Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Tôi Là Thầy Tướng Số – Tập 1

Chương 6: “Bốn Vị Thầy Tướng Số” Mỗi Người Một Tuyệt Kỹ Độc Môn

Tác giả: Dịch Chi

Âm mưu làm phản của Tam Bá đầu

Trong lịch sử, những cuộc đấu đá trong cung đình luôn có một vài vị hoàng đế, phi tử, thái tử chết một cách không minh bạch. Nguyên nhân nằm trong Thực đơn giết người bí truyền.

Nói một cách chính xác, phương thuốc bí truyền này nằm ở thực đơn trong một bữa ăn. Mỗi một món ăn, từ nguyên liệu đến cách nấu nướng đều không có bất kỳ vấn đề gì, nhưng một khi ăn một món này với món khác lập tức sẽ có vấn đề.

Vạn vật trong vũ trụ đều có thuộc tính âm dương. Ví dụ, nam là dương, nữ là âm, ngày là dương, đêm là âm, mặt trời là dương, mặt trăng là âm, lửa là dương, nước là âm, ngày nắng là dương, ngày mưa là âm… Đồ ăn cũng vậy. Theo Đông y: “Tối ăn củ cải, sáng ăn gừng, thầy thuốc không viếng thăm”. Đây chính là đạo lý dưỡng sinh bằng phương pháp ăn uống. Tại sao phải ăn củ cải vào buổi tối vì đêm là âm, buổi tối khí dương trong cơ thể suy dần, khí âm chuyển vượng, mà củ cải vừa hay thuộc âm, lúc này ăn củ cải chính là thuận theo sự tuần hoàn của khí âm trong cơ thể. Tương tự, buổi sáng là lúc khí dương thịnh lên, gừng thuộc dương, ăn vài lát gừng sẽ thúc đẩy sự vận hành của khí dương trong cơ thể. Đây chính là đạo của âm dương. Nếu đi ngược lại đạo âm dương này thì sao? Đông y đã cảnh báo về hậu quả của việc ăn uống đi ngược nguyên lý âm dương rằng: “Sáng ăn gừng, có thể bảo vệ sức khỏe. Tối ăn gừng, chẳng khác gì ăn thạch tín.” Có thể thấy, đi ngược đạo âm dương, là vô cùng đáng sợ.

Gần hai tháng nay, thực đơn mà Phong Tử Thủ ăn đều là những món có thuộc tính Ngũ hành tương xung tương khắc, “thịt lợi khai nguyên hầm” cho thêm “củ ấu âm dương”, âm vượng gặp dương vượng, Thủy lan tràn Mộc nổi trôi, tổn hại đến gan; “gà xé phay trộn dưa chuột” cho thêm “lạc ngâm rượu cửu âm”, Thiếu âm1 xung với Thái dương2, Mộc nhiều phá Kim, tổn hại đến phổi; “thịt chó tam dương khai thái” cộng với “đậu song sắc”3, Thái dương lấn át Thiếu âm, tổn thương đến thận… Cứ bảy ngày lại quay vòng các thực đơn này, khiến lục phủ ngũ tạng dần dần bị tàn phá.

Đây chính là mánh khóe giết người dựa vào khí trong Ngũ hành. Một mánh khóe giết người độc địa, thầm lặng.

Thức ăn sẽ tác dụng từ từ, mới đầu không thể nhận ra được, người ăn chúng cùng lắm chỉ bị nóng ruột, đi ngoài. Nhưng thực chất, lúc này lục phủ ngũ tạng đã bị tổn hại, có lúc nạn nhân luôn cảm thấy mệt mỏi, kiệt sức, nhưng lại cứ nghĩ do lao động quá độ gây mệt mỏi nên không chú ý lắm. Lâu dần, nguyên khí trong ngũ tạng tiêu hao đến cùng kiệt, chẳng bao lâu cơ thể mất đi sự cân bằng âm dương. Sinh mệnh tồn tại được là nhờ có sự cân bằng âm dương, khi sự cân bằng đó bị phá vỡ, nhẹ thì nhiều bệnh tật, nặng sẽ bị chết.

Từ nhỏ, Phong Tử Thủ đã luyện tập võ nghệ, thân thể cường tráng, lúc mới ăn vào chỉ cảm thấy hơi khó chịu, nên cho rằng đó là hiện tượng sinh lý bình thường. Hơn nữa anh ta vẫn kiên trì luyện võ, điều này lại càng có hại, vì khi luyện võ cũng cần phải vận khí, trong khi đó, khí huyết trong người lúc này đã bị rối loạn. Nếu cố gồng mình vận khí sẽ khiến cơ thể rơi vào tình trạng “đá chọi đá”, đó là một cuộc chiến vô cùng bi thảm vì chiến trường chính là cơ thể của mình.

Cuối cùng, đến một ngày, khi Phong Tử Thủ đang luyện võ, đột nhiên bị tức ngực, thổ huyết, không đầy vài ngày sau lông tóc bắt đầu rụng, khi tìm đến thầy thuốc thì bệnh đã vô phương cứu chữa. Bởi vậy, đại phu mới chẩn đoán rằng tất cả các cơ quan trong cơ thể đều đã suy kiệt, nhưng lại không thể tìm ra nguyên nhân, không ai có thể ngờ rằng ăn cơm lại có thể khiến người ta bị chết.

Nghe Vương Gia Hiền nói về thực đơn giết người này, Tổ Gia đập bàn, đứng dậy chửi rủa: “Quân khốn kiếp! Một lũ tạp chủng!” Giọng ông run lên vì giận dữ.

Vương Gia Hiền sợ đến nỗi cứ dập đầu xuống nền nhà côm cốp, van xin: “Xin Tổ Gia tha mạng, xin Tổ Gia tha mạng!”

Tổ Gia vốn thông minh hơn người. Ngay từ khi Tiền Diệu Lâm đến Đường khẩu, ông đã có sự đề phòng mọi lúc mọi nơi, nhưng không ngờ lão ta lại dùng đến độc kế này. Bản thân Tổ Gia mãi đến khi xuống nhà bếp của Lục Bá đầu tra xét mới nghi ngờ rằng vấn đề có lẽ nằm ở tờ thực đơn.

Thực ra lúc đó Tổ Gia vẫn chưa biết chắc liệu có phải tờ thực đơn này có vấn đề hay không. Bởi vậy, ngay hôm sau ông mới dùng cách “thực lộc”, mời mọi người ăn cơm. Bọn Tiền Diệu Lâm và Tam Bá đầu có nằm mơ cũng không thể ngờ rằng Tổ Gia lại chú ý đến tờ thực đơn vô tri vô giác này. Bởi một năm bốn mùa, mùa nào Phong Tử Thủ cũng thay đổi rất nhiều thực đơn, mười mấy năm nay vẫn luôn như vậy, nên bản thân Phong Tử thủ cũng chưa bao giờ để ý đến tờ thực đơn mới này. Nhưng Tổ Gia lại khác. Ông ấy quả không hổ danh là Tổ Gia.

Bọn Tam Bá đầu có tật giật mình, chúng biết rõ Phong Tử Thủ thân thể cường tráng, phải mất đến hai tháng mới có thể đưa anh ta vào được quan tài. Còn như với sức vóc của chúng, chỉ cần vài bữa là xong đời, mà cho dù không chết ngay cũng rước bệnh vào người. Giờ đây Tổ Gia lại bày thực đơn này lên, bắt phải ăn, không ăn tất sẽ lòi cái đuôi cáo, chúng biết rõ chỉ cần không kết hợp ăn những món đó với nhau sẽ không có vấn đề gì. Cho nên mỗi tên chỉ ăn đúng một món, hoặc ăn những món đồng nhất về thuộc tính âm dương. Chi tiết này không qua được cặp mắt tinh tường của Tổ Gia, nên khi quay về ông đã nói cho tôi biết, cũng nói cho cả Đại Bá đầu, Nhị Bá đầu và Tứ Bá đầu.

Bọn Tam Bá đầu, Tiền Diệu Lâm chắc mẩm đã qua mặt được Tổ Gia. Không ngờ hôm sau Tổ Gia lại tiếp tục yêu cầu “thực lộc”, hơn nữa còn nói sẽ thực hiện liên tục trong vòng một tháng. Trong bữa ăn, bọn Tam Bá đầu và Tiền Diệu Lâm nhận thấy ngoài chúng ra, các vị Bá đầu khác cũng chỉ ăn duy nhất một món, chúng đánh hơi thấy sự việc đã có cơ bại lộ.

Chính vào giờ phút quan trọng nhất, Tổ Gia lại dùng kế hoãn binh, ông cố ý nhắc về chuyện cần thêm một vị Bá đầu mới. Một là để làm cho bọn Tam Bá đầu mơ mơ hồ hồ, khiến chúng không dám chắc là Tổ Gia đã thực sự nghi ngờ chúng hay chưa. Hai là muốn mượn tay Tam Bá đầu lôi ra những phần tử có vấn đề khác, nhờ đó mà lòi ra thêm tên Tiểu Thời Thiên.

Ngay sau đó, Vương Gia Hiền lại khai ra một âm mưu lớn hơn khác. Chúng đã lên kế hoạch sẵn, sau khi trừ khử được Phong Tử Thủ, Tần Bách Xuyên sẽ viết thư cho Tổ Gia, nói đang có vụ làm ăn lớn, lừa Tổ Gia đến Tứ Xuyên, rồi dàn cục trong cục hòng lấy mạng Tổ Gia. Cùng lúc này, Tiền Diệu Lâm và Tam Bá đầu dẫn đầu bọn Ngũ Bá đầu, Thất Bá đầu và cả tên Tiểu Thời Thiên đã bị mua chuộc từ trước cùng tạo phản ở nhà. Phong Tử Thủ đã chết, việc khử Đại Bá đầu, Nhị Bá đầu và Tứ Bá đầu không thành vấn đề. Trong ngoài phối hợp, tiêu diệt gọn Đông phái.

Tổ Gia hỏi: “Thực đơn này làm thế nào mà lọt được vào bếp của Lục gia?”

Vương Gia Hiền đáp: “Chúng con khống chế đầu bếp của Lục gia. Nếu hắn không chịu hợp tác sẽ giết chết cha mẹ hắn, hắn ta bị ép phải làm phản.”

Tổ Gia quát to: “Đại Bá đầu, lập tức đến giết chết tên đầu bếp họ Vương cho ta!”

Đại Bá đầu thưa: “Vâng!” Rồi xách súng toan đi ngay thì Tổ Gia lại nói: “Truyền lệnh cho Nhị Bá đầu, đã có thể xuất kích.” Sau khi Đại Bá đầu nhận được mệnh lệnh, ông ta dẫn theo hai tên tay chân đi cùng. Ngay sau đó, một tiếng súng từ xa vọng lại, tiếp đến là hàng loạt tiếng súng nổ theo.

Một lát sau, Đại Bá đầu trở về, nói với Tổ Gia: “Tổ Gia, tên đầu bếp Vương đã tự tử rồi. Hắn ta để lại một bức thư.”

Tổ Gia cầm đọc. Trong thư, hắn viết toàn những lời ăn năn, hối lỗi. Đại ý nói là bị ép buộc, bản thân thấy không còn mặt mũi nào mà sống nữa. Sau khi đọc xong, Tổ Gia nói: “Đối đãi tốt với cha mẹ anh ta.”

Vương Gia Hiền nói tiếp: “Tiền Diệu Lâm và Tam Bá đầu nhận thấy rằng Tổ Gia đã biết sự thật, chúng định ra tay trước vào ngay ngày mai, hòng vá lại manh lưới bị rách. Đã có mười mấy huynh đệ của Đường khẩu bị bọn Tam Bá đầu xúi giục, mai phục sẵn trong rạp hát rồi. Tổ Gia đối với tiểu nhân ân trọng như núi, nên con không nhẫn tâm khoanh tay đứng nhìn, mà lén đến báo tin trước…”

Anh ta còn chưa dứt lời, mấy tên tay chân khiêng một cái bao lớn từ ngoài bước vào. Họ giật tung miệng bao ra, một đống đầu người lăn lông lốc ra ngoài.

Tôi sợ đến nỗi không kêu lên được, mười mấy cái đầu lâu máu me be bét, có cái vẫn còn trợn trừng mắt.

Tổ Gia chỉ vào đống đầu người trên nền nhà lạnh lùng nói: “Những kẻ mai phục trong rạp hát đều ở đây cả”.

Vương Gia Hiền thất kinh: “Đây… Tổ Gia, đây…”

Tổ Gia quay người ngồi lên ghế: “Đại Đầu, pha trà!”

Tôi ngẩn người ra, giờ là lúc nào mà Tổ Gia còn có tâm trí uống trà được?

“Ngươi điếc à?” Tổ Gia quát.

Tôi lật đật đi vòng qua mấy cái đầu lâu, đến bên trà kỷ, lập cập mở hộp trà Long Tỉnh.

Tổ Gia chậm rãi nhấp một ngụm, vừa uống vừa lim dim mắt như đang nghĩ ngợi hoặc như đang chờ đợi điều gì đó. Cả căn phòng im phăng phắc không gian như đặc quánh lại. Đằng xa, lúc lúc lại có một loạt tiếng súng vọng lại.

Chừng nửa tiếng sau, tiếng súng thưa dần, một lúc sau, Nhị Bá đầu mồ hôi nhễ nhại chạy vào: “Tổ Gia, đã giải quyết xong. Tiền Diệu Lâm đã tự sát, những tên còn lại đều đã bị bắt.”

Tôi nhìn ra sân, thấy Giang Phi Yến tay đang cầm khẩu súng, mấy A Bảo đang đẩy Tam Bá đầu và Ngũ Bá đầu đã bị trói quặt cánh tay ra phía sau. Còn có cả tên Tiểu Thời Thiên vừa mới nhậm chức Lục Bá đầu.

“Quỳ xuống!” Nhị Bá đầu quát.

Tam Bá đầu, Ngũ Bá đầu, Tiểu Thời Thiên cùng quỳ xuống trước mặt Tổ Gia.

