Đăng quảng cáo tìm vợ lên các báo London thì kỳ cục quá, thế nên Anthony Earheart, Hầu tước Staunton, con trai cả và là người thừa kế của Công tước Withingsby, bèn đăng tin tìm một nữ gia sư.
Anh đăng bằng tên thật, lược bớt tước hiệu và các mối quan hệ của mình, trước sự thích thú rành rành của bạn bè và người quen, những người đón nhận sự kiện này với óc hài hước phi thường.
“Anh được mấy cháu, hả Staunton?” Harold Price hỏi anh khi ở câu lạc bộ White vào buổi sáng đăng tin. “Thuê một giáo viên ở trường chẳng thích hợp hơn sao? Người cai quản được nguyên một lớp học ấy?”
“Điều anh nên làm, Staunton ạ.” Cuthbert Pyne bồi thêm, “là thuê hẳn một hội đồng giáo viên. Đủ cho một trường ấy. Phải là những người không muốn phá hủy nền giáo dục của thế hệ tương lai bằng cách nhồi nhét chúng đến chật ních vào một lớp học.”
“Các bà mẹ có đến cho lũ trẻ ăn vào mỗi buổi chiều không, Tony?” Lord [1] Rowling hỏi trước khi hít một nhúm thuốc đặt trên mu bàn tay. “Anh có phòng khách đủ lớn cho tất cả họ ngồi đợi không? Và họ sẽ chịu ngồi hòa thuận với nhau chứ?”
[1] Lord: danh xưng dùng để chỉ quý tộc Anh (hầu tước, bá tước, tử tước và nam tước, không dùng cho công tước). Sir là danh xưng dùng cho hiệp sĩ (tước hiệu được Hoàng gia trao tặng, không thừa kế) và tòng nam
“Anh có chắc là muốn dạy dỗ tất cả không, Staunton?” Đại tá Forsythe hỏi. “Liệu anh có đủ dinh thự cho các quản gia tương lai không, anh bạn? Nước Anh còn chẳng biết có đủ không ấy chứ?”
“Anh quên tính xứ Wales rồi, Forsythe,” Ngài Pyne nói. “Cả Scotland nữa.”
“Nhưng thật không công bằng với con rơi của những người khác nếu mọi vị trí đều bị người nhà Staunton chiếm giữ,” ngài đại tá nói với giọng than vãn cường điệu.
“Tôi nghĩ Tony chẳng tìm nữ gia sư nào cả.” Sir Bernard Shields nói. “Anh ta đang tìm một nhân tình mới đó thôi. Tony này, nghe nói anh mới sa thải cô Anna ngon lành tuần vừa rồi, kèm theo một lô đá quý hả? Anh quyết định tìm người thay thế ở ngoài những căn phòng xanh [2] của London rồi sao? Anh định tìm người biết trò chuyện để làm thú tiêu khiến trong lúc anh, ờ, làm việc hả?”
[2] Phòng chờ dành cho nghệ sĩ đợi lượt lên sân khấu, ý chỉ các cô nàng diễn viên.
“Hoặc người nào đó biết dạy dỗ,” Lord Rowling nói. “Người ta vẫn bảo học không bao giờ thừa. Và còn học hỏi ai tốt hơn ngoài một nữ gia sư? Cộng thêm một phòng học với bàn cùng mặt bàn để người ta thực hành luôn các bài giảng nữa. Thật đáng nể.”
“Tôi chắc chắn rằng,” Lord Callaghan còn rất trẻ và rất đứng đắn lên tiếng, “Staunton đang tìm một nữ gia sư cho các cháu gái, còn chúng ta lại phỉ báng anh ấy bằng cách liên tưởng đến đủ thứ khác.”
