Quân thống truy sát
Năm 1943, Tứ đại Đường khẩu tổ chức Đại đường hội tại Trùng Khánh, lần đó Tổ Gia dẫn theo Phong Tử Thủ. Do trước đây Chưởng môn Tây phái Tần Bách Xuyên không xử lý tốt mối quan hệ với bọn quân phiệt địa phương, nên thiếu chút nữa thì bị chúng làm cỏ. Tổ Gia túc trí đa mưu suýt nữa cũng đã thừa cơ mượn đao giết người, tiêu diệt Tần Bách Xuyên.
Tần Bách Xuyên là đệ tử ruột của Đại thần tiên Lưu Tòng Vân người Tứ Xuyên, Lưu Tòng Vân là nhân vật như thế nào? Ông ta chính là Chưởng môn đời thứ 14 của Đường khẩu Long Tu Nha thuộc Tây phái, người đề xướng ra “Nhất quán tiên thiên đại đạo”, từng làm quân sư của tên quân phiệt Tứ Xuyên Vương Lưu Tương. Năm xưa khi con đường thăng quan tiến chức của Trương Đan Thành rộng mở, Chưởng môn Tây phái khi đó là Đoàn Kim Sơn thì Lưu Tòng Vân chỉ giữ một chức quèn trong Đường khẩu. Nhưng Lưu Tòng Vân thông minh tuyệt đỉnh, can đảm có thừa, túc trí đa mưu. Sau khi Đoàn Kim Sơn qua đời, ông ta nhanh chóng trở thành Chưởng môn của Đường khẩu.
Năm 1936, Lưu Tương nhận ra thủ đoạn của Lưu Tòng Vân nên đã ra lệnh truy sát, Lưu Tòng Vân sợ hãi liền chạy trốn. Năm 1938, Lưu Tương bị bệnh chết, Lưu Tòng Vân lại trở về Tứ Xuyên định tiếp tục cai quản Đường khẩu, nhưng Đường khẩu đã bị Tần Bách Xuyên giải quyết tận gốc từ lâu, nên vị trí của ông ta đã chẳng còn. Lưu Tòng Vân dù căm hận vô cùng, cũng đành bất lực, Tần Bách Xuyên đã nói một câu khiến ông ta chết điếng: “Trước khi Lưu Tương chết có dặn rằng, một là phải chiến đấu đến cùng để rửa sạch nỗi nhục cho bang hội. Hai là truy sát Lưu Tòng Vân để rửa hận.” Giọng điệu ấy rõ ràng có ý nói: Lưu Tòng Vân, ông còn sống là may lắm rồi, sao còn dám xuất đầu lộ diện đòi làm Đại Sư bá? Từ đó Lưu Tòng Vân ẩn náu ở Thượng Hải, sau giải phóng bị Tòa án nhân dân thành phố Thành Đô kết án tử hình, nhưng hoãn thi hành án, về sau mắc bệnh qua đời.
Tần Bách Xuyên là kẻ lòng dạ nham hiểm, thủ đoạn độc ác, nhưng cũng là kẻ ưa giữ thể diện. Khi đó, hắn không hề để lộ cho ai biết là mình đang có xích mích với quân phiệt. Đường hội họp đến ngày thứ hai thì bọn chân tay gác bên ngoài báo tin rằng có một nhóm người mang theo súng đang kéo đến đây.
Tần Bách Xuyên lúc đó vô cùng giận dữ, rút súng giắt bên hông quát lớn: “Mẹ kiếp! Ức hiếp người quá lắm rồi đấy.”
Tổ Gia cảm thấy sắp có chuyện xảy ra liền nói: “Đừng có nóng! Cứ tạm lánh trước đi đã!”
Mấy vị Bá đầu cũng rút súng và lên sẵn đạn, mọi người bắt đầu giải tán. Quân đội chính quy khác bọn thổ phỉ trên núi. Bọn họ hoạt động có sách lược, nhóm người kia chỉ là hư trương thanh thế, đánh động trước nhằm do thám thực lực đối phương, còn thực ra các nẻo đường quan trọng dẫn lên núi đều đã bố trí sẵn quân mai phục vòng trong vòng ngoài, mấy chục người tham dự Đại đường hội vừa chạy tới chỗ rẽ, thì từ trong rừng một toán người lao ra xả súng.
Phong Tử Thủ vội đẩy Tổ Gia ngã nhào xuống đất, còn mình lãnh một viện đạn, cũng may chỉ bị bắn trúng vào cánh tay trái.
“Tiểu Lục Tử!” Tổ Gia đau lòng kêu lên.
Tổ Gia biết đã xảy ra chuyện lớn. Bọn người này đều là quân đội chính quy. Tần Bách Xuyên phen này chọc vào ổ kiến lửa rồi.
Mấy tên tay chân chạy phía trước đều bị bắn chết, số còn lại nấp trong nhà dân, sẵn sàng bắn trả. Người Tứ Xuyên thường làm theo kiểu nhà khung có lan can, được xây dựng tựa vào thế núi, vừa cao vừa sâu. Phong Tử Thủ tuy bị thương, nhưng vẫn theo sát phía sau Tổ Gia, luôn sẵn sàng đỡ đạn cho ông.
Tổ Gia cau mày suy nghĩ, tìm cách thoát thân. Ông nhìn những người khác. Tần Bách Xuyên kể cũng là kẻ to gan táo tợn, cầm súng vừa bắn trả vừa chửi rủa. Tiền Diệu Lâm nghe thấy tiếng súng nổ, hai mắt đảo ngược đảo xuôi, trong lòng tuy rất sợ hãi, nhưng lại không muốn để mất đi cái uy của Đại Sư bá nên cố tỏ vẻ không sao. Còn Giang Phi Yến ngược lại vẫn rất bình tĩnh, bà nhìn Tổ Gia, lúc đó Nhị Bá đầu cũng có mặt. Sau khi thoát khỏi nguy hiểm, Nhị Bá đầu nói với các huynh đệ của Đường khẩu: “Lúc đó trong tâm trí của Giang Phi Yến chỉ có mình Tổ Gia mà thôi.”
Thực ra, các huynh đệ trong Đường khẩu từ lâu đã bàn ra tán vào rằng Giang Phi Yến có tình cảm đặc biệt với Tổ Gia. Bởi họ thấy bà luôn tỏ thái độ lạnh lùng với tất cả mọi người, nhưng chỉ tươi cười với duy nhất một mình Tổ Gia.
Trong lúc Tổ Gia đang mải suy nghĩ thì bất chợt nghe thấy tiếng hò hét của quân lính ở bên ngoài: “Bắt sống Tần Bách Xuyên!”
Tổ Gia thoạt nghe liền hiểu ngay ngọn nguồn của vấn đề. Thứ nhất, đối phương chỉ nhằm vào Tần Bách Xuyên, vì Đường khẩu mở đại hội là việc hết sức cơ mật, không ai biết đó là buổi hội họp của Tứ đại Đường khẩu, cho nên đối phương chỉ biết rằng Tần Bách Xuyên có mặt ở đó chứ không hề biết những người khác làm gì. Thứ hai, bọn chúng cần bắt sống chứ không phải xử tử tại chỗ.
Tổ Gia ngẫm nghĩ một lát rồi nói với Tần Bách Xuyên: “Tần gia! Tôi có một kế có thể giúp mọi người thoát hiểm.”
Tần Bách Xuyên khom người nói: “Thoát hiểm hay không không quan trọng, cùng lắm là chết chứ gì!”
Tổ Gia nói: “Chúng ta chết cũng chẳng sao, nhưng còn mấy chục huynh đệ, nỡ lòng nào lại để họ phải chết một cách oan uổng?” Nói xong, Tổ Gia nhìn khắp một lượt, câu nói này khiến cho các Bá đầu và bọn chân tay cảm thấy ấm lòng, mọi người đều nhìn Tổ Gia với ánh mắt đầy hy vọng.
Tần Bách Xuyên thở dài nói: “Vậy Tổ Gia có kế sách gì?”
Tổ Gia đưa mắt nhìn ông ta rồi nói: “Tôi nghe thấy đối phương hô hào phải bắt sống Tần gia, tôi đoán chắc giữa Tần gia với đối phương đã xảy ra sự hiểu lầm gì đó, bởi vậy họ không muốn sát hại Tần gia ngay…” Nói đến đây Tổ Gia ngừng lại nhìn chằm chằm vào Tần Bách Xuyên.
Sự việc đã đến nước này, tuy mọi người đều không nói gì, nhưng trong lòng đã bắt đầu oán hận Tần Bách Xuyên. Đại hội Đường khẩu tổ chức trên địa bàn của hắn ta, kết quả bị người khác bao vây, thế mà hắn chẳng hề hay biết gì, vậy mà cũng đòi làm Đại Sư bá.
Tần Bách Xuyên nhìn mọi người, nói: “Chắc là chuyện năm xưa của Lưu gia (chỉ Lưu Tòng Vân). Rất nhiều người đã bị Lưu Tòng Vân lừa. Gần đây Trung đoàn trưởng Trung đoàn Độc lập Quốc dân Đảng đã tới tìm tôi, đòi bắt tôi trả lại số tiền năm xưa đã bị Lưu gia lừa gạt. Tôi nói oan có đầu nợ có chủ, một xu cũng không trả. Không ngờ hắn lại để bụng chuyện này.”
Tổ Gia nghe xong, đại khái hiểu đôi ba phần, nhưng ông vẫn cảm thấy có điều gì đó không ổn. Tần Bách Xuyên dù gì cũng là kẻ có máu mặt ở Tứ Xuyên, từng qua lại với bọn quan chức cấp cao trong chính phủ. Một tên Trung đoàn trưởng lại dám ra lệnh cho thuộc hạ phải bắt sống ông ta thì chắc chắn phải có sự chỉ thị ở trên. Dù gì Trùng Khánh cũng là thủ phủ của chính quyền Quốc dân thời bấy giờ, nên chẳng kẻ nào to gan đến mức dám điều cả quân đội chính quy đến đây gây chuyện.
Tổ Gia đã đoán ra chút manh mối nhưng vẫn điềm tĩnh nói: “Tôi cảm thấy chẳng có gì to tát cả, chỉ là hiểu lầm mà thôi, tôi có kế hoãn binh, nhưng…”
Tần Bách Xuyên hỏi: “Nhưng sao? Xin Tổ Gia cứ nói!”
Tổ Gia nói: “Nhưng Tần gia phải chịu thiệt thòi một chút.”
Tần Bách Xuyên sửng sốt: “Ông nói sao?”
Tổ Gia nói: “Bây giờ chúng ta đang bị bao vây, trong tay chỉ có vài khẩu súng, hoặc là cùng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, Phái Giang Tướng sẽ diệt vong từ đây, hoặc là Tần gia giả vờ đầu hàng, chúng tôi đóng giả làm thuộc hạ của ông, bắt trói ông lại để giao cho đối phương. Đợi sau khi thoát được, chúng tôi sẽ lập tức móc nối các mối quan hệ giải cứu cho ông.”
Tần Bách Xuyên nghe vậy bần thần cả người, Tổ Gia thấy vậy liền nói tiếp: “Thế này đi, tôi đoán bọn lính ngoài kia chẳng mấy tên biết mặt Tần gia. Tôi sẽ cải trang, làm Tần gia. Mọi người trói tôi lại rồi giao nộp cho chúng, sau đó hãy tìm đường mà thoát thân.”
Giang Phi Yến nghe vậy, bất giác kêu lên: “Tổ Gia!”
Thực ra Tổ Gia chỉ dùng chiêu lùi một bước tiến hai bước, sự việc đã đến nước này, tất cả mọi người đều nhìn Tần Bách Xuyên. Còn Tần Bách Xuyên đã ở vào thế leo lên lưng hổ khó mà xuống được. Tổ Gia quả là thâm hiểm.
Sống cùng sống, chết cùng chết. Đó là câu cửa miệng của người đứng đầu Đường khẩu. Đến khi xảy ra chuyện thật, thân là Đại Sư bá, hơn nữa lại là kẻ gây ra chuyện rắc rối này, lẽ ra Tần Bách Xuyên phải tự đứng ra giải quyết, thế mà bây giờ lại phải đợi người ta nhắc nhở đến nơi. Thật không đáng mặt chút nào!
Tần Bách Xuyên vô cùng căm hận Tổ Gia! Nhưng hắn như cá nằm trên thớt nên cũng hết cách, Tần Bách Xuyên đành phải ra vẻ cao thượng: “Sao Tổ Gia lại nói vậy? Người nào làm người nấy chịu. Tần Bách Xuyên tôi từ khi gia nhập Đường khẩu đã xem nhẹ sự sống chết rồi. Những lời Tổ Gia vừa nói đã làm tôi thức tỉnh, các ông cứ trói tôi lại rồi giao cho bọn họ, nếu tôi có gì bất trắc, Long Tu Nha sẽ được giao phó cho đại đệ tử của tôi là Phương Hóa Thiên. Mong Tổ Gia và các vị Sư bá tận tâm giúp đỡ, đừng để cho cơ nghiệp của Long Tu Nha bị phá hủy trong một sớm một chiều!”
Tần Bách Xuyên cũng thật nham hiểm, trước mặt tất cả huynh đệ Tứ đại Đường khẩu hắn ta tuyên bố rất hùng hồn, lại còn giao phó rõ ràng chuyện hậu sự. Ý là cho dù ta có chết thì Tổ Gia nhà ngươi cũng đừng hòng can thiệp vào việc của Đường khẩu Tây phái. Hôm nay tất cả có lớn có bé ở đây, sau này ông mà có ý đồ gì thì sẽ bị coi là kẻ bội tín bội nghĩa.
Mấy tên tay chân trói Tần Bách Xuyên lại, Tổ Gia hô to ra phía ngoài: “Các vị trưởng quan, chúng tôi đã bắt được Tần Bách Xuyên rồi. Xin giao nộp cho các ngài! Mong các ngài hãy cho chúng tôi một con đường sống!”
Bọn người bên ngoài nghe thấy vậy liền đáp: “Các ngươi hãy quẳng hết súng ra đây!”
Tổ Gia đưa mắt ra hiệu cho mọi người. Mọi người liền quăng mấy khẩu súng ra ngoài.
Bọn người bên ngoài lại hô to: “Giải Tần Bách Xuyên ra đây.”
Hai tên tay chân giải Tần Bách Xuyên đi trước, những người còn lại tất cả đều giơ tay theo sau.
Khi tới gần chỗ tên cầm đầu, Tổ Gia mỉm cười nói: “Trưởng quan, Tần Bách Xuyên bị chúng tôi bắt được rồi. Chúng tôi vốn không liên quan đến hắn. Cầu xin trưởng quan hãy cho chúng tôi một con đường sống, chúng tôi vẫn còn cha mẹ, vợ, con ở nhà. Cầu xin…”
Không đợi Tổ Gia nói hết câu tên tiểu tử đó liền xông lên vả một cái vào miệng Tổ Gia: “Mẹ kiếp nhà người! Đừng phí lời nữa!” Sau đó, hắn quay lại nhìn đám thuộc hạ rồi xua tay: “Giải đi hết cho ta!”