Tôi ôm ấm trà lặng lẽ nhìn bọn họ. Mồ hôi trên trán Tam Bá đầu túa ra, trên mặt còn có cả vết máu.

Tổ Gia nhấp một ngụm trà rồi nói: “Các ngươi còn có gì để nói nữa không?”

Tam Bá đầu ngẩng đầu lên xin: “Tổ Gia, xin hãy ra tay thật nhanh!”

Tổ Gia thở dài, chầm chậm đứng lên, từ từ bước tới trước mặt Tam Bá đầu, xoa đầu ông ta nói: “Lão Tam à, kiếp sau làm người, đừng có thông minh như vậy nữa…” Bỗng, Tổ Gia giơ tay lên rồi đập một cái, Tam Bá đầu kêu hự lên một tiếng, thân người dướn thẳng rồi ngã lăn xuống đất, chết tươi. Tổ Gia đã đâm một cái đinh vào sau gáy hắn ta.

Ngũ Bá đầu và Tiểu Thời Thiên thấy vậy, phủ phục đầu sát đất: “Xin Tổ Gia tha mạng!”

Tổ Gia ngẩng đầu lên, đau lòng nói: “Các người đi theo ta bao nhiêu năm nay, ta có chỗ nào không phải với các ngươi, cớ sao các ngươi lại nghe theo tên Tam Bá đầu một cách ngu muội như vậy? Tình huynh đệ thủ túc, giết các người có khác nào ta chặt đứt cánh tay mình, cũng như chặt đứt đường tiền tài của Đường khẩu. Về sau các ngươi hãy liệu mà làm đi!”

Ngũ Bá đầu và Tiểu Thời Thiên nghe được những lời này, nước mắt trào ra: “Tổ Gia! Chúng con xin lỗi!” Họ dập đầu côm cốp xuống nền đến nỗi chảy cả máu: “Tạ ơn Tổ Gia không giết!”

Bọn họ đâu biết rằng, đây là kế hoãn binh của Tổ Gia. Vốn dĩ khoảng thời gian này tình hình Đường khẩu rối ren, vừa mới từ Giang Hoài chuyển đến Quảng Đông, vì cuộc đấu đá nội bộ này mà mười mấy huynh đệ phải chết. Nếu ông lại giết đi nhiều Bá đầu, chẳng khác gì tự phá hỏng nguyên khí của mình.

Sau đó nhiều năm, tôi hỏi Vương Gia Hiền, tại sao khi đó lại biết ăn năn hối lỗi. Vương Gia Hiền chỉ nói một câu: “Một người ngay cả Đại Sư bá của mình mà cũng dám giết, tôi đi theo hắn liệu có kết cục tốt đẹp không? Lão Tam lòng dạ quá hiểm độc.” Nhớ lại những chuyện đã qua, tôi vẫn luôn khâm phục trí tuệ và sự lão luyện của Tổ Gia.

Ông ấy có thể nghi ngờ cả tờ thực đơn vô tri vô giác, sau đó dùng cách “thực lộc” để kiểm tra giả thiết của mình, trong suốt bữa ăn liên tục thả ra những lời lấp lửng nước đôi, khiến người ta không biết đường nào mà lần, rồi quan sát phản ứng của từng người một. Sau khi nhìn rõ chân tướng, ông lại tung hỏa mù, đầu tiên thì đồng ý chuyện Tam Bá đầu tiến cử Tiểu Thời Thiên, sau đó lại cố ý nói muốn đi xem kịch, nhằm kéo dài thời gian. Thực ra, trong thời gian này, ông ấy đang khuya chiêng gõ mõ bài binh bố trận. Để đề phòng tên Tam Bá đầu chó cùng dứt giậu mà xông vào tận phủ giết mình, đầu tiên, ông trang bị vũ khí cho đội cận vệ trung thành nhất của mình bên chỗ Đại Bá đầu, cho họ ẩn nấp trong phủ, rồi lại phái Nhị Bá đầu tập hợp đám chân tay và người bên chỗ Tứ Bá đầu lại, bao vây chỗ ở của bọn Tam Bá đầu, Tiền Diệu Lâm. Quan trọng hơn, ông còn có sự trợ giúp của Giang Phi Yến. Bà ấy cát cứ vùng Nam Việt mấy chục năm, nên việc ra vào thành phố bằng đường thủy, đường bộ đều rõ như lòng bàn tay. Bà đã gài người mai phục giúp Tổ Gia, Tổ Gia đã căn dặn: “Không được để thoát bất kỳ một tên nào!”

Kết quả khi Tiền Diệu Lâm cùng mấy tên tay chân vác súng tháo chạy liền bị chặn lại ở bến đò. Sau một trận đọ súng, Tiền Diệu Lâm thấy tình thế không thể cứu vãn, bèn nổ súng tự sát.

Điều quan trọng hơn cả đó là việc tên đi đưa thư cho Tây phái Tần Bách Xuyên cũng bị bắt sống. Vì mấy ngày nay, tình hình diễn biến bất lợi, phá hỏng hoàn toàn những toan tính, ý đồ ban đầu của bọn Tam Bá đầu, Tiền Diệu Lâm và Tần Bách Xuyên. Tiền Diệu Lâm xét thấy không thể hành động theo như kế hoạch, vội vàng viết một lá thư, rồi phái người đưa tin nhằm báo cho Tần Bách Xuyên biết đã bị lộ cục. Lão ta định thoát thân bằng đường biển, đi vòng qua Quảng Tây, sau đó đi vào Tứ Xuyên, xin Tần Bách Xuyên tiếp ứng.

Tổ Gia đọc xong thư mới hiểu thêm một điều rằng, Tam Bá đầu tự phụ nghĩ mình thông minh, nhưng lại bị tên Tiền Diệu Lâm chơi xỏ. Hắn ta kích động bọn Tam Bá đầu, Ngũ Bá đầu và Thất Bá đầu liều mạng đấu với Tổ Gia, còn bản thân nhân lúc hỗn loạn sẽ đánh bài chuồn. Vốn dĩ lão ta chưa từng nghĩ đến việc cùng sống chết với Tam Bá đầu.

Bắt được kẻ đưa thư này, đồng nghĩa với việc Tổ Gia nắm được thế chủ động trên toàn cục, ông ra lệnh phong tỏa mọi tin tức. Đồng thời, sai Tứ Bá đầu là người giỏi sao chép, mô phỏng bút tích và giọng điệu của Tiền Diệu Lâm, viết một bức thư báo tin cho Tần Bách Xuyên rằng: “Mọi việc thuận lợi, hành động theo kế hoạch đã định.”

Tổ Gia muốn tương kế tựu kế dàn tiếp cục này, để diệt trừ Tần Bách Xuyên.

Tổ Gia là người thông minh, mưu lược như vậy, nên tôi vẫn thường nghĩ không biết ông có hài lòng về bản thân hay không? Tôi cho là không. Ông ấy thông minh, vậy mà Tiểu Lục Tử mà ông rất mực yêu quý vẫn bị chết ngay trước mắt. Tam Bá đầu vẫn cứ làm phản, Đường khẩu mà mọi người dốc bao nhiêu tâm sức mới gây dựng được, bỗng chốc mất đi mấy chục huynh đệ. Ông thông minh như vậy, nhưng chiến tranh vừa nổ ra, ông vẫn phải dẫn các huynh đệ bôn ba khắp chốn. Trong cơn nguy biến của lịch sử và con đường đi đầy tàn khốc của vận mệnh, lần đầu tiên tôi nhận thấy rằng, Tổ Gia cũng rất yếu đuối.

Cuộc đấu đá nội bộ này khiến Tổ Gia già hẳn đi. Khoảng thời gian đó, nhìn ông, tôi thấy rất thương cảm. Giang Phi Yến sai người mang loại tổ yến thượng hạng đến, nhưng ông không nuốt nổi, bà liền mời ông đi xem kịch. Tóm lại, trong thời gian đó, Giang Phi Yến luôn bên cạnh bầu bạn, chuyện trò với Tổ Gia.

Thực ra, ban đầu Giang Phi Yến giúp đỡ Tổ Gia là vì chữ tình, bà ấy yêu Tổ Gia, mặt khác cũng vì báo đáp ơn cứu mạng bà hai lần. Khi Thất Bá đầu Vương Gia Hiền khai ra chuyện bọn Tiền Diệu Lâm muốn cướp địa bàn của bà, chia rẽ tỷ muội trong Đường khẩu, bà mới biết lần này cũng là giúp chính bản thân mình.

Giang Phi Yến mang một vẻ đẹp khiến cho tất cả bọn đàn ông đều phải xiêu lòng. Ánh mắt bà lạnh như băng, nhưng không những không tạo ra được khoảng cách, mà ngược lại khiến cho đàn ông khao khát tìm mọi cách làm tan chảy khối băng đó.

Người trong giang hồ đều biết đến mỹ danh “Bông hoa Nam Việt”, năm xưa là Kiều Ngũ Muội. Nay bông hoa đó chính là Giang Phi Yến, người trong giang hồ vẫn đùa rằng: “Ngũ nương chi hậu hữu Yến tỷ, Nương Doanh tỷ tỷ tam phân mạo, tỷ thắng lão nương nhất mạch hương.” Nghĩa là, nếu luận về dung mạo, Kiều Ngũ Muội đẹp hơn Giang Phi Yến, nhưng Giang Phi Yến có một ưu điểm mà những phụ nữ khác không thể sánh bằng đó là mùi hương. Cho dù bà không thoa phấn, nhưng khi bà đi lướt qua, là anh có thể cảm nhận thấy cả một làn hương thơm phảng phất.

Thực ra, Kiều Ngũ Muội và Giang Phi Yến đều là những người đẹp nhất trong những người đẹp, tiêu chuẩn quyết định một nữ A Bảo được làm Chưởng môn nhân là phải thật đẹp. Vì muốn dàn cục, muốn tạo mối quan hệ hay dùng mỹ nhân kế thì về cơ bản những cô gái kém nhan sắc không thể lên sân khấu được.

Năm xưa, khi Kiều Ngũ Muội chết, có đến mấy trăm tên Hắc bang địa phương bao vây Đường khẩu. Tổ Gia đã phải dùng kế “Vây Ngụy cứu Triệu”, khéo léo hóa giải được cơn nguy biến này, khiến Giang Phi Yến vừa gặp đã sinh lòng ái mộ. Nhưng Tổ Gia nhất mực từ chối đón nhận tấm chân này, ông luôn giữ lễ, hết mực cung kính với bà. Khi đó, Giang Phi Yến 31 tuổi còn Tổ Gia 30 tuổi. Hơn mười năm nay, bà thầm yêu trộm nhớ Tổ Gia đến mức khổ sở, nhưng ông luôn giữ khoảng cách, tuy gần mà xa.

Đây đều là những chuyện mà Nhị Bá đầu to nhỏ với tôi trong những cuộc rượu chỉ có hai sư đồ. Về sau, cả Thất Bá đầu cũng nói như vậy.

Giang Phi Yến đặt ra một quy định trong Đường khẩu của mình là tất cả các nữ A Bảo đều không được phép lấy chồng. Nhị Bá đầu nói bà ấy là kẻ lập dị. Sau khi đất nước Trung Quốc mới được thành lập, những Bá đầu như chúng tôi được ra khỏi tù, ngồi uống rượu với Thất Bá đầu, đề cập lại chuyện này. Thất Bá đầu nói: “Không cho phép lấy chồng là nói để cho các A Bảo nghe, bà ấy cũng chỉ vì nghĩ cho lợi ích của Đường khẩu. Con người đâu phải là gỗ đá, ai mà không có chữ tình chứ. Bao nhiêu năm bà thầm yêu Tổ Gia, nhưng Tổ Gia vẫn không đón nhận, bà ấy mới là người khổ tâm nhất.”

Số mệnh của nữ A Bảo thực ra rất bi thảm, đặc biệt là Chưởng môn nhân, chớ thấy bề ngoài họ đeo đầy kim ngân vàng bạc, ung dung cao quý thì ao ước ngưỡng mộ. Để có được những thứ đó họ phải mang cả tấm thân và cái đầu ra để đánh đổi. Tuổi xuân của Giang Phi Yến đã dâng hết cho phái Giang Tướng. Hai mươi năm nắm giữ Việt Hải Đường, người ngoài thì thấy vinh quang biết mấy, nhưng kỳ thực bà đã phải nghiến răng chịu đựng, khổ đau, chỉ có mình bà mới biết.

Hai tháng sau, bà giúp Tổ Gia tiêu diệt Tần Bách Xuyên, sau đó bà thổ lộ hết những lời tự đáy lòng, khiến Tổ Gia rơi nước mắt vì sầu não. Trút bỏ được hết nỗi lòng, bà quay bước ra đi, rời xa Đại Lục, bỏ lại Việt Hải Đường nơi mà bà đã chôn vùi bao nhiêu năm tuổi trẻ. Mùa xuân năm 1987, bà lâm bệnh và qua đời ở Đài Loan.

VỜ TRÚNG KẾ, THẲNG TIẾN TỨ XUYÊN

Do Tổ Gia đã phong tỏa mọi tin tức và còn gửi cho Tần Bách Xuyên một bức thư giả, nên hắn ta như ngồi trong thúng không hề hay biết chuyện gì đã xảy ra.

Hơn nửa tháng sau, Tần Bách Xuyên phái người đưa thư mời Tổ Gia đến Tứ Xuyên dàn cục. Đương nhiên Tổ Gia nhận lời. Ông dặn dò Đại Bá đầu, Nhị Bá đầu, Tứ Bá đầu ở lại trông nom Đường khẩu, chỉ mang theo một người đi cùng, đó chính là tôi. Đây là lần khảo nghiệm lòng dũng cảm cuối cùng ông dành cho tôi. Từ khi theo Tổ Gia đến nay, ông lần lượt thử thách lòng kiên trì, thói háo sắc, tâm tham lam, lòng nhân từ và sự gan dạ dũng cảm của tôi. Có lẽ, một kẻ không tham lam, không háo sắc, có lòng can đảm mới là người mà ông ấy muốn gửi gắm cuối cùng.

