THỜI TIỀN SỬ CỦA O
Giờ thì bạn đã có một ví dụ mẫu về “sức mạnh lập luận” của con người, như cách gọi của anh ấy. Anh ấy quan sát những thực tế nhất định. Chẳng hạn, cả đời chưa bao giờ anh ấy nhìn thấy cái ngày mà anh ấy có thể thỏa mãn một người phụ nữ; cũng chưa có người phụ nữ nào từng trải qua một ngày đuối sức, đánh bại và loại bỏ hàng tá cây giống đực nào đó được đặt vào giường mình. Anh ấy đặt những thực tế chói sáng và mang tính gợi nhắc cao vào cùng nhau, rồi từ đó rút ra kết luận đáng kinh ngạc này: Ý định của Tạo hóa là giới hạn phụ nữ với một người đàn ông mà thôi.
• MARK TWAIN, Thư từ Trái đất
Gần đây, chúng tôi thấy có một chàng trai trẻ đi xuống đường Las Ramblas ở Barcelona, diện một chiếc áo phông có dòng chữ Sinh ra để Địt*. Cũng như chúng tôi, có thể bạn sẽ tự hỏi không hiểu cậu ta có sở hữu cả một bộ áo như thế này ở nhà hay không: Sinh ra để Thở, Sinh ra để Ăn, Sinh ra để Uống, Sinh ra để Ỉa, và tất nhiên là dòng chữ rất buồn nhưng không thể tránh khỏi, Sinh ra để Chết*.
Nhưng có thể cậu ta có ý gì đó sâu sắc hơn. Dù sao đi nữa thì quan điểm trung tâm của cuốn sách này vẫn là tình dục từ lâu đã thực hiện những chức năng quan trọng đối với Homo sapiens, trong đó sinh sản là chức năng rõ ràng nhất. Do con người dành nhiều thời gian và công sức cho việc lên kế hoạch, thực hiện và lặp lại những thành tích tình dục của mình hơn bất cứ loài nào khác trên Trái đất, nên có lẽ tất cả chúng ta đều nên mặc một trong những chiếc áo đó.
Hoặc có lẽ chỉ phụ nữ thôi. Khi nói đến tình dục, nam giới có thể là những kẻ chạy nước rút chém gió, nhưng chính phụ nữ mới là người chiến thắng tất cả mọi cuộc đua marathon. Bất cứ luật sư hôn nhân nào cũng sẽ nói cho bạn nghe lời phàn nàn phổ biến nhất liên quan đến tình dục mà phụ nữ dành cho đàn ông là bọn họ quá nhanh và quá thẳng thắn. Trong khi đó, lời kêu ca thường xuyên nhất liên quan đến tình dục của nam giới về phụ nữ là bọn họ cần quá nhiều thời gian để khởi động. Sau một cơn cực khoái, phụ nữ có thể đoán trước được cả chục cơn nữa. Cơ thể phụ nữ khi rung động có xu hướng tiếp tục rung động, nhưng với đàn ông rung động đến rồi đi. Đối với họ, tấm rèm nhanh chóng rơi xuống và đầu óc chuyển sang những vấn đề chả liên quan gì cả.
Sự đối xứng của hai niềm thất vọng này minh họa cho sự xung khắc gần như hài hước giữa phản ứng tình dục nam và nữ trong bối cảnh kết đôi một vợ một chồng. Bạn phải tự hỏi: Nếu đàn ông và phụ nữ cùng nhau tiến hóa theo từng cặp đôi tình dục đơn phối trong gần hai triệu năm, vậy thì tại sao rốt cuộc chúng ta lại khác nhau đến vậy? Cứ như thể chúng ta đã ngồi xuống cùng nhau ăn tối, từ nghìn năm khác, nhưng một nửa chúng ta có thể ngấu nghiến hết mọi thứ trong vài phút điên cuồng, cẩu thả, trong khi nửa kia vẫn đang bày bàn và thắp nến.