Hầu tước Staunton không tham gia cuộc tranh luận mà chỉ thỉnh thoảng nhướng một bên mày hoặc mím môi. Không hơn gì một người quan sát ôn hòa. Theo như anh biết thì anh không có đứa con nào, cũng không có các dinh thự – vẫn chưa. Mới sau sáu tuần anh đã chán Anna và đang thong thả tìm một người thay thế. Những cô nhân tình anh tìm được càng lúc càng ít khả năng thỏa mãn những ham muốn đã rệu rã của anh. Anh biết mọi mánh khóe, mọi kỹ xảo của họ và phát ngấy chúng – Rowling đã nhầm về chuyện vẫn còn thứ để học hỏi thêm. Ngoài ra anh chẳng có dính dáng gì đến mấy đứa cháu – dù gái hay trai
Không, anh không tìm một nữ gia sư hay nhân tình. Anh đang chọn cho mình một người vợ và anh đã nói rõ với Lord Rowling khi cả hai rảo bước trên đường về nhà sau đó.
“Chẳng phải người ta vẫn tiến hành việc đó ở câu lạc bộ Almack [3] hoặc buổi vũ hội hay phòng khách của ai đó sao?” Lord Rowling hỏi, cười tủm tỉm như thể toàn bộ câu chuyện là một trò tiêu khiển. “Và không nhất thiết phải đăng quảng cáo, Tony? Xét cho cùng cậu là Hầu tước Staunton, và sẽ có ngày trở thành Công tước Withingsby. Cậu giàu nứt đố đổ vách và có vẻ ngoài khiến bất cứ phụ nữ nào cũng phải ngoái đầu nhìn ngay cả khi cậu là tên cùng khổ. Thế mà cậu còn đăng quảng cáo tìm vợ dưới lốt nữ gia sư? Tôi không bỏ lỡ chuyện gì đấy chứ?” Anh xoay cây ba-toong và chạm tay vào vành mũ chào một quý cô đi ngang qua.
[3] Câu lạc bộ thượng lưu, dành cho cả nam và nữ, xuất hiện ở London từ 1765 đến 1871.
“Tôi không tìm được thứ tôi cần ở Almack,” Hầu tước nói, không chút hào hứng trên gương mặt. Anh chỉ tỏ thái độ sẽ tiếp tục khi người bạn nhướng mày nhìn anh. “Cô ta phải là người cao quý – tôi sẽ không hạ thấp tiêu chuẩn đó xuống, cậu thấy đấy. Cô ta cũng phải bần hàn, giản dị, kín đáo, hết sức bình thường, có lẽ cả nghiêm nghị nữa. Cô ta phải có tất cả tính cách của một… một con chuột lặng lẽ.”
“Trời ơi,” Lord Rowling nói có phần yếu ớt. “Một con chuột lặng lẽ ư, Tony? Cậu muốn chế ngự người phụ nữ mình lấy làm vợ đến thế sao?”
“Công tước Withingsby mới triệu tôi về nhà.” Hầu tước nói. “Ông thông báo mình không khỏe. Ông nhắc tôi rằng tiểu thư Marie Lucas, con gái của Bá tước Tillden năm nay đã mười bảy tuổi – đủ tuổi để hai bên gia đình tiến hành một lễ đính hôn chính thức vào dịp sinh nhật cô ta. Theo ông thì tám năm tôi vắng mặt khỏi nhà để chơi bời phóng túng là quá đủ rồi.”
Lord Rowling nhăn mặt. “Cha cậu có vẻ không sáng suốt cho lắm,” anh nói. “Cậu đã tích lũy được một gia tài đồ sộ trong tám năm qua, Tony.” Nhưng anh chợt toét miệng cười. “Lại còn nổi như cồn trong đám ăn chơi trác táng ở London nữa chứ. Vậy ra cậu định cưới con chuột lặng lẽ của mình chỉ để làm bẽ mặt ông ấy hả?”
“Đúng thế,” Hầu tước nói không chút lưỡng lự. “Tôi định phớt lờ mệnh lệnh, Perry ạ, hoặc đáp ứng nó nhưng từ chối cưới đứa trẻ đã được nhắm chọn kỹ lưỡng để làm nữ Công tước Withingsby đời tiếp theo kia. Nhưng ý tưởng của tôi chắc chắn hay hơn. Nếu trên thực tế ông ấy không ốm đau gì, thì ông sẽ sớm bị ốm thôi. Nếu ông ấy vẫn chưa rút ra được kinh nghiệm gì trong tám năm qua thì ông ấy sẽ sớm rút ra thôi. Phải, tôi sẽ chọn vợ thật cẩn thận. Tôi dám chắc sẽ có một số ứng cử viên.”