Chưa kẻ nào đoán ra được cái bẫy mà Tổ Gia giăng ra. Trên đường đến Tứ Xuyên, ông nói với tôi: “Này Đại Đầu, chuyến đi này, không thành công thì cũng thành nhân.”

Tôi nói với Tổ Gia: “Sao sư phụ không mang thêm nhiều huynh đệ hơn?”

Tổ Gia nói: “Càng ít càng an toàn.”

Tôi thật không hiểu thế nào là càng ít thì càng an toàn, nhưng cũng không thắc mắc gì thêm nữa.

Tổ Gia nhìn tôi, hỏi: “Sợ rồi sao?”

Tôi đáp: “Sợ thì không ạ, chỉ là thấy không vững tâm.”

Tổ Gia cười: “Đại Đầu, theo ta lâu vậy rồi, ngươi có hối hận không?”

Lòng tôi như chùng xuống, tôi nói: “Tổ Gia, con không hối hận, bao lâu nay, người đối với con ân trọng như núi, thế mà con lại khiến người thất vọng.Gia nhập Đường khẩu đã lâu, con vẫn không thể san sẻ bớt nỗi lo cho người”.

Tổ Gia nhìn tôi thở dài nói: “Người đáng hổ thẹn phải là Tổ Gia ta đây, thường ngày ta vẫn nghĩ, trước đây ngươi làm ở quán trà cũng rất tốt rồi, mặc dù nghèo một chút nhưng được sống những ngày yên ổn, đi theo ta, không tránh khỏi việc phải lo lắng sợ hãi, ta không biết rồi sẽ đưa ngươi đi tới đâu nữa. Ta thường nghĩ, nếu ta không làm ăn kiểu này, ngươi đi theo ta, thì thật tốt biết mấy.”

Nhìn chỗ tóc mai đã bạc trắng của Tổ Gia, tôi chợt thấy nhói lòng: “Tổ Gia, đây chính là duyên phận.”

Tổ Gia trầm ngâm một lát rồi nói: “Đại Đầu, nếu có cơ hội ra đi, ngươi sẽ chọn nơi nào?”

Tôi giật mình: “Ra đi ư? Đi đâu?”

Tổ Gia thở dài một tiếng: “Hồng Kông, Đài Loan, Nam Dương đều được. Hiện nay, có rất nhiều huynh đệ đồng đạo đã chạy ra ngoài, sau khi tìm được chỗ dừng chân đều viết thư về bảo ta đi cùng họ, nhưng ta không thể, bởi vẫn còn nhiều việc chưa hoàn thành…” Nói đến đây, Tổ Gia lặng người đi một lát: “Nếu có thể… có một ngày ta ra đi, ngươi có muốn đi cùng ta không?”

Nghe thấy vậy nước mắt tôi đã chực trào ra. Đây không phải là việc muốn hay không, mà là Tổ Gia chưa bao giờ có ý định bỏ rơi tôi. Ai cũng biết việc ra ngoài chẳng phải là chuyện đơn giản. Như tôi đây, không tiền không tài, không có người giúp đỡ, cứ cho là đến đó được cũng khó mà sống nổi.

Tôi biết trong lòng Tổ Gia cũng rất buồn, không nỡ rời bỏ, sau khi đến Nam Việt, lạ nước lạ cái, việc làm ăn cũng chẳng phải dễ dàng gì, đã vậy Phong Tử Thủ thì đã chết, Tam Bá đầu và mười mấy huynh đệ cũng theo sau, giờ đây lại Tây tiến đến Tứ Xuyên đấu với Tần Bách Xuyên, thắng thua khó liệu trước… Giai đoạn đó, thời cuộc rối ren, chưa thể đoán biết được tiền đồ sẽ thế nào, lần đầu tiên tôi thấy Tổ Gia tỏ ra băn khoăn, do dự.

Thực ra, đây cũng là khoảng thời gian cả đất nước Trung Quốc bị mất phương hướng. Đi hay ở đã trở thành nỗi trăn trở đeo đẳng trong tâm trí biết bao người. Sau khi Quân giải phóng vượt sông Trường Giang, đánh đổ Tưởng dễ như đẽo cây gỗ mục. Nhiều người đã dao động trước sự tuyên truyền của Quốc dân Đảng. Vào khoảng thời gian trước và sau năm 1949, khi nước Trung Quốc mới được thành lập, hàng trăm vạn người đã mang theo gia đình vợ con trốn ra nước ngoài.

Trong số này, có đám binh tàn tướng bại Quốc dân Đảng, bám đuôi Tưởng Giới Thạch còn có cả bọn thương gia giàu có, trùm xã hội đen, bọn thổ phỉ vùng Tây Nam và một bộ phận người dân không rõ lai lịch. Họ chạy đến bất kỳ nơi nào có thể dung thân lánh nạn như: Đài Loan, Hồng Kông, Nam Dương và khắp nơi khác trên thế giới.

Đặc biệt là những tên trùm xã hội đen, chúng biết rõ, Cộng sản Đảng đã đến và giành thiên hạ về cho nhân dân. Những ngày tháng bọn họ có thể làm mưa làm gió, cưỡi đầu cưỡi cổ dân thường đã một đi không trở lại.

Tổ Gia cũng được liệt vào hàng xã hội đen, tay ông dính đầy máu, nhưng có nhiều tiền bạc. Cho nên, ông cần phải chạy trốn và có điều kiện để chạy trốn.

Ngày 2 tháng 8, chúng tôi tới Tứ Xuyên. Lần đầu tiên tôi gặp Tần Bách Xuyên, ông ta trông to con, để râu quai nón, rất có khí phách của bậc đại gia. Vừa thấy chúng tôi đến, ông ta mừng rỡ chìa tay đón: “Tổ Gia, người huynh đệ tốt của ta.”

Tổ Gia cũng cười tươi: “Tần gia, đã lâu không gặp, ông vẫn phong độ như ngày nào.”

Tối hôm đó, Tần Bách Xuyên mở tiệc thết đãi, giữa buổi tiệc, ông ta giải thích kế hoạch về vụ dàn cục lần này.

Ông ta nói lần này phải dàn một cục lớn, trước mắt sẽ giải quyết được vấn đề về thiếu hụt tiền bạc của các Đường khẩu. Rằng, ông ta đã bố trí dàn cục này 5 năm rồi. Mục tiêu chính là một tên đại thổ phỉ có máu mặt ở Tứ Xuyên.

Thời cận đại, thổ phỉ nổi lên như nấm sau mưa. Sau Cách mạng Tân Hợi, nhà Mãn Thanh sụp đổ, Quốc dân Đảng còn yếu kém, Trung Quốc rơi vào thời kỳ đại loạn, bọn quân phiệt xưng hùng xưng bá, trong bối cảnh này, thổ phỉ nổi lên khắp nơi, chúng chiếm cứ một vùng núi rồi tự xưng làm vua.

Về gốc gác thổ phỉ cơ bản có hai loại. Một là đại địa chủ, trong tay sẵn có tiền, chiêu binh mãi mã, tổ chức đội quân, vừa để tự bảo vệ mình, vừa để đi ức hiếp, bóc lột nhân dân. Còn loại kia là bọn ác bá, tội đồ trốn lưu vong, bí mật kết bè kết đảng với nhau, cũng bao gồm cả những người túng quẫn làm liều, những loại người này tụ họp lại với nhau, bất chấp mạng sống, năm tháng trôi qua, dần dần chúng cũng thu được ít nhiều “chiến tích”.

Thổ phỉ cũng có cái thú vị của nó, sau khi kéo bè kết đảng, chúng tự xây dựng cơ cấu, tên cầm đầu tự xưng là Tư lệnh, dưới hắn có Đoàn trưởng, Lữ đoàn trưởng, nhưng trong tay chẳng có bao nhiêu người.

Điều đáng nói là trong số thổ phỉ có một bộ phận thổ phỉ chính nghĩa. Mặc dù cũng là cướp bóc, nhưng tôn chỉ hành nghề là cướp của bọn cường hào ác bá, lấy của người giàu chia cho người nghèo. Trương Bạch Mã vùng Đông Bắc chính là một tổ chức thổ phỉ chính nghĩa nổi danh trong lịch sử cận đại. Quân đội của hắn ta có kỷ luật nghiêm minh, không được phép giết người nghèo, nhân sĩ cách mạng, không được phép cưỡng hiếp phụ nữ, hà hiếp người dân.

Tần Bách Xuyên chửi tên thổ phỉ này là thằng khốn nạn chính cống. Hắn đã chiếm cứ vùng phía tây Tứ Xuyên mười mấy năm nay, cùng với mấy tên đầu sỏ có tiếng khác ở vùng Kiềm Tây, Điền Tây xưng là Ngũ Hổ vùng Tây Nam. Tần Bách Xuyên nói: “Tôi đã rình con gà béo này lâu lắm rồi. Gia sản có đến mấy trăm vạn, hiện giờ hắn tuyệt đối tin tưởng tôi. Gần đây hắn muốn di dời mộ tổ, chúng ta sẽ cùng dàn cục phong thủy lừa hắn.”

Tổ Gia hỏi: “Sao lại phải dời mộ?”

Tần Bách Xuyên nói: “Là muốn cải vận cầu phúc. Quân giải phóng đã đánh qua Trường Giang rồi. Lão Tưởng định làm thế nào rất khó nói. Sau khi bọn Cộng sản đến, đám thổ phỉ còn được sống yên thân sao?”

Tổ Gia cười hỏi: “Sao hắn không bỏ chạy?”

Tần Bách Xuyên nói: “Thời cuộc còn chưa biết thế nào. Ai dám chắc lão Tưởng không thể ngóc đầu lên được nữa?”

Lời Tần Bách Xuyên đã nói trúng tâm lý mâu thuẫn của bọn phản động ở Trung Quốc khi đó. Nếu bỏ chạy, sẽ bị mất sản nghiệp to lớn, chuyển nhà khác gì đánh mất chỗ đứng. Hơn nữa dù là người tốt hay kẻ xấu cũng khó mà rời bỏ quê hương. Nhưng nếu không chạy, bản thân đã làm bao nhiêu việc ác, chắc chắn sẽ bị trừng trị.

Cùng với việc này, trong cuộc họp quân sự vùng Đông Nam, Tưởng Giới Thạch còn tuyên bố om sòm về “Phản công chiến lược”. Hắn đã đưa ra khẩu hiệu “Huấn luyện chỉnh đốn nửa năm, phản công một năm, thành công trong ba năm”. Kết quả là đến lúc chết vẫn chưa thành công, ngay từ đầu hắn đã không hiểu rằng việc đi ngược với mong ước của quần chúng, là hắn đã đứng ở phía đối lập với nhân dân.

Kỳ thực, khi đó tình hình trong nước bất ổn, ngay cả sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1949, trên gần một phần ba đất Trung Quốc vẫn còn đội quân tàn dư rất của Quốc dân Đảng. Vùng duyên hải có một vài nơi như quần đảo Chu Sơn vẫn còn không quân của Quốc dân Đảng đồn trú, ngoài đội quân chính quy này ra. Nhiều nơi vẫn còn rất nhiều bọn thổ phỉ, đặc vụ ẩn náu, rình mò chờ thời cơ thực hiện hành động phá hoại và ám sát, hòng lật đổ nước Trung Quốc mới, lật đổ Chủ nghĩa Xã hội. Chỉ trong tháng 2 năm 1950, không quân Quốc dân Đảng ở Chu Sơn đã 17 lần tập kích trên không ở khu vực thành phố Thượng Hải, ném bom làm chết và bị thương hơn một nghìn người dân, đồng thời phá hủy nhiều nhà máy điện và khu dân cư.

Tổ Gia cười nói với Tần Bách Xuyên: “Với bản lĩnh của Tần gia thì tự mình cũng có thể hạ được đối phương.”

Tần Bách Xuyên nói: “Không đâu! Tôi dù có làm tốt thế nào cũng không bằng Tổ Gia ra mặt. Người Trung Quốc quan niệm rằng ‘Bụt chùa nhà không thiêng’, càng không biết rõ thì càng thần bí. Tôi ở đất Xuyên bao nhiêu năm nay, cứ thật thật giả giả, giả giả thật thật. Bọn chúng tuy không thể biết được bản lĩnh của tôi là thật hay giả, nhưng nếu tiền chui thẳng vào túi tôi, tất sẽ sinh nghi ngờ. Huống hồ tôi đã kết nghĩa anh em với tên thổ phỉ này, giống như Dao sắc không thể gọt được chuôi vậy, việc dời mộ tổ này là việc lớn nên cứ để người ngoài làm là hay hơn cả.”

Tổ Gia cười to: “Tần gia thật cao minh. Bái phục! Bái phục! Nhưng, Tần gia đã là anh em kết nghĩa với người ta, tức là đã ngẩng mặt lên trời mà thề nguyện, nếu dàn cục như vậy, ông không sợ bị báo ứng sao?”

Tần Bách Xuyên cười cười: “Tổ Gia có tấm lòng Bồ Tát như thế từ khi nào vậy? Ông với tôi mới là huynh đệ tốt từng uống máu ăn thề, bọn khác chỉ là bày trò mà thôi.”

Tổ Gia chắp tay: “Tần gia nói rất phải.”

Ngày hôm sau, khi hóa trang xong, Tổ Gia cùng với Tần Bách Xuyên đến nhà tên thổ phỉ kia.

Tôi cầm la bàn, đi kè kè ngay sau Tổ Gia, tôi biết ông làm bất cứ việc gì đều có sự chuẩn bị trước. Nhưng lần này, tôi lại không biết Tổ Gia để đường lui cho mình ở chỗ nào. Tôi cứ nghĩ đến đây tất sẽ có người tiếp ứng, nhưng tính đến thời điểm này vẫn chỉ có hai thầy trò. Hai người đối phó với Tần Bách Xuyên và băng thổ phỉ. Đây chẳng khác nào “Dê vào hang cọp lại còn đòi vuốt râu hùm.”