Phong Tử Thủ tức điên lên định giết chết hắn, nhưng Tổ Gia giữ anh ta lại.
Tổ Gia đang băn khoăn không biết nên chạy trốn vào lúc nào, trước đó mọi người đã bàn bạc, nếu chúng tha cho mọi người là tốt nhất. Còn nếu không trên đường áp giải, khi tới chỗ đường núi dễ ẩn nấp, có địa hình thuận lợi, nhân lúc chúng không chú ý, mọi người sẽ tìm cơ hội bỏ trốn.
Tổ Gia nói với mọi người, khi chạy trốn mọi người đừng để ý đến nhau. Mỗi người một ngả, chia thành nhiều tốp nhỏ mà chạy. Như vậy vừa phân tán sự chú ý của chúng, vừa không đến nỗi vì cứu người già mà người trẻ phải bỏ mạng. Sau khi thoát được, mọi người sẽ gặp nhau tại chỗ đã hẹn.
Khi chạy trốn phải nghe khẩu lệnh của Tổ Gia. Ông ho một tiếng, sau đó sẽ cùng với Phong Tử Thủ phi tiêu, các huynh đệ trong Đường khẩu đều biết trình độ phi tiêu của hai người rất lợi hại. Tuy đã nộp hết súng, nhưng trong túi vẫn còn phi tiêu. Đợi sau khi Tổ Gia và Phong Tử Thủ cùng phóng tiêu, tất sẽ khiến bọn chúng náo loạn, lúc đó mọi người nhân cơ hội mà chạy trốn.
Tổ Gia nhìn Phong Tử Thủ, cánh tay trái vẫn còn rỉ máu, Tổ Gia nhìn anh ta rồi gật đầu, anh ta cũng nhìn Tổ Gia rồi gật đầu lại. Tổ Gia lại quay sang nhìn Giang Phi Yến, cả hai người đều không nói gì. Đây là thời khắc không biết sống chết thế nào. Một khi cuộc chiến bắt đầu, súng đạn chẳng chừa bất kỳ ai, ai sống ai chết cũng không thể nói trước được.
Ngã rẽ cuộc đời dường như luôn xuất hiện điều kỳ diệu, Tổ Gia đang vừa đi vừa quan sát địa hình xung quanh. Bỗng trên bầu trời có tiếng kêu ù ù, trong thời kỳ chiến tranh, mọi người vô cùng nhạy cảm với thứ âm thanh này, đó là dấu hiệu của một trận tập kích trên không.
Từ năm 1938, Nhật Bản điên cuồng dội bom xuống Trùng Khánh suốt 5 năm ròng, hòng phá hủy thủ đô thứ hai của Quốc dân Đảng. Thực ra, đối với Trùng Khánh, Nhật Bản ngoài ném bom oanh tạc thì cũng chẳng còn cách nào khác. Trùng Khánh được thiên nhiên vô cùng ưu ái. Nơi đây có địa thế vô cùng thuận lợi, vừa có chiến hào Trường Giang hiểm yếu, lại có núi non bao bọc làm bình phong, suốt ngày sương mù bao phủ dày đặc, dễ phòng thủ khó tấn công.
Vì thế, bọn người Nhật Bản bắt đầu dùng cách “oanh tạc điên cuồng”, để chặt đứt ranh giới giữa tiền tuyến với hậu phương, giữa quân giao chiến với dân thường. Sau mỗi đợt oanh khích, đạn pháo bay tứ tung, cả Trùng Khánh chìm trong biển lửa, biết bao dân thường vô tội bị chết vì bom đạn. Trên đường phố, trong các ngõ hẻm, sau mỗi đợt oanh tạc, thi thể nằm ngổn ngang.
Lúc này máy bay đã cận kề đỉnh đầu, tên cầm đầu hét lên: “Nằm xuống mau!” Hai mươi mấy tên lính lập tức ôm đầu nằm rạp xuống đất.
Tổ Gia thấy thời cơ đã đến liền vẫy tay: “Chạy!”
Tất cả các A Bảo chạy tán loạn. Toán lính đang nằm rạp trên mặt đất liền xả súng về phía các A Bảo, vừa bắn được vài phát thì bom dội xuống ngay trên đầu, một quả rơi ngay giữa đường, đùng một tiếng, đất cát bay mù mịt, cây cối nằm ngả nghiêng. Giang Phi Yến và mấy nữ A Bảo vừa chạy khỏi chỗ quả bom rơi không xa thì bị một sức ép dữ dội tràn đến hất họ ngã nhào. Tổ Gia đã chạy được một quãng xa, thấy vậy bất chấp lửa đạn mạo hiểm quay lại. Giang Phi Yến đã bất tỉnh, Tổ Gia bế bà chạy vào trong rừng, lại một quả bom nữa rơi xuống, lửa đạn khiến cho hai mươi mấy tên lính kia không dám ngẩng đầu lên. Phong Tử Thủ luôn theo sát Tổ Gia, họ nhanh chóng mất hút trong cánh rừng mênh mông.
Đến canh hai, mọi người gặp lại nhau ở sau núi. Các Đường khẩu lần lượt kiểm tra quân số, tất cả thiếu mất bảy người, bao gồm cả Tần Bách Xuyên. Không biết ông ta đã trốn thoát chưa, hay là bị trúng đạn mà chết trong lúc hoảng loạn.
Giang Phi Yến dần tỉnh lại, một mảnh bom đã găm vào vai trái của bà, Tổ Gia xé áo của mình để băng bó cầm máu vết thương. Ông nói với mọi người: “Yến tỷ và Tiểu Lục Tử đều bị thương, phải nhanh chóng tìm đại phu mới được.”
Nhị Bá đầu nói: “Hay là cứ về Đường khẩu của Tần gia trước đã, chưa biết chừng Tần gia cũng đang ở đó, đến lúc đó hãy tìm đại phu.”
Phái Giang Tướng có quy định, phàm là mở Đại đường hội, để che mắt bọn gián điệp, không được hội họp ngay tại Đường khẩu, mà phải tìm một nơi yên tĩnh cách xa địa bàn, để đề phòng có kẻ gây tai họa. Hơn nữa về địa điểm tổ chức, ngoài những người tham dự thì không một ai khác biết được. Tham gia Đại đường hội đều là Đại Sư bá và một số thành phần tinh anh của các Đường khẩu. Một khi có chuyện xảy ra sẽ can hệ đến sự tồn vong của phái Giang Tướng, cho nên đó là điều hết sức cơ mật. Địa điểm tổ chức lần này cách Đường khẩu Long Tu Nha khoảng 20 dặm, là nơi mà Tần Bách Xuyên đã vất vả tìm chọn.
Tổ Gia nhìn Nhị Bá đầu rồi lắc đầu: “Rất có thể Đường khẩu của Tần gia đã bị xóa sổ rồi.”
Mọi người nghe xong đều hoảng hốt kêu lên.
Tiền Diệu Lâm nãy giờ vẫn im lặng chợt lên tiếng: “Tổ Gia phân tích rất có lý. Chúng đã có thể bao vây chúng ta, chứng tỏ chúng đã biết rất rõ hành tung của chúng ta. Bọn họ lại dám bắt sống Tần gia, như vậy Đường khẩu của ông ấy chắc chắn đã bị phá hủy rồi.”
Lúc này một người trong Đường khẩu Long Tu Nha nói: “Tổ Gia, nói như vậy thì chúng tôi không dám đi tìm đại phu trong thành đâu. Chúng tôi mà thò mặt ra lúc này, chắc chắn sẽ bị tóm ngay, đi qua khỏi ngọn núi này có một ngôi làng, ở đó có thầy lang. Lúc nhỏ tôi vẫn thường mời ông ta tới nhà khám bệnh. Cứ để xem ông ấy có cứu được không đã!”
Tam Bá đầu nghe vậy liền nói: “Ngọn núi này thế rất dốc, vượt núi vào lúc đêm khuya, e là rất nguy hiểm.”
Tổ Gia không phản ứng gì, quay sang nói với Tiền Diệu Lâm: “Tiền gia, tôi thấy thế này, tôi sẽ dẫn mấy người đi tìm đại phu, những người còn lại do Tiền gia dẫn đầu, sau khi xuống núi hãy cải trang rồi ẩn nấp để nghe ngóng tung tích của Tần gia…” Nói nửa chừng Tổ Gia ghé sát vào tai Tiền Diệu Lâm nói nhỏ vài câu, Tiền Diệu Lâm gật gật đầu.
Thế là mọi người chia thành hai ngả, đi theo Tổ Gia có Nhị Bá đầu, Tam Bá đầu, Phong Tử Thủ, còn có cả mấy nữ A Bảo của Nam phái Việt Hải Đường và mấy người dẫn đường của Long Tu Nha. Họ lần lượt cõng Giang Phi Yến thay cho Tổ Gia.
Đến canh năm, cuối cùng cũng tới được nơi mà tên tay chân kia nói. Tổ Gia nhìn quanh, đó là một thôn trang của người dân tộc Miêu. Tên tay chân kia tiến đến gõ cửa, một lão thầy lang khoác áo đi ra. Vừa mở cửa ông ta giật thót mình khi thấy có tới cả chục người đứng trước mặt. Tên tay chân vội chào rồi nói: “Làm phiền lão tiên sinh, mấy người bạn của tôi đi buôn ngựa, ban ngày khi đi qua núi, không may gặp phải trận oanh tạc của bọn giặc, lại bị bọn thổ phỉ truy đuổi khiến hai người bị thương. Xin lão tiên sinh cứu mạng!”
Lão thầy lang liền nói: “Mau vào đi!”
Sau khi vào nhà, dưới ánh đèn lờ mờ, Tổ Gia mới nhìn rõ. Đó là một ông lão khoảng chừng ngoài 50 tuổi, chòm râu phất phơ, trông như một ông tiên.
Lão thầy lang xem xét kỹ vết thương của Giang Phi Yến và Phong Tử Thủ, sau đó đi vào trong nhà rồi mang ra một cái hộp. Sau khi mở ra, mọi người nhìn vào thì thấy bên trong nào là dao, kìm, nhíp kẹp, kim, còn có cả một đống lọ đựng thuốc nước.
Lão thầy lang phải xử lý vết thương cho Giang Phi Yến và Phong Tử Thủ. Theo Đông y, việc xử lý bên ngoài vết thương đòi hỏi phải tiến hành hết sức cẩn thận. Vết thương của Giang Phi Yến khá nặng, nên lão thầy lang phải xử lý cho bà trước.
Trước tiên, lão thầy lang lấy một túi thuốc bột đổ vào trong niêu đất rồi cho nước vào, sau đó cho thêm một ít thảo dược, sắc qua một lát rồi lại đổ ra bát, ông bảo Tổ Gia đỡ Giang Phi Yến rồi từ từ bón cho bà.
“Đây là thụy thánh tán1, uống vào sẽ không cảm thấy đau nữa đâu!” Lão thầy lang lẩm bẩm. Tổ Gia nghe nói thế là biết ngay, trong rất nhiều sách Đông y đều có ghi chép về thụy thánh tán, trước khi mổ vết thương mà uống vào thì người bị thương sẽ bị gây mê ngay lập tức.
Thấy Giang Phi Yến đã uống xong bát thuốc, lão thầy lang liền lấy con dao nhọn rồi hơ trên lửa than, làm như vậy để khử trùng trong nhiệt độ cao. Lão vừa hơ vừa nói với Tổ Gia: “Hãy để cô ấy nằm thẳng trên giường, rồi cởi áo ra cho cô ấy.”
Tổ Gia ngẩn người một lát, rồi vội vẫy tay gọi nữ A Bảo đứng bên cạnh: “Các người hãy tới giúp lão tiên sinh một tay.” Sau đó, nói với những người khác: “Các người theo ta ra ngoài đợi.”
Sau khi uống thuốc, Giang Phi Yến dần chìm vào cơn mê, nhưng vẫn còn tỉnh táo đôi chút. Bà cố kéo tay Tổ Gia lại, tỏ ý không muốn Tổ Gia rời đi, Tổ Gia nhẹ nhàng gỡ tay Giang Phi Yến rồi nói khẽ: “Yến tỷ, chúng ta đứng chờ ở bên ngoài, chẳng mấy chốc mà xong thôi.”
Mất chừng khoảng thời gian một tuần nhang, lão thầy lang đi ra, ông vừa lau tay vừa nói với Tổ Gia: “Mảnh đạn đã được gắp ra rồi. Vết thương đã được đắp thuốc và khâu lại, nhưng vẫn phải uống thuốc trong vài ngày, nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một tuần thì mới khỏi hẳn.”
Tổ Gia bước vào thấy Giang Phi Yến vẫn nằm thiếp thiếp trên giường, vội chắp tay thi lễ nói: “Đa tạ lão tiên sinh.”
Lão thầy lang không nói gì, lại bắt đầu sắc thụy thánh tán, Phong Tử Thủ thấy vậy bèn cười, nói: “Lão tiên sinh, không cần đến thứ thuốc gây mê đó đâu, tôi có thể chịu được. Vết thương của tôi không sâu, ông chỉ cần gắp viên đạn ra là được.”
Dường như lão thầy lang không nghe thấy lời Phong Tử Thủ, sắc một lát ông đổ thuốc vào bát rồi đưa cho Phong Tử Thủ. Anh ta chỉ còn biết nhìn Tổ Gia rồi ngẩng cổ lên uống một hơi.
Lão thầy lang lúc này mới nói: “Ta đã cho thêm chỉ huyết liên, nó không chỉ có tác dụng gây mê, mà còn có hiệu quả cầm máu.” Tổ Gia nghe nói vậy liền gật đầu.
Một lúc sau Phong Tử Thủ cảm thấy buồn ngủ, liền nằm xuống giường, từ từ đi vào giấc ngủ.
Lão thầy lang cũng cầm dao hơ trên lửa than để khử trùng, sau đó rạch vết thương, thời gian mổ vết thương hơi lâu, máu tụ bên trong đã đen sì. Lão thầy lang cẩn thận rạch từng lớp da thịt một rồi từ từ dùng nhíp gắp viên đạn ra, sau đó bôi một ít thuốc mỡ màu vàng vào vết thương, cuối cùng dùng một cái kẹp nhỏ gắp một sợi chỉ tơ trong một cái lọ nhỏ rồi xâu vào kim, sau đó từ từ khâu kín vết thương.
Loại chỉ tơ này Tổ Gia đã từng nhìn thấy. Năm xưa, khi Đại Bá đầu gây gổ với bọn phản động rồi bị thương cũng phải dùng sợi chỉ tơ này để khâu vết thương, gọi là tang bì tuyến. Chính là dùng vỏ rễ cây dâu, bóc bỏ lớp vỏ thô bên ngoài, từ từ tách lấy những sợi gân mảnh và dai bên trong, sau đó dùng một sợi khác bọc bên ngoài, vuốt vài lần rồi lấy ra. Lúc này, sợi gân rễ cây dâu sẽ biến thành từng sợi tơ óng ánh và mềm mại, cho những sợi tơ này vào trong lọ thuốc nước để giữ ẩm và độ mềm, khi dùng thì lấy ra xâu vào chiếc kim nhỏ là có thể khâu kín vết thương.
