Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Trảm Long – Trọn Bộ 4 Tập

Tập 3 – Chương 9: Âm Mưu Thanh Tẩy

Tác giả: Hồng Trần
Chọn tập

Sáng sớm, một thớt ngựa dừng lại trước mảnh sân nhỏ bên bờ Châu Giang, từ trong cửa một thiếu nữ đày vẻ kích động ùa ra, lặng lẽ ôm chặt lấy thiếu niên cường tráng tóc vàng. Cố Tư Văn ngồi chồm hỗm dưới đất, một tay túm chặt sợi xích trên cổ Đại Hoa Bối không để cho nó nhảy chồm lên cao quá, tay kia tóm chặt cái mõm vừa to vừa dài không cho nó sủa ăng ẳng, trong mắt đầy vẻ thê lương pha lẫn bất lực.

Để không gây sự chú ý cho hàng xóm, Sái Nguyệt hạ giọng nói: “Các ngươi trở về nhanh vậy, không phải đánh nhau à? Không ai bị thương gì chứ?” Cô vừa nói, vừa giơ tay khẽ áp lên vết đao cũ trên mặt An Long Nhi.

Cố Tư Văn không nói không rằng dẫn Đại Hoa Bối đi thẳng vào sân rồi vào nhà xem A Tầm đang say ngủ. An Long Nhi nhìn theo bóng lưng buồn bã của Cố Tư Văn, ngượng nghịu đẩy Sái Nguyệt ra, cả bọn nhanh chóng vào phòng đóng chặt cửa lại. Bấy giờ An Long Nhi mới kể cho Sái Nguyệt nghe diệu kế lui địch giải vây của Cố Tư Văn. Sái Nguyệt nghe một cách say sưa hứng thú, ra sức khen ngợi Cố Tư Văn một phen, nhưng lần này Cố Tư Văn cũng không thừa cơ dương dương tự đắc, mèo khen mèo dài đuôi như mọi lần, mà chỉ đi ra đi vào sắp xếp hành lý, đợi An Long Nhi thuật sơ sự việc xong xuôi, mới nói với cả bọn: “An Thanh Nguyên phát hiện ra bố cục của mình bị hóa giải giữa chừng, nhất định sẽ tìm nguyên nhân. Có điều, ta đoán y còn chưa thể nghĩ ra chúng ta lại đem tiểu vương gia biến thành gián điệp cho mình nhanh như vậy đâu.”

An Long Nhi chen vào: “Nhưng nếu y tính quẻ, hoàn toàn có thể tính ra được bên cạnh mình có nội gián và phương hướng hành động của chúng ta. Kỳ thực, giữa những người biết tính quẻ như chúng ta không có bí mật gì cả, giống như đánh cờ vậy, hai bên đều nhìn thấy một bàn cờ công khai, chỉ là không biết bước tiếp theo y sẽ làm gì, và xem ai nhanh hơn thôi…”

“Long thiếu gia, ngươi lại coi việc bói toán tính quẻ là thuốc tiên trị bách bệnh rồi.” Cố Tư Văn chẳng chút khách khí nói: “Có rất nhiều việc không cần bói toán xem số mệnh, lúc làm chỉ cần dựa theo lòng người và lẽ thường để suy đoán là được rồi. Giống như việc đánh cờ mà ngươi vừa nói đến đấy, ngươi có thể bói ra ai thắng ai thua, nhưng ngươi không thể tính được bước tiếp theo y sẽ đi nước nào; một tay cờ lão luyện thì có thể dựa vào hình thế của cuộc cờ mà nhìn ra nước cờ duy nhất y có thể lựa chọn, nếu tay cờ này thông thuộc tính cách và phong cánh đánh cờ của đối phương, thậm chí còn có thể từ trong mấy nước cờ có thể đi, chọn ra nước cờ mà đối thủ nhất định sẽ đi; hiện giờ An Thanh Nguyên chính là tay cờ lão luyện ấy, còn ngươi là tên ngốc thua cờ kia; y hiểu ngươi quá rõ, không cần bói toán cũng biết bước tiếp theo ngươi sẽ làm gì, nhưng y không hiểu được ta, nên y chỉ có thể bói, nhưng y liệu có tin vào quẻ do chính mình bói ra hay không? Bản thân y đang ở trong cuộc, cho dù quẻ bói của y trăm phát trúng cả trăm chăng nữa thì chút ngờ vực trong lòng kia cũng sẽ không tiêu tan; dù y có bói ra được kết quả thì những biến số trong quá trình vẫn khiến y quay mòng mòng, cho dù y có thắng cũng chưa chắc đã thắng thật, ngươi thua rồi cũng chưa chắc đã thua thật.”