Nghĩ thì như vậy, nhưng tôi lại thấy vô cùng nhẹ nhõm, đã đi theo Tổ Gia tức là đã phó mặc chuyện sống chết. Nếu ông không may gặp nạn, thì tôi nguyện chết theo ông. Đồ đệ được chết theo sư phụ, có gì phải đáng tiếc.

Vì thế, suốt đường đi tôi cứ bình thản ung dung. Sau khi bước vào cửa, tôi tỏ ra rất chủ động, đẩy ghế cho Tổ Gia ngồi, khi tên đầy tớ của bọn chúng dâng trà, tôi làm như mình là vệ sĩ, chặn hắn đứng cách xa ba bước, rồi nhận lấy chén trà. Đợi sau khi Tần Bách Xuyên và tên thổ phỉ kia uống xong, tôi mới đưa cho Tổ Gia, tôi sợ trong trà có độc.

Sau này Tổ Gia nói với tôi: “Đại Đầu, lúc đó, ta thấy con đã thực sự trưởng thành rồi.” Câu nói này khiến tôi cảm thấy rất ấm lòng, đi theo Tổ Gia làm một kẻ vô tích sự lâu như vậy, cuối cùng cũng có ngày làm được việc cho ông.

Thực ra, việc làm đó của tôi là thừa, Tần Bách Xuyên sẽ chẳng dùng cách đó để giết Tổ Gia. Nếu Tổ Gia chết theo cách đó, chứng tỏ Tần Bách Xuyên chẳng có tài cán gì. Hắn ta muốn gây thanh thế, dàn cục trong cục, để các huynh đệ của Tứ đại Đường khẩu khắp Đông Tây Nam Bắc đều thấy rằng Tổ Gia đáng chết, chết một cách đáng đời. Có như vậy, hắn mới có thể giơ cái bộ mặt vô can và nhân từ ra để thu dọn tàn cuộc một cách gọn gàng.

LIÊN HOÀN CỤC CỦA TẦN BÁCH XUYÊN

Sở trường của Tần Bách Xuyên chính là dàn cục trong cục, đặt cái bẫy này lồng móc vào cái bẫy kia, thật thật giả giả đan xen lẫn lộn vào nhau. Hắn nấp đằng sau âm mưu của mình, quan sát diễn biến, đợi thời cơ chín muồi liền thò đuôi cáo ra quẫy mạnh cái phá vỡ toàn cục, khiến người cùng dàn cục với hắn chết mà không biết vì sao mình chết.

Vụ dàn cục kép đắc ý nhất trong đời hắn chính là vụ hạ bệ sư phụ Lưu Tòng Vân.

Lưu Tòng Vân cũng được liệt vào loại cáo già, nhưng con cáo già này lại bại trong tay con cáo con. Hơn nữa còn thua một cách tâm phục khẩu phục.

Lưu Tòng Vân là nhân vật như thế nào? Đó là nhân vật khét tiếng có số má trong giới lừa đảo miền Tây. Lão ta sinh năm Quang Tự thứ chín, tự xưng là Bạch Hạc tiên sinh, mười tám tuổi gia nhập Long Tu Nha, sáng lập ra Nhất quán tiên thiên đại đạo. Sau khi trưởng môn Tây phái Đoàn Kim Sơn qua đời, lão ta kế thừa chức Chưởng môn. Năm 1922, khi Chưởng môn Đường khẩu Mộc Tử Liên là Trương Đan Thành chết, lão ta đích thân dẫn bọn đệ tử của Tây phái đến chia buồn, trong số đó có cả Tần Bách Xuyên.

Khi về già, Trương Đan Thành thường dặn dò Tổ Gia: “Trong số Tứ đại Đường khẩu khắp Đông Tây Nam Bắc, hiện giờ có Lưu Tòng Vân của Tây phái giỏi nhất. Người này có chí lớn, làm A Bảo không phải là mục tiêu cuối cùng của ông ta. Đích mà ông ta nhắm đến là quân sự và chính trị. Sư bá cứ trông mà coi, chỉ vài năm nữa, nhất định hắn sẽ thâm nhập vào hàng ngũ quân đội.”

“Tên Lưu Tòng Vân này, Sư bá chớ nên thân cận quá và cũng đừng xa cách quá. Ông ta có nhiều điều đáng để cho Sư bá học tập. Là người xảo trá, quỷ quyệt, thông tuệ khác thường, tinh thông cả Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo. Ông ta có khả năng nhìn một lần là ghi nhớ ngay, đặc biệt có tài ngụy biện vô địch. Sư bá trước mặt nên tỏ ra cung kính nhưng sau lưng phải luôn đề phòng. Tuyệt đối không được đối địch với ông ta. Chí ít hiện nay ta chưa phải là đối thủ của hắn.” Trương Đan Thành đã ân cần dặn dò lại Tổ Gia như vậy.

Những lời Trương Đan Thành nói quả không sai. Lưu Tòng Vân đúng là nhân vật danh bất hư truyền. Người này đọc hết cả Tứ Thư, Ngũ Kinh, am hiểu đạo âm dương, lúc trẻ từng làm thầy giáo tư thục, rất giỏi nắm bắt nhược điểm tâm lý con người.

Nhiều năm nay, ông ta tiếp cận với một nhân vật đặc biệt tin vào quỷ thần, đó chính là Lưu Tương – một tên đại quân phiệt được mệnh danh là vua Tứ Xuyên, thế là ông ta lựa thời cơ xuất Thiên. Sau mấy lần tự tiến cử, nhưng Lưu Tương vẫn không nhìn đến dù chỉ là nửa con mắt. Sau này, mặc dù cũng tiếp nhận một vài đề nghị nhỏ, nhưng chưa bao giờ tin tưởng giao phó quân quyền cho ông ta.

Lưu Tương cũng được xem là nhân vật “nổi danh” trong lịch sử cận đại Trung Quốc. Hắn ta chiếm cứ vùng Tứ Xuyên ngót mấy chục năm, tài năng quân sự và thủ đoạn chính trị đều đã đạt đến độ lão luyện, ngay cả đến Tưởng cũng phải nể lão ta vài phần, nhưng hắn có một nhược điểm đó là quá mê tín.

Năm 1932, Ủy ban quân sự Quốc dân Đảng đã bổ nhiệm Lưu Tương làm Quân đoàn trưởng Quân đoàn Lục quân 21. Lúc này, Lưu Tương đang đấu đá quyết liệt với một tên quân phiệt có thế lực khác ở Tứ Xuyên là Lưu Văn Huy, đây chính vào thời điểm hắn ta cần người tài như nắng hạn chờ mưa. Lưu Tòng Vân nhân dịp này xuất Thiên một lần nữa. Việc này thể hiện khả năng nắm bắt thời cơ hơn người của lão ta với thời cuộc, vì trước đó không lâu, tại Đồng Xuyên, Quân đoàn 28, 29 của Tứ Xuyên đã kết thành đồng minh với quân đoàn 21 của Lưu Tương, lúc này thực lực của Lưu Tương bỗng chốc được tăng cường, Lưu Tòng Vân đã rất nhạy bén, nắm bắt được tình hình chính trị này.

Lưu Tòng Vân nói với Lưu Tương: “Gần đây, kẻ hèn này đã khổ luyện xong thuật Kỳ môn độn giáp Cửu thiên chi thượng hảo dương binh. Cửu địa tiềm tàng khả lập doanh4, tôi có thể huấn luyện cho tướng quân một đội thần binh, trợ giúp tướng Quân thống nhất nghiệp bá.”

Nhưng Lưu Tương cũng chẳng phải thằng ngu, nhà ngươi nói có thể huấn luyện được thần binh, vậy ta giao cho ngươi một đội quân, lần sau khi đánh nhau với Lưu Văn Huy, đội quân của ngươi cứ đi tiên phong, xem xem rốt cuộc có phải là thần binh vô địch không.

Mùa thu năm 1932, “Chiến dịch Bình định” do Lưu Tòng Vân là kẻ chủ mưu khích động Lưu Tương tấn công đám quân phiệt Lưu Văn Huy bùng nổ.

Lưu Tòng Vân chủ động đề nghị được cầm đầu đội quân 3.000 thần binh do chính mình huấn luyện đi tiên phong. Trước khi cuộc chiến nổ ra, Lưu Tòng Vân cho mỗi binh lính uống “nước thánh trời ban”, đồng thời cho thêu bùa hộ mệnh lên trang phục. Trong làn gió thu xào xạc, Lưu Tòng Vân đứng trước trận tiền, dõng dạc phét lác: “Uống nước thánh, quỷ ma khó lại gần. Bùa thiêng hộ mệnh, đao thương bất phạm. Đạn chẳng bắn trúng.”

Dưới tiếng thét của ông ta, mấy nghìn tên lính hùng hổ tiến về Thành Đô, dốc hết sức bình sinh mới hạ được Thành Đô.

Lưu Tương mừng lắm, sau khi tiến vào Thành Đô, hắn đã bỏ ra ba vạn đồng bạc để mua tòa đại dinh thự ở số 32, đường Tam Hòe Thụ, sửa sang lại thật hoành tráng để làm món lễ hậu tặng Lưu Tòng Vân. Cuối cùng, Lưu Tòng Vân cũng đã thực sự trở thành quân sư nắm giữ binh quyền.

Thực chất, thắng lợi trong chiến dịch lần này chẳng liên quan gì đến thần binh thần lính gì cả. Lưu Tòng Vân thông hiểu binh pháp, trước trận chiến, hắn đã tiến hành phân tích tỉ mỉ và so sánh kỹ lưỡng thế mạnh của đôi bên. Khi tác chiến, hắn chỉ việc tập trung tấn công đánh vào chỗ yếu của đối phương. Còn về việc hắn nói đao súng không thể chạm đến người chỉ là nói khoác. Cả 3.000 tên lính đều bị tẩy não, họ như một đội quân cảm tử. Tiếng súng báo hiệu cuộc chiến vừa gióng lên, tất cả bọn họ đều xông lên phía trước bất chấp mọi thứ, kết quả là trong làn mưa bom bão đạn, quân số bị chết mất hơn một nửa. Lưu Tòng Vân đứng trên đồi, giơ súng lên, hô lớn: “Từ bỏ thân xác, linh hồn thăng thiên, từ trên trời cao lại có thể triển khai quân!” Lời nói này mang hàm ý rằng đây không phải là cái chết, mà là một sự thoát xác, linh hồn chiến binh thoát khỏi thân người qua các lỗ khướu5, bay lên trời tiếp tục tác chiến. Đây chính là cuộc chiến đấu ở cả dưới mặt đất và trên trời của mỗi chiến binh. Sau khi cuộc chiến kết thúc, hắn ta còn bày trò lập đàn chiêu hồn cho các chiến binh.

Chiến dịch lần này, có thể may mắn giành thắng lợi, suy cho cùng, vẫn là do binh lực của Lưu Tương mạnh hơn Lưu Văn Huy. Nói cách khác, Lưu Tòng Vân thắng trong lần đặt cược này là do có cái gan của A Bảo, lại vừa có cái khí phách của một nhà chính trị, để thực hiện giấc mộng chính trị, ông ta phải đánh cược. Nhờ vậy, hắn đã ngoi lên đỉnh cao của sự nghiệp.

Trước sự leo lên đều đều của Lưu Tòng Vân, Tần Bách Xuyên lo cuống lên. Theo lý mà nói, Tần Bách Xuyên do một tay Lưu Tòng Vân dìu dắt, lại còn là đệ tử ruột. Thấy sư phụ phất dần lên, kẻ làm đồ đệ phải vui mừng mới đúng, đằng này ngược lại, giữa hai thầy trò đã nảy sinh một mâu thuẫn vô cùng lớn – mầm họa của mâu thuẫn bắt nguồn từ một bóng hồng, bởi vậy người xưa nói mỹ nhân nghiêng thành đổ nước quả không sai.

Gia nhập Đường khẩu Long Tu Nha cùng thời điểm với Tần Bách Xuyên có một nữ A Bảo tên là Tưởng Bích Châu, một mỹ nhân mang vẻ đẹp điển hình của đất Tứ Xuyên, làn da mềm mại, mịn màng, tiếng cười lanh lảnh tựa tiếng chuông ngân. Tần Bách Xuyên thân thể cao lớn, cường tráng, từ lâu đã thèm khát tiểu sư muội yêu kiều của mình.

Nào ngờ, lão trâu già Lưu Tòng Vân cũng muốn gặm cỏ non Tưởng Bích Châu. Ông thường xuyên kiếm cớ truyền đạo, tiếp khí, đưa Tưởng Bích Châu về phòng mình mặc sức phóng túng, thỏa mãn dục vọng, món đồ mà sư phụ đã chọn, đồ đệ há có thể lao vào tranh giành sao. Bởi vậy, Tần Bách Xuyên luôn chờ đợi cơ hội, đợi đến một ngày sư phụ ngã ngựa, sẽ lên thay thế.

Nếu Tưởng Bích Châu một lòng một dạ với Lưu Tòng Vân đã đành. Đằng này, một mặt nàng ta vừa muốn được sự sủng ái của Lưu Tòng Vân, mặt khác, ngầm đong đưa Tần Bách Xuyên. Dù gì Lưu Tòng Vân cũng đã già, chẳng còn trẻ trung, đẹp trai, phong độ như Tần Bách Xuyên, hơn nữa Tần Bách Xuyên lại là đệ tử cưng của Lưu Tòng Vân. Sau khi Lưu Tòng Vân trăm tuổi, hắn ta sẽ là người kế nhiệm. Cho nên, nàng ta cũng chẳng dại gì mà đắc tội với Tần Bách Xuyên cả. Vì thế Tưởng Bách Châu thường tranh thủ thời gian dụ dỗ Tần Bách Xuyên, nhiều lần giọt châu thánh thót, vừa lau nước mắt vừa nói mình cũng không còn cách nào khác, mệnh lệnh của lão già đó ai dám không làm theo.