Ưu điểm lớn nhất của tang bì tuyến đó là không cần tháo chỉ, khi vết thương liền miệng, sợi chỉ này sẽ tự tiêu vào trong cơ thể.
Sau khi trời sáng, Giang Phi Yến và Phong Tử Thủ đều tỉnh dậy, Tổ Gia mừng rỡ nói: “Cuối cùng cũng tỉnh rồi, Yến tỷ và Tiểu Lục Tử cứ ở đây nghỉ ngơi tĩnh dưỡng vài ngày. Còn ta sẽ dẫn các huynh đệ khác quay về thành nghe ngóng tin tức.”
Vì Giang Phi Yến bị mất quá nhiều máu nên vẫn còn rất yếu, bà khẽ nói: “Đa tạ đệ đã liều chết cứu tỷ.”
Tổ Gia nói: “Đều là người một nhà cả, đừng nói những lời khách sáo như vậy! Yến tỷ cứ yên tâm nghỉ ngơi dưỡng thương.”
Phong Tử Thủ ngồi dậy, duỗi duỗi cánh tay rồi cười nói: “Con không sao rồi. Tổ Gia! Con sẽ quay về thành với sư phụ.”
Tổ Gia xua tay: “Không được. Ta bảo ngươi ở lại là để bảo vệ cho Đại Sư bá Yến tỷ đó.”
Giang Phi Yến nghe nói vậy, hai mắt đỏ hoe, ngoảnh đầu quay đi.
CHỈ THỊ TIÊU DIỆT TỐI CAO CỦA QUỐC DÂN ĐẢNG
Sau khi cải trang xong, Tổ Gia dẫn theo mấy A Bảo xuống núi, quay lại nơi tổ chức Đại đường hội ngày hôm qua.
Nhị Bá đầu thấy vậy ngẩn người ra thắc mắc: “Tổ Gia! Chúng ta quay lại đây làm gì? Hôm qua vừa xảy ra chuyện ở đây mà.”
Tổ Gia cười cười rồi nói: “Thế ngươi nói xem lúc này ở đâu là an toàn nhất?”
Nhị Bá đầu nói: “Về nhà. Trở về Đường khẩu của chúng ta.”
Tổ Gia nói: “Sai rồi! Ở đây mới là an toàn nhất.”
Nhị Bá đầu vẫn ngơ ngác không hiểu.
Tam Bá đầu lập tức hiểu ra ngay, hắn ta nói: “Tổ Gia nói đúng đấy. Hôm qua chúng ta đã bị bắt ở đây, bọn người kia có nằm mơ cũng không nghĩ rằng chúng ta lại dám quay trở lại.”
Tổ Gia tiếp lời: “Lần này quân đội chính quy ra tay vây quét Tần gia, ta luôn cảm thấy có nhân vật nào đó đứng đằng sau. Tình hình của chúng thế nào chúng ta không hề hay biết, tốt nhất mọi chuyện đều phải hết sức cẩn thận.”
Nói xong, Tổ Gia bảo mọi người giải tán, còn mình giương một bức phướn bán thuốc, làm ra vẻ giống như một thầy lang giang hồ, vừa đi vừa hô: “Diệu thủ hồi xuân, chuyên trị tổn thương do va đập. Đậu nhi nha nhi xuất, lão không lão khoan vô.”
Đó là ám hiệu, thông thường sau khi Đường khẩu giải tán, nếu lại muốn tái xuất giang hồ thì phải đọc ra ám hiệu này ở nơi có các A Bảo tụ họp. Ở đây có mấy từ tiếng lóng: đậu nhi chỉ cô nương, tức nữ A Bảo. Nha nhi chỉ chàng trai, tức nam A Bảo. Lão không và lão khoan đều chỉ đối thủ, kẻ thù. Trọng điểm của câu nói này nằm ở vế sau, ý muốn nói với mọi người rằng, gió lớn đã qua rồi, các A Bảo lại có thể bắt đầu hoạt động trở lại.
Một lúc sau, có một ông lão tóc bạc phơ bước về phía Tổ Gia: “Tiên sinh có phương thuốc gia truyền gì vậy?”
Tổ Gia cười nói: “Một phương thuốc gia truyền có thể tạo phúc cho muôn đời.”
Ông lão cười: “Tiên sinh hãy đi theo lão, tới khám cho cái chân của thằng út nhà lão.”
Tổ Gia liền theo ông lão đi vào một con hẻm nhỏ, các A Bảo còn lại cũng lần lượt bám theo.
Ông lão khoảng bảy tám mươi tuổi này chính là Tiền Diệu Lâm cải trang. Mấy câu mà tối hôm qua Tổ Gia nói thầm vào tai ông ta chính là bảo ông ta hãy dẫn các huynh đệ về nơi Đại đường hội bị vây bắt vừa rồi. Chỗ đó tạm thời là nơi an toàn nhất, sau đó mọi người sẽ dùng ám hiệu để gặp nhau. Tại sao phải dùng ám hiệu, bởi Tổ Gia không biết lúc đó trong số những người có mặt có kẻ nào làm nội gián hay không. Tổ Gia còn nhắc nhở Tiền Diệu Lâm phải trông chừng mọi người, không cho phép bất kỳ ai đi lung tung.
Họ đi vào một căn nhà được ngụy trang kín đáo, tất cả mọi người đều có mặt, duy chỉ thiếu một mình Tần Bách Xuyên. Tổ Gia cau mày hỏi: “Vẫn chưa có tin về Tần gia sao?”
Mọi người lắc đầu.
Tổ Gia không phải sợ ông ta chết, mà là sợ ông ta bị bọn Quốc dân Đảng bắt được, vì lúc này vẫn chưa biết rõ rốt cuộc đối phương muốn gì, ngộ nhỡ chúng muốn triệt phá phái Giang Tướng. Khi bắt được Tần Bách Xuyên tất sẽ dùng cực hình. Một khi Tần Bách Xuyên không chịu nổi tất sẽ khai ra hết, như vậy Tứ đại Đường khẩu sẽ tiêu đời. Tổ Gia chỉ mong Tần Bách Xuyên bị bắn chết trong lúc hỗn loạn.
Những năm qua, điều mà Tổ Gia luôn lo lắng đó chính là việc Đường khẩu Long Tu Nha thuộc Tây phái do Tần Bách Xuyên cai quản. Tần Bách Xuyên bước đi khá mạnh bạo, gan góc, thâm hiểm và cũng rất thông minh, có thể kết thành bè đảng với các cánh quân của bọn quân phiệt ở phía Tây và những nhân vật quan trọng trong chính phủ. Đó tuy là việc tốt nhưng cũng có phần không tốt. Tổ Gia không bao giờ muốn để phái Giang Tướng xích lại quá gần bọn Quốc dân Đảng. Tuy lợi ích cùng chia, nhưng có thể xảy ra mâu thuẫn xung đột bất cứ lúc nào, đối phương biết rõ anh như lòng bàn tay thì muốn tiêu diệt anh cũng quá dễ dàng.
Trước đó, Tổ Gia cũng đã từng cảnh báo Tần Bách Xuyên, nhưng ông ta không chịu nghe, trái lại còn tỏ ra xem thường. Ông ta không phải là không nghĩ đến những điều Tổ Gia lo lắng, chỉ là vì quá tự tin, ông ta nói: “Tôi đã gột sạch rồi, có vẻ như không có ai cho rằng tôi là kẻ lừa gạt đâu.”
Lời nói của Tần Bách Xuyên quả không sai. Ông ta có sở trường về xuất Thiên, dàn cục vô cùng hoàn hảo. Thật thật giả giả, giả giả thật thật, cuối cùng biến giả thành thật, đến nỗi khiến cho nhiều nhân vật quan trọng trong Quốc dân Đảng đều cho rằng ông ta thực sự có tài. Một ví dụ điển hình đó là khi sư phụ của ông ta là Lưu Tòng Vân bị Lưu Tương vạch trần âm mưu rồi truy sát, ông ta không những không ra khỏi môn phái, mà trái lại còn giữ chức Đại Sư bá của Đường khẩu. Nguyên nhân chính là do có rất nhiều người của Quân thống chống lưng cho ông ta.
Việc ông ta khiến cho Lưu Tòng Vân bị truy sát có thể coi là một cuộc đấu tranh chính trị, nguyên do sâu xa không phải Lưu Tòng Vân tính toán không chuẩn xác, mà là quá chuẩn. Lưu Tòng Vân vốn là trợ thủ đắc lực của Lưu Tương, do có người ghen ghét, muốn tách Lưu Tòng Vân ra khỏi Lưu Tương. Mà Lưu Tương lại sợ không giữ được Lưu Tòng Vân ở lại, cho nên mới nảy ra ý định sát hại.
Ngoài một số A Bảo già trong Đường khẩu biết về con đường phất lên của Tần Bách Xuyên. Những người khác đều bị che mắt bởi những cảnh tượng giả tạo bên ngoài. Họ đều cho rằng ông ta là người kế nghiệp Lưu Tòng Vân, lại là một vị đại tiên chân chính, một người thông hiểu Chu Dịch.
Nhưng đã là giả thì chung quy lại vẫn là giả, đúng như câu nói của Tổ Gia: “Con người làm bất cứ điều gì cũng có trời chứng giám.” Tần Bách Xuyên cuối cùng bị rơi vào tầm ngắm của Cục Quân thống. Đầu đuôi sự việc, về sau do chính Giang Phi Yến điều tra làm rõ.
Hôm đó, sau khi Tổ Gia với Tiền Diệu Lâm bàn bạc xong liền quyết định: Xét thấy tình hình hiện nay hết sức rối ren, nên toàn thể Tứ đại Đường khẩu đồng loạt giải tán! Khi chưa có lệnh, không ai được phép tái xuất hành nghề!
Một tháng sau, Tổ Gia cùng với Giang Phi Yến về Nam Việt2. Tổ Gia biết Giang Phi Yến có mối quan hệ mật thiết với vài người của Quân thống. Nếu muốn biết Tần Bách Xuyên rốt cuộc đã gây ra tai vạ gì thì chỉ có Giang Phi Yến mới có thể nghe ngóng được thông tin.
Mối quan hệ làm ăn bao nhiêu năm của Giang Phi Yến đã phát huy tác dụng trong thời điểm này. Mấy hôm sau, một viên Thiếu tướng của Quân thống cho biết tin, tin tức này không nghe thì thôi, nhưng một khi đã nghe thì cả Tổ Gia lẫn Giang Phi Yến đều sợ toát mồ hôi.
Phán đoán ban đầu của Tổ Gia không sai chút nào. Hôm đó đội quân chính quy đòi bắt sống Tần Bách Xuyên không chỉ đơn giản là vì chuyện Lưu Tòng Vân đã lừa tiền năm xưa, mà đó là chỉ thị tiêu diệt do bộ chóp của Quốc dân Đảng trực tiếp phát ra. Toàn bộ sự việc bắt nguồn từ khoản lương thực và lương bổng của quân đội.
Khi cuộc kháng chiến đang ở vào thế giằng co, tình hình tài chính của Quốc dân Đảng đã vô cùng eo hẹp. Hơn nữa sự tham ô hủ hóa và lạm phát khiến cho dân chúng lầm than, tiếng oán than vang khắp nơi. Tứ liên tổng xứ ‒ cơ quan tài chính cao nhất thời chiến của Quốc dân Đảng đã khéo lập nên các khoản mục cho một loạt các chế độ và chính sách đục khoét của cải của người dân, kết quả khiến cho nền kinh tế quốc dân gần như kiệt quệ.
Mùa xuân năm 1943, khó khăn lắm mới xoay được một khoản tiền để giải quyết vấn đề lương thực và lương bổng cho quân đội, nhưng lại có người báo rằng, khoản tiền này bị thất thoát một khoản lớn mà không rõ nguyên do. Tưởng Giới Thạch nổi xung lên, yêu cầu điều tra sự việc này. Về sau có người bên Cục Quân thống đã cung cấp manh mối, khiến Tưởng hết sức kinh ngạc. Một viên quan cấp cao phụ trách tài chính đã dùng số tiền này vào việc điều hòa phong thủy cho nhà hắn để cải vận, mà thầy phong thủy đó chính là Tần Bách Xuyên.
Tưởng Giới Thạch cũng là người rất yêu quốc học. Nghe đến chuyện này, ông ta cứ tưởng rằng đó là một vị cao nhân hay thần tiên nào đó, hỏi kỹ ra mới biết tên Tần Bách Xuyên này lại là đồ đệ của tên lừa đảo Lưu Tòng Vân năm xưa đã từng lừa gạt Lưu Tương.
Đến lúc này, một số người của Quân thống vẫn đứng ra nói đỡ cho Tần Bách Xuyên: “Người này không giống như Lưu Tòng Vân, ông ta thực sự là người có bản lĩnh.”
Tưởng Giới Thạch nghe vậy thì tức giận đập bàn quát lớn: “Khốn kiếp! Một lũ đầu óc bã đậu! Thượng bất chính, hạ tắc loạn, một tên đệ tử của kẻ lừa đảo có thể là người tử tế được sao? Điều tra cho ra việc này, phải tìm hiểu rõ ngọn nguồn để tóm gọn bọn chúng.”
Tưởng Giới Thạch nổi khùng vì Quân thống quá cả tin. Nhưng mạng lưới quan hệ được Tần Bách Xuyên thiết lập trong nhiều năm qua lại vô cùng phức tạp. Trong Cục Quân thống xuất hiện nhiều phe cánh, người phụ trách điều tra việc này cũng không dám liều lĩnh hành động. Ban đầu họ định phái một tên gián điệp trà trộn vào trong nội bộ của Tần Bách Xuyên. Nhưng Tần Bách Xuyên đã thắt chặt việc tiếp nạp thêm thành viên mới vào hội, nên một dạo không thể thâm nhập vào được. Vì thế, Cục Quân thống liền cho người theo dõi, luôn bám đuôi Tần Bách Xuyên. Nhưng thời gian đó Tần Bách Xuyên lại đi Tân Cương, nên tung tích mất tăm trong mấy tháng liền. Người của Quân thống vẫn cho rằng Tần Bách Xuyên bản lĩnh thông thiên, thần cơ diệu toán, nên chắc đã ẩn náu ở đâu đó.
Về sau, một tên đặc vụ chuyên theo dõi Tần Bách Xuyên, bắt gặp ông ta đang trên đường tới dự Đại đường hội của Tứ đại Đường khẩu. Khi nhìn thấy Tần Bách Xuyên đi vào một khu nhà dân, tên này liền báo tin ngay cho Cục Quân thống.