Sái Nguyệt hoang mang nói: “Thâm ảo quá, từ bao giờ mà vô văn hóa lại trở thành như vậy thế?”

“Ta đây vốn vẫn như vậy, chẳng qua xưa nay ngươi đều coi ta là đồ ngu thôi.” Nghe ra trong lời của Cố Tư Văn có ẩn ý, Sái Nguyệt và An Long Nhi đều không nói gì nữa.

Cố Tư Văn lại tiếp lời: “An Thanh Nguyên đột nhiên phá hoại sắp xếp của ngươi, giờ ngươi không thể thu thập tin tức từ phía Hồng môn được nữa, cũng không thể ở núi Phù Dung khống chế bảy đạo long mạch, An Thanh Nguyên xem như đã thắng trận này, nhưng y mà không thắng trận này thì ngươi lấy đâu ra hai tên nội gián thân cận với y như thế, ngươi còn chưa chết thì y vẫn chưa thắng thật. Ngươi thua rồi, mà nhìn rõ được đường đi nước bước của đối thủ, đây chính là khởi đầu của việc giành chiến thắng, đã hiểu chưa hả?”

An Long Nhi ngoan ngoãn gật gật đầu, nhưng Cố Tư Văn lại nói: “Ta đảm bảo ngươi vẫn chưa hiểu, bởi vì An Thanh Nguyên cũng không biết lúc y đang đánh cờ với ngươi thì nửa chừng lại đổi người, thực ra hiện giờ người đánh cờ với y là ta, ngươi chính khí lẫm liệt như thế tuyệt đối sẽ không toa rập với tiểu vương gia Bát Kỳ, điểm này thì người ta sớm đã đoán được rồi, nhưng Cố Tư Văn ta lại có thể, ta không phải là đại hiệp, ta chỉ là một thầy tướng giang hồ, chỉ coi trọng lợi ích không quan tâm đến đạo nghĩa!” Cố Tư Văn càng nói lại càng kích động, ai cũng nhìn ra được cậu ta đang mượn chuyện người khác để nói chuyện của mình, phát tiết sự bất mãn trong lòng.

Cố Tư Văn nhanh nhẹn buộc bao hành lý cuối cùng lại, buông một câu: “Trời sáng chuẩn bị chuyển nhà,” rồi một mình đi ra khỏi sân. An Long Nhi hơi lúng túng hỏi Sái Nguyệt: “Văn thiếu gia đi đâu vậy? Lúc trước cũng thế này à?”

Sái Nguyệt đáp: “Không biết, hắn đi đâu trước nay ta chưa bao giờ hỏi, có lẽ là đi đánh bạc, hắn thường bảo là đi đánh bạc lấy tiền chơi gái.”

“Ta đi xem thế nào.” An Long Nhi nói xong liền chạy theo.

Cố Tư Văn ngồi bên bờ sông Châu Giang ngây người nhìn xuống mặt nước, bên cạnh cậu ta có một cái giỏ tre, trong đặt một chồng bát Công Kêl Bờ bên kia dòng Châu Giang san sát các loại thuyền lớn thuyền nhỏ neo đậu, một vài con thuyền đi sớm đã chàm chậm rời khỏi bến, tiến về phía ráng hồng ở cửa sông phía Đông.