Vâng, chúng ta đã biết: chiến lược tổng hợp, rất nhiều tinh trùng giá rẻ đấu với một ít trứng đắt đỏ trong một cái giỏ, cứ như vậy. Nhưng những phản ứng tình dục rõ ràng không ăn khớp này càng thêm có ý nghĩa khi được coi là dấu tích về việc chúng ta tiến hóa trong các nhóm chung chạ. Thay vì quay tròn các giả thuyết trong các giả thuyết để ráp các mô hình bất ổn định lại với nhau – hôn nhân một vợ một chồng có sai lầm, đa thê nhẹ, chiến lược giao phối tổng hợp, đơn phối hàng loạt – liệu chúng ta có thể chỉ đối mặt với một kịch bản khi không cần đến một lời bào chữa đặc biệt, mâu thuẫn, tự thân thất bại như thế này?
Được rồi, tốt thôi, điều này thật khó chịu. Thậm chí có thể là bẽ mặt, nếu bạn thiên về kiểu đó. Nhưng 150 năm sau khi Nguồn gốc các loài được xuất bản, chẳng phải là đã đến lúc chấp nhận rằng tổ tiên chúng ta tiến hóa theo một quỹ đạo tình dục tương tự như hai người bà con linh trưởng gần gũi, rất thông minh, có tính xã hội cao của chúng ta? Với bất cứ câu hỏi nào khác mà chúng ta đặt ra về nguồn gốc loài người, chúng ta đều nhìn sang tinh tinh và tinh tinh lùn: ngôn ngữ, sử dụng công cụ, đồng minh chính trị, nguồn gốc chiến tranh, hòa giải… nhưng khi nói đến tình dục, chúng ta lại gạt bỏ những mẫu hình này, quay sang lũ vượn có họ hàng xa xôi, không giao tiếp, IQ thấp, nhưng quan hệ đơn phối? Thật sao?
Cuộc cách mạng nông nghiệp đã mở đầu cho một cuộc tái định hình triệt để mà đến nay chúng ta vẫn đang choáng váng. Có lẽ sự phủ nhận kinh khủng của chúng ta về thời tiền sử tình dục bừa bãi thể hiện nỗi sợ hãi chính đáng về bất ổn xã hội, nhưng những đòi hỏi khẩn thiết về trật tự xã hội ổn định (như chúng tôi vẫn thường nhắc, dựa trên đơn vị gia đình hạt nhân) không thể xóa được những ảnh hưởng kéo dài của hàng trăm nghìn năm trước khi giống loài chúng ta dừng chân lại trong các làng mạc ổn định.
Nếu tinh tinh và tinh tinh lùn cái nói được, chúng ta có thật sự nghĩ rằng chúng sẽ kể cho đám bạn gái lông lá của mình về những anh chàng xuất tinh sớm không còn mang hoa đến nữa hay không? Có lẽ là không, bởi vì như chúng ta đã thấy, khi tinh tinh hoặc tinh tinh lùn cái có hứng, chắc chắn nó sẽ là tâm điểm chú ý của rất nhiều con đực đang háo hức. Và càng được chú ý thì nó càng hấp dẫn, bởi vì hóa ra là các anh chàng bà con linh trưởng của chúng ta nổi cơn hứng tình khi nhìn thấy và nghe thấy tiếng đồng loại của mình giao phối. Cứ hình dung mà xem.
Chẳng kẻ nào (ai lại chẳng từng trải những chuyện thế này) lại thản nhiên trước những biểu hiện đau đớn, cảnh Chồm lên, Tiếng hét Rặn đẻ và Tiếng rên Trụy lạc, hay sự rung của Tử cung khi bị kích thích; sự ngông cuồng kinh khủng của đầu óc do các Cơn điên, Sự bất ổn U sầu, Thái quá, các Bệnh tật siêu nhiên của Tử cung gây ra, cứ như thể kẻ nhiễm bị bỏ bùa vậy…
• WILLIAM HARVEY, Anatomical Exercitations concerning the Generation of Living Creatures (tạm dịch: Thực hành giải phẫu học liên quan đến việc tạo ra các sinh vật) (1653)
Hysteria là một trong những căn bệnh đầu tiên được mô tả một cách chính thức. Hippocrates đã thảo luận về vấn đề này từ thế kỷ IV trước Công nguyên và bạn sẽ tìm thấy nó trong bất cứ văn bản y khoa nào liên quan đến sức khỏe phụ nữ, được viết từ thời Trung cổ đến khi nó bị loại ra khỏi danh mục các chẩn đoán y học được chấp nhận cho đến năm 1952 (20 năm trước khi tình dục đồng tính phải chịu chung số phận). Hysteria vẫn là một trong những căn bệnh được chẩn đoán nhiều nhất ở Mỹ và Anh ngay đầu thế kỷ XX. Bạn có thể sẽ thắc mắc các bác sĩ chữa trị chứng bệnh mãn tính này thế nào trong suốt mấy thế kỷ qua.