Cục Quân thống không rõ Tần Bách Xuyên tới đó làm gì, cũng không biết ở đó có những ai, nhưng chúng thấy không thể bỏ qua cơ hội này. Vậy là quyết định cất vó, phái ngay một đại đội tới đòi bắt sống Tần Bách Xuyên, định sau khi bắt được sẽ dùng cực hình tra khảo xem liệu có còn đồng đảng hay không, sau đó một mẻ hốt trọn ổ.
Cục Quân thống có nằm mơ cũng không ngờ rằng, những người tham dự hôm đó đều là nhân vật cốt cán của phái Giang Tướng. Các ông trùm lừa đảo trong cả nước đều tụ tập ở đây. Nếu chúng biết tất cả những người cần tìm đều ở đây thì không đời nào ra lệnh “bắt sống Tần Bách Xuyên”, mà đã cho ngay mấy quả đại bác phá tan tành nơi này rồi.
Cục Quân thống đã để vuột mất lỡ cơ hội hiếm có đặt dấu chấm hết cho phái Giang Tướng.
Về sau, máy bay của Nhật tới oanh tạc, những người bị bắt đều chạy thoát. Người của Cục Quân thống đành phải quay lại Đường khẩu Long Tu Nha, bắt các Bá đầu và bọn tay chân trông nhà, sau khi tra tấn dã man họ mới biết rằng mình đã bỏ qua cơ hội có một không hai, lúc này hối hận thì cũng đã muộn.
Điều khiến Tưởng càng tức giận hơn đó là Tần Bách Xuyên cũng đã chạy thoát, lại không rõ tung tích, sống phải thấy người, chết phải thấy xác, nhưng cũng không tìm thấy thi thể ở đâu.
Vậy rốt cuộc Tần Bách Xuyên đã đi đâu?
Nửa năm sau, cuối cùng Tổ Gia cũng tìm thấy Tần Bách Xuyên, hay nói đúng hơn chính Tần Bách Xuyên tự đến tìm Tổ Gia.
Sau khi Tứ đại Đường khẩu giải tán, mọi người đều trở về quê. Tổ Gia cũng vậy và không tùy tiện xuất đầu lộ diện, mỗi khi ra phố đều phải cải trang. Một hôm, Tổ Gia đang cùng với Phong Tử Thủ quan sát động tĩnh ở trên phố, bỗng nhiên một người từ phía sau bước tới, vỗ vai gọi: “Tổ Gia!”
Tổ Gia giật thót người nhìn hắn. Mặc dù đã cải trang nhưng ông vẫn nhận ra ngay chính là Tần Bách Xuyên: “Tần gia!”
Tổ Gia đảo mắt nhìn quanh rồi nói nhỏ: “Không nên nói chuyện ở đây, đi theo tôi.”
Sau khi về tới nơi ẩn náu bí mật, Tổ Gia mừng rỡ nói: “Tần gia, rốt cuộc ông đã đi đâu vậy? Làm cho các huynh đệ đều phải lo lắng.”
Hóa ra vào cái hôm mà máy bay địch oanh tạc, Tần Bách Xuyên đã liều mạng chạy tuốt vào trong núi, chỉ một lát đã lặn mất dạng. Nhưng lúc đó tay ông ta đang bị trói quặt ra phía sau, càng chạy càng dễ bị ngã. Kết quả là do mải chạy nên không may bị trượt chân rơi xuống một khe núi, sâu chừng hơn chục mét, nếu không có đám cây dây leo ở giữa cản lại thì đã chết rồi. Nhưng ông ta chỉ bị ngất, nằm hôn mê suốt hai ngày. Sau đó một trận mưa lớn đã làm ông ta tỉnh lại, khi định thần lại mới biết là mình đang ở đâu, rồi lần mò tìm được một tảng đá sắc cạnh, cứa đứt sợi dây thừng, khó nhọc lắm mới bò lên được khỏi khe núi.
Khi bò lên được khỏi khe núi, lúc này đầu óc đã tỉnh táo hẳn, Tần Bách Xuyên nghĩ lại sự việc đã qua. Cuối cùng, ông ta phát hiện, việc tên Đoàn trưởng Trung đoàn Độc lập đòi trả lại số tiền bị lừa có thể không liên quan đến việc bắt mình, chỉ có điều hai việc này lại xảy ra cùng một lúc, Tần Bách Xuyên cảm thấy có điều gì đó không ổn, bởi ông ta thừa hiểu rằng, với tiếng tăm của mình ở Tứ Xuyên thì một tên Trung đoàn trưởng sẽ không bao giờ dám động đến ông ta dù chỉ là một cọng lông chân.
Tần Bách Xuyên rất thông minh. Trước tiên ông ta tìm đến nhà một người dân kiếm đồ ăn, sau đó lại dùng mấy nén bạc mua lại mấy bộ quần áo cũ. Cải trang xong, nửa đêm Tần Bách Xuyên mò về Đường khẩu nghe ngóng động tĩnh thì phát hiện Đường khẩu đã bị niêm phong. Ông ta cảm thấy sự việc đã trở nên rất nghiêm trọng, điều này chứng tỏ bên trên có người muốn thanh toán mình. Lúc đó, bọn Tổ Gia cũng đã đi rồi, ông ta không tìm thấy một ai, liền đào lấy một ít tiền bạc mà trước đây ngầm giấu trong khu rừng ở ngoại thành và ngay trong đêm đó chạy một mạch về quê ẩn náu.
Nửa năm sau, khi tình hình có phần lắng xuống. Tần Bách Xuyên đi về phía đông xuôi xuống Giang Hoài tìm Tổ Gia, phát hiện Đường khẩu của Tổ Gia cũng không còn, ông ta cảm thấy sự việc vô cùng tồi tệ.
Trước đây các Đường khẩu cũng đã có lần phải giải tán, ông ta biết sau khi giải tán, Tổ Gia thông thường sẽ về quê, nhưng cụ thể là ở đâu ông ta cũng không biết. Chỉ biết đó là một thị trấn, mà thông tin này thì cũng chỉ có nhân vật cấp Đại Sư bá mới biết được, còn các Bá đầu và đám tay chân thì không đủ tư cách để biết. Lúc đó, chẳng còn cách nào khác, ông ta đành lê la gần quê của Tổ Gia, hy vọng có thể gặp được. Kết quả lang thang suốt một tuần trời, cuối cùng cũng gặp được Tổ Gia.
Sau khi Tổ Gia nói với Tần Bách Xuyên những tin tức mà Giang Phi Yến có được. Tần Bách Xuyên cũng toát mồ hôi, cuối cùng ông ta cúi đầu nói: “Tổ Gia, là tôi đã làm liên lụy tới mọi người.”
Tổ Gia nói: “Tần gia quá lời rồi, Người cùng một nhà không nên nói những lời này. Huynh đệ chúng ta được gặp lại nhau mới là việc đáng mừng nhất. Tạm thời Tần gia cứ ở lại đây, chúng ta uống mừng thoát khỏi kiếp nạn.”
Năm 1945, Nhật Bản thất bại đầu hàng quân đồng minh, cuộc chiến tranh giải phóng bắt đầu bùng lên, Quốc dân Đảng đánh mất lòng dân nên thất bại liên tiếp, phải tháo lui. Cục Quân thống (sau đổi thành Cục Bảo mật) cũng chẳng còn sức đâu để điều tra việc của phái Giang Tướng nữa.
Tổ Gia thấy thời cơ đã chín muồi, sau khi bàn bạc với ba vị Đại Sư bá khác, liền tuyên bố phái Giang Tướng tái xuất giang hồ. Thế là Tứ đại Đường khẩu bắt đầu chiêu binh mãi mã, thời kỳ gây dựng lại bắt đầu.
Cuộc xung đột lần này với Quân thống có thể nói là chỉ bị một phen hoảng sợ chứ không nguy hiểm. Phong Tử Thủ lại một lần nữa được lĩnh hội tài trí của Tổ Gia. Kẻ ngu xuẩn chỉ nhìn thấy hiện tượng bề ngoài, người thông minh sẽ nhận thấy rõ bản chất. Phong Tử Thủ 21 tuổi đã rất thông minh, anh ta đã nhìn rõ Tổ Gia có ý đồ muốn đẩy Tần Bách Xuyên vào chỗ chết. Còn một người cũng nhận ra điều này, đó chẳng ai khác chính là Tần Bách Xuyên. Từ sâu trong tâm khảm ông ta bắt đầu nhen nhóm ý định phục thù.
LÃO TIỀN BỐI CHU CHẤN LONG 30 NĂM SAU
Lúc này Phong Tử Thủ đã gần 30, không còn là một Phong Tử Thủ lỗ mãng dễ bị kích động nữa. Anh ta biết Tổ Gia muốn thống nhất thiên hạ. Trong thời điểm phải lo họa trong giặc ngoài, nguy cơ rình rập tứ phía này, anh ta không rời khỏi Tổ Gia nửa bước.
Ngay cả tôi, một kẻ bẩm sinh ngu dốt gia nhập Đường khẩu không lâu cũng cảm thấy tình hình căng thẳng. Cả nước sắp giải phóng, Tứ đại Đường khẩu sắp tan rã, tinh thần của huynh đệ phân tán, mâu thuẫn ngày càng tăng, Tiền Diệu Lâm của Bắc phái đột ngột tới thăm hỏi, Tần Bách Xuyên của Tây phái luôn tỏ ra thận trọng. Tất cả những điều này đều không biết là phúc hay là họa. Nhưng Tổ Gia vẫn bình tĩnh đến lạ thường.
Đầu năm 1949, khi ba chiến dịch lớn kết thúc, Quốc dân Đảng đang thoi thóp, cố kéo dài ngày tàn. Xuất phát từ lợi ích của bản thân, cả Liên Xô và Mỹ đều yêu cầu hai bên Quốc ‒ Cộng “phân định giang sơn để cai trị”, thực chất bọn họ chỉ muốn chia cắt Trung Quốc.
Quốc dân Đảng thừa cơ tuyên truyền những nguồn tin giả tạo hòng đe dọa dân chúng, rằng các khu giải phóng đáng sợ đến thế nào. Ngay cả Đại Sư bá Tiền Diệu Lâm từ khu giải phóng chạy tới cũng nói tình hình ở khu giải phóng không mấy tốt đẹp.
Tổ Gia vốn là người thông minh, trong lòng biết rõ, phái Giang Tướng là băng đảng lừa đảo, nơi mà những kẻ lừa bịp khó bám trụ là nơi người dân sống an cư lạc nghiệp.
Dạo đó, rất nhiều người đã hiểu lầm vì nghe theo những lời tuyên truyền tiêu cực của Quốc dân Đảng, họ đã liều mạng chạy tới Đài Loan, Hồng Kông. Chưởng môn Nam phái Việt Hải Đường Giang Phi Yến cũng liên tục qua lại giữa Quảng Đông với Hồng Kông.
Một hôm Tổ Gia nói với tôi: “Đại Đầu, ta sẽ dẫn ngươi đi gặp một người.”
Tôi hỏi: “Ai vậy ạ?”
Tổ Gia nói: “Cứ đến đó rồi ngươi sẽ biết.”
Phong Tử Thủ vẫn không rời Tổ Gia nửa bước. Tổ Gia nhờ người đặt cho ba vé tàu để chúng tôi cùng tới Tô Châu. Đây là lần đầu tiên từ khi sinh ra tôi được đi tàu nên cảm thấy rất lạ lẫm. Trên tàu lại có cả bàn, ghế, còn có cả đèn điện, giống như phòng khách của Tổ Gia. Điều khiến tôi khó hiểu nhất là cái thứ dài thế này thì cái gì có thể kéo nó chạy về phía trước được.
Trên đường đi, tôi cứ hớn hở mãi, chốc chốc lại nhìn qua cửa sổ để ngắm cảnh vật bên ngoài. Phong Tử Thủ nói với tôi rằng: “Đây là khoang tàu hạng sang, lần đầu tiên đã được ngồi khoang hạng sang. Số anh may thật!” Lúc đó tôi chỉ mong tàu đừng dừng lại mà cứ chạy mãi, chạy mãi.
Ba giờ chiều, tàu đến ga. Đi qua đại sảnh náo nhiệt, ra tới cửa nhà ga thì có người tới đón. Chiếc xe kéo ba gác chạy lòng vòng đưa chúng tôi tới chân một ngọn núi. Tôi nhìn lên thì thấy trên đó có một ngôi chùa.
Chú tiểu gác cổng nhìn thấy chúng tôi tới liền dẫn vào trong, đi qua mấy Phật đường rồi rẽ trái tới một thiền phòng. Sau khi bẩm báo, chú tiểu nói: “Mời ba vị thí chủ vào.’’
Tôi và Phong Tử Thủ theo sát Tổ Gia. Vừa bước vào thì thấy một lão hòa thượng chừng tám chín mươi tuổi đang tọa thiền.
Tổ Gia chắp tay khẽ nói: “Thanh Phong Đại sư vẫn khỏe chứ?’’
Lão hòa thượng đáp lễ: “A Di Đà Phật, Tổ Gia đi đường vất vả. Tuần Trúc, dâng trà!’’
Chú tiểu kia đáp: “Vâng, thưa sư phụ’’. Rồi quay người đi.
Tôi nghe họ đối đáp như vậy thì đoán chắc rằng vị cao tăng này có mối giao tình với Tổ Gia, Tổ Gia quả là người quảng giao.
Tổ Gia nói: “Đa tạ Đại sư! Lần này đệ tử đến đây có đưa cả một tiểu đồ đệ rất am hiểu về trà đạo.’’ Nói xong liền đưa tay vẫy tôi: “Đại Đầu, ngươi mau vào pha trà giúp tiểu sư phụ đi nào.’’
Tôi nói: “Vâng!’’ Rồi vội chạy vào trong phòng nhận lấy bộ đồ pha trà. Một lát sau, tôi bưng lên một ấm trà Bích La Xuân, rót mời mọi người.
Tổ Gia nói: “Mời Đại sư!’’
Thanh Phong Đại sư bưng chén trà lên nhâm nhi mỉm cười đôn hậu: “Trong lành thanh tao, thí chủ quả đúng là có thiện căn.’’
Tôi không hiểu lắm lời lão hòa thượng nói, nhưng dường như có ý khen ngợi tôi.
Tổ Gia cười nói: “Đại sư vẫn khỏe chứ?’’
Thanh Phong Đại sư nói: “Đa tạ Tổ Gia đã quan tâm, tất cả vẫn ổn.’’
Tổ Gia nói: “Ba mươi năm trước tôi có duyên được gặp Đại sư, quả là vô cùng may mắn! Những năm qua, mỗi khi gặp bế tắc, nghĩ quẩn là lại được Đại sư khai mở bến mê, Đại sư đối với tôi ơn nặng như núi.”
Thanh Phong Đại sư nói: “Tổ Gia quá lời rồi. Thiện căn luôn ở tại lòng ta, tự sẽ có phúc báo.’’
Tổ Gia nói: “Đại sư, lần này đến đây là có ba việc muốn thỉnh thị Đại sư.’’