Về sau, sự việc này bị Lưu Tòng Vân phát giác, lão ta nhận thấy người đàn bà này chính là một mối họa. Lưu Tòng Vân vốn là kẻ có mộng làm việc lớn, đời nào lại để cho tiền đồ bị hủy hoại chỉ vì một người đàn bà.

Giết Tưởng Bích Châu rồi, tất sẽ chặt đứt được dã tâm của Tần Bách Xuyên, Lưu Tòng Vân vốn nghĩ làm như vậy mầm họa sẽ chẳng còn, Đường khẩu cần phải đoàn kết, nhưng không biết rằng Tần Bách Xuyên đã có ý định làm phản từ lâu. Cuối cùng Tần Bách Xuyên đã thấy rõ sự khác biệt giữa lão đại và lão nhị. Lão nhị chỉ ở dưới một người, ở trên vạn người, lão nhị dù có tài giỏi đến đâu, cũng chỉ là một trong rất nhiều thuộc hạ của lão đại mà thôi. Chỉ cần lão đại còn, lão nhị không bao giờ ngóc đầu lên được.

Vì thế, Tần Bách Xuyên luôn chờ đợi tìm cơ hội xuất Thiên với sư phụ.

Khi đó, đúng vào dịp Quốc dân Đảng tiến hành cuộc vây quét Hồng quân. Vì chủ nghĩa giáo điều cánh “tả” của Vương Minh, dẫn đến sự thất bại lần thứ năm của Hồng quân trong cuộc phản kháng chống lại sự vây quét của Quốc dân Đảng, khiến cho Hồng quân bao gồm các tầng lớp công nông binh Trung Quốc bị ép phải bước vào cuộc hành quân Trường chinh dài 25.000 dặm.

Tần Bách Xuyên nói với Lưu Tòng Vân: “Thưa sư phụ! Đây chính là thời cơ để người thăng tiến lên cao hơn nữa. Lão Tưởng đã dàn thiên la địa võng, sau khi quân Cộng sản đột phá được bốn phòng tuyến, lực lượng đã giảm từ 80.000 xuống chỉ còn 30.000. Sư phụ nên nắm lấy cơ hội lần này, dẫn đội quân thần binh của chúng ta chủ động xuất kích. Nếu lập được công lớn trong cuộc vây quét Cộng sản, được lão Tưởng tán thưởng thì có thể thoát khỏi sự kìm kẹp của Lưu Tương, đến lúc đó người có thể tạo dựng được chỗ đứng, thăng quan tiến chức. Như vậy chẳng phải càng tốt hơn sao?”

Lưu Tòng Vân vuốt râu cười nói: “Quả đúng là đồ đệ mà ta tin yêu, có tiền đồ đấy, chẳng hoài công ta đào tạo mấy năm nay, vừa hay hợp với ý ta.”

Thế là Lưu Tòng Vân chủ động xin được cùng Lưu Tương vây quét Hồng quân, hắn còn bày ra cái chức “Ủy viên trưởng Ủy ban Quân sự tiễu phỉ Tứ Xuyên.”

Kỳ thực, Tần Bách Xuyên biết rõ Đảng Cộng sản không giống như Quốc dân Đảng tham sống sợ chết. Họ có niềm tin cao cả, có sức mạnh đoàn kết, sự tụ hội mạnh mẽ và có khả năng tác chiến siêu việt. Lão Tưởng đối phó với họ còn chẳng ăn thua thì Lưu Tòng Vân là cái thá gì?

Không phải Lưu Tòng Vân không biết điều này, nhưng một khi con người đã ở vào trạng thái hớn hở, đắc ý, rất dễ đánh mất khả năng phán đoán tối thiểu. Nếu là mấy năm trước, chắc chắn lão ta sẽ suy tính kỹ càng, nhưng mấy năm nay leo lên quá thuận lợi, thành công đã làm cho đầu óc trở nên mụ mẫm.

Kết quả chỉ sau một trận giao chiến với Hồng quân, Lưu Tòng Vân bị đánh tan tác. Đặc biệt sau Đại hội Tuân Nghĩa năm 1935, Mao Trạch Đông nắm giữ quân đội, tài thao lược xuất chúng, phá vỡ vòng vây trùng điệp của Quốc dân Đảng, hướng một mạch lên phía bắc, hội hợp thắng lợi với Lưu Chí Đan ở Thiểm Bắc.

Lưu Tòng Vân liên tiếp thất bại, khiến cho quân Tứ Xuyên náo loạn một vùng.

Đây chính là điều mà Tần Bách Xuyên mong đợi, ngay sau đó hắn dùng thủ đoạn hiểm độc đẩy Lưu Tòng Vân vào chỗ chết. Hắn nói: “Thưa sư phụ! Nay cuộc tiễu Cộng gặp bất lợi, trong hàng quân có nhiều kẻ tìm mọi cách thoái thác trách nhiệm, sau này Lưu Tương truy cứu, e rằng sẽ rất bất lợi cho sư phụ. Nên người cần phải tìm một con tốt thí mạng, thực thi kế Kim thiền thoát xác.”

Lưu Tòng Vân khi đó đã rất hoang mang, vội hỏi: “Đồ nhi có diệu kế gì?”

Tần Bách Xuyên nói: “Sư phụ hãy hạ lệnh cách chức ngay mấy tên quản lý sự vụ trong đơn vị, đặc biệt là mấy thằng đại đội trưởng hay kêu ca oán thán. Cứ quy cho chúng cái tội không thực hiện đúng theo sách lược, nên mới dẫn đến tác chiến thất bại, rồi đổi người của mình vào. Đến lúc đó, một khi bị truy cứu trách nhiệm, người của chúng ta sẽ nói đỡ cho thầy.”

Lưu Tòng Vân hơi chần chừ, hắn nói: “Nếu Lưu Tương đòi thẩm tra lại mấy tên đại đội trưởng đó thì sớm muộn cũng vẫn bại lộ.”

Tần Bách Xuyên ghé sát tai Lưu Tòng Vân nói: “Sư phụ, người hồ đồ mất rồi, sau khi loại bỏ mấy tên đó, tước súng của chúng, rồi giam chúng lại một nơi, sau đó ngụy tạo hiện trường sợ tội mà tự sát, thần không biết quỷ chẳng hay, như vậy chẳng phải ổn thỏa rồi sao?”

Lưu Tòng Vân hai mắt sáng lên, hắn cười lớn: “Đồ nhi giỏi quá! Đúng là trò giỏi hơn thầy rồi!”

Tần Bách Xuyên cũng cười nói: “Đều là nhờ sư phụ dạy bảo ạ!”

Thế là, Lưu Tòng Vân xin chỉ thị của Lưu Tương cách chức mấy tên đại đội trưởng, nhưng, lão ta chưa kịp trừ khử mấy tên đó thì Tần Bách Xuyên đã mật báo cho Lưu Tương, hắn nói Lưu Tòng Vân có ý làm phản. Lưu Tương vốn đang tức giận về việc tiễu Cộng thất bại, vừa nghe thấy Lưu Tòng Vân tự ý điều động binh quyền thì hắn lại càng tức điên lên.

Kết quả mấy tên tay chân mà Lưu Tòng Vân cử đi diệt khẩu vừa định giơ súng lên bắn mấy viên đại đội trưởng đó, liền bị người của Lưu Tương mai phục sẵn bắt quả tang tại trận. Lưu Tương nổi khùng lên, đòi giết chết Lưu Tòng Vân.

Nhưng Lưu Tòng Vân vốn là một con cáo già. Lão ta đã nhanh chân chuồn trước một bước.

Lão ta chạy một mạch từ Tứ Xuyên đến Giang Hoài. Cùng lúc đó, cuộc kháng chiến toàn diện bùng nổ. Ông trùm Tứ Xuyên Lưu Tương hồi tưởng lại mấy năm nay cuộc sống như đang ở trong mơ, cuối cùng đã tỉnh dậy, đối mặt với sự chèn ép ngày một gắt gao của quân xâm lược Nhật Bản, ông ta không hề tỏ ra chùn bước, cầm ngay cây súng, dũng cảm kháng Nhật.

Sự ban bài của số mệnh thường không như ý muốn. Năm sau đó, bệnh dạ dày của Lưu Tương đột nhiên tái phát, thổ huyết, chẳng cầm cự được mấy ngày thì chết, trước khi chết còn trăn trối: “Phải kháng Nhật đến cùng, trước sau không thay đổi, ngày nào kẻ địch còn chưa cút khỏi đất nước, thì ngày đó cánh quân Tứ Xuyên thề không hoàn hương.” Sau đó lại nói với thuộc hạ: “Truy sát Lưu Tòng Vân, không được để cho tên này làm việc hại nước hại dân.”

Sau khi Lưu Tương chết, kẻ thù không đội trời chung trước đây là Lưu Văn Huy dần dần cũng đã mất lòng tin vào bọn Quốc dân Đảng. Lưu Văn Huy hiểu được đại nghĩa, không chút do dự, ông tạo dựng mối quan hệ bí mật với quân Cộng sản. Năm 1949, ông thống lĩnh các thủ hạ khởi nghĩa, về sau trở thành phó Chủ tịch Hội nghị hiệp thương chính trị tỉnh Tứ Xuyên.

Sau khi Lưu Tòng Vân chạy đến Giang Hoài, thì đến tìm Tổ Gia. Lúc đó lão ta vẫn không biết Tần Bách Xuyên đã bán đứng mình. Tổ Gia cho tá túc ở Đường khẩu, tạm thời giấu mọi tin tức. Sau khi Lưu Tương chết, Lưu Tòng Vân quay lại Tứ Xuyên, thấy Tần Bách Xuyên đã tiếp quản Đường khẩu, lại còn làm cho Đường khẩu phất hẳn lên, hắn mừng lắm, đòi nắm quyền hành lại, nhưng Tần Bách Xuyên không cho. Lúc này Lưu Tòng Vân mới tỉnh ngộ, nhận ra mọi việc đều là do tên đồ đệ yêu quý này ngầm giở trò sau lưng. Nhưng khi đó, Long Tu Nha đã bị Tần Bách Xuyên mạnh tay cải tổ, Lưu Tòng Vân một mình yếu thế, chẳng thể chọi lại hắn.

Nhớ lại những chuyện đã qua, Lưu Tòng Vân không nén nổi nụ cười chua chát. Đúng là thầy hay trò giỏi, bản thân lão một đời đã dựng lên vô số cái bẫy, cuối cùng lại bị chính đồ đệ của mình cho vào tròng, đành phải Ngậm bồ hòn làm ngọt.

TỔ GIA ĐÍCH THÂN DÀN CỤC PHONG THỦY

Sau khi Lưu Tòng Vân chạy về Giang Hoài ẩn náu, lão từng cầu xin Tổ Gia giúp hắn báo thù. Tổ Gia không đồng ý, ông có ván cờ của riêng mình. Ông chỉ muốn hiểu hơn về con người Tần Bách Xuyên qua lời kể của Lưu Tòng Vân.

Bây giờ, Tổ Gia sắp phải so tài cao thấp với Tần Bách Xuyên. Lịch sử đã sắp đặt ra bao nhiêu chuyện ân ân oán oán, cuối cùng cũng để cho Tổ Gia và Tần Bách Xuyên quyết một trận sống mái? Tổ Gia do Trương Đan Thành dìu dắt, Tần Bách Xuyên do Lưu Tòng Vân dìu dắt. Hai người này đều được xem là “trò giỏi hơn thầy”. Trận quyết chiến này rốt cuộc ai bại trong tay ai?

Tôi đang đăm chiêu ngẫm nghĩ thì tên cướp kia lên tiếng.

Tên cướp đó họ Lưu, bọn thuộc hạ gọi lão ta là Lưu Tư lệnh, lão ta không cao, vừa gày vừa xấu xí. Bộ dạng của lão khác hắn với một tên cướp trong tưởng tượng của tôi.

Lưu Tư lệnh cười cười nói với Tổ Gia: “Tần gia nói Tổ Gia là truyền nhân của đạo môn Thiết Bốc Tử, tinh thông Thiết bản Thần số, phong thủy, nghiên cứu nhiều về Ngọc Xích kinh. Bởi vậy phải phiền Tổ Gia vượt cả nghìn dặm đường đến Tứ Xuyên giúp lão già này di dời mộ tổ”.

Tổ Gia đáp lễ: “Lưu Tư lệnh khách sáo rồi, được phục vụ Tư lệnh là vinh hạnh lớn của bỉ nhân.”

Tần Bách Xuyên nói: “Ta đi ra xem mộ đi”.

Thế là, một đoàn người lên đường, cầm theo cả la bàn phong thủy xuất phát.

Đầu tiên, chúng tôi đến chỗ đặt mộ tổ của Lưu Tư lệnh. Ngôi mộ nằm ở trong khe núi, kẹp giữa hai ngọn núi, thấp thoáng màu xanh ngắt. Đúng là một cảnh tượng đẹp đẽ.

Sau khi Tổ Gia nhìn qua, nói: “Lưu Tư lệnh, ngôi mộ này nằm đúng ở nơi tam hợp vượng địa6, tàng phong tụ thủy, là thế có thể giúp cho con cháu hưng vượng, chẳng trách Tư lệnh có thể nắm giữ trong tay đội quân hùng hậu, cai quản một phương”.

Lưu Tư lệnh cười hể hả: “Tổ Gia quả đúng là cao nhân. Nơi này cũng chính là do tiên phụ đã mời một bậc thầy phong thủy xem cho người để chôn cất sau khi người mất”.

