà nhớ một quý bà thượng lưu đã từng cho lính cận vệ đánh một gã dám gọi bà bên ngoài Carlton House Terrace, “Cái lồng ấp đẫy đà của hoàng tử đang đến.”

“Tôi không bao giờ lượng thứ cho hành vi láo xược đó” sau bà kể với hầu tước phu nhân. Nhưng Harriet cười bà ta.

“Đó là lời khen, bà bạn yêu quý, và những lời khen ngợi không phải lúc nào cũng đúng sự thật.”

Câu chuyện lan nhanh trong giới, còn Harriet có thêm một kẻ thù.

Những đàn ông vẫn là đàn ông, Harriet nghĩ. Cho dù mặt họ đánh phấn hay người quấn satin và sực nức nước hoa, hay chỉ quấn những lớp vải rách te tua và mồ hôi nồng nặc, sự đam mê của họ cũng giống nhau cả.

Đàn ông… mạnh mẽ, nồng nàn và đòi hỏi, chính chất nam tính của họ là lời bào chữa cho những ham muốn mà họ chẳng hề cố gắng che giấu – đó là những kẻ bà hầu tước hiểu, cho dù chúng là quý ông – hay kẻ buôn lậu.

Có loại đàn ông khác bà không ưa, và chẳng bao giờ bà lại thu nhận chúng cho công việc khó khăn và nguy hiểm này. Những người đàn ông không nhìn thẳng vào mặt bà và quay đầu đi mỗi khi bà nói trực tiếp với chúng. Đó là một trong những thủy thủ đoàn bà chú ý hay trong những dịp gần đây và kẻ mà bà có sự kinh tởm rõ rệt. Gã là một tên to lớn, nhưng nét mặt lại mỏng và nhăn nhúm, gã có con mắt gian giảo và khóe miệng giật giật như đang cười cợt.

Khi những gã đàn ông tụ tập xung quanh đợi trả tiền, Harrie thấy đó là gã đàn ông đã trộm rượu. Gã đã rất chếnh choáng, liên tục vấp ngã do những gã khác xô đẩy với lời chửi thề lầu bầu hay tiếng cảnh cáo sẽ “lôi hắn xuống cùng”. Gã đang tự nói với chính mình và với những người khác, và do đó đã vi phạm thêm một quy tắc nữa là nói càng ít càng tốt khi dỡ hàng.

Padlett liếc sắc lẹm về phía gã, nhưng hắn không nói gì, sau đó hắn nhìn bà hầu tước nôn nóng, thầm lặng nghĩ rằng những gã đàn ông được trả càng nhanh thì càng tốt. Thời gian làm việc đêm đã hết. Chúng chỉ có thể dong tàu đi dọc bờ biển tới một con lạch nhỏ nơi tàu thường được giấu ở đó và khi ấy thủy thủ đoàn có thể đi về nhà nghỉ trong một tới hai ngày.

Bà hầu tước lưỡng lự, Padlett tiến lên phía trước.

“Tôi có thể trả cho họ chứ, thưa phu nhân?”

Bà hầu tước chìa cái túi ra cho hắn.

“Ừ, trả cho chúng,” bà nói. “Nhưng tối nay chúng ta có ít thôi. Nếu ngươi tới gặp ta ngày mai, Padlett, ta sẽ đưa cho ngươi phần còn lại.”

“Ít à?”

Một trong những gã đàn ông gấp gáp lặp lại.

“Ta không mong chờ các ngươi cho tới thứ năm,” bà hầu tước kiên quyết nói.

“Ít như thế nào?” một người đàn ông khác hỏi.

“Sẽ có khoảng hai đồng vàng cho mỗi người,” bà hầu tước nói. “Như ta đã nói rồi, phần còn lại sẽ đưa vào ngày mai.”

“Quỷ thật, nhưng làm sao chúng tôi nhận được?” có ai đó hỏi.

“Ta sẽ lo chuyện đó,” Padlett đanh giọng nói. “Các ngươi đã nghe hầu tước phu nhân nói rằng bà ấy dự tính gặp chúng ta vào thứ năm. Các ngươi có thể đợi vài tiếng để lấy tiền.”

Có tiếng rì rầm và vài gã đàn ông cáu kỉnh, nhưng hiển nhiên là chúng chấp nhận chuyện không thể tránh này, dù với vẻ chán ngán. Rồi gã đàn ông đã uống quá nhiều loạng choạng tiến lên phía trước.

“Moa muốn phần của moa,” hắn nói.

Bản chất trầm lặng và ranh ma, tinh thần được thắp lửa bởi cơn say làm hắn thêm bạo dạn. Giờ thì hắn trở nên hung hăng. Đầu hắn xô về phía trước, đôi bàn tay to lớn gần như cào cấu không khí xung quanh. Hắn đẩy hai gã khác sang bên cạnh và đối đầu với bà hầu tước.

“Moa muốn tiền của moa bây giờ, và quỷ quái thay, moa muốn có nó.”