Tôi thật không dám tin vào tai mình. Tổ Gia mà cũng cần người khác khai mở tâm trí sao? Tôi quay lại nhìn Phong Tử Thủ, anh ta chỉ cười chẳng nói chẳng rằng.
Thanh Phong Đại sư nói: “Tổ Gia, trong Thế giới Sa bà, vạn tướng giai không, nếu ông không rũ bỏ được, sẽ không thể nhìn thấu suốt được.’’
Tổ Gia nói: “Việc đầu tiên đó là tôi nên đi hay ở lại?’’
Vấn đề đầu tiên này khiến tôi và Phong Tử Thủ đều cảm thấy mơ hồ, không hiểu ý là gì? Tại sao lại nên đi hay nên ở lại? Mà đi đâu được chứ?
Thanh Phong Đại sư nói: “Phái Giang Tướng đã tồn tại suốt nhiều năm nay, làm nhiều việc thiện, cũng làm cả việc ác. Việc ác dường như nhiều hơn cả việc thiện, đặc biệt là giai đoạn Dân quốc. Cuối thời nhà Thanh liên tiếp làm việc xấu, tội ác tày trời, Tổ Gia đi hay không không quan trọng, mà việc bỏ hay giữ phái Giang Tướng mới là điều quan trọng.’’
Câu nói này của lão hòa thượng khiến tôi bàng hoàng, ông ta cũng biết nội tình của phái Giang Tướng ư? Đường khẩu có quy định, kẻ nào biết được nội tình của phái Giang Tướng, nếu không phải là huynh đệ thì là kẻ thù, tất sẽ bị giết chết. Tổ Gia không những không giết ông ta, mà trái lại còn cung kính. Vậy rốt cuộc ông ta là ai chứ?
Tổ Gia nghe xong, trầm ngâm suy nghĩ, một lúc lâu sau mới nói: “Đại sư, việc thứ hai ông thấy hai vị đồ đệ này của tôi tương lai sẽ đi về đâu?’’
Tôi với Phong Tử Thủ nhìn nhau không hiểu, thế nào là “sẽ đi về đâu?’’ Hôm nay Tổ Gia làm sao thế nhỉ? Sao toàn nói những lời lấp lửng như vậy?
Thanh Phong Đại sư chỉ vào tôi nói: “Vị thí chủ này tướng mạo thật thà đứng đắn, lục căn thanh tịnh, tuy lúc nhỏ khắc tận song thân, nhưng sau tuổi trung niên tất sẽ có phúc báo, trai gái đề huề, sống thọ chết nhàn.’’
Tổ Gia thở dài nói: “Xem ra tôi không nhìn nhầm người.’’
Tôi hoàn toàn chẳng hiểu gì cả, những lời lão hòa thượng này nói tại sao lại giống như đang xem tướng cho chúng tôi. Lẽ nào Tổ Gia đã trúng Thiên? Tôi chép miệng nhìn Tổ Gia lòng đầy ngờ vực.
Nỗi lo này của tôi không che nổi mắt Thanh Phong Đại sư, ông cười nói: “Thí chủ, cậu đã làm cho mình trở nên mê muội rồi. Thật thật giả giả, giả giả thật thật, bản thân thí chủ cũng không phân biệt được rõ đâu là thật đâu là giả. Phái Giang Tướng đã gây ra hai nghiệp chướng rất lớn, một là lừa tiền ham sắc, lạm sát người vô tội. Hai là đã làm nhơ bẩn thanh danh của Chu Dịch; Kinh Dịch là đạo của âm dương, người xưa thường nói: ‘Lương tướng trị quốc, lương y cứu người, trị quốc bất thành, lui về bốc thuốc’, thuật số là tinh hoa của Kinh Dịch, được dùng để cầu lành tránh dữ, tạo phúc cho bách tính. Phái Giang Tướng vốn không hiểu Kinh Dịch, nhưng lại mượn danh nghĩa của Kinh Dịch mà rêu rao, khoác lác, khiến cho dân chúng hoài nghi về Kinh Dịch. Như vậy danh tiếng của thuật số Trung Hoa sớm muộn sẽ bị hủy hoại.’’
Những điều này tôi nghe như hiểu mà lại chẳng hiểu gì cả. Đại khái là nói chúng tôi làm việc xấu, điều này tôi không dám biện bạch câu gì. Nhiều năm sau, sau khi tôi thực sự lĩnh hội được Chu Dịch thì mới thấy lời Thanh Phong Đại sư nói quả không sai chút nào, Dịch chính là nguyên tắc sinh thành của trời đất, do đó nó chứa đựng quy luật vận hành của thiên địa.
Thanh Phong Đại sư lại chỉ vào Phong Tử Thủ nói: “Vị thí chủ này mắt dê lồi ra, tuy can đảm nhân nghĩa, nhưng sát tâm quá nặng, để lâu tất sẽ gặp họa, cho nên phải kìm hãm lại sớm bao nhiêu tốt bấy nhiêu.’’
Tôi liếc nhìn Phong Tử Thủ, không cần biết lão hòa thượng này có hiểu thật hay không, nhưng dù sao những lời nói đó khiến ai nghe thấy cũng đều cảm thấy bực bội trong lòng.
Phong Tử Thủ nhếch miệng nói: “Đa tạ Đại sư đã chỉ bảo, từ khi gia nhập Đường khẩu, tôi đã không màng tới chuyện sống chết.’’ Lời Phong Tử Thủ nói không hề dối trá, anh ta đúng là không sợ chết, mỗi lần Đường khẩu xung đột với người ngoài, anh ta đều là người đầu tiên ra mặt.
Tổ Gia cười lớn chỉ vào Phong Tử Thủ rồi nói với Thanh Phong Đại sư: “Đây là Tiểu Lục Tử, người mà tôi có được từ Đường khẩu của Cửu gia. Nếu luận về vai vế từ Cửu gia và Trương Sư gia thì cậu ta phải gọi Đại sư là sư huynh.’’
Tôi và Phong Tử Thủ chẳng hiểu gì cả, lẽ nào Thanh Phong Đại sư cũng có mối quan hệ với Vương Á Tiều? Sao lâu nay không hề nghe thấy Tổ Gia nhắc đến chuyện này? Tôi với Phong Tử Thủ trố mắt nhìn Tổ Gia lòng đầy nghi hoặc.
Tổ Gia nói tiếp: “Đại sư, tôi có thể nói rõ để kẻ hậu bối hiểu rõ thứ bậc này được không?”
Thanh Phong Đại sư nói: “A Di Đà Phật, những việc đã qua như làn mây khói. Người xuất gia xem trọng tùy hỉ, tùy hỉ Tổ Gia với hai vị thí chủ. Chớ có khiến họ mơ mơ hồ hồ không biết đâu thực đâu hư.’’
Nghe Đại sư trả lời, chúng tôi nóng lòng nhìn Tổ Gia với ánh mắt trông đợi.
Tổ Gia nói: “Hai người đều biết chuyện trước đây của ta rồi, các ngươi có còn nhớ ta từng kể về Chu lão tiền bối không?’’
Trí nhớ của tôi không được tốt, tôi bắt đầu lục lọi trong đầu, Chu lão tiền bối ư? Chu lão tiền bối nào nhỉ? Phong Tử Thủ có phản ứng ngay: “Hóa ra là lão tiền bối Chu Chấn Long năm nào. Thất kính, thất kính! Xin nhận của đệ tử một lạy!’’
Lúc này tôi mới bừng tỉnh, năm xưa để báo thù cho tiểu đệ với tiểu muội, Tổ Gia vô tình đã cứu hai người, một là Trương Đan Thành, còn người kia là Chu Chấn Long, từ đó cuốn vào vòng ân oán của phái Giang Tướng. Sau này Trương Đan Thành muốn trao quyền Chưởng môn cho Tổ Gia, Chu Chấn Long với Đồ Nhất Minh đều là người mà Trương Đan Thành tin cẩn. Ông yêu cầu họ phải tận tâm phò tá cho Tổ Gia. Về sau, Trương Đan Thành chết, Chu Chấn Long chán ghét hồng trần, liền đem hết vàng bạc châu báu của mình chia cho người nghèo, sau đó một mình rời khỏi Đường khẩu, từ đó bặt vô âm tín. Hóa ra là đến đây xuất gia nương nhờ cửa Phật.
Thời gian vùn vụt trôi đi, thấm thoắt đã ba mươi năm.
Tổ Gia nói: “Sau khi Chu lão tiền bối rời khỏi Đường khẩu, ta luôn thấp thỏm nhớ mong. Mười năm sau nhận được một bức thư, lúc đó mới biết lão tiền bối đã quy y cửa Phật, lấy pháp hiệu Thanh Phong.’’
Thanh Phong Đại sư thở dài: “A Di Đà Phật. Biển khổ vô biên, quay đầu là bờ. Bần tăng cũng mong các vị thí chủ sớm quay đầu.’’
Tổ Gia chắp tay: “A Di Đà Phật.’’
Tôi chưa bao giờ thấy Tổ Gia lại khiêm nhường như vậy. Tôi cảm thấy ông dường như là một con người hoàn toàn khác.
Thanh Phong Đại sư nói: “Thí chủ vừa nói có ba việc, thế còn việc thứ ba…’’
Tổ Gia thở dài đáp: “Đại sư, việc thứ ba tôi đã có câu trả lời rồi.’’
Thanh Phong Đại sư nói: “Thiện tai, thiện tai. Trời đã muộn rồi, bần tăng không có gì để thiết đãi mọi người cả, để ta bảo đồ nhi chuẩn bị cơm chay. Mời ba vị thí chủ dùng tạm.’’
Tối hôm đó là lần đầu tiên tôi được ăn cơm chay. Tuy không có thức ăn mặn nhưng tôi vẫn cảm thấy rất ngon miệng, tôi ăn liền năm bát cơm với hai đĩa rau cải nấu my, khiến Phong Tử Thủ ngây ra nhìn rồi bật cười.
Chúng tôi ở lại ngôi chùa đó hai đêm, sau đó lại trở về Đường khẩu.
Trên đường về tôi hỏi Tổ Gia: “Chu lão tiền bối có thực sự hiểu về Kinh Dịch không? Ông ấy học từ bao giờ?’’
Tổ Gia nói: “Phật pháp thông, vạn pháp thông. Ông ấy hiểu thế nào ta cũng không biết, nhưng đó mới là người có bản lĩnh thật sự. Ông ấy chưa từng xem cho người ngoài. Nếu không phải là đích thân ta hỏi thì ông ấy sẽ không xem đâu. Theo như lời ông ấy thì xem hay không cũng được, trong Kinh Dịch chẳng phải có một câu nói đó sao: ‘Nhà nào tích thiện thì ắt có nhiều điều tốt lành, nhà nào làm việc ác tai ương tất tìm đến’. Người hiểu rõ thiện ác, cũng chính là hiểu rõ bản chất của số mệnh.’’
Lúc đó tôi cảm thấy Tổ Gia và Chu lão tiền bối đều quá uyên thâm. Tôi thầm nghĩ, rốt cuộc họ đã gặp nhau mấy lần rồi? Tổ Gia từng nói gì với ông ấy? Tại sao lần này Tổ Gia lại dẫn tôi với Phong Tử Thủ tới đó? Và vấn đề thứ ba mà Tổ Gia muốn hỏi là gì? Tất cả như một câu đố, một câu đố không lời giải đáp.
PHONG TỬ THỦ BỊ HẠ ĐỘC THỦ
Sau khi trở về Đường khẩu không lâu, ngày 21 tháng 4 năm 1949, Chiến dịch Độ Giang3 bùng nổ. Mao chủ tịch phát động chiến dịch: “Vượt Trường Giang, giải phóng Trung Quốc.” Ngay lập tức, âm mưu chia cắt Trung Quốc của Mỹ và Liên Xô bị phá sản, kế hoạch “Kéo dài thời gian, chỉnh đốn quân đội” của Tưởng Giới Thạch cũng tan thành mây khói. Đại quân Giải phóng Nhân dân bắt đầu Nam tiến. Đi tiên phong là ba đội xung kích Đông, Trung, Tây, các cánh quân dã chiến 2, dã chiến 3 và dã chiến 4 cùng phối hợp, nhất tề xông lên tiêu diệt thế lực Quốc dân Đảng bao gồm 11 quân đoàn, 46 sư đoàn, giết chết hơn 43 vạn quân địch, giải phóng các thành phố lớn như: Nam Kinh, Thượng Hải, Vũ Hán,… tiếp đến là toàn bộ hai tỉnh Giang Tô, An Huy và phần lớn tỉnh Chiết Giang cùng với một số khu vực khác của các tỉnh Giang Tây, Hồ Bắc, Phúc Kiến…
Trước tình thế cấp bách đó, Tổ Gia suy đi tính lại rồi quyết định dẫn các huynh đệ của Đường khẩu tới Quảng Châu ở phía Nam để nhập với Đường khẩu Việt Hải Đường. Hai Đường khẩu danh nghĩa là sát nhập, thực tế vẫn tách riêng biệt. Giang Phi Yến vẫn là Giang Phi Yến. Tổ Gia vẫn là Tổ Gia. Đông phái vẫn là Đông phái. Nam phái vẫn là Nam phái.
Đường khẩu dời tới Quảng Châu. Vừa ổn định chưa được bao lâu thì vào tháng 5, Lục gia Phong Tử Thủ bỗng nhiên đổ bệnh. Mỗi sáng dậy luyện võ, anh ta ho liên tục, sau đó bắt đầu thổ huyết. Tuy đã tìm mấy thầy lang bắt mạch bốc thuốc nhưng họ đều nói mạch tượng hư nhược, có lẽ là do lao lực. Họ kê cho mấy thang thuốc bồi bổ khí huyết thì thấy bệnh tình cũng có biến chuyển. Nhưng không lâu sau, anh ta bắt đầu rụng tóc, cuối cùng ngay cả lông mày cũng bắt đầu rụng, toàn thân rệu rã, sắc mặt vàng vọt, thân thể gầy mòn, hốc hác.
Tổ Gia thấy vậy trong lòng vô cùng lo lắng, ông nhờ Giang Phi Yến mời thầy lang tốt nhất trong vùng đến khám, sau khi khám xong thầy lang nói: “Lục phủ ngũ tạng suy kiệt, không rõ nguyên nhân.’’
Tổ Gia hỏi: “Phải chăng bị trúng độc?’’
Thầy lang nói: “Trong người không có độc.’’
Tổ Gia hỏi: “Có cứu được không?’’
Thầy lang lắc đầu.
Tổ Gia không biết phải xoay sở thế nào, trong lòng vô cùng đau đớn. Không chỉ riêng Tổ Gia, mà ngay cả các Bá đầu khác trong lòng cũng như lửa đốt.
Dạo đó Nhị Bá đầu ngày nào cũng uống rượu, ông ta còn lôi kéo cả tôi vào cuộc, có lần ông uống rất nhiều rồi nói liên thiên: “Lão Lục sức khỏe cường tráng nhất, sao lại ra nông nỗi này kia chứ?’’