Lord Rowling thất kinh, có lẽ đến giờ này mới hiểu bạn mình có ý định cực kỳ nghiêm chỉnh. “Nhưng Tony,” anh nói. “Cậu không thể lấy một sinh vật ngốc nghếch nhất cậu tìm được chỉ để chọc tức ông già mình.”
“Tại sao không?” Staunton hỏi.
“Tại sao không ư?” Bạn anh khoa cây ba-toong vòng vòng trong không khí. “Hôn nhân là một bản án chung thân, ông bạn ạ. Cậu sẽ bị mắc kẹt với một phụ nữ cho đến hết đời. Rồi cậu sẽ thấy không thể chịu được tình trạng đó.”
“Tôi có định dành cả phần đời còn lại bên cô ta đâu,” Hầu tước nói. “Một khi đáp ứng xong yêu cầu cô ta sẽ được cho về vườn và nhận lương hưu – một nữ gia sư khó có thể đòi hỏi vận mệnh tốt hơn thế, đúng không?”
“Và cô ta có thể sống đến chín mươi tuổi,” Lord Rowling chỉ ra. “Tony, cậu sẽ cần người thừa kế. Nếu cậu cùng cô ta tạo ra chúng, cô ta sẽ mong muốn – và không có lí do gì mà không mong – được làm mẹ chúng. Cô ta sẽ muốn sống trong nhà cậu trong thời gian chúng lớn lên.”
“Tôi có người thừa kế rồi,” Hầu tước nói. “Em trai William của tôi, Perry ạ. Nó có mấy đứa con trai – Marianne bảo tôi vậy. Chỉ cần chúng khỏe mạnh.”
“Nhưng đàn ông ai chả muốn người thừa kế là ruột thịt của mình,” Lord Rowling nói.
“Thế à, trời đất?” Hầu tước Staunton tỏ vẻ kinh ngạc. “Người đàn ông này chắc chắn là không, Perry ạ. Chúng ta đổi chủ đề được chưa? Chuyện này càng lúc càng nhạt nhẽ. Ngày mai cậu có đến Tattersall không? Tôi đã để mắt đến một đôi ngựa xám trông rất hứa hẹn.”
Lẽ ra Lord Rowling muốn tiếp tục đề tài ban đầu cho đến khi phân tích cho bạn mình thấy rõ phải trái lợi hại, nhưng chẳng mấy chốc anh đã xoay sang bàn về ngựa. Xét cho cùng, anh đã quen biết Hầu tước Staunton đủ lâu để hiểu rằng bạn anh có ý chí sắt đá, rằng cậu ta đã nói là làm, chẳng bận tâm ý kiến người khác hay các quy tắc xã hội. Nếu cậu ta đã quyết định chọn một cô vợ theo cách trái khoáy và với một lí do độc địa, lạnh lùng như thế, thì cậu ta sẽ chọn được, và sẽ cưới cô ta.
Trong lúc ấy Hầu tước Staunton, mặc dù bàn luận hăng say về lũ ngựa rồi đến các cuộc đua, song vẫn thầm sung sướng với chuyến trở về Enfield Park ở Wiltshire của anh và tác động của nó lên cha anh – Công tước Whithingsby. Đó sẽ là đòn chế giễu cuối cùng đối với người đàn ông đã sinh ra anh và làm cuộc đời anh khổ sở trong hai mươi năm kế tiếp. Tám năm qua, kể từ lúc rời khỏi nhà sau cảnh tượng đáng sợ cuối cùng đó, anh đã sống tách khỏi cha mình, không nhận bất cứ khoản chu cấp tài chính nào. Anh đã tự gây dựng cơ đồ của mình, ban đầu bằng đánh bài, rồi đến các vụ đầu tư táo bạo, cuối cùng là các vụ đầu tư và dự án kinh doanh khôn ngoan hơn.