Chúng tôi sẽ nói cho bạn biết. Bác sĩ thủ dâm cho bệnh nhân nữ đạt tới cực khoái. Theo nhà sử học Rachel Maines, các bác sĩ y khoa đã thường xuyên mát xa cho bệnh nhân nữ để đạt được cực khoái từ thời Hippocrates cho đến những năm 1920. Ngồi xuống đi; bác sĩ sẽ ở ngay bên bạn…
Trong khi một số bác sĩ yêu cầu các y tá của mình thực hiện liệu pháp này cho bệnh nhân, đại đa số các thầy thuốc đều tự mình thực hiện, mặc dù rõ ràng là vấp phải những khó khăn. Nathaniel Highmore viết vào năm 1660 rằng đây không phải là một kỹ thuật dễ học, vì “không giống trò chơi của các chàng trai, trong đó một tay rờ bụng còn tay kia xoa đầu”.
Bất kể các thầy thuốc nam gặp phải thách thức gì trong việc nắm bắt kỹ thuật này thì dường như nỗ lực bỏ ra rất đáng đồng tiền bát gạo. Tờ Sức khỏe và Bệnh Phụ nữ, xuất bản năm 1873, đánh giá rằng khoảng 75% phụ nữ Mỹ cần những liệu pháp kiểu này, từ đó tạo thành thị trường dịch vụ trị liệu lớn nhất. Mặc dù Donald Symon long trọng tuyên bố: “Trong tất cả các dân tộc, quan hệ tình dục được coi là sự phục vụ hoặc ân huệ mà phụ nữ mang lại cho đàn ông”, có vẻ như đối với nhiều phụ nữ, cảm giác giải phóng khi cực khoái là một sự phục vụ mà bác sĩ nam mang lại cho họ… với một cái giá nào đó.
Phần lớn các thông tin này được lấy từ The Technology of Orgasm (tạm dịch: Kỹ thuật cực khoái), cuốn sách tuyệt vời của Maines về “căn bệnh” này và cách chữa trị nó qua các thế kỷ. Vậy thì triệu chứng của “căn bệnh” này là gì? Chúng giống như triệu chứng của chán nản tình dục và hứng tình mãn tính: “lo lắng, mất ngủ, cáu bẳn, căng thẳng, ảo ảnh dâm dục, cảm giác nặng bụng, giảm phù nề chậu dưới và bôi trơn âm đạo”.
Phương pháp được cho là điều trị khoa này dành cho những phụ nữ hứng tình và chán nản này không phải là sai lầm chỉ có ở lịch sử cổ đại, mà là một nhân tố trong nỗ lực hai nghìn năm nay nhằm chẩn bệnh cho các đòi hỏi của dục năng (libido) ở phụ nữ – thứ dục năng mà các chuyên gia từ lâu đã khẳng định là không tồn tại.
Những người cung cấp liệu pháp béo bở này không viết về “cực khoái” trong các bài báo y khoa mà họ xuất bản về chứng hysteria cũng như phương pháp điều trị nó. Ngược lại, họ công bố những thảo luận nghiêm túc, chín chắn về “mát xa âm hộ” dẫn tới “bùng phát thần kinh” giúp bệnh nhân tạm khuây khỏa. Dù sao đi nữa thì đây là những bệnh nhân lý tưởng. Họ không hồi phục hoặc chết vì chứng bệnh của mình. Họ cứ thế quay lại để được tiếp tục điều trị.
Cách sắp đặt này có thể khiến một số độc giả ngạc nhiên với chính định nghĩa “vớ bở”, nhưng rõ ràng là nhiều bác sĩ có cảm giác ngược lại. Maines thấy “không có bằng chứng nào cho thấy bác sĩ nam thích thú với việc điều trị bằng cách mát xa khung chậu. Ngược lại, những anh tài này tìm đủ mọi cách để dùng các thiết bị khác thay cho ngón tay”.
“Thiết bị khác” mà Maines nghĩ tới là gì? Để xem bạn có thể điền đúng được danh sách này không nhé:
Máy khâu;
Quạt;
Ấm trà;
Lò nướng bánh;
?