Tổ Gia nói tiếp: “Chỗ đặt mộ này cái gì cũng tốt, cũng chính vì vậy mà lại không tốt. Tư lệnh nhìn xem, đỉnh núi ở phía tây có một tảng đá lớn nhô hẳn ra, có thế áp đỉnh, người xưa thường nói “Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, thà để Thanh Long cao vạn trượng, chứ không được để Bạch Hổ thò đầu ra. Xem phần đầu quan tài khi chôn cất lệnh tôn thì thấy tảng đá lớn này chính là Bạch Hổ thò đầu ra, bởi vậy gặp năm Bạch Hổ cất đầu dậy, tất có họa lớn. Năm 1921, năm 1922, năm 1933, năm 1934 càng tệ hơn.”

Lưu Tư lệnh nói: “Tổ Gia quá giỏi! Năm 1922, tôi và bọn quân phiệt Quế Kế xảy ra xích mích, thiếu chút nữa là mất mạng. Năm 1933, tôi bị một trận ốm nặng, suýt chút nữa đã về chầu trời.”

Kỳ thực, những thông tin này đều do Tần Bách Xuyên đã kể trước với Tổ Gia. Trong lòng Tổ Gia biết rõ, Tần Bách Xuyên cũng biết rõ, chỉ có Tư lệnh không biết gì.

Tổ Gia nói tiếp: “Lưu Tư lệnh định chuyển mộ đi đâu?”

Lưu Tư lệnh nói: “Mấy chục dặm quanh đây đều là địa bàn của lão, cứ nghe theo Tổ Gia quyết định. Chỉ cần đẹp là được”.

Tổ Gia nói, chúng ta đi xung quanh xem thế nào đã. Thế là, Lưu Tư lệnh hạ lệnh, sai bọn phu kiệu khiêng mọi người men theo đường mòn đi vào trong núi.

Đường núi khó đi, những người khiêng kiệu mồ hôi mồ kê nhễ nhại, đi mất chừng hai canh giờ thì vòng hết vùng núi, đến một nơi có nước.

Tổ Gia nói: “Dừng lại!”

Tổ Gia bước xuống kiệu, cầm la bàn. Sau khi đứng bên đường đưa mắt quan sát các khe núi ở xung quanh, ông nói: “Nơi này tuyệt đẹp! Tư lệnh ngài xem, ở đây có thế ỷ sơn bàng thủy7, rồng cuốn hổ chồm, tả có Thanh Long trợ giúp, hữu được Thái Bạch cát tinh chiếu vây quanh, phía trước có bích thủy hợp tài, phía sau có thanh sơn8 làm lá chắn. Đây là thế tài nguyên khắp nơi đổ vào, đường quan lộ hanh thông. Cực đẹp, cực đẹp!”

Lưu Tư lệnh vuốt râu, gật gật gù gù: “Chà, tuyệt diệu!”

Tần Bách Xuyên cũng nói: “Tổ Gia thật tài trí hơn người!”

Lúc này, mây đen phủ kín bầu trời, như thể sắp đổ mưa. Lưu Tư lệnh nói: “Nay bàn đến đây đã, chúng ta mau về thôi.”

Thế là đám người hầu liền dẹp đường quay về phủ. Trên đường về bị mưa, chúng tôi ngồi trên kiệu, có người đi ở bên che ô cho. Chỉ khổ những người phu kiệu và người che ô, họ bị ướt như chuột lột.

Mấy ngày sau, chúng tôi lại đi xem vài chỗ khác để so sánh phong thủy. Cuối cùng vẫn chọn chỗ có thế tuyệt vời mà Tổ Gia đã nhận định từ lúc đầu.

Vì thế, Tổ Gia chọn lấy một ngày tốt, bắt đầu việc dời mộ.

Đây là sự phô trương lãng phí nhất mà tôi được chứng kiến từ lúc được sinh ra cho tới giờ. Lưu Tư lệnh làm theo sự sắp đặt của Tổ Gia, thuê hơn 20 vị đạo sĩ, một đoàn đi trước thổi kèn để mở đường, 20 đạo sĩ xếp thành hai hàng, niệm kinh tụng hiệu. Lưu Tư lệnh dẫn theo cả nhà già trẻ lớn bé hơn mấy chục người mặc tang phục theo sau. Mãi phía sau là đám giặc cướp hùng hậu gần cả trăm người, một cảnh tượng hết sức hùng tráng.

Lúc bốc mộ, tiền giấy được ném ra bay lả tả, bọn cướp dùng bắn súng lên trời, tiếng súng vang vọng khắp vùng sơn cốc. Lưu Tư lệnh nhặt hết đống hài cốt của cha mẹ trong chiếc quan tài cũ, cẩn thận từng ly từng tí một đặt vào chiếc quan tài mới. Tên cướp này rất lắm tiền nhiều của, phía bên trong quan tài được trải lớp đệm được làm từ loại tơ lụa tốt nhất, phía trên cùng được đậy tấm áo liệm khâu bằng chỉ vàng, bốn góc quan tài đều chất đầy đĩnh vàng, đĩnh bạc và vàng thỏi, đầu quan tài để bao nhiêu đồ bằng ngọc tuyệt đẹp. Sau đó, bọn thủ hạ khiêng chiếc quan tài lên, cả đoàn người cùng đi về chỗ đặt mộ mới.

Đến nơi, Lưu Tư lệnh dẫn gia quyến quỳ lạy trước ngôi mộ mới. Bọn đạo sĩ vừa đi vòng quanh huyệt vừa rì rầm tụng niệm. Tổ Gia đứng một bên, tay chắp lại, mắt lim dim, tôi không biết ông ấy đang nghĩ gì nữa.

Sau khi bái lạy xong, Tổ Gia hô to: “Hạ huyệt.”

Tám người ở phía trước và phía sau liền hạ chiếc quan tài xuống cái huyệt to tướng. Lưu Tư lệnh cùng người nhà bắt đầu vun đất đắp mộ, bọn thổi kèn lại gióng kèn lên. Tần Bách Xuyên cũng quỳ dưới đất, gào to: “Tiên phụ, tiên mẫu, xin hãy yên nghỉ!” Đúng là huynh đệ kết nghĩa có khác, gào đến cảm động đất trời.

Toàn bộ quá trình di dời mộ được làm trong hai canh giờ. Buổi tối trở về phủ, Lưu Tư lệnh bày tiệc rượu khoản đại Tổ Gia và Tần Bách Xuyên.

Chứng kiến cảnh tượng ai nấy đều mừng vui như thế, tôi gần như đã quên mất đây chỉ là một vụ dàn cục, chẳng phải tất cả đều rất hoàn hảo hay sao? Lẽ nào Tần Bách Xuyên đã phát hiện ra điều gì? Sao hắn vẫn chưa ra tay với Tổ Gia, mà lại còn giúp ông lừa người ta chứ?

Tổ Gia vẫn cứ ăn uống thỏa thê, còn nói toàn những lời tâng bốc Lưu Tư lệnh, khiến lão ta cảm thấy sung sướng ra mặt.

Sau khi ăn xong, ngày hôm sau chúng tôi quay về chỗ Tần Bách Xuyên, ông ta nói: “Khoản hắn trả cho chúng ta sẽ chia đôi cho hai Đường khẩu.”

Tổ Gia nói: “Vụ dàn cục lần này Tần gia có công đầu, đáng được phần hơn. Đông phái chúng tôi lần này chỉ là dây máu ăn phần, xin được lấy ba phần là đủ rồi.”

Tần Bách Xuyên nói: “Cứ chia đều mỗi bên năm phần. Mời được Tổ Gia đến Tứ Xuyên chẳng phải chuyện dễ dàng gì, lần trước đến cũng đã cách đây năm năm rồi, ông nhất định phải ở lại thêm vài ngày nữa. Tôi sẽ dẫn Tổ Gia đi đây đó, Tổ Gia phải nể mặt một lần”.

Tôi nhìn Tổ Gia, ông gật đầu: “Được. Chẳng mấy khi rảnh rang.”

Nửa đêm, quay về phòng, tôi đưa mắt nhìn ông rồi kẽ hỏi: “Tên Tần Bách Xuyên đang giở trò gì vậy?”

Tổ Gia nói: “Cứ đợi đi, kịch hay sắp bắt đầu rồi.”

Sáng sớm hôm sau Tần Bách Xuyên đã đến chỗ chúng tôi: “Tổ Gia, tôi đưa ông đi thưởng ngoạn phong cảnh Xuyên Tây một chút.”

Tần Bách Xuyên dẫn chúng tôi đi dạo chơi một vài nơi. Sau đó, ông ta nói: “Chẳng có gì hay ho cả, Tổ Gia, chúng ta đi xa hơn nhé.”

Thế là, suốt mấy ngày liền chúng tôi đi ngao du ở bên ngoài, cuối cùng gần đi ra khỏi tỉnh.

Tôi không biết Tần Bách Xuyên định giở trò gì. Đi đến đâu là tôi lại lo sợ sẽ có một đám người xông ra đòi giết Tổ Gia. Nhưng Tổ Gia vẫn cứ điềm tĩnh như không, thưởng ngoạn cảnh núi non sông nước, cứ chuyện trò, chẳng mảy may có vẻ gì lo lắng cả.

Sau đó, cuối cùng chúng tôi cũng trở về Đường khẩu của Tần Bách Xuyên. Vừa bước vào cửa, thấy một tên tay chân của Tần Bách Xuyên hốt hoảng chạy đến: “Tần gia, Tần gia! Không xong rồi, có chuyện rồi”.

Tôi thấy chột dạ, tên kia run lập cập nói: “Mộ nhà Lưu Tư lệnh bị kẻ nào đó phá rồi.”

Tai tôi ù đi, trong lòng nghĩ thôi hỏng rồi. Bố cục phong thủy ghê nhất chính là xảy ra chuyện ở chỗ đặt mộ, phần mộ mà xảy ra chuyện thì vụ dàn cục sẽ bị lộ tẩy.

Tôi đang mải nghĩ thì ngoài cửa có tiếng quát tháo: “Hai thằng mày đã về rồi đấy à?”

Tôi nhìn ra thì thấy Lưu Tư lệnh dẫn theo mấy chục tên nữa vào cùng. Tất cả bọn họ đều mang theo súng, tròng mắt đỏ ngầu.

Tần Bách Xuyên sửng sốt nói với Lưu Tư lệnh: “Đại ca, có chuyện gì vậy?”

Lưu Tư lệnh tức giận đến nỗi người lão run lên: “Đừng gọi tao là đại ca!” Sau đó, lão dí súng vào đầu Tổ Gia nói: “Mày là thứ chết tiệt gì vậy? Chẳng phải mày nói ở đấy phong thủy đẹp hay sao?”

Tổ Gia điềm nhiên hỏi: “Lưu Tư lệnh, sao thế?”

Lưu Tư lệnh nói đầy vẻ căm hận: “Sao thế à? Mộ tổ của ông mày đã bị bọn đào mộ trộm phá rồi. Hài cốt của cha mẹ ta cũng chẳng còn.”

Tần Bách Xuyên vừa nghe thấy thế, quỳ sụp xuống, ngửa mặt lên trời xanh mà gào: “Cha! Mẹ! Con trai bất hiếu.” Sau đó, hắn ôm lấy chân của Lưu Tư lệnh nói: “Đại ca, để xảy ra chuyện ngoài ý muốn này đệ cũng có trách nhiệm, đại ca. Hãy giết đệ đi, giết đệ đi! Để tế vong hồn cha mẹ trên trời.”

Tần Bách Xuyên thừa biết Lưu Tư lệnh sẽ không giết hắn, vì lão ta thấy Tần Bách Xuyên cũng là có ý tốt, chỉ có điều thầy phong thủy mà hắn mời đến lại là kẻ phá hại.

Lưu Tư lệnh cười gằn nói: “Đây là bậc đại sư mà mày mời về đó sao! Giờ hài cốt của cha mẹ không còn nữa, mày khiến tao chẳng còn mặt mũi nào mà đứng trước liệt tổ liệt tông nữa rồi.”

Bỗng nhiên, Tần Bách Xuyên quay sang Tổ Gia: “Ông làm cái trò gì thế? Chọn đúng cái chỗ chết tiệt. Ta và đại ca chịu đựng sao nổi nỗi đau này đây.”

Lưu Tư lệnh dí súng lên đỉnh đầu Tổ Gia: “Tao bắn một phát vỡ đầu thì quá dễ dàng cho quân khốn kiếp nhà mày. Chúng mày đâu? Trói gô cổ thằng khốn này lại cho tao!”

Thấy mấy tên xông lên, tôi liền xộc tới phía trước, định bảo vệ Tổ Gia, nhưng lại bị Tổ Gia kìm giữ lại bên sườn. Cùng lúc đó có tiếng súng phát ra, nếu không phải Tổ Gia giữ tôi lại, thì Lưu Tư lệnh đã bắn chết tôi rồi.

Tổ Gia nói: “Người nào làm người đó chịu, không liên quan gì đến cậu ta.”

Thoắt cái, mấy tên cướp đã trói quặt cánh tay Tổ Gia ra sau lưng.

Lưu Tư lệnh lại quát to: “Đẩy pháo vào đây!”

Tôi nghe thấy, pháo ư? Hắn định làm gì?

Không lâu sau, mấy tên cướp đẩy quả đại pháo kẽo kẹt từ ngoài cổng vào.

Lưu Tư lệnh nói với Tổ Gia: “Tao không cần biết mày có bản lĩnh thật sự hay không, cũng không cần biết rốt cuộc mày có bản lĩnh thế nào, tiếng tăm ra sao, nhưng bố cục phong thủy này mày đã không làm được xong cho tao, còn khiến hài cốt của cha mẹ tao bị mất. Tao phải cho mày nổ tan xác bằng quả pháo này, để tế vong linh cha mẹ nhà tao”.

Tôi vừa nghe thấy thế giật thót người, lão ta muốn cho nổ quả pháo để giết Tổ Gia, tôi bật khóc chen đến dưới chân tên cướp đó nói: “Xin Lưu Tư lệnh nể tình mà nhẹ tay cho. Chuyện này vẫn có điều chưa được làm sáng tỏ!”

Lưu Tư lệnh ngửa cổ lên trời cười sằng sặc: “Đến mà giải thích với cha mẹ tao ấy!”