Rõ ràng cha anh không hề biết. Nhưng ông sẽ biết thôi. Ông sẽ hiểu rằng đứa con trai cả này đã vĩnh viễn thoát khỏi quyền lực và ảnh hưởng của mình. Ồ phải, kết hôn một cách khinh suất – và nói thế còn là nhẹ khi người thừa kế của Công tước Whithingsby lấy một phụ nữ quý phái nhưng bần hàn kiếm sống bằng nghề gia sư – sẽ là chuyện hay ho nhất anh có thể làm. Anh khao khát được nhìn thấy gương mặt ông bố khi anh đưa cô dâu của mình về Enfield.
Và thế là anh đợi những hồi đáp sau tin quảng cáo. Chúng bắt đầu đến ngay ngày đầu tiên mục tin xuất hiện trên báo chí London và vẫn tiếp tục đổ về những ngày sau với số lượng lớn ngoài dự kiến. Anh loại bỏ một loạt ứng cử viên, dù chưa thấy mặt – những người dưới hai mươi hoặc trên ba mươi tuổi – những người có lời lẽ giới thiệu đặc biệt ấn tượng và cả một cô gái khao khát anh chú ý đến nỗi viết thư toàn bằng chữ Latin.
Phỏng vấn đến người thứ sáu anh mới tìm được con chuột lặng lẽ của mình. Cô Charity Duncan được đưa vào phòng khách dưới nhà và chọn đứng ở chỗ không bị tắm trong ánh nắng. Một giây sau khi mở cửa và bước vào phòng, Staunton ngỡ cô đã đổi ý và bỏ đi. Nhưng rồi anh trông thấy cô, và b ngay cả quyết định đứng đó của cô cũng mang ý nghĩa. Cô lại còn ăn vận từ đầu đến chân một màu nâu xám và trông hoàn toàn khiêm tốn và nghiêm nghị một cách lặng lẽ. Cô là một nữ gia sư lý tưởng – kiểu người làm công ăn lương mà đến các bà vợ ghen tuông nhất cũng không phản đối nhận vào sống trong một nhà với chồng mình.
“Cô Duncan?” anh hỏi.
“Vâng, thưa ông.” Giọng cô nhỏ và trầm. Cô nhún gối chào anh mà không một lần ngước mắt khỏi tấm thảm dưới chân. Cô thấp hơn chiều cao trung bình, vô cùng mảnh mai, có lẽ còn gầy, song do chiếc áo choàng không tay nên không thể nào đoán chắc. Gương mặt cô xanh xao và mộc mạc trong bóng râm. Màu tóc nâu hòa hợp hoàn toàn với màu nâu của chiếc mũ bonnet khiến người ta ngỡ chúng là một. Trang phục của cô đứng đắn và buồn tẻ. Anh có cảm giác rằng chúng không đến nỗi mòn sờn nhưng sẽ sớm bị thôi. Chúng thanh nhã nhưng tồi tàn.
Cô đúng là lý tưởng. Cha anh sẽ nổi điên lên cho xem.
“Mời cô ngồi,” anh nói, chỉ một chiếc ghế gần chỗ cô đứng.
“Vâng, thưa ông,” cô đáp và ngồi xuống, đúng như anh nghĩ, với sống lưng thẳng băng không chạm vào lưng ghế.
Cô gấp đôi găng tay lại trên lòng và chuyển ánh mắt nhu thuận sang hai đầu gối.
Cô là hình ảnh của sự thanh cao cứng nhắc. Cô thật hoàn hảo! Ngay lúc ấy Hầu tước Staunton quyết định chọn cô, và cuộc tỉm kiếm của anh kết thúc. Anh ngồi nhìn người vợ tương lai của mình.