An Long Nhi bước đến bên cạnh Cố Tư Văn ngồi xuống, nói: “Ta còn tưởng sớm như vậy đã có chỗ nào cho đánh bạc rồi.”

“Sòng bạc mở cả ngày lẫn đêm, ngươi muốn chơi thì ta dẫn đi, ngươi bói quẻ ta đặt cửa, thắng mỗi người một nửa, thua ngươi chịu.”

An Long Nhi cười cười nói: “Cảm ơn ngươi, bao lâu nay vẫn luôn ủng hộ ta.”

“Nói mấy chuyện này làm gì chứ. Thực tình, làn nào cũng là con bé đầu to kia bảo phải theo ngươi, ta không yên tâm về nó nên mới giúp ngươi thôi.”

“Ta còn tưởng ngươi nghĩa khí như vậy thật chứ.” An Long Nhi nói xong, hai người đều cười phá lên.

Cố Tư Văn nói: “Giờ muốn không nghĩa khí cũng không được nữa, chúng ta đều bị đại sự thiên hạ của ngươi kéo hết xuống nước rồi còn gì, vả lại ta cũng muốn đấu với An Thanh Nguyên đó một phen, để xem quốc sư lợi hại hay là tể tướng lợi hại.”

“Phải rồi, lần trước ngươi vẫn chưa nói cho ta biết, Tể tướng giang hồ là do ai phong vậy?”

“Chuyện này có liên quan đến Hồng môn…” Cố Tư Văn ngoảnh nhìn sau lưng, thấy ngoài vài người buôn bán nhỏ ngẫu nhiên đi qua thì không có kẻ nhàn rỗi nào đứng hóng, bấy giờ mới nói: “Phái Giang Tướng là phân chi của Hồng môn, thờ tể tướng triều Minh Lưu Bá Ôn làm tổ, tôn chỉ cũng là phản Thanh phục Minh, trên giang hồ chia làm bốn phòng lớn, lần lượt là Càn, Khôn, Khảm, Ly. Thiên Địa hội, Tam Hợp hội cũng là phân chi của Hồng môn, nhưng bọn họ trọng võ, chúng ta trọng văn, lúc thư nhàn thì lăn lộn giang hồ lấy tiền của bất nghĩa, khi khởi sự thì đến Thiên Địa hội làm quân sư tham chiến, vì vậy rất quen thân với người trong Hồng môn… Trong phái Giang Tướng cũng có hệ thống chức quan riêng, cao nhất là Đại học sĩ, chính là tể tướng, bên dưới có Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hàn lâm, Tiến sĩ, cử nhân…”

An Long Nhi tò mò hỏi: “Giờ ngươi làm đến cấp bậc gì?”

“Ta? Ha ha, mười năm xem tướng mới có thể thăng lên Hàn lâm, ta mới được mấy năm thôi mà, râu còn chưa mọc đủ nữa.”

“Vậy ngoài bày sạp xem tướng lừa tiền ra, các người không còn kế sinh nhai nào khác à?”

“Đó đâu phải lừa đảo gì chứ!” Cố Tư Văn lớn tiếng phản bác: “Làm ăn trên phố kiểu này là đôi bên tình nguyện mà, kiếm nhiều tiền cũng chẳng qua chỉ bằng số tiền người ta mang trên người thôi, chỉ là con số hữu hạn, vả lại tặng người ta mấy câu nói, không phải là an ủi lòng người, cổ vũ sĩ khí hay sao? Làm gì có ai được ta xem tướng cho mà không vui vẻ về nhà đâu? Muốn kiếm tiền thực sự không thể dựa vào ngón này được, phải làm ăn lớn…” Cố Tư Văn nói tới đây chợt nhận ra mình đã lỡ lời, liền im bặt.

“Làm ăn lớn cái gì?”

“Không thể nói được.”

“Với ta cũng không thể nói à?”

“Cấm kỵ sư môn, đánh chết cũng không thể nói.”

“Vậy thì bỏ đi, hiện giờ ngươi cũng kiếm được không ít rồi đấy nhỉ?” An Long Nhi biết ý chuyển chủ đề khác.