Tôi nói: “Nhị gia, Sống chết có số, giàu sang tại trời.’’ Nói xong tôi mới biết mình lỡ lời, nhưng hối hận cũng đã muộn, Nhị Bá đầu bật dậy vả vào miệng tôi một cái đau điếng: “Khốn kiếp, ngươi nói gì thế?’’
Tôi hai tay bưng mặt nói: “Nhị gia! Con sai rồi, con sai rồi!’’
Nhị Bá đầu nói: “Đại Đầu, đừng trách Nhị gia đánh ngươi, ngươi có biết không? Ta với Lục gia đã ở cùng nhau hơn chục năm rồi. Khi Lục gia tới Đường khẩu, vẫn còn là một đứa trẻ, ta đã chứng kiến cậu ấy lớn lên từng ngày, luôn trung thành tuyệt đối, tuyệt không ăn ở hai lòng với Tổ Gia và các huynh đệ. Mấy năm nay, trải qua biết bao sóng gió, những việc xảy ra đều do cậu ấy đứng ra thu xếp. Trước mỗi lần dàn cục đều phải điều tra địa hình địa mạo, cậu ấy luôn là người xông xáo đi đầu. Lần quyết chiến với Thanh Long bang, Tiểu Lục Tử vì đỡ cho ta một đao mà bị một nhát vào ngực, ta hỏi: ‘Cậu có đau không?’ Cậu ấy chỉ cười nói rằng: ‘Nhị gia, không sao đâu…’’’
Nói đến đây Nhị Bá đầu bật khóc, lúc đó tôi thực sự cảm nhận được ý nghĩa của hai từ “huynh đệ’’. Trong ký ức của tôi, đây là lần đầu tiên Nhị Bá đầu đánh tôi vì chuyện giữa các huynh đệ. Sau khi đánh xong, Nhị Bá đầu lại uống rất nhiều rượu, uống tới mức say mèm.
Một tháng sau, Phong Tử Thủ ra đi. Trước khi chết, Tổ Gia ôm chặt lấy anh ta, anh ta cố mở mắt, cất giọng yếu ớt: “Tổ Gia, Tiểu Lục Tử đi theo sư phụ đã 14 năm… Sư phụ luôn đối xử tốt với con… Tiểu Lục Tử vô cùng khâm phục, nguyện sẽ đi theo sư phụ suốt đời. Ban đầu khi người thu nạp con từ Đường khẩu của Cửu gia, lúc đó con còn chưa hiểu chuyện, còn cãi lại người… Tổ Gia, Tiểu Lục Tử không thể theo hầu sư phụ được nữa rồi. Sư phụ phải hết sức bảo trọng, Thanh Phong Đại sư chẳng phải đã nói con sát tâm quá nặng. Đúng là con đã giết quá nhiều người, bây giờ con sắp phải chết, chết rồi thì không thể giết người được nữa… Tổ Gia, kiếp này được đi theo sư phụ con không hề hối tiếc, kiếp sau con vẫn sẽ là Tiểu Lục Tử của sư phụ… Tổ Gia, sau khi con chết, xin hãy đốt nhiều tiền vàng một chút, không phải là để cho con dùng, mà là dành cho những oan hồn đã bị con giết chết. Trên đường xuống suối vàng, con sẽ dùng số tiền đó để phát cho họ. Như vậy họ sẽ không bám lấy con, con sẽ được đầu thai trở lại làm người để hầu hạ Tổ Gia…’’
Tổ Gia khóc, nước mắt rơi lã chã, rơi lên cả mặt của Phong Tử Thủ, tôi cũng không kiềm chế nổi khóc òa lên, Nhị Bá đầu nằm bò ở đầu giường gào khóc thảm thiết: “Lục Tử! Cậu nỡ lòng nào bỏ nhị ca mà đi như vậy?’’
Cuối cùng Phong Tử Thủ cũng nhắm mắt, Tổ Gia ôm chặt anh ta vào lòng. Lúc đó, tôi cảm thấy đây không giống như cảnh Chưởng môn của Đường khẩu ôm thuộc hạ, mà giống như người anh ôm lấy người em vậy.
Hôm đưa tang Lục gia Phong Tử Thủ, những người của hai giới Hắc-Bạch đều đến dự. Nhị Bá đầu quỳ trước linh cữu khóc không thành tiếng. Đặc biệt khi hạ huyệt, Nhị Bá đầu như phát điên, ông lao xuống gạt đám tay chân ra rồi nằm bò trên quan tài không cho lấp đất, cuối cùng Tổ Gia phải sai người khiêng ông ấy đi. Từ khi đi theo Nhị Bá đầu đến nay, đây là lần đầu tiên tôi thấy ông ấy đau buồn như vậy.
Các vị Bá đầu khác cũng đau buồn, tuyệt vọng, Tam Bá đầu mặc áo tang quỳ trước quan tài, vừa khóc vừa đọc lời điếu văn do chính mình viết: “Đau đớn thay! Đệ hỡi! Đệ đã ở bên chúng ta mười mấy năm trời, mà nay đệ lại ra đi trước, từ nay phải ly biệt mãi mãi, đau buồn biết bao! Chúng ta chỉ có mình đệ không may đoản mệnh. Từ khi đi theo Tổ Gia, chúng ta luôn coi đệ như người em thân thiết, đệ võ nghệ cao cường, trọng tình trọng nghĩa, ông trời không có mắt nên để mất đi một anh tài, thật đau lòng biết bao…’’ Nghe những lời điếu này, mọi người càng khóc thảm thiết hơn.
Các Bá đầu, huynh đệ ai ai cũng khóc, nhưng trong lòng Tổ Gia biết rõ, ai là người khóc thật, ai là người khóc giả. Tổ Gia vô cùng am hiểu lịch sử, năm xưa Khổng Minh khóc Chu Du, tiếng than khóc cảm động đất trời, nhưng đằng sau tiếng khóc lại là tiếng cười.
Đối với căn bệnh của Phong Tử Thủ, Tổ Gia luôn cảm thấy có điều gì đó không bình thường, nhưng rốt cuộc vẫn không thể nào tìm ra vấn đề nằm ở đâu. Ban đầu Tổ Gia cũng cho rằng đó là do lao lực quá độ gây nên, nhưng về sau bệnh tình ngày càng trầm trọng. Ông đồ rằng đã có kẻ đầu độc. Kết quả là dù điều tra mãi vẫn không phát hiện ra bất cứ điều gì.
Phong Tử Thủ vốn là người thông minh nhanh trí. Những năm qua anh ta lại được đích thân Tổ Gia tận tình chỉ bảo nên càng thông minh nhanh nhẹn. Anh ta hết sức cẩn thận trong việc ăn uống và sinh hoạt, thậm chí những điều mà Tổ Gia không nghĩ đến anh ta lại nghĩ đến, đồng thời luôn mang bên mình các loại trâm bạc thử độc do Tứ Bá đầu chế ra. Mỗi khi đến những nơi xa lạ ăn uống, anh ta đều thử độc qua một lượt, sau đó mình nếm trước rồi mới để Tổ Gia ăn.
Do vậy, muốn cho thuốc độc vào thức ăn là điều không thể. Vả lại thầy lang cũng đã kiểm tra, nói rằng trong người anh ta không có độc.
Tổ Gia tuy hoài nghi, nhưng vẫn không tìm ra được manh mối. Dạo đó, ông lúc nào cũng đăm chiêu suy nghĩ. Ban đêm thường uống trà, tôi cẩn thận đứng bên cạnh hầu hạ ông. Có lúc thấy ông thẫn thờ ngồi ngắm ánh trăng, tôi biết ông lúc đó ông lại nhớ đến Phong Tử Thủ. Những lúc như vậy tôi không dám nói câu gì, chỉ im lặng đứng bên cạnh ông.
Một hôm đêm đã về khuya, Tổ Gia bỗng nói với tôi: “Hãy đi theo ta!’’
Tôi không dám hỏi đi đâu, mà chỉ ngoan ngoãn theo sau. Tổ Gia đi về phía ngôi nhà mà lúc còn sống Phong Tử Thủ đã ở. Sau khi Phong Tử Thủ chết, Tổ Gia đã sai người khóa ngôi nhà đó lại. Tổ Gia lấy chìa khóa mở cửa, bên trong tối thui, Tổ Gia bảo tôi lấy hòn đá đánh lửa rồi thắp đèn lên.
Tôi mò mẫm một hồi mới tìm thấy một ngọn đèn dầu, tôi vội đánh lửa thắp đèn, Tổ Gia nói tiếp: “Tới nhà bếp!’’
Tôi không biết Tổ Gia định làm gì, chỉ ngoan ngoãn cầm đèn đi theo. Tổ Gia quan sát kỹ từng ngóc ngách trong nhà bếp hết lần này đến lần khác, như sợ mình bỏ sót thứ gì đó.
Bỗng nhiên ông nhìn chăm chăm lên bức tường rồi nói: “Mau mang đèn lại đây!’’
Tôi giơ đèn lên cao quá đỉnh đầu, Tổ Gia đưa cây đèn sát vào bức tường, tôi cũng nhìn thấy rõ, trên đó có dán một tờ giấy đã bị khói làm cho ố vàng, trên tờ giấy viết “Lục gia quý xuân thực phổ”4, phía dưới là những dòng chữ nhỏ li ti, ghi lại tên và cách chế biến món ăn theo tuần của Phong Tử Thủ.
Phong Tử Thủ vốn thích ăn ngon, điều này người trong Đường khẩu ai cũng biết. Là người luyện võ nên cơ thể tiêu hao nhiều năng lượng, mà khẩu phần ăn cũng nhiều hơn người khác. Phong Tử Thủ rất thích ăn thịt và phải đổi món liên tục. Chính vì thế nên trông mặt anh ta lúc nào cũng hồng hào, đánh quyền nhanh mạnh và rất có uy lực. Do đó, anh ta chọn riêng một người trong đám thuộc hạ chuyên lo việc ăn uống cho mình.
Tổ Gia thận trọng gỡ tờ thực đơn này xuống, khi về tới nhà, Tổ Gia đọc rất kỹ tờ thực đơn này:
Ngày Bính Dần: thịt lợn hầm thập cẩm, củ ấu âm dương, gà xé phay xào dưa chuột, lạc ngâm rượu cửu âm.
Ngày Đinh Mão: thịt chó tam dương khai thái, đậu song sắc, thịt thỏ, rau cần.
Ngày Mậu Thìn: cá diếc kho, du mạch, gan ngỗng rán, canh trứng.
…
Tổ Gia đọc rất lâu vẫn không phát hiện ra điều gì bất ổn. Cuối cùng, ông cầm tờ thực đơn nằm trên ghế ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Tôi lấy một tấm chăn đắp lên người cho ông, khi đang định về phòng nghỉ thì Tổ Gia nói: “Đại Đầu, đêm nay ngươi cứ ngủ ở đây, bên trái nhà phía đông không có ai ở, bên trong có sẵn chăn mền rồi đấy.’’
Lúc này tôi mới biết Tổ Gia chưa ngủ, ông đang mải suy nghĩ, nhìn bộ dạng ông lúc này, trong lòng tôi dấy lên một niềm thương cảm, xót xa.
Ngày hôm sau khi trời vừa ló rạng, Tổ Gia đã gọi tôi: “Đại Đầu, hãy truyền lệnh của ta, nói rằng tối nay tổ chức ‘thực lộc’. Hãy bảo Tiền gia, Phi Yến và các Bá đầu tới đây!’’
Tôi nghe mà chẳng hiểu gì, chẳng phải hai hôm trước vừa mới thực lộc rồi sao? Dạo này tiền bạc của Đường khẩu cũng rất eo hẹp, sao Tổ Gia lại như vậy? Huống hồ hôm nay là ngày Ngũ thất5 của Phong Tử Thủ, phải đi thắp hương tảo mộ mới phải.
Tôi không dám hỏi, mà lần lượt đi thông báo cho các vị Sư bá, Bá đầu.
Buổi tối Tổ Gia cho chuẩn bị hai bàn tiệc lớn, ông, Giang Phi Yến, Tiền Diệu Lâm, Đại Bá đầu, Nhị Bá đầu, Tam Bá đầu, Tứ Bá đầu, Ngũ Bá đầu, Thất Bá đầu ngồi một bàn. Còn các Bá đầu khác và những đệ tử xuất sắc ngồi chung một bàn. Tổ Gia bảo tôi ngồi cùng ông ấy để rót rượu dâng trà.
Lúc khai tiệc, đám người hầu bưng đồ ăn tới, tôi sững sờ, tất cả những món ăn này đều được chế biến theo thực đơn đã lấy được từ nhà bếp của Phong Tử Thủ. Tam Bá đầu chau mày nhìn Tiền Diệu Lâm, Tiền Diệu Lâm vẫn tỉnh bơ như không.
Tổ Gia nâng chén nói: “Tiền gia, Yến tỷ, các vị huynh đệ! Phái Giang Tướng phát triển đến ngày hôm nay đã được hơn 300 năm, năm xưa một trong năm vị sư tổ của Hồng Môn đã theo di nguyện của Dư Tổ sư gia mà sáng lập ra phái Giang Tướng, phản Thanh phục Minh, trừ ác hướng thiện. Để làm được điều đó chính là nhờ vào sự đoàn kết, đồng tâm hiệp lực cùng sát cánh bên nhau, gan dạ mưu trí đánh đuổi kẻ thù của các huynh đệ, như vậy sẽ mãi làm rạng danh phái Giang Tướng. Đoàn kết chính là bảo pháp giúp chúng ta được lâu bền mà không bị suy vong. Chén rượu đầu tiên này hãy uống cạn vì tình đoàn kết của các huynh đệ!’’
Mọi người cùng nâng chén: “Huynh đệ đồng tâm đồng lòng, nêu cao truyền thống của phái Giang Tướng. Mọi người uống cạn một hơi.’’
Tổ Gia lại nâng chén rượu thứ hai: “Bao nhiêu năm nay, phái Giang Tướng đã trải qua biết bao sóng gió, nhiều huynh đệ đã phải bỏ mạng vì lợi ích của Đường khẩu. Từ khi ta cai quản Mộc Tử Liên tới nay, Đường khẩu đã có 12 huynh đệ lần lượt ra đi, chỉ riêng mùa xuân năm nay đã mất đi bốn người, sau này có thể còn có các huynh đệ khác phải chết, ta cũng có thể sẽ chết, chén rượu thứ hai này hãy uống để tỏ lòng kính trọng trước các huynh đệ hy sinh vì Đường khẩu của chúng ta!’’
Mọi người cảm thấy trong lời nói của Tổ Gia có ẩn ý gì đó, lần lượt nhìn nhau rồi nâng chén uống cạn.