***
Charity Duncan ngồi sát cửa sổ để tận dụng chút ánh sáng cuối cùng của ban ngày. Một ít phút nữa hẵng thắp nến, khi việc đó trở nên bắt buộc. Giá nến rất đắt đỏ. Cô đang khâu lại đường may dưới cánh tay chiếc áo sơ mi của em trai cô và âm thầm thở dài khi nhận ra chất vải cotton đã mòn nhẵn. Đường may sẽ giữ được một thời gian nữa, nhưng chẳng mấy chốc sẽ xuất hiện một vết rách khó khâu hơn.
Cô đang làm việc lâu hơn hình thường. Đôi mắt cô – và tâm trí cô – cứ lang thang tới chỗ tờ báo để mở trên bàn. Mua báo hàng ngày là một sự phung phí của cô, mặc dù đúng ra thì không thể gọi như thế. Cô biết Philip thích đọc báo bên ánh nến sau một ngày làm việc, nhưng chủ yếu sự mua sắm này là vì bản thân cô. Cô phải tìm gấp một công việc. Gần một tháng qua cô đã tìm kiếm, nộp đơn và – rất họa hoằn – đi phỏng vấn. Thậm chí cô còn tìm hiểu một vài công việc thấp kém hơn nghề gia sư hoặc người bầu bạn.
Không ai muốn thuê cô. Lúc thì cô quá trẻ lúc lại quá già, khi thì quá thường khi lại quá xinh, xuất thân quá quý phái hoặc học vấn quá cao, hoặc… hoặc những người chủ tương lai của cô quá soi mói trong các câu hỏi của họ.
Nhưng cô sẽ không từ bỏ việc tìm kiếm. Gia đình cô – còn một cô em gái ít hơn cô ba tuổi đang ở nhà với ba đứa bé nhỏ hơn nữa – rất nghèo. Còn tệ hơn cả nghèo. Họ mắc nợ chồng chất và thậm chí không hay biết cho đến khi cha họ qua đời hơn một năm trước. Vậy là thay vì sống như một quý ông, Philip buộc phải làm việc để chu cấp cho gia đình. Và cô cũng khăng khăng đòi làm việc, dù số tiền mà một phụ nữ có thể kiếm được quá ít ỏi để san sẻ cho những người khác hoặc để trả nợ.
Giá như có cách nào kiếm ra một khoản tiền lớn thật mau chóng. Cô còn cân nhắc một vụ cướp tầm cỡ – tất nhiên là không nghiêm túc. Mình không được than phiền, cô nghĩ, rốt cuộc cũng xử lý xong cái áo. Ít ra họ chưa đến nỗi cơ cực. Nhưng cũng sắp đến rồi. Mà đường như cuối đường hầm chẳng có chút ánh sáng thực sự nào.
Philip đã về, và cô đứng đậy để mỉm cười đón cậu, để hôn lên má cậu, để dọn bữa tối cho cậu, để hỏi cậu về công việc trong ngày – và để lôi kéo sự chú ý của cậu tới mục quảng cáo xem chừng rất khả thi trên báo hôm nay.
“Nó không nói có bao nhiêu đứa trẻ, chúng mấy tuổi, là trai hay gáí,” cô cau mày nói khi họ bắt đầu đi vào chủ đề đó. “Không nói chúng sống ở London này hay ở Outer Herbides hay ở mũi đất Cornwall. Nhưng nó cho biết đấy là một vị trí tốt.”
“Chị không phải đi làm thuê, Charity.” Philip Duncan nói. Đó là câu cửa miệng của cậu. Philip cho rằng mình phải gánh vác hoàn toàn trách nhiệm đối với các chị trong nhà.
“Ồ có chứ,” cô nói chắc chắn. “Có mỗi việc ấy là phù hợp trên báo hôm nay, Phil. Chỗ giới thiệu việc làm từ hôm qua tới hôm nay đâu có tin tức gì. Chí ít chị cũng phải thử.”
“Chị nên quay về nhà,” Philip nói, “và để cho em lo cho chị theo lẽ thường. Ở nhà mọi người đều cần chị.”