Nhắc đến tiền, gương mặt Cố Tư Văn rốt cuộc cũng nở nụ cười: “Cũng kha khá, đủ mua nhà lấy vợ, ha ha ha ha.”

“Có phải muốn lấy cô bé đầu to kia không?” An Long Nhi tung ra một đòn bất ngờ, khiến Cố Tư Văn lập tức xịu mặt xuống nói: “Ngươi thân với nó như vậy, để lại cho ngươi cưới đấy.”

“Ta ngược lại rất hy vọng hai người các ngươi có thể nên vợ nên chồng…” An Long Nhi nhìn vào mắt Cố Tư Văn, Cố Tư Văn lắc đầu nói: “Nhìn ta làm gì, cũng phải xem người ta chịu gả cho hay không mới được chứ.”

“Ngươi cứ rượu chè phóng đãng, đánh bạc chơi gái thì người ta làm sao thích ngươi được?”

“Ngươi nghe ai bảo vậy?” Cố Tư Văn nghiêm trang cật vấn An Long Nhi.

“Thỏ con hỏi Tiểu Nguyệt, sau đó kể lại cho ta.”

“Ta đã bao giờ đi đánh bạc chơi gái đâu! Ta ra ngoài làm ăn, cũng không thể khoe khoang rình rang khắp nơi được đúng không, đàn ông đàn ang ở nhà không làm gì, cứ ăn mặc điệu đàng ra ra vào vào, chẳng phân biệt ngày đêm thì cũng phải có một lý do chứ, không bảo là đi đánh bạc uống rượu hoa thì còn biết giải thích thế nào nữa?”

“Ngươi chưa bao giờ đi chơi gái ư?”

“Chưa. Bằng không làm sao để dành được nhiều bạc chuẩn bị mua nhà lớn như vậy?”

“Khụ khụ…” An Long Nhi nghe tới đây thì cười khan hai tiếng, nói: “Như vậy cũng được à? Tiểu Nguyệt còn tưởng ngươi là loại người xấu xa không thói xấu gì là không có đấy.”

Cố Tư Văn lắc đầu thở dài một tiếng, vịn vai An Long Nhi đứng dậy nói: “Ngươi có thời gian thì giúp ta giải thích với, ta cưới được sư tỷ ngươi về rồi nhất định sẽ báo đáp tử tế.” Cậu ta nói vậy làm An Long Nhi phá lên cười một chặp. An Long Nhi cũng đứng dậy, phủi phủi mông nói: “Tiểu Nguyệt ở nhà cũng đói rồi, ra quán trà mua đồ ăn mang về thôi.” Dưới ánh nắng của vầng dương mới nhú, hai người cùng chạy về phía quán trà mới mở cửa ven sông.

Bọn họ thuê một căn nhà to bên bờ hồ Lộc váng vẻ ngoài cổng Bác thành Quảng Châu, lại mua thêm mấy con ngựa tốt. Cố Tư Văn không tự mình bày sạp xem tướng nữa, mà đi trước một bước hoàn thành tâm nguyện của Lục Kiều Kiều, trở thành người dắt mối cho An Long Nhi, tìm được việc nào liên quan đến phong thủy trên giang hồ liền để An Long Nhi đi kiếm một khoản lớn, danh tiếng của Phong Thủy Tiểu Thần Tiên An Long Nhi trên giang hồ càng ngày càng vang xa. Thường ngày không có việc gì làm, cả bọn lại ra bờ hồ Lộc ruổi ngựa và luyện tập cưỡi ngựa bắn cung, ngoài ra, ngày nào họ cũng đến bờ hồ phía Đông nhan nhản mộ phần để kiểm tra các bia mộ.

Thì ra mảnh giấy mà Cố Tư Văn nhét cho Chương Bỉnh Hàm viết rằng: “Mộ của Trần thái phu nhân mẹ quá cố của Hoàng Thanh Hiển bên bờ Đông hồ Lộc” chính là nói ở bờ Đông hồ Lộc có một ngôi mộ của bà thím họ Tràn, ngươi chỉ việc đem tin tức xuất hành của An Thanh Nguyên đặt dưới bia mộ là được rồi.