“Ngươi sẽ được trả vào ngày – mai.”

Bà hầu tước bình tĩnh nói, nhưng có tiếng roi vun vút trong giọng bà.

“Moa đã chịu nguy hiểm,” hắn trả treo. “Moa đã liều cái mạng trời đánh của moa để mang hàng hóa về đây, cho một mụ lớn, và moa sẽ không tiếp tục chết vì hứa hẹn nữa. Đó là tiền của moa, vàng – moa làm là vì nó – vàng.”

Có tiếng rì rầm đồng tình từ những gã đứng xung quanh hắn, Padlett nhanh chóng can thiệp.

“Ngươi đã được bảo rằng ngươi sẽ nhận được,” hắn nói, “và với những ai không thích chuyện này thì họ sẽ nhận thứ không mong muốn từ ta. Rõ chưa?”

Hắn nói hết sức chuyên quyền khiến cho vài gã đàn ông bất giác lùi bước, nhưng gã say rượu chẳng hề bận tâm.

“Moa muốn vàng của moa,” gã lặp lại một cách xuẩn ngốc.

Lúc đó bà hầu tước nghe thấy tiếng bước chân bên ngòai hành lang. Bà nhanh chóng quay đầu lại và ngạc nhiên khi thấy Serena. Nàng đi ra khỏi bóng tối, ánh sáng tỏa trên chiếc váy trắng và mái tóc vàng rực sáng của nàng. Mắt nàng mở to nhưng không hề sợ hãi. Nàng nhìn những gã đàn ông, những kẻ đang nhìn chằm chằm nàng đầy vẻ tò mò, rồi nói với bà hầu tước sao cho tất cả đều nghe thấy.

“Hầu tước Vulcan bảo tôi đến nói với người, thưa phu nhân, rằng quân kỵ và nhân viên thuế vụ đang ở trên gác.”

Bà hầu tước kêu lên:

“Trời, họ sẽ lục soát khu nhà. Họ sẽ quan sát bất cứ tàu thuyền nào đi qua chân vách đá. Các ngươi phải nhanh lên. Chắc chắn con trai ta sẽ cầm chân họ trong vài phút nữa, nhưng không thể lãng phí thời gian thêm nữa.”

Padlett đang phát những đồng vàng ra khỏi chiếc túi vải. Từng gã đàn ông một lấy tiền từ hắn ta và chạy xuống hành lang ra biển nhanh đến mức có thể. Nhưng gã say rượu người đang ngúc ngoắc chuyến choáng vẫn ở nguyên tại chỗ.

“Moa thà bị treo cổ vì điều này,” gã rên rỉ. “Quân lính sẽ tóm được moa. Trước khi moa bị treo cổ, moa muốn vàng của moa, vàng mà moa đã liều mạng.”

“Xuống tàu ngay,” bà hầu tước đanh giọng.

Gã vươn lên phía trước bà, nhưng bà vẫn bướng bỉnh đối mặt.

“Nếu moa không có vàng,” gã nói, “Moa sẽ lấy cái đồ lòe loẹt này.”

Gã vươn bàn tay to bè ra và giật chiếc vòng cổ đeo quanh cổ bà. Serena bất giác kêu lên kinh hãi. Padlett đang trả tiền cho một gã khác, đánh rơi túi vải và các đồng vàng, quay lại, nắm tay. Nhưng bà hầu tước còn nhanh hơn hắn. Có một tiếng vút nhẹ, và chiếc vỏ ngà trượt ra khỏi một thanh kiếm mỏng, sáng choang bằng thép cứng. Bà làm một động tác về phía trước, thanh kiếm xuyên qua hốc cổ gã say. Gã lảo đảo, và vẻ ngạc nhiên trên khuôn mặt gã trông khá lố bịch. Rồi gã đâm sầm xuống sàn. Gã nằm đó một lúc, các ngón tay giật giật, hai chân quằn quại trong đau đớn, trước khi gã rống lên thảm thiết – một âm thanh kinh hoàng và lạ lùng với những người nghe – một dòng máu đỏ đậm trào từ miệng gã xuống nền đất ẩm ướt.

Khi gã ngã xuống, bà hầu tước rút thanh kiếm ra khỏi cổ gã. Nó bị nhơ máu, nhưng bà tra nhanh nó vào vỏ. Đuốc lửa rọi sáng tới trần và trong hang bỗng tĩnh lặng kinh người.

Rồi bà hầu tước phá lên cười. Đó là tiếng cười phớt, du dương của sự thích thú không gì cản nổi. Nó vọng rồi vọng lại cho đến khi sự tĩnh lặng trở lại và chỉ có thể nghe thấy tiếng sóng vỗ từ xa. Bà hầu tước chạm mũi giày vào gã đàn ông đang nằm gục.

“Dọn thứ này đi,” bà khinh khỉnh bảo Padlett.

Rồi đầu bà nghênh cao, và mỉm cười quay lại với Serena.

Bình luận