Gợi ý: Đây là danh sách năm thiết bị điện đầu tiên được bán trực tiếp cho người tiêu dùng Mỹ. Chịu chưa? Công ty Hamilton Beach ở Racine, Wisconsin cấp bằng sáng chế cho máy rung gia dụng đầu tiên vào năm 1902, biến nó thành thiết bị điện thứ năm duy nhất được chấp thuận sử dụng trong gia đình. Đến năm 1917, ngoài lò nướng bánh, trong các gia đình ở Mỹ đã có thêm nhiều máy rung khác. Nhưng trước khi trở thành công cụ tự điều trị (“Mọi niềm vui của tuổi trẻ… sẽ rộn lên trong bạn”, một mẩu quảng cáo khêu gợi hứa hẹn như vậy.), máy rung đã được sử dụng hàng chục năm trong phòng làm việc của những bác sĩ đã phát chán với việc “vừa xoa bụng vừa vỗ đầu cùng một lúc”.
Được thúc đẩy bởi các kỳ tích của công nghiệp hóa, nhiều bác sĩ đã tìm cách cơ khí hóa việc điều trị. Sự khéo léo của người Mỹ đã giúp tạo ra hàng loạt cơn cực khoái cho những phụ nữ bị trói chặt trong cuộc sống “hết sức trinh bạch”, thiếu thốn tình dục của mình: những chiếc máy rung đầu tiên được phát minh bởi các bác sĩ dám nghĩ dám làm này.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, những người thợ thiết kế dụng cụ y tế đã thiết kế đủ mọi loại thiết bị để kích thích cơn bùng phát thần kinh cần thiết ở bệnh nhân. Một số chạy bằng dầu diesel, số khác chạy bằng hơi nước, giống như những cái đầu máy hơi nước bé xíu. Một số là những chiếc máy kỳ cục to lớn treo trên xà bằng xích và ròng rọc, giống như những khối động cơ ở cửa hiệu ô tô. Số khác có những chiếc piston đẩy dương vật giả qua lỗ trên bàn hoặc phun nước áp lực cao vào cơ quan sinh dục của bệnh nhân giống như đội cứu hỏa được gọi đến để dập tắt ngọn lửa ám ảnh của niềm đam mê ở nữ giới. Trong suốt thời gian đó, các bác sĩ giỏi không bao giờ công khai thừa nhận rằng những gì họ đang làm là tình dục chứ không phải thuốc.
Nhưng có lẽ sự kích động và ngạc nhiên cao độ còn hơn sự im lặng của họ đối với việc được trả tiền để kích thích bùng phát thần kinh giống như bao nhiêu chàng trai trẻ của Chippendales* là việc chính những quan chức y tế này duy trì kết luận cho rằng hoạt động tình dục ở phụ nữ là một thế lực hay thay đổi và miễn cưỡng.
Sự độc quyền của ngành y tế trong việc mang lại cho phụ nữ cảm giác cực khoái ngoài-hôn-nhân được xã hội chấp nhận lại được bảo vệ nhờ lệnh nghiêm cấm phụ nữ hoặc thiếu nữ tự thủ dâm để đạt cực khoái. Năm 1850, Tạp chí Y tế và Phẫu thuật New Orleans tuyên bố thủ dâm là kẻ thù số một của mọi người: “Dịch bệnh, chiến tranh, đậu mùa, hay đám đông xấu xa giống nhau cũng không gây thảm họa cho nhân loại bằng thói quen thủ dâm: đây là nhân tố hủy hoại xã hội văn minh.” Trẻ em và người lớn được cảnh báo rằng thủ dâm không chỉ là tội lỗi mà còn rất nguy hiểm – chắc chắn gây nên những hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe, bao gồm mù, vô sinh và điên loạn. Bên cạnh đó, các quan chức này còn ngâm nga rằng, phụ nữ “bình thường” kiểu gì cũng ít có nhu cầu tình dục. Trong Psychopathia Sexualis (tạm dịch: Bệnh lý tình dục) xuất bản năm 1886, nhà thần kinh học người Đức Richard von Kraff-Ebing tuyên bố điều mà ai cũng nghĩ là mình biết: “Nếu (phụ nữ) có đầu óc phát triển bình thường và được nuôi nấng tử tế thì nhu cầu tình dục của cô ta sẽ ít. Nếu không phải vậy, cả thế giới sẽ trở thành nhà thổ còn hôn nhân và gia đình là điều không thể.”* Việc đưa ra ý kiến rằng phụ nữ thích và thật sự cần giải phóng cực khoái thường xuyên hẳn đã từng gây sốc với nam giới và sỉ nhục với hầu hết phụ nữ. Có lẽ đến nay vẫn vậy.