Tổ Gia bị trói quặt tay vào một chiếc cột, bọn thổ phỉ quay miệng pháo, nhắm thẳng vào ông.

Tôi biết quả pháo này mà được bắn ra thì Tổ Gia sẽ chết, tôi ôm lấy chân ông gào khóc: “Tổ Gia! Tổ Gia!”

Tên đạo đức giả Tần Bách Xuyên cũng khóc lóc nói: “Tổ Gia, tự mình tạo nghiệp thì hãy tự chuộc tội đi. Tôi cũng không thể giúp gì được cho ông rồi.”

Bỗng có tiếng súng nổ ngoài cổng khiến cho tất cả mọi người cùng giật mình, một tiếng nói rất to cất lên: “Lưu Tư lệnh dừng tay!”

TẦN BÁCH XUYÊN BỊ VẠCH MẶT

Tôi nhận ra ngay giọng nói của Giang Phi Yến. Sao bà ấy lại đến đây? Đi theo sau bà còn có một người mặc quân phục, khoảng chừng 40 tuổi.

Lưu Tư lệnh sững người: “Bà là…?”

Giang Phi Yến cười: “Tại hạ là học trò của Tổ Gia, Giang Phi Yến”. Sau đó bà chỉ vào người đang đứng phía sau mình nói: “Vị này là Thiếu tướng Phùng của Cục Quân thống.”

Lưu Tư lệnh sững người lần nữa, nhưng vẫn nói vẻ rất căm phẫn: “Hôm nay dù ai đến cũng mặc. Ông đây phải giết chết thằng khốn này!”

Giang Phi Yến vẫn cười nói: “Lưu Tư lệnh đúng là một người con có hiếu, bà con mấy chục dặm quanh đây đều biết. Việc dời mộ cha mẹ được xem là ngài đã tận hiếu rồi. Nay phần mộ đã bị phá, vàng bạc châu báu đều bị trộm sạch, hài cốt của hai cụ cũng bị nổ tan tành, dù là ai cũng không thể chịu đựng nổi, cho nên phải giết tên này. Phải giết chứ!”

Lưu Tư lệnh ngơ ngác chẳng hiểu Giang Phi Yến có ý gì.

Bà nói tiếp: “Nhưng, Lưu Tư lệnh không muốn biết ai phá nổ phần mộ tổ nhà mình sao?”

Lưu Tư lệnh rối trí, liền hỏi: “Ai? Không phải là bọn đào mộ trộm à?”

Giang Phi Yến cười nhạt, bà quay ra cửa nói thật to: “Dẫn vào đây!”

Lập tức có hai tên bị đánh bầm đập được áp giải vào giữa sân, chân chúng mềm nhũn khuỵu xuống đất, mặt cúi gằm.

Giang Phi Yến quay sang nói với Tần Bách Xuyên: “Tần gia, chắc ông nhận ra hai tên này chứ?”

Tần Bách Xuyên giật phắt khẩu súng giắt ở hông ra, chĩa thẳng vào hai tên đó định bắn. Vị thiếu tướng họ Phùng nhanh tay hơn, rút súng bắn trúng tay hắn, khẩu súng rơi ngay xuống đất.

Tần Bách Xuyên ôm lấy tay, giận dữ: “Mày…!”

Giang Phi Yến nói với Lưu Tư lệnh: “Xin Tư lệnh minh xét! Tất cả đều là trò bịp bợm do một mình tên Tần Bách Xuyên làm. Hắn chính là một tên lừa đảo, từ lâu đã muốn lừa lấy tiền của ngài. Bản thân hắn không hiểu gì về phong thủy mới phải mời Tổ Gia đến, hòng mượn tay Tổ Gia để lừa lấy tiền bạc. Chuyện này từ đầu đến cuối Tổ Gia không hề hay biết, ông ấy là đại sư tinh thông Kinh Dịch chân chính, nhân dân khắp vùng Giang Hoài đều ca ngợi ông. Sau khi điều chỉnh phong thủy cho ngài xong, Tần Bách Xuyên cố ý sai hai tên này, nửa đêm đến phá nổ tung mộ cha mẹ ngài, dựng hiện trường giả như bị bọn đào mả trộm làm, để ngài trút giận lên đầu Tổ Gia. Lúc đó, hắn cố ý dẫn Tổ Gia đi thăm thú khắp nơi. Mục đích là để làm như mình chẳng liên quan gì. Đợi sau khi ngài giết chết Tổ Gia, hắn ta sẽ nói chính Tổ Gia đã tuồn hết số vàng bạc kia đi trong mấy ngày vừa rồi! Còn về phần hắn, hẳn ngài sẽ nghĩ hắn là huynh đệ kết nghĩa, nhiều lắm chỉ bị cái tội không tìm hiểu kỹ càng, chỉ cần nói vài câu dễ nghe thì ngài sẽ không giết hắn nữa. Cuối cùng, ngài vừa mất tiền, lại mất cả hài cốt của cha mẹ, còn Tổ Gia thì mất mạng, chỉ có hắn là kiếm bộn tiền. Tư lệnh à! Ngài hãy mở mắt mà trông! Chính là thằng huynh đệ kết nghĩa của ngài đấy.”

Tần Bách Xuyên nổi khùng: “Ngươi… ngậm máu phun người!”

Lúc này, thiếu tướng Phùng cố ý chắp tay nói với Tổ Gia: “Tổ Gia, lâu quá không gặp vẫn khỏe chứ? Năm ngoái ông giúp điều chỉnh phong thủy cho mộ tiên phụ tôi, giờ đã có hiệu quả rồi. Đa tạ Tổ Gia!”

Giang Phi Yến cầm súng chỉ về vào người hai tên chân tay đã phá mộ nói: “Nói cho mọi người biết, ai sai các ngươi làm?”

Hai tên khóc lóc nói: “Là Tần gia, là Tần gia! Xin bà tha mạng!”

Lưu Tư lệnh nghe xong, chĩa thẳng súng vào Tần Bách Xuyên, quát lớn: “Đúng là mày làm không! Nói! Nói!”

Tần Bách Xuyên cuống cuồng, hắn nín một hơi, nói: “Đại ca, huynh đừng nghe con mụ này nói láo. Huynh là người hiểu đệ mà. Chính là đệ, Tần Bách Xuyên đệ mới là người học Kinh Dịch chân chính. Tên Tổ Gia kia lòng dạ nham hiểm, từ lâu luôn đố kỵ với tài năng của đệ nên luôn muốn tìm cách hạ bệ đệ. Đệ mời hắn đến đây chỉ là muốn lừa hắn, rồi tiêu diệt tên lừa đảo trong giới học Kinh Dịch này!”

Tổ Gia ngửa cổ lên cười lớn: “Lưu Tư lệnh ngài đã nghe thủng chưa, huynh đệ của ngài có bản lĩnh thật, một kẻ có bản lĩnh mà lại mang hài cốt của cha mẹ người anh kết nghĩa của mình ra làm cái giá vì muốn giết một người đấy!”

Tần Bách Xuyên nghe thế biết mình vừa mới tự thắt cổ mình, vội chữa: “Đại ca! Việc đó chỉ là bất đắc dĩ thôi.”

Tổ Gia cười nói: “Thật hay giả đã không còn quan trọng nữa. Sự thật ông chính là kẻ vong ân bội nghĩa, táng tận lương tâm. Lưu Tư lệnh! Đây chính huynh đệ tốt của ngài đấy.”

Ngọn lửa trong người Lưu Tư lệnh đã được châm lên, lão nhìn Tần Bách Xuyên đầy căm phẫn.

Tần Bách Xuyên bị Tổ Gia và Giang Phi Yến dồn đến đường cùng. Hắn như kẻ mất trí, buông thõng cánh tay đầy máu xuống, hung hăng chửi: “Mẹ kiếp! Tất cả đều là lừa bịp. Việc đã đến nước này tao sẽ nói toạc hết ra. Cho chết cả lũ.”

Hắn chỉ vào Giang Phi Yến nói với Lưu Tư lệnh: “Nó, con mụ đó là kẻ lừa đảo, trùm lừa đảo Nam Việt.” Sau đó lại quay sang chỉ vào Tổ Gia: “Còn hắn cũng là một tên bịp bợm. Tất cả đều là lũ bịp bợm. Chúng tao đều cùng một băng nhóm. Một băng nhóm đấy, mày biết không? Thằng ngu!”

Tổ Gia vẫn cười to, nói: “Tư lệnh thấy đấy, nếu cùng là bè lũ với nhau, mà hắn lại muốn giết tôi, ông có tin không?”

Việc đã đến nước này, Tần Bách Xuyên có nói gì cũng chẳng có ai tin nữa. Hắn nổi điên lên.

Lưu Tư lệnh quát to: “Hãy trói thằng khốn này lại cho ta”. Bọn cướp cùng tiến tới trói gô cổ Tần Bách Xuyên lại.

“Chĩa quả đại pháo vào thẳng thằng khốn này!” Lưu Tư lệnh hạ lệnh, hai tên cướp lại quay quả đại pháo, chĩa miệng pháo thẳng vào ngực của Tần Bách Xuyên.

Tổ Gia liếc mắt nhìn Tần Bách Xuyên: “Tần gia, lên đường nhé. Đến mà chuyện trò, bầu bạn với Tiền gia.”

“Mẹ…” Tần Bách Xuyên vừa mở miệng nói thì Lưu Tư lệnh ra lệnh: “Giết!”

“Đùng!” đất trời chao đảo, rung chuyển. Tần Bách Xuyên nát vụn, trên mặt đất chỉ còn lại vài miếng thịt, cả một khoảng trời yên ắng hẳn đi. Tần Bách Xuyên cả đời luôn tự cho mình là kẻ khó lường, thật giả lẫn lộn, cuối cùng lại chết trên cái thật thật giả giả do chính hắn thêu dệt lên.

Giang Phi Yến đi tới giúp Tổ Gia cởi trói: “Tổ Gia, ông đã chịu cực khổ rồi.”

Tổ Gia đi đến trước mặt Lưu Tư lệnh, nói với vẻ mặt rất áy náy: “Lưu Tư lệnh, xảy ra chuyện ngoài ý muốn thế này tôi cũng rất lấy làm hổ thẹn. Tục ngữ có câu Người tính không bằng trời tính. Tôi không ngờ Tần Bách Xuyên lại là con người như vậy, tôi xin hoàn trả lại đủ số tiền của ngài. Nếu vẫn chưa thể hóa giải được nỗi uất hận trong lòng, kẻ hèn này xin tùy ý ngài xử lý. Nói đoạn, ông nắm tay Lưu Tư lệnh, chĩa họng súng thẳng vào đầu mình.”

Lưu Tư lệnh ngây người ra, mãi một lúc lâu mới nói: “Tổ Gia nói gì thế? Việc này không liên quan gì đến ông, là do tôi không thận trọng khi kết giao bạn bè, nên mới rơi vào tình cảnh này thôi.”

Giang Phi Yến nói nhỏ với Tổ Gia: “Tổ Gia, chúng ta đi thôi.”

Lưu Tư lệnh nói: “Không được đi!”

Giang Phi Yến giật mình: “Sao vậy?”

Lưu Tư lệnh cười nói: “Âm trạch đã bị phá rồi, dương trạch vẫn còn. Trước đây, khi Tổ Gia xem phần mộ cho tôi đã nói đúng những đại họa mà tôi gặp phải trước đây. Tổ Gia là người có bản lĩnh thật sự, bởi vậy… xin Tổ Gia đừng chấp nhất chuyện vừa rồi. Hãy xem giúp lão già này phong thủy dương trạch!”

Tổ Gia nhìn nhìn Giang Phi Yến, cười nói: “Cảm ơn sự tin cẩn của tư lệnh!”

Sau khi Tổ Gia giả vờ điều chỉnh lại phong thủy dương trạch cho Lưu Tư lệnh, ông đã không lấy tiền của ông ta. Tổ Gia nói với Giang Phi Yến: “Mộ tổ nhà ông ta đã bị phá rồi. Khoản tiền này chúng ta không lấy nữa.”

Về sau, Tổ Gia lần lượt thu nạp và tổ chức lại quân của Tần Bách Xuyên. Vụ dàn cục kép này thật giả khó phân. Bọn tay chân trong Đường khẩu cũng không biết rõ rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, nhưng bọn họ đều có ấn tượng tốt đẹp về Tổ Gia. Bao nhiêu năm nay Tổ Gia bỏ tiền mua chuộc lòng người, đến giờ đã phát huy hiệu quả, ai nấy đều muốn đi theo Tổ Gia.

Một tháng sau, tôi và Tổ Gia trở về Nam Việt. Tổ Gia đã xóa bỏ cơ cấu tổ chức trong Đường khẩu của Tần Bách Xuyên. Ông lập lên một phân đà9 ở Tứ Xuyên, cất nhắc một thủ hạ của Tần Bách Xuyên lên làm đà chủ10, có cấp bậc ngang hàng với Bá đầu. Sau khi trở về Nam Việt, ông lại phái Nhị Bá đầu đến Tứ Xuyên đảm nhiệm việc đôn đốc phân đà này, cùng trợ giúp đà chủ làm ăn kinh doanh. Nhưng kỳ thực đây là cách ông cài người của mình vào, để đề phòng sinh biến.

Cho đến lúc này, trong Tứ đại Đường khẩu ở Bắc Nam Đông Tây, ngoài Nam phái Việt Hải Đường ra, tất cả đều đã quy về dưới trướng của Tổ Gia.

Chưa đầy một tuần sau, Đường khẩu Việt Hải Đường cũng về tay Tổ Gia. Đó là do Giang Phi Yến tự nguyện.

Giang Phi Yến đã quyết định ra đi. Sau khi từ Tứ Xuyên trở về, một lần Giang Phi Yến và Tổ Gia đã trò chuyện với nhau rất lâu. Năm 1952, trước khi Tổ Gia mất, ông đã kể lại chuyện này cho tôi nghe.