Tổ Gia lại nâng chén: “Chén thứ ba này xin được mời Tiền gia và Yến tỷ. Tiền gia không quản đường sá xa xôi mà tới Mộc Tử Liên, giống như nhà tranh thêm sáng, thật vinh hạnh cho Đường khẩu biết bao! Mấy tháng nay, Tiền gia ở lại Đường khẩu bày mưu hiến kế, san sẻ nỗi lo với ta, ta vô cùng cảm động. Gần đây tình hình có nhiều thay đổi, ta dẫn các huynh đệ tới vùng đất quý Nam Việt, lại được Phi Yến đích thân nghênh đón ngoài 20 dặm, các vị đối với các huynh đệ của Đường khẩu Mộc Tử Liên ơn nặng như núi. Tiền gia, Yến tỷ! Xin kính hai vị một ly!’’
Tiền Diệu Lâm vội vàng đứng dậy, mặt mày hớn hở cười nói: “Tổ Gia quá khách sáo rồi, ngu huynh vô đức vô năng, không bị Tổ Gia ghét bỏ đã là cảm kích lắm rồi. Lẽ ra tôi phải kính rượu Tổ Gia mới phải.’’ Nói xong liền uống cạn chén rượu.
Giang Phi Yến không nói gì mà chỉ mỉm cười với Tổ Gia. Đây là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy Giang Phi Yến cười ở khoảng cách rất gần. Một người tuy đã 47 tuổi nhưng nhìn vẫn như ngoài 30, dung nhan xinh đẹp, dáng vẻ thùy mị, sắc xuân tràn đầy. Điều khiến tôi khó hiểu nhất là bà chưa có một sợi tóc bạc nào. Về sau Nhị Bá đầu nói với tôi rằng, năm nào bà cũng nhờ người của Quân thống mua giúp một loại thuốc nước ở nước ngoài để bôi lên tóc, cho nên tóc bạc mới được nhuộm đen. Nhiều năm sau tôi mới biết đó là thuốc nhuộm tóc do một người Pháp phát minh vào đầu thế kỷ 20.
Tổ Gia nói: “Mời Yến tỷ!’’
Giang Phi Yến nói: “Mời Tổ Gia!’’
Hai người cùng uống cạn chén rượu.
Tổ Gia nói tiếp: “Hôm nay là ngày Ngũ thất của Tiểu Lục Tử. Lúc còn sống Lục Tử rất thích ăn ngon, hôm trước khi dọn phòng của cậu ta, bọn thuộc hạ đã phát hiện ra một tờ thực đơn, ta đọc thì quả đó toàn là những món ăn ngon. Cậu ta đi rồi nên ta đã dùng tờ thực đơn này để thết đãi mọi người, cũng là để cúng linh hồn đang ở trên trời xanh của Lục Tử. Mời mọi người nếm thử!’’
Mọi người đứng dậy nói: “Tổ Gia, xin hãy bớt đau buồn!”
Tổ Gia lại nâng chén rượu rồi nhìn lên trời nói rất to: “Lục Tử, Ngũ thất là ngày hiện hồn, cậu ở trên trời có linh thiêng thì hãy quay đầu nhìn xuống các huynh đệ! Hãy nhìn xem các huynh đệ đoàn kết thế này, cậu vẫn chưa đi hết quãng đường của mình, các huynh đệ sẽ thay cậu đi nốt! Mong cậu hãy yên tâm mà an nghỉ!’’
Nói chưa dứt lời thì “choang’’ một tiếng, mọi người nhìn về phía phát ra tiếng động. Hóa ra là Nhị Bá đầu sơ ý làm rơi chén rượu.
Tổ Gia nhìn Nhị Bá đầu rồi ngửa cổ uống cạn chén rượu, nói: “Mọi người ăn đi nào, ai thích ăn gì thì ăn, phải ăn nhiều vào thì linh hồn của Lục Tử ở trên trời mới vui được chứ.”
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, rồi bắt đầu dùng bữa.
Tôi lặng nhìn Tổ Gia, ông vừa ăn vừa liếc nhìn từng người trên bàn tiệc. Tôi lặng lẽ ngồi ăn, món ăn quả thật rất ngon. Tôi nếm thử tất cả những món ăn, trong lòng thầm nghĩ lúc còn sống Lục gia thật có phúc về đường ăn uống.
Buổi “thực lộc’’ kéo dài suốt hai giờ, đến tận giờ Hợi mới kết thúc.
Đêm đã khuya, Tổ Gia bảo tôi pha trà cho ông. Khi pha trà tôi bỗng thấy đau bụng, phải chạy ra nhà xí để giải quyết, tôi nghĩ chắc là do mình đã ăn quá nhiều, nhưng vừa kéo quần lên thì bụng lại đau quặn. Tôi phải đi liên tục ba lần mới thấy đỡ.
Tổ Gia vừa uống trà vừa nói: “Đại Đầu, ngày mai ngươi hãy thông báo cho các vị Bá đầu của Đường khẩu, và cả Tiền gia nữa, nói rằng tiệc thực lộc vẫn tiếp tục.’’
“Hả?’’ Tôi cứ tưởng mình đã nghe nhầm.
“Hả cái gì?’’ Tổ Gia nói: “Ngày mai sẽ tiếp tục thực lộc. Cả ngươi cũng tham gia. Hãy nhớ! Đừng có ăn hết các món ăn trên bàn tiệc! Ngươi chỉ được ăn một món thôi.’’
Tôi không hiểu: “Món nào ạ?’’
Tổ Gia cười: “Tùy khẩu vị của ngươi, món nào cũng được, đừng có ăn lẫn lộn là được!’’
Tôi cảm thấy khó hiểu nhưng cũng không dám hỏi nhiều, mà chỉ đáp: “Dạ, con nhớ rồi.’’
Sáng sớm hôm sau tôi liền đi thông báo cho các vị Bá đầu, khi bước vào phủ của Tam Bá đầu, tôi thấy Ngũ Bá đầu, Thất Bá đầu cũng có mặt ở đó, tôi nói: “Tam gia, Ngũ gia, Thất gia, Tổ Gia nói hôm nay vẫn tiếp tục thực lộc.’’
Tôi còn nhớ mãi sắc mặt của ba vị Bá đầu lúc đó. Mặt họ đều tái mét, ánh mắt đầy kinh ngạc và tỏ vẻ khó hiểu.
Lần “thực lộc’’ này không có Giang Phi Yến và thuộc hạ, mà chỉ có Tổ Gia, Tiền gia, các vị Bá đầu và tôi.
Tôi nhìn qua các món ăn. Vẫn là các món trong thực đơn của Phong Tử Thủ. Tôi ngầm nhận thấy có chuyện gì đó đang xảy ra ở đây.
Tiền Diệu Lâm cười nói: “Tổ Gia, chẳng phải hôm qua mới ăn sao? Dạo này tiền bạc của Đường khẩu đang eo hẹp, nên để dành để lo việc khác…’’
Ông ta chưa nói xong thì Tổ Gia đã ngắt lời: “Không thiếu khoản này được. Khà khà… các vị Bá đầu theo ta lâu rồi, hiếm khi được nhàn rỗi. Dạo này làm ăn không tốt nên mới được nâng chén mà chuyện trò cho vui.’’
Đại Bá đầu cười ha hả rồi gắp một miếng thịt bỏ vào miệng: “Ăn thôi, ăn thôi, tối hôm qua tôi bị đau bụng, bây giờ phải tẩm bổ mới được.’’
Nhị Bá đầu nói: “Đại ca, huynh cũng bị sao?“
Không đợi Đại Bá đầu trả lời, tôi liền chen ngang: “Tiểu nhân cũng bị.’’
Tổ Gia cười lớn: “Toàn là đồ bổ mà. Thời gian vừa rồi Đường khẩu chuyển nhà, mọi người phải vất vả. Bắt đầu từ hôm nay sẽ thực lộc liền trong một tháng.’’
Tam Bá đầu buồn rầu nói: “Lục Tử vừa mới qua đời, tôi… không nuốt nổi…’’
Tổ Gia nghiêm sắc mặt nói: “Sống chết là do số trời, mọi người đừng quá đau buồn.’’
Tổ Gia nói tiếp: “Lão Lục đi rồi, việc làm ăn của Đường khẩu vẫn phải tiếp tục, việc ai người nấy làm. Còn nữa, đám tay chân đệ tử của lão Lục cũng cần phải có người dẫn dắt, mọi người hãy tiến cử đi.’’
Nhị Bá đầu nghe vậy liền ngẩng đầu: “Tổ Gia, tôi chọn Tiểu Hải Tử.’’
Tiểu Hải Tử là thuộc hạ của Nhị Bá đầu, tên thật là Triệu Định Hải, rất giỏi Trát phi, gan dạ dũng cảm, làm ăn cũng tốt.
Tổ Gia lắc đầu: “Đám thuộc hạ của lão Lục đều là cao thủ, không phải ai cũng có thể quản được, nếu không có chút bản lĩnh sẽ rất khó khiến cho họ phục.’’ Tổ Gia quay sang nói với Tam Bá đầu: ‘‘Lão Tam, cậu có chọn được ai thích hợp không?’’
Tam Bá đầu nhìn Tiền Diệu Lâm. Tiền Diệu Lâm cười nói: “Chuyện này, đừng nhìn tôi! Đây là việc nội bộ của Đường khẩu, tôi quyết không tham dự vào đâu.’’
Tam Bá đầu nói: “Tổ Gia, thực ra con đã nhắm được một người. Con xin tiến cử Phàn Nhất Phi, thuộc hạ của Lão Lục.’’
Phàn Nhất Phi mà Tam Bá đầu nói là trợ thủ đắc lực của Phong Tử Thủ, khinh công sánh ngang với Phong Tử Thủ, gia nhập Đường khẩu năm 1942, biệt hiệu ‘‘Tiểu Thời Thiên’’, ý nói hắn ta giống như vị anh hùng hảo hán Thời Thiên ở Lương Sơn, nhanh nhẹn hơn người, khinh công vô địch.
Tổ Gia nghe xong liền đập bàn: “Tốt lắm! Thật đúng với ý của ta!’’
Nhị Bá đầu miệng nhồm nhoàm đầy thịt, sững sờ nhìn Tổ Gia: “Tổ Gia… Phải suy xét thận trọng mới được.’’
Tổ Gia xua tay: “Đường khẩu không thể một ngày thiếu Bá đầu. Mấy ngày qua ta luôn nghĩ đến người này, không ngờ lại trùng hợp với ý của Lão Tam. Cứ quyết định như vậy đi, ngày mai Đường hội sẽ quyết định việc này!’’
Tam Bá đầu vội nói: “Tổ Gia thật sáng suốt!’’
Ngày hôm sau, gần một trăm huynh đệ có mặt tại Đường khẩu. Trong tiếng hò reo chúc mừng, Tiểu Thời Thiên ngồi vào vị trí thứ sáu.
Buổi tối hôm đó vẫn thực lộc, tôi vẫn chỉ ăn một món theo đúng lời dặn của Tổ Gia, ăn một lát thì tôi kinh ngạc phát hiện ra một điều. Hóa ra tất cả mọi người trên bàn tiệc đều chỉ ăn một món. Sao lại thế nhỉ?
Lúc ăn gần xong, Tổ Gia nhìn mọi người nói: “Mấy hôm nay vất vả quá rồi, cái chết của Lục Tử khiến ta vô cùng đau lòng. Đại Đầu, ngươi xem kiếm vài tấm vé để hai hôm tới mọi người cùng đi xem kịch nhé.’’
Đại Bá đầu và Nhị Bá đầu đồng thanh nói: “Hay quá! Con chưa bao giờ được nghe kịch Quảng Đông.’’
Ngày hôm sau, tôi đi kiếm mấy chục tấm vé, Tổ Gia nhìn qua nói: “Tốt lắm! Hãy thông báo cho các vị Bá đầu! Ngày mai tất cả chúng ta cùng đi xem kịch.’’
Tối hôm đó như thường lệ tôi vẫn pha trà cho Tổ Gia.
Tổ Gia ngồi trên ghế xoay, vừa thưởng trà vừa nói: “Đại Đầu, con theo ta được bao lâu rồi?’’
Tôi nhẩm tính lại: “Tổ Gia, được một năm ba tháng ạ!’’
Tổ Gia thở dài: “Chà! Thời gian trôi qua nhanh thật. Đại Đầu, con thấy Tổ Gia ta là người như thế nào?’’
Tôi không biết Tổ Gia hỏi câu này là có ý gì. Quả thực trong lòng tôi rất ngưỡng mộ Tổ Gia. Cùng là đàn ông nhưng sao ông lại giỏi như vậy, vừa có trí tuệ, lại có nhiều thủ đoạn, nhìn lại mình, tướng mạo vừa xấu xí, lại đần độn dốt nát, không biết bao nhiêu lần tôi đã thề rằng kiếp sau phải thay đổi, nhất định phải trở thành người giống như Tổ Gia. Trong lòng tuy rất bùi ngùi, nhưng khổ nỗi không khéo ăn khéo nói, không biết dùng lời hoa mỹ, rốt cuộc chỉ nói được mỗi câu: “Tổ Gia, người rất lợi hại.’’
Tổ Gia hỏi: “Lợi hại như thế nào?’’
Tôi nói: “Mặt nào cũng lợi hại.’’
Tổ Gia cười sảng khoái một hồi rồi nói: “Đại Đầu, con còn nhớ không? Ban đầu khi thu nạp con, ta từng hỏi đã bao giờ con nghĩ rằng có ngày mình cũng làm lão gia không.’’
Tôi nói: “Dạ có, lúc đó con nói phận con thấp hèn, không thể làm lão gia được. Lúc đó sư phụ đã mắng cho con một trận.’’
Tổ Gia nói: “Đúng vậy! Hãy chuẩn bị tinh thần làm lão gia đi! Con sắp được trở thành lão gia rồi đấy.’’
Suýt chút nữa tôi làm rơi ấm trà xuống đất: “Ấy chết… Tổ Gia…’’
Bỗng nhiên có tiếng gõ cửa rất gấp, Tổ Gia ngẩng đầu, ánh mắt sắc lạnh, khiến tôi run bắn người. Tôi buột miệng hỏi: “Ai gõ cửa vậy?’’
THỰC ĐƠN GIẾT NGƯỜI BÍ TRUYỀN TRONG CUNG NHÀ THANH
Tổ Gia không lên tiếng, liền quay sang nói với quản gia: “Mở cửa!’’
Quản gia vâng mệnh cầm đèn ra mở cửa.
Tôi không biết đã xảy ra chuyện gì, chỉ sững sờ nhìn Tổ Gia rồi lại ngó ra sân. Bỗng nhiên có vài tiếng hô hoán, có rất nhiều người từ trên mái nhà nhảy xuống, nhìn kỹ thì ra là Đại Bá đầu. Còn có rất nhiều thuộc hạ có võ nghệ cao cường của Đường khẩu, người nào cũng cầm một hộp pháo.