Cơn điên cuồng phản đối thủ dâm đã có gốc rễ sâu xa trong lịch sử Thiên Chúa giáo – Do Thái giáo, nó lại tìm thấy sự ủng hộ đáng tiếc của giới y khoa trong cuốn sách A Treatise on the Disease Produced by Onanism (tạm dịch: Chuyên luận về bệnh tật do thủ dâm) của Simon André Tissot, xuất bản năm 1758. Tissot mặc nhiên thừa nhận các triệu chứng của giang mai và bệnh lậu, thời đó được coi chung là một bệnh. Nhưng ông hiểu nhầm rằng các triệu chứng này là dấu hiệu của hiện tượng suy tinh do quan hệ bừa bãi, mại dâm và thủ dâm.*
Một thế kỷ sau, năm 1858, một bác sĩ phụ khoa người Anh tên là Isaac Baker Brown (lúc đó là Chủ tịch Hội Y khoa London), đề xuất rằng hầu hết các bệnh của phụ nữ đều do hiện tượng quá phấn khích ở hệ thần kinh, trong đó dây thần kinh xấu hổ dẫn tới âm vật là thủ phạm chính. Ông liệt kê ra tám giai đoạn bệnh do thủ dâm ở nữ giới gây ra:
Hysteria;
Kích thích ở xương sống;
Động kinh cuồng khích;
Lên cơn nguyên thế*;
Lên cơn động kinh;
Si ngốc;
Hưng cảm;
Chết.
Baker Brown lập luận rằng cắt bỏ âm vật là cách tốt nhất để ngăn quá trình suy đồi đi từ lạc thú tội lỗi đến cái chết. Sau khi trở nên khá nổi tiếng và thực hiện vô số ca cắt bỏ âm vật, phương pháp của Baker Brown không còn được ưa chuộng nữa và ông ta bị trục xuất khỏi Hội Sản khoa London một cách nhục nhã. Sau đó, Baker Brown phát điên và giới y khoa Anh không còn tin tưởng phương pháp cắt bỏ âm vật nữa.*
Điều không may là công trình của Baker Brown lại tác động lớn lên hoạt động y tế trên khắp khu vực Đại Tây Dương. Ở Mỹ, người ta tiếp tục cắt bỏ âm vật đến tận thế kỷ XX như một phương pháp điều trị chứng cuồng khích, cuồng dâm và thủ dâm nữ. Đến tận năm 1936, Các bệnh sơ sinh và trẻ em của Holt, một tài liệu được đề cao trong trường y, vẫn còn đề nghị dùng phẫu thuật cắt bỏ hoặc đốt âm vật làm phương pháp chữa trị thủ dâm ở các em gái.
Đến giữa thế kỷ XX, khi phương pháp này cuối cùng trở nên tai tiếng ở nước Mỹ, nó được hồi sinh nhờ một lý do mới. Giờ thì thay cho việc xóa bỏ thủ dâm, người ta đề xuất phẫu thuật cắt bỏ âm vật phì đại cho mục đích thẩm mỹ.*
Trước khi trở thành mục tiêu cho phẫu thuật, âm vật đã bị các tác giả nam của các cuốn sách phác thảo giải phẫu học công phu phớt lờ trong nhiều thế kỷ. Phải đến tận giữa những năm 1500, một giáo sư người Venice tên là Mateo Renaldo Columbo, trước đó từng nghiên cứu giải phẫu học cùng Michelangelo, tình cờ vấp phải một khối u bí hiểm giữa hai chân của một người phụ nữ. Như mô tả trong cuốn tiểu thuyết lịch sử của Federico Andahazi, The Anatomist (tạm dịch: Bác sĩ giải phẫu), Columbo phát hiện ra điều này khi đang khám cho một bệnh nhân tên là Inés de Torremolinos. Columbo nhân thấy Inés trở nên căng thẳng khi ông bóp vào cái nút nhỏ này, và có vẻ như nó phình to ra khi ông chạm phải. Rõ ràng là điều này cần được nghiên cứu kỹ hơn. Sau khi kiểm tra các phụ nữ khác, Columbo thấy rằng tất cả đều có khối u từ trước đến nay “chưa được phát hiện” và tất cả đều phản ứng giống nhau khi được xoa bóp nhẹ nhàng vào đó.*
Tháng Ba năm 1558, Andahazi nói với chúng ta rằng Columbo tự hào báo cáo “khám phá” của mình về âm vật với trưởng khoa.* Như Jonathan Margolis giải thích trong O: The Intimate History of the Orgasm (tạm dịch: O: Lịch sử Thân mật của cực khoái), có thể Columbo đã không tiên liệu được phản ứng xảy ra sau đó. Vị giáo sư này “bị bắt trong lớp học chỉ sau mấy ngày, bị buộc tội dị giáo, báng bổ, hành nghề phù thủy và thờ cúng Satan, bị xét xử và bỏ tù. Bản thảo của ông bị tịch thu, và sau khi ông chết nhiều thế kỷ (khám phá) của ông vẫn không bao giờ được phép nhắc lại.”