“Em biết chị sẽ không quay về,” cô nói, mỉm cười với cậu. “Em làm sao lo cho tất cả bọn chị được, Phil, và em cũng không phải làm thế. Em phải sống cho chính mình. Agnes…”
“Agnes sẽ đợi,” cậu nói kiên quyết. “Hoặc cô ấy sẽ mệt mỏi vì chờ đợi và lấy người khác. Nhưng thật khó coi khi chị gái em phải đi làm thuê.”
“Chị muốn mình cũng phải làm một việc gì đó,” cô nói. “Chả lẽ chị phải ngồi nhà thêu thùa và chăm sóc một khu vườn cho đẹp chỉ vì chị là phụ nữ sao? Như vậy thật bất công quá. Mà chị lại là chị cả. Chị sẽ thử công việc này,” cô nói. “Nếu không thành công có lẽ chị sẽ trở về quê. Coi như điều đó chứng tỏ chị không có khả năng đi!”
“Chị cứ về nhà đi, Charity,” Philip hối thúc. “Giờ em mới chỉ là thư ký, nhưng em sẽ lên vị trí cao hơn và kiếm được nhiều tiền hơn. Biết đâu ngày nào đó em còn trở nên giàu có. Và chị không làm đầy tớ được. Chị không quen hầu hạ người khác. Lần trước chị mất việc là bởi chị đã không giữ mồm giữ miệng.”
“Không,” cô nói, nhăn mặt. “Bố lũ trẻ đã sàm sỡ cô hầu gái xinh đẹp nhất trong khi cô ấy không muốn. Thế là chị đã nói thẳng điều đó ra với cả bố và mẹ lũ trẻ. Ông ta thật khó chịu, Phil. Nếu em biết ông ta, ông sẽ ghét ông ta ngay.”
“Em không nghi ngờ điều đó,” cậu nói. “Nhưng ông ta làm gì người hầu không phải việc của chị, Charity. Cô gái đó cũng có lưỡi chứ.”
“Nhưng cô ấy không dám dùng tới nó,” cô nói, “cô ấy sợ mất việc.”
Philip chỉ nhìn chị gá cậu không cần nói gì cả.
Charity bật cười. “Dù sao chị cũng không muốn ở lại đó,” cô nói. “Nhưng chị ước gì kiếm được công việc mới dễ dàng hơn. Tháng vừa rồi chị đã đi phỏng vấn sáu lần và chẳng lần nào có dấu hiệu khả quan. Có lẽ chị nên hy vọng rằng bà Earheart và các con sống ở Outer Hebrides [4] và không ai ngoài chị có đủ can đảm sống cùng họ ở đó.” Cô thở dài. “Có lẽ chị sẽ viết thêm vào đơn là mình sẵn sàng đi đến tận cùng trái đất với họ. Biết đâu họ sẽ trả thêm cho chị để đền bù cho việc chị phải đi xa.”
[4] Quần đảo ở ngoài khơi Scotland.
“Charity,” Philip nói, “em chỉ mong chị về nhà. Bọn trẻ nhớ chị lắm. Thư nào Penny cũng viết vậy. Từ khi mẹ qua đời chúng đã coi chị như mẹ rồi.”
“Thôi, chị sẽ không nói mình sẵn sàng đi xa nữa,” cô nói như thể không nghe thấy lời cậu. “Như thế nghe có vẻ quá háo hức hoặc quỵ lụy. Và chị sẽ thử lần này là lần cuối. Có khi người ta còn chẳng trả lời và mọi mong muốn của em sẽ được chấp thuận. Nhưng chị sẽ cảm thấy mình là một người vô dụng, Phil ạ.”
Em trai cô lại thở dài.
Nhưng Charity đã đoán sai. Năm ngày sau khi gửi thư xin việc với ngài Earheart, cô nhận được thư phúc đáp, mời cô đến tham gia phỏng vấn vào sáng hôm sau. Tim cô bắt đầu đập mạnh trước ý nghĩ ấy. Bị tra hỏi thật khó chịu, như thể mình là một món hàng chứ không phải con người. Nhưng đó là cách duy nhất để có việc làm. Thật tàn nhẫn làm sao khi đến một buổi phỏng vấn, là lần cuối cùng, có khi chỉ để thấy bao hy vọng của mình một lần nữa bị ném đi.