Từ lần đầu tiên Giang Phi Yến gặp Tổ Gia, bà đã yêu ông. Nhưng số phận đã an bài để hai người họ cùng vào vai những kẻ lừa đảo, đã vậy còn là trùm lừa đảo. Họ đã bước chân vào giới giang hồ, thì không thể làm chủ bản thân mình được nữa. Có biết bao điều phải đắn đo, lo ngại về thân phận, tiền đồ của Đường khẩu, còn phải nghĩ cho các huynh đệ nữa…

Từ lâu Giang Phi Yến đã nói muốn cùngTổ Gia cao chạy xa bay, giao lại Đường khẩu cho người khác. Còn hai người sẽ ra nước ngoài, nhưng Tổ Gia không đồng ý. Khi đó, trong đầu Tổ Gia chỉ chứa toàn những thứ mà ông ấy gọi là “đạo”, sau khi tiếp nhận Đường khẩu từ tay Trương Đan Thành, là ông đã gánh trên vai sứ mệnh đưa phái Giang Tướng đi tiếp, lý tưởng của ông là muốn đưa phái Giang Tướng đi theo con đường chính đạo. Nhưng khi đã bước chân vào, ông không làm được như vậy.

Thậm chí Giang Phi Yến còn muốn có được niềm vui bên Tổ Gia một đêm, nhưng Tổ Gia nhất quyết không đồng ý.

Giang Phi Yến từng hỏi Tổ Gia: “Có phải vì thân thể tôi không trong sạch, Tổ Gia mới không thể thương yêu?”

Tổ Gia cúi đầu nói: “Yến tỷ vì phái Giang Tướng mà đã đánh đổi tất cả, tôi phải tôn kính mới phải. Đâu có lý nào mà ghét bỏ.” Tổ Gia biết, không thể nào làm việc đó, bởi nếu làm rồi thì sẽ không thể dứt ra được.

Về sau, Giang Phi Yến đồng ý giúp Tổ Gia diệt trừ Tần Bách Xuyên, sau đó bà rời xa ông mãi mãi.

Tổ Gia không thể lấy Giang Phi Yến, nhưng có người khác muốn lấy bà. Đó cũng là một cuộc tình khắc cốt ghi tâm. Chuyện tình cảm không thể nói rõ ràng cho được, bởi vậy người xưa đã nói: “Hỏi thế gian tình ái là chi. Để cho đôi lứa nguyện thề sống chết.”

Vị Thiếu tướng họ Phùng của Quân thống đã yêu bà từ khi mới 25 tuổi sau khi bị bà tóm được. Khi đó, Giang Phi Yến đã 31 tuổi, để có được các mối quan hệ rộng lớn hơn nữa, bà đã dùng mỹ nhân kế để bắt được vị Phùng Thiếu tướng đó, mặc dù khi đó ông ta vẫn chưa là Thiếu tướng. Nhưng khi Giang Phi Yến tiếp nhận mạng lưới các mối quan hệ của Kiều Ngũ Muội, bà đã nhằm đúng người này. Giang Phi Yến không hề nhìn nhầm người, gần hai mươi năm nay, ông đã chạy theo khắp nơi giúp đỡ bà, tình yêu chính là như vậy, biết rõ đối phương là trùm lừa đảo mà vẫn yêu. Có lẽ yêu một người là có thể yêu tất cả những gì thuộc về người đó.

Mới đầu, Giang Phi Yến chỉ coi ông ta là một quân cờ. Về sau, bà mới phát hiện mỗi khi xảy ra chuyện, người này yêu mình thật lòng, hơn nữa luôn dốc hết lòng vì mình.

Giang Phi Yến từng nói thẳng với ông ta: “Phi Yến chính là kẻ lừa đảo đi lạc vào chốn hồng trần. Không đáng để tướng quân thương yêu như vậy.”

Phùng Thiếu tướng nói: “Trong mắt tôi, chị chỉ là Giang Phi Yến. Người tôi yêu là Giang Phi Yến. Tôi không cần biết người ấy là kẻ lừa đảo
hay không.”

Mỗi ngày cứ thế trôi đi, Giang Phi Yến sống trong sự mâu thuẫn giữa sự dằn vặt, tâm lợi dụng và tình thương yêu.

Giang Phi Yến nói với Tổ Gia: “Việc mà con người luôn phải đau khổ nhất trong cuộc đời đó là người mà mình yêu không yêu mình, người yêu mình mà mình lại không yêu.”

Những trận thua liên tiếp của Quốc dân Đảng khiến cho Phùng Thiếu tướng càng thêm âu lo. Từ đầu mùa xuân năm 1949 đến nay, ông nhiều lần bảo Giang Phi Yến bỏ đi cùng ông. Ông nói: “Chúng ta đều đã từng làm những điều ác, chị đã lừa rất nhiều người, tôi từng giết rất nhiều người. Chúng ta hãy rời khỏi cái nơi đầy rẫy những chuyện thị phi này không tốt sao?”

Chính vào giờ phút quan trọng này, Đường khẩu của Tổ Gia lại xảy ra biến lớn. Sau đó, Tổ Gia muốn tương kế tựu kế diệt trừ Tần Bách Xuyên. Nhưng để diệt Tần Bách Xuyên chẳng phải là chuyện dễ dàng, Tổ Gia lập kế hoạch phối hợp với Giang Phi Yến, kỳ thực là muốn để bà khởi động nguồn sức mạnh có Quân thống đứng chống sau lưng bà. Tổ Gia biết lần này người mà ông phải đối phó không chỉ có một mình Tần Bách Xuyên, còn có cả bọn cướp có súng đạn trong tay. Ngộ nhỡ có gì bất trắc, mình ông không thể ứng phó được.

Vì thế ông bàn bạc với Giang Phi Yến, cần phải đưa thêm cả quân đội chính quy đến. Một mặt, mai phục ở vòng ngoài chỗ bọn cướp, nhỡ hỏng việc còn có quân đội đứng ra, bản thân mình sẽ không đến nỗi bị mất mạng. Mặt khác mai phục ở gần Đường khẩu của Tần Bách Xuyên, trong quá trình dàn cục hoặc sau khi kết thúc việc dàn cục, cải tổ lại Đường khẩu của Tần Bách Xuyên, nếu chẳng may có kẻ làm phản thì có thể tóm gọn một mẻ.

Tổ Gia phân tích, Tần Bách Xuyên muốn tạo bố cục phong thủy. Trong khi đó khả năng duy nhất có thể dồn người ta vào chỗ chết đó chính là để xảy ra chuyện tại chính nơi được sắp đặt theo phong thủy. Ví như, anh vừa mới điều chỉnh phong thủy âm trạch cho người ta mà phần mộ lại bị nước cuốn trôi mất hay nếu anh vừa mới điều chỉnh phong thủy dương trạch, mà nhà người ta lại bị cháy. Đây đều là những việc đại kỵ, là đòn chí mạng. Ngoài những điều này ra, những lời để lừa gạt người ta như có phúc có lộc, con cháu đời sau vinh hiển, phát đạt, thì cần phải có thời gian kiểm chứng, có thể phải mất mấy năm, cũng có thể mấy chục năm, khi đó người có liên quan đã biến mất.

Cho nên, Tổ Gia bảo Giang Phi Yến bí mật đi theo mình tới đất Tứ Xuyên. Cùng lúc đó, vị thiếu tướng kia cũng phối hợp với Giang Phi Yến, điều động mấy trăm lính ở xung quanh sẵn sàng tiếp ứng.

Hôm đó, sau khi hài cốt của cha mẹ Lưu Tư lệnh được chôn cất xong, Giang Phi Yến dẫn theo vài người nấp ở trong khe núi bí mật theo dõi. Kết quả sau đó ba ngày, vào buổi tối xuất hiện hai bóng đen, bọn chúng cài mìn cho nổ sập ngôi mộ. Giang Phi Yến cố ý chỉ đứng theo dõi việc chúng làm. Phải để chúng cho nổ sập ngôi mộ thì mới có thể dồn Tần Bách Xuyên vào chỗ chết.

Sau khi cho nổ, hai tên kia lấy hết vàng bạc trong đó, vừa định bỏ chạy thì bị Giang Phi Yến chặn lại. Nhờ đó mới có được màn kịch làm chấn động lòng người kia tại Đường khẩu của Tần Bách Xuyên.

Tổ Gia không hề biết, lần giúp dàn cục này cũng là lần cuối cùng bà giúp ông trên danh nghĩa tình yêu.

Khi Giang Phi Yến đến tìm Phùng Thiếu tướng, ông mừng đến rơi lệ nói: “Tôi đã đợi em gần hai mươi năm, từ khi 25 tuổi đến giờ đã là 42 rồi. Vụ này tôi giúp em, tôi cầu xin em đi cùng tôi.”

Giang Phi Yến cũng đã nghĩ đến chuyện ấy. Bà biết mình nợ Phùng Thiếu tướng quá nhiều. Mấy năm nay, bà cứ lần lữa hết lần này đến lần khác, bà định sẽ cứ mãi như vậy cho đến hết cuộc đời, cho đến khi nhan sắc tàn phai thì có lẽ người ta sẽ không còn yêu mình nữa. Nhưng điều mà bà không ngờ được rằng, Phùng Thiếu tướng lại quá si tình. Năm tháng trôi đi chẳng thể xóa nhòa tình cảm của ông dành cho bà, mà càng ngày càng sâu đậm. Chỉ cần Giang Phi Yến chưa lấy chồng, ông sẽ vẫn cứ chờ đợi.

Giang Phi Yến nói với Tổ Gia: “Như tôi, mấy năm nay vẫn luôn một lòng thương yêu Tổ Gia, tôi cũng đã cố gắng thay đổi bản thân mình, nhưng vẫn chưa làm được, cuối cùng lần này cũng đã làm được rồi. Hai mươi năm, coi như đã được giải thoát. Sau khi tôi ra đi, sẽ không còn Phi Yến bên cạnh, Tổ Gia hãy bảo trọng.”

Tổ Gia đã khóc. Một người phụ nữ đã đánh đổi mọi thứ vì mình, cho dù đi lấy người khác cũng vẫn là vì mình. Tổ Gia trong lòng cảm thấy rất day dứt.

“Yến tỷ, kiếp này có duyên không nợ, mong kiếp sau gặp lại!” Tổ Gia lau nước mắt.

Có lẽ câu nói “kiếp này có duyên không nợ, mong kiếp sau gặp lại” là cách giải thoát tốt nhất cho những người có tình cảm với nhau mà không thể đến được với nhau.

Khi Giang Phi Yến ra đi, bà giao lại cuốn Việt Hải Đường phong tướng Trát ký đã được 300 tuổi của Đường khẩu cho Tổ Gia. Cuốn sách này rất có tiếng trong giới lừa đảo, nó cũng gây xôn xao trên giang hồ, nhưng chỉ được truyền lại cho nữ giới, không truyền cho nam giới, nghe nói nó là do hiệp nữ Đường Vịnh Hà – người sáng lập ra Việt Hải Đường năm xưa viết. Đường Vịnh Hà tài mạo song toàn, võ nghệ hơn người, bà là đà chủ của phân đà Thiên Địa hội, khi Phương Chiếu Dư sáng lập ra phái Giang Tướng, dưới ông ta có Tứ Đại môn phái là: Càn, Khôn, Khảm, Ly. Chưởng môn của Ly Môn (phái Ly) chính là Đường Vịnh Hà, Ly Môn cũng chính là Việt Hải Đường sau này.

Việt Hải Đường phong tướng Trát ký thực ra là cuốn sách nói về tâm lý học lừa đảo, nó giống như cuốn sách rất thông dụng có tên Anh Diệu Thiên mà các A Bảo thường dùng. Khác nhau ở chỗ: Việt Hải Đường phong tướng Trát ký thiên về lừa đảo bằng cách tạo bố cục phong thủy. Nó là sự kết hợp đỉnh cao giữa thuật phong thủy và tâm lý học, đạt đến cảnh giới xuất thần nhập hóa.

Trong Tứ đại Đường khẩu ở khắp Đông Tây Nam Bắc, mỗi Đường khẩu có sở trường và bảo bối trấn trạch của riêng mình, sở dĩ Nam phái Việt Hải Đường đưa tâm lý học vào thuật lừa đảo và phát triển đến cảnh giới cao nhất là còn vì nó không tách rời khỏi đặc trưng của Đường khẩu. Việt Hải Đường chỉ toàn nữ giới, phụ nữ không khỏe mạnh bằng nam giới, việc đánh đấm, chém giết không thể “thạo nghề” bằng nam giới, cho nên thông thường họ không thể lấy đá chọi đá. Họ có sở trường giành phần thắng nhờ vào khả năng phán đoán, nắm bắt tâm lý đối phương, rồi kết hợp phong thủy học với tâm lý học để tạo thành cuốn sách tâm lý học có dùng cả những mánh khóe phong thủy rất độc đáo, đặc biệt. Đó chính là cuốn Việt Hải Đường phong tướng Trát ký.

Trước khi Tổ Gia mất, ông có nói với tôi rằng người mà ông cảm thấy có lỗi nhất trong cuộc đời chính là Giang Phi Yến. Ông không thể trả hết món nợ tình cảm cho bà, không biết có kiếp sau hay không, nếu có thì liệu có thể được gặp người mang cái tên Giang Phi Yến, không biết họ có thể trở thành một cặp đôi bình thường và được ở bên nhau hay không.

Khi nghe những chuyện Tổ Gia nói, tôi không khỏi ngậm ngùi thương cảm. Nhiều năm sau, tôi lấy vợ sinh con, một lão trượng thường nói với tôi thế này: “Con người trong cuộc đời này đừng tham lam phú quý, cứ sống bình an là tốt rồi. Bình an mới là hạnh phúc.” Tổ Gia chinh chiến một đời, cuối cùng điều ông ấy muốn lại chính là được sống một cuộc sống bình thường. Tại Tổ Gia đã sai hay số phận đã sắp đặt lầm?

Bình luận
× sticky