Căn bệnh dẫn các phụ nữ chán nản đến với văn phòng của các bác sĩ vận hành máy rung cách đây một thế kỷ thường dẫn đến một nơi nào đó tồi tệ hơn nhiều ở châu Âu thời kỳ Trung cổ. Như nhà sử học Reay Tannahill giải thích: “Malleus Maleficarum (i486), cẩm nang vĩ đại đầu tiên của những người điều tra phù thủy, cũng gặp vấn đề như một bác sĩ tâm thần hiện đại khi chấp nhận rằng một loại phụ nữ (nhất định) có thể tin rằng cô ta đã giao phối với chính Quỷ sứ, một sinh vật to lớn, đen thui, gớm guốc, có dương vật khổng lồ và tinh dịch lạnh như nước đá.”* Nhưng không phải chỉ có các giấc mơ tình dục mới thu hút sự chú ý tàn bạo của các chuyên gia sợ cuồng dâm. Nếu một thợ săn phù thủy ở những năm 1600 phát hiện ra phụ nữ hoặc bé gái có âm vật to lớn dị thường, kẻ được gọi là “đầu vú của quỷ” này sẽ bị xử tội chết.
Châu Âu Trung cổ thường phải chịu các tai họa từ incubi và succubi, những nam nữ ác thần được cho là xâm nhập vào giấc mơ, vào giường ngủ, vào cơ thể của người sống. Thomas Aquinas và nhiều người khác tin rằng các ác thần này làm phụ nữ có thai trong những lần ghé thăm ban đêm bằng cách hiện thân là succubi (nữ ác thần làm tình với đàn ông đang ngủ để lấy tinh trùng), sau đó, dưới dạng incubi, đưa số tinh trùng này vào một phụ nữ (nam ác thần cưỡng hiếp phụ nữ đang ngủ). Những phụ nữ bị cho là mang thai với ác thần nhạy cảm với ánh sáng và bóng tối, và đều có nguy cơ cao bị tố giác là phù thủy cũng như sẽ bị xử lý thích đáng. Bất cứ câu chuyện nào những phụ nữ này kể ra liên quan đến nguồn gốc thật sự của cái thai đều chết theo họ.
* * *
Mặc dù ngày nay được coi là một trong những tiểu thuyết hay nhất từng được viết ra, Madame Bovary (Bà Bovary) bị tố là đồi bại trong lần đầu tiên ra mắt vào cuối năm 1856. Các công tố viên ở Paris khó chịu khi thấy Flaubert mô tả một cô gái nông dân ương bướng bất chấp các chuẩn mực và cặp với nhiều tình nhân. Họ thấy cô ta cần bị trừng phạt đúng mức. Flaubert biện hộ rằng tác phẩm này “rõ là đạo đức” theo các điều kiện đó. Dù sao đi nữa thì Emma Bovary cũng tự kết liễu đời mình trong cảnh khốn khổ, nghèo khó, tủi nhục và tuyệt vọng. Trừng phạt chưa đủ mức? Nói cách khác, người ta phản đối về việc sự trừng phạt dành cho Emma Bovary trong tác phẩm là chưa đủ đau đớn và kinh khủng, chứ không phải vấn đề cô ta có đáng phải chịu đau khổ đó hay không hoặc có quyền theo đuổi những đáp ứng tình dục ngay từ đầu hay không.