“Đây sẽ là cuộc phỏng vấn thứ bảy,” cô nói với Philip khi cậu đi làm về tối hôm đó. “Em có nghĩ lần này sẽ may mắn không?”
“Nếu chị thật sự muốn một công việc, Charity,” cậu nói với tiếng thở dài, “thì chị phải làm tròn phận sự. Nữ gia sư giống như những gia nhân khác, chị biết mà, chỉ nhìn chứ không được nghe.”
Charity nhăn nhó. Không phải cô lắm mồm nay thô lỗ cô là một quý cô. Cô đã quen coi mình ngang hàng với những quý cô khác. Làm sao quen được với ý nghĩ rằng có một tầng lớp thượng lưu bần cùng bị khinh miệt – mà cô là một thành viên, chí ít là chừng nào cô còn tìm kiếm việc làm. Đó là điều người ta phải phớt lờ hoặc chịu đựng. “Vậy chị phải kín miệng ư?” cô hỏi. “Chị không được đưa ra quan điểm hay nhận xét gì à?”
“Đúng,” cậu nói thẳng thừng, và lòng cô đau nhói bởi nhận ra rằng Philip hẳn đã phải nhận một bài học tương tự cho chính mình. “Chị phải thuyết phục ông ta, và cả bà vợ nếu bà ấy có mặt, là nếu họ thuê chị, chị sẽ hòa lẫn cực kỳ êm xuôi với đám đồ đạc trong nhà họ.”
“Thật là mất tư cách,” cô thốt lên rồi cắn môi, ước gì mình đừng nói to câu đó.
“Và, Charity này” cậu nghiêng người qua chiếc bàn chắn giữa họ và nắm lấy tay cô “đừng nhận công việc đó nếu ông ta… nếu ông ta là một người trẻ tuổi. Không, tuổi trẻ không có gì đáng nói. Mà nếu ông ta…”
“Dâm đãng?” cô gợi ý.
Em trai cô đỏ mặt. “Nếu chị nghi ngờ ông ta có khả năng,” cậu nói.
“Chị biết tự chăm sóc mình mà, Phil,” cô nói. Mấy ngày đầu chị mới nhận việc, ông chủ cũ cũng nhìn chị là lạ thế nào ấy. Vậy là chị liền nhìn trả lại, mắt lạnh tanh và môi mím chặt.” Cô diễn lại vẻ mặt đó khiến em trai cô phải toét miệng cười ngoài ý muốn.
“Cẩn thận nhé, Charity,” cậu nói.
“Chị sẽ như thế,” cô hứa. “Và kín đáo. Như một con chuột thực sự. Một con chuột nhắt lặng lẽ, buồn tẻ, nâu xỉn. Chị sẽ thu mình đến mức ông ta thậm chí còn không nhận ra chị đang ở cùng một phòng với ông ta. Chị sẽ…”
Nhưng em trai cô cười sằng sặc. Charity đi vòng qua bàn để đứng sau ghế cậu và vòng hai tay qua vai cậu. “Ồ, lâu lắm rồi em mới cười như thế, Phil,” cô nói. “Mọi huyện rồi sẽ ổn thôi. Bằng cách nào đó chúng ta sẽ giàu có, em sẽ cưới Agnes và sống hạnh phúc suốt đời.”
“Còn chị?” Cậu giơ tay vỗ nhẹ cánh tay cô.
“Chị cũng sẽ sống hạnh phúc suốt đời,” cô nói. “Penny sẽ lấy chồng và chị sẽ ở lại với lũ trẻ cho đến khi chúng trưởng thành, lập gia đình một cách hạnh phúc và rồi chị sẽ yên ổn làm một bà cô không chồng mãn nguyện và lập dị.”
Cậu lại cười khùng khục khi cô hôn nhẹ lên đỉnh đầu cậu.