Tôi biết trong Đường khẩu có mấy chục hộp pháo, bình thường đều để trong phủ của Tổ Gia. Khi nào có nhiệm vụ đặc biệt mới đem ra cấp cho những người cần sử dụng, sau khi làm xong nhiệm vụ thì lại cất vào trong kho. Mặt khác Tổ Gia không cho phép bất cứ Bá đầu và thuộc hạ nào tự ý mang theo súng. Lần này có nhiều người mang theo súng ống, tôi nghĩ ngay: Đường khẩu sắp xảy ra chuyện lớn rồi.
Tổ Gia xua tay, Đại Bá đầu nhanh chóng nấp vào trong bức bình phong sau lưng Tổ Gia, đám thuộc hạ còn lại cũng nấp vào trong bóng tối. Đại Bá đầu thò cổ ra khẽ nói: “Tổ Gia, bên trên còn có 20 huynh đệ, bên chỗ Nhị Bá đầu cũng đã sẵn sàng rồi, bên ngoài Yến Nương (Giang Phi Yến) đã bố trí đâu vào đấy. Các lối đi quan trọng đều là huynh đệ của chúng ta.’’
Tổ Gia gật gật đầu.
Một lúc sau, quản gia dẫn một người đi vào, tôi đưa mắt nhìn thì nhận ra là Thất Bá đầu Vương Gia Hiền.
Sau khi bước vào phòng, Thất Bá đầu chẳng nói chẳng rằng, mà quỳ sụp xuống: “Tổ Gia! Tiểu nhân tới để nhận tội.’’ Sau đó, dập đầu lia lịa: “Tổ Gia, con biết con sai rồi. Xin Tổ Gia tha mạng!’’
Tổ Gia nhìn anh ta rồi lạnh lùng nói: “Nói đi!’’
Thất Bá đầu vừa khóc vừa nói, tôi đứng bên nghe mà sởn gai ốc. Đúng là một âm mưu rất lớn.
Hóa ra tên cáo già Tiền Diệu Lâm từ lâu đã câu kết với Tần Bách Xuyên của Tây phái, từ lâu bọn chúng đã lên kế hoạch trừ khử Tổ Gia.
Tổ Gia là nhân vật trí dũng kiệt xuất, ai cũng nhận thấy điều đó. 21 tuổi nắm quyền cai quản Mộc Tử Liên. Ban đầu khi tiếp quản Đường khẩu từ tay Trương Đan Thành, tính cả lớn bé mới chỉ có hai mươi mấy người, vốn liếng cực kỳ ít ỏi, lại thiếu nhân tài. Nhưng hai mươi mấy năm sau Tổ Gia đã phát triển quân số của Đường khẩu lên tới hàng trăm người, tiền bạc kiếm được phải tính đến hàng trăm vạn.
Mấy trăm năm qua, Tứ đại Đường khẩu về cơ bản không phân cao thấp, thực lực ngang nhau, các bên chế ước lẫn nhau, không ai có thể uy hiếp được ai. Vậy mà đến thời Dân quốc, khi Tổ Gia xuất hiện, Mộc Tử Liên dưới sự quản lý của ông phát triển mạnh mẽ, tỏ rõ ưu thế vượt trội, điều này lập tức phá vỡ thế cân bằng của Tứ đại Đường khẩu. Đó là điều đại kỵ.
Chẳng phải Tổ Gia không hiểu rõ đạo lý này. Những năm qua, mặc dù thực lực của Đường khẩu không ngừng lớn mạnh, nhưng ông vẫn không hề tỏ ra lấn lướt, luôn cung kính với các vị Đại Sư bá. Mãi đến sau năm 1945, khi ông nắm vững hoàn toàn thực lực của mình, mới bắt đầu đánh trận công tâm. Mấy năm gần đây, ông không ngừng chi tiền bạc để mua chuộc lòng người của các Đường khẩu khác, bề ngoài coi đó là điều tốt, các vị Sư bá cũng vô cùng biết ơn. Nhưng thực tế ngoài Giang Phi Yến thì Chưởng môn của hai Đường khẩu còn lại luôn tỏ ra kiêng dè, lòng người đều bị Tổ Gia mua chuộc hết, vậy thì có còn gì nữa đâu. Hơn nữa, vào năm 1943, khi Tứ đại Đường khẩu bị Cục Quân thống bao vây ở Trùng Khánh, Tổ Gia đã dồn ép Tần Bách Xuyên lên giàn thiêu, không màng đến sự sống chết của ông ta, khiến ông ta oán hận trong lòng.
Mặt khác, từ khi cuộc kháng chiến nổ ra, ở phương Bắc, Tiền Diệu Lâm ngày càng khó làm ăn. Sau khi tiếng súng của cuộc Chiến tranh giải phóng vang lên, về căn bản lão ta không thể tiếp tục hành nghề được nữa, luôn muốn dời xuống phía nam, nhưng lại sợ xảy ra xung đột với Đường khẩu của Tổ Gia, thực ra lão ta đã mấy lần lén xuống phía Nam tranh giành cơ hội làm ăn, Tổ Gia biết chuyện nhưng vì đại cục nên chưa bao giờ truy cứu. Về sau Tiền Diệu Lâm lại dẫn một nhóm A Bảo chạy tới Nam Việt, với ý đồ định chiếm bốn tỉnh Nam bộ, nhưng bị Giang Phi Yến phản đòn, trong lòng lão ta vô cùng tức tối. Giang Hoài là vùng đất trù phú, Nam Việt lại ít chiến tranh, ai cũng biết đó là hai vùng đất béo bở, Tiền Diệu Lâm vô cùng thèm thuồng, nên nóng lòng muốn độc chiếm. Nhưng thực lực của Tổ Gia với Giang Phi Yến đều rất mạnh, lão ta không có cách nào chiếm ngay được, lại càng không muốn hạ mình xin nương nhờ. Vì thế lập mưu cấu kết với Tần Bách Xuyên.
Thực ra đó là biểu hiện của sự hèn kém, chúng ngầm toan tính rằng nếu không liên kết lại để đối phó Tổ Gia, chỉ vài năm nữa, e rằng Phái Giang Tướng sẽ quy về một mối dưới trướng của Tổ Gia.
Tần Bách Xuyên bàn với Tiền Diệu Lâm, bằng bất cứ giá nào cũng phải triệt hạ Tổ Gia. Triệt hạ Tổ Gia rồi, Giang Phi Yến càng dễ giải quyết, đến lúc đó sẽ phân chia lại phạm vi thế lực, Tần Bách Xuyên vẫn nắm giữ Tây phái, sau đó thôn tính bốn tỉnh phía Nam về tay của mình. Còn Tiền Diệu Lâm quản lý Đông phái, nắm giữ tất cả địa bàn của Tổ Gia. Hai tên này còn bàn tính với nhau rằng, sẽ phân chia các nữ A Bảo của Giang Phi Yến. Giang Phi Yến đồng ý thì thôi, bằng không sẽ trừ khử.
Cuối cùng hai người chúng quyết định để Tiền Diệu Lâm giả vờ đến nhờ cậy Tổ Gia. Chỉ có tiếp cận với Tổ Gia, mới có thể nắm rõ được nội tình Đường khẩu của ông, xem liệu có thể xúi giục được vài tên Bá đầu hay không, để trong ngoài phối hợp, loại bỏ hoàn toàn Đông phái.
Từ ngày Tiền Diệu Lâm tới Đường khẩu, Tổ Gia đã sinh nghi. Tổ Gia vốn là người thích “đấu cờ’’, nếu trực tiếp giết phăng Tiền Diệu Lâm thì chẳng còn gì là thú vị cả. Thế nên ông quyết định bày ra một bàn cờ lớn, cố tình để Tiền Diệu Lâm tham gia vào Đường hội, được bàn luận về những sự việc trọng đại của Đường khẩu. Tục ngữ có câu Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào, Tổ Gia muốn xem lão ta tài giỏi đến chừng nào, biết mình biết người mới có thể bách chiến bách thắng. Điều quan trọng hơn là Tổ Gia muốn mượn tay của Tiền Diệu Lâm lôi ra những phần tử chống đối trong Đường khẩu ra ánh sáng. Tổ Gia biết rằng, mặc dù bình thường các Bá đầu đều có chút kiêng nể ông, tuy phái Giang Tướng là một đám ô hợp, đều là những cao thủ về mặt trí tuệ, nhưng lại là cặn bã về mặt đạo đức, bụng dạ nham hiểm, thủ đoạn tàn độc. Tổ Gia không bao giờ quên chuyện năm xưa các Bá đầu dưới quyền của Trương Đan Thành tạo phản. Cho nên từ ngày kế nhiệm, ông luôn đề phòng tất cả các Bá đầu.
Tổ Gia không muốn các Bá đầu đoàn kết, cố tình để họ đấu đá, càng đấu đá quyết liệt bao nhiêu thì mình càng an toàn bấy nhiêu. Sau khi cuộc chiến tranh giải phóng bùng nổ, tình hình của Đường khẩu ngày càng trở nên căng thẳng, cơ sở kinh tế quyết định kiến trúc thượng tầng, vì thiếu tiền nên Đường khẩu không được ổn định. Đặc biệt là việc Tổ Gia đem tiền bạc cho các Đường khẩu khác đã nhiều lần vấp phải sự phản đối thẳng thừng của Tam Bá đầu và Ngũ Bá đầu. Từ mùa xuân năm 1949, Tam Bá đầu từng đề nghị Tổ Gia di chuyển xuống phía Nam. Phía Nam mà hắn nói không phải là về hình thức, mà là chiếm lấy địa bàn của Giang Phi Yến nhưng Tổ Gia không đồng ý. Lần khác hắn ta lại kiến nghị tiến quân về phía Tây Nam thôn tính mấy tỉnh của Tần Bách Xuyên.
Thực ra cách nghĩ của Tam Bá là không sai, nhưng vấn đề là ở chỗ hắn ta không hành động nhịp nhàng với Tổ Gia. Hắn ta đi quá nhanh, mà đi như vậy sẽ làm xáo trộn ván cờ của Tổ Gia.
Tổ Gia biết Tam Bá đầu, Ngũ Bá đầu và Thất Bá đầu từ lâu đã thông đồng với nhau. Ba tên này khác hẳn với Đại Bá đầu và Nhị Bá đầu, đều là những phần tử có học thức, giỏi về định kế hoạch. Tổ Gia muốn nhân cơ hội Tiền Diệu Lâm tới Đường khẩu để xem ba người này rốt cuộc có thể làm phản đến mức độ nào.
Cuối cùng ba người này đã không vượt qua được sự thử thách. Đúng như Tổ Gia dự liệu, họ đã bị xúi giục tạo phản. Kẻ cầm đầu chính là Tam Bá đầu.
Từ khi đi theo Tổ Gia, Tam Bá đầu đã luôn có dã tâm. Hắn cho rằng trí tuệ của mình không hề thua kém Tổ Gia. Sau khi Tổ Gia thoái vị, Đường khẩu chắc chắn sẽ do hắn tiếp quản. Trong mắt hắn, Đại Bá đầu hữu dũng vô mưu, Nhị Bá đầu nửa người nửa quỷ, Tứ Bá đầu chỉ là một con mọt sách, Ngũ Bá đầu với hắn cùng ngồi chung một thuyền. Ngoài hắn ra, không ai có thể thay thế Tổ Gia.
Điều khiến hắn ta không thể ngờ tới là, vào năm 1935, Tổ Gia bỗng dẫn về một cậu bé 14 tuổi từ chỗ Vương Á Tiều. Tên Tiểu Lục Tử này dần trưởng thành dưới sự dìu dắt của Tổ Gia, nó ngày càng tỏ rõ ưu thế, thông minh hơn người, vừa can đảm lại có cơ mưu, võ nghệ cao cường, lại còn xuất thân từ Phủ Đầu bang, quan hệ rộng rãi với thế lực cả hai giới Hắc-Bạch. Thế này thì phiền toái rồi đây, đối thủ cạnh tranh ngôi vị của hắn ta đã xuất hiện. Thế là hắn ta vừa tìm cách làm chia rẽ mối quan hệ giữa các Bá đầu khác, vừa ra sức củng cố thế lực của mình, tiến cử Vương Gia Hiền làm Thất Bá đầu chính là một nước cờ của hắn ta.
Từng có một dạo Tam Bá đầu định “bay một mình’’, nhưng Tổ Gia đã nhận ra điều đó. Vì lợi ích chung của Đường khẩu, ông đã nói bóng gió mấy lần nên hắn ta không dám lên tiếng.
Tam Bá đầu còn rất tham lam, hắn luôn có ý kiến với chế độ “ăn hoa hồng’’ của Đường khẩu và đã từng nhiều lần kiến nghị Tổ Gia. Đương nhiên là mượn cớ ổn định lòng người trong Đường khẩu, nhưng Tổ Gia không đồng ý.
Sau khi cuộc Chiến tranh giải phóng bùng nổ, công việc làm ăn của các Đường khẩu lớn ngày càng đi xuống, các A Bảo trong cả nước đều nháo nhác, mọi người đều không biết tình hình sẽ tiến triển theo chiều hướng nào, số phận của mình sẽ đi về đâu. Tam Bá đầu nhiều lần thăm dò ý tứ của Tổ Gia, nhưng Tổ Gia lại không để lộ một chút gì cả.
Chính trong thời khắc quan trọng này thì Tiền Diệu Lâm xuất hiện, dốc hết “lời gan ruột’’ với Tam Bá đầu, ông ta nói: “Bây giờ chính là thời điểm tốt nhất để tạo lên một trật tự khác cho phái Giang Tướng, không thể để một người nắm giữ mãi được.’’
Tiền Diệu Lâm hứa sau khi xong việc sẽ chia mấy tỉnh cho Tam Bá đầu, để Tam Bá đầu tự đứng ra cầm trịch, xưng bá một phương. Điều này vừa hay đúng ý của Tam Bá đầu đã ấp ủ suốt bao năm qua, đến nằm mơ cũng luôn mơ thấy mình được làm Đại Sư bá.
Thế là hai bọn chúng ngấm ngầm câu kết với Tần Bách Xuyên, lên kế hoạch để trong ngoài phối hợp. Chúng tính toán rằng muốn trừ khử Tổ Gia, trước tiên phải tiêu diệt Lục Bá đầu Phong Tử Thủ, đó là hộ vệ sát sườn của Tổ Gia, trí dũng song toàn, là chướng ngại vật lớn nhất. Chỉ cần khử được anh ta thì các Bá đầu khác đều không đáng lo.
Vậy phải làm thế nào? Nếu đánh trực tiếp thì không thể đánh lại anh ta, mà ám sát lại càng không được, cho dù là hạ độc hay bắn chết thì cũng chẳng khác gì việc trực tiếp nói với Tổ Gia rằng có người muốn làm phản. Trong thời khắc quan trọng này, tên cáo già Tiền Diệu Lâm lại phát huy vai trò, lão ta moi ra một thực đơn. Đó là Thực đơn giết người bí truyền mà năm xưa khi hành nghề lừa đảo tại Trực Lệ ở miền Bắc hắn ta đã lấy được từ tay một lão thái giám trong cung.