Nhưng ngay cả Flaubert và các công tố viên ghét đàn bà của ông cũng không bao giờ hình dung đến các hình phạt được cho là dành cho các phụ nữ thiếu đoan chính thuộc tộc người Tzotzil của Maya ở Trung Mỹ. Nhà nhân học kiêm linh trưởng học Sarah Blaffer Hrdy giải thích rằng “h’ik’al, con quỷ siêu dâm dục có dương vật dài hơn nửa mét” túm lấy những phụ nữ lẳng lơ, “mang họ về hang và cưỡng hiếp”. Người ta bảo với các bé gái rằng bất cứ phụ nữ nào không may mang thai với h’ik’al đều “sưng phồng lên và sinh con hết đêm này sang đêm khác, cho đến khi chết”.
Nhu cầu hiển nhiên về việc trừng phạt khao khát dục năng ở nữ giới như một thứ gì đó xấu xa, nguy hiểm và bệnh hoạn không chỉ giới hạn ở thời Trung cổ hay các ngôi làng Maya xa xôi. Theo đánh giá gần đây của Tổ chức Y tế Thế giới, mỗi năm có khoảng 137 triệu bé gái bị xẻo âm vật bằng một hình thức nào đó.
Trước khi có cuộc chiến chống ma túy, cuộc chiến chống khủng bố, hoặc cuộc chiến chống ung thư thì đã có cuộc chiến chống lại khát khao tình dục của phụ nữ. Đó là cuộc chiến diễn ra lâu hơn nhiều so với bất cứ cuộc chiến nào khác, và nạn nhân của nó đến nay lên đến hàng tỉ. Như bao nhiêu cuộc chiến khác, đây là cuộc chiến không có phần thắng, bởi kẻ thù công khai ở đây là một thế lực tự nhiên. Chúng ta cũng có thể tuyên chiến với ánh sao hoặc với chu kỳ của mặt trăng.
Không biết bao nhiêu củi mới thỏa mãn lửa, biết bao nhiêu sông cho thỏa đại dương; thần chết không thể chán tìm đến mọi sinh vật trên Trái đất, cũng như đàn ông không bao giờ chán phụ nữ đẹp.
• KAMA SUTRA
Có một sự vô ích đáng khinh cổ vũ cho thái độ quả quyết kéo dài nhiều thế kỷ – một nỗ lực chống lại vô vàn chứng cứ vốn chỉ rõ điều ngược lại – rằng phụ nữ hờ hững với những thôi thúc mãnh liệt của ham muốn tình dục. Hãy nhớ đến các chuyên gia y tế ở miền Nam trước nội chiến Mỹ đã quả quyết với các chủ đồn điền rằng nô lệ tìm cách phá bỏ xiềng xích thì không xứng là người được hưởng tự do và có phẩm giá, mà là những kẻ bị Drapetomania, chứng rối loạn trong y học mà cách chữa trị tốt nhất là dùng roi vụt thật đau. Và ai có thể quên được Tòa án dị giáo “có thiện chí” đã buộc Galileo phải từ bỏ những chân lý hiển nhiên với ông bởi vì chúng gây khó chịu cho những đầu óc bị quyền lực và giáo điều làm xơ cứng? Trong một góc khác của cuộc đấu tranh đang diễn ra này giữa thực tế và điều mà nhiều cộng đồng phụ hệ hậu nông nghiệp khẳng định phải là, phụ nữ nào dám phản đối cương lĩnh về một nữ giới rụt rè sẽ bị phỉ nhổ, lăng nhục, li dị, tách rời khỏi con cái, trục xuất, hỏa thiêu vì tội làm phù thủy, gán cho mang bệnh cuồng khích, chôn đến cổ trong cát sa mạc và ném đá đến chết. Họ và con cái – lũ chó đẻ – sẽ bị hiến tế cho các vị thần ngu dốt, nhục nhã, sợ hãi, biến thái và mâu thuẫn.
Nếu nhà tâm thần học Mary Jane Sherfey đúng khi bà nói rằng: “Sức mạnh của những thôi thúc quyết định thế lực cần có để trừ khử nó” (một quan sát hết sức Newton bằng sự đơn giản không thể bác bỏ của nó), vậy thì chúng ta làm gì để tạo nên một thế lực có thể tiêu diệt dục năng của phụ nữ?