Nhưng mặc dù thế Charity vẫn lo lắng. Sáng hôm sau cô đến ngôi nhà trên đường Upper Grosvenor nơi cô được mời phỏng vấn. Tòa nhà giản dị nhưng tao nhã. Người hầu ra mở cửa cho cô cũng vậy. Căn phòng khách không người mà cô được đưa vào cũng vậy. Theo bản năng cô tìm đến chỗ không bị nắng ngoài cửa sổ chiếu vào. Cô cố gắng kiểm soát nhịp tim của mình. Nếu không giành được vị trí này, cô sẽ bắt đầu mất tự tin vào bản thân. Cô gần như đã hứa với Phil rằng mình sẽ về nhà, không thử thêm lần nữa. Cô sẽ… Nhưng những ý nghĩ của cô bị gián đoạn khi cánh cửa mở ra.
Anh ta còn trẻ – chỉ trạc ba mươi tuổi. Anh ta cũng đẹp trai theo một kiểu thô ráp, cô thầm nghĩ. Với chiều cao trên trung bình, anh ta có vóc người dong dỏng, cân đối, tóc và mắt rất đen, gương mặt xương xương, góc cạnh, quý phái. Ánh nắng chan hòa lên người anh ta khi anh ta đi qua ô cửa sổ. Dưới ánh sáng gay gắt ấy, vẻ mặt nhạo báng lạnh lùng kia có vẻ gì đó quỷ quái. Anh ta vận trang phục đắt tiền và thanh lịch. Quả thực trông anh ta như sinh ra để mặc áo khoác và quần ống túm được cắt may khéo léo ấy – một dấu hiệu rõ ràng rằng anh ta là một quý ông của thời trang cao cấp.
Quý ông này có vẻ không giống một người tốt. Anh ta giống kiểu người sẽ ngấu nghiến các cô hầu gái hơn là ve vãn họ. Nhưng cô không được phán xét khi anh ta còn chưa thốt ra một từ. Một lần nữa Charity cảm thấy mình thấp kém, một thân một mình trong nhà một quý ông mà không có lấy một người hầu hay người bầu bạn, vì bản thân cô giờ đây là một người hầu – một người thất nghiệp. Cô dán mắt đăm đăm vào tấm thảm trước khi mắt anh ta tìm thấy cô trong bóng tối. Cô tập trung hết sức vào việc bồi đắp phong cách của một nữ gia sư điển hình.
“Cô Duncan?” anh ta hỏi, giọng ngạo mạn và uể oải đúng như cô nghĩ, mặc dù đó là một giọng nam cao dễ nghe. Không có sự cám dỗ giò trong đó. Mà sao phải như thế? Anh ta đang phỏng vấn để tìm gia sư cho con kia mà.
“Vâng, thưa ông,” Charity nói, cố gắng để tỏ vẻ thanh cao mà không quá kiêu kì. Cô giữ sống lưng thẳng đứng. Cô, xét cho cùng, vẫn là một quý cô.
“Mời cô ngồi.” Anh ta chỉ một chiếc ghế gần đó không bị ánh nắng gắt chiếu vào, cô lấy làm mừng vì điều đó. Dù đã có kinh nghiệm, cô vẫn thấy những buổi phỏng vấn thật khó khăn.
“Vâng, thưa ông,” Charity nói, ngồi xuống ghế và cụp mắt thấp hơn nữa. Cô sẽ trả lời tất cả các cậu hỏi ngắn gọn và thành thật. Hy vọng là không có câu nào quá khó.
Earheart ngồi xuống chiếc ghế đối diện, vắt chéo đôi chân đi giày da cao cổ đắt tiền, bóng lộn. Người hầu của anh ta hẳn đã lao động cật lực để cho ra một sản phẩm sáng bóng như thế. Có một khí chất giàu có, tự tin và quyền lực tỏa ra ở người đàn ông này. Charity cảm thấy bất an rõ rệt trong khoảng dừng trước khi anh ta lên tiếng lần nữa.