Thu qua đông đến, một mùa bình lặng trôi qua bên bờ hồ, A Tầm càng lớn càng nghịch ngợm, đôi mắt càng lúc càng có nét, xem chừng sau này sẽ trở thành một mỹ nữ tóc vàng; Đại Hoa Bối đã ngoan hơn rất nhiều, không biết tại tiết trời trở lạnh hay sức khỏe không được tốt, nó suốt ngày trốn trong ổ ngủ vùi, không làm ồn mà cũng không mấy khi ra ngoài chơi; bia mộ của bà thím họ Tràn bấy lâu cũng không có tin tức gì.

Rốt cuộc, trong một buổi chiều âm u mưa lạnh bay đày trời, An Long Nhi trông thấy trước mộ bà thím họ Trần có cám ba que hương chưa đốt, cẩn thận quan sát kỹ hơn, thấy xung quanh chỗ đất cắm hương có một vòng tròn to bằng miệng bắt được khắc bằng mũi dao, An Long Nhi rút hương ra, nhấc cả cục đất trong hình tròn lên, liền trông thấy bên dưới hốc đất là một bao vải dầu, tờ giấy bên trong bao vải có một hàng chữ nhỏ như đầu ruồi: Bính Ngọ tháng Giêng, dốc Thập Tự, Đại Phong Môn, núi Nam Côn. An Long Nhi cầm mảnh giấy lên lập tức về nhà tra lại bản đồ long mạch Quảng Đông, thì ra núi Nam Côn cách Quảng Châu hai trăm dặm, bát nguồn từ dãy núi cửu Liên ở phía Đông Bác tỉnh Quảng Đông. Dãy núi cửu Liên từ Tây Giang uốn lượn ngàn dặm mà đến, mạch chính vươn tới tận ngọn núi phía sau lưng thành Quảng Châu, núi Nam Côn lại là đoạn cuối cùng trước khi long khí của dãy cửu Liên nhập vào Quảng Châu. Còn Đại Phong Môn là thác nước lớn để long mạch núi Nam Côn lột xác biến thành chính khí chân long. Trên bản đồ không ghi rõ khu vực thác Đại Phong Môn có dốc Thập Tự, chuyện này cũng không có gì lạ, tạm không nói tới chuyện bản đồ này không phải do An Thanh Nguyên dựa vào Trảm long quyết vẽ ra, mà dù An Thanh Nguyên có vẽ một tấm bản đồ, y cũng chẳng ngu đến mức viết cả tử huyệt trảm long lên giấy để người ta đi phá hoại chuyện lớn của mình.

Chỉ có một điểm mà An Long Nhi không hiểu, chính là An Thanh Nguyên đã có Trảm long quyết, lại có năng lực trảm long, tại sao sau khi phục hồi chức quan rồi vẫn chần chừ mãi không ra tay, cảm giác lo lắng trước sự phát triển của tình thế và nỗi tò mò đối với tử huyệt trảm long khiến suốt nửa năm nay, An Long Nhi hết sức mong chờ hành động của y- Trước khi lên đường, Cố Tư Văn giao lá cờ Tiểu Thần Tiên cho Sái Nguyệt, dặn dò cô bảo quản cho tốt, rồi cầm theo trường thương, cùng An Long Nhi phóng ngựa lên núi Nam Côn.

Hai người tính rằng sẽ tìm hiểu địa hình trước, sau đó phục kích An Thanh Nguyên, bọn họ đến chân núi Nam Côn trước hai ngày, nghỉ ngơi chỉnh đốn xong xuôi, liền lặng lẽ lên núi trong đêm.

Núi Nam Côn này địa hình gập ghềnh khúc khuỷu, trên núi toàn rừng trúc rậm rạp, mỗi khi gió thổi qua, biển trúc lại lay động xào xạc khắp cả ngọn núi. Dưới đất là thảm lá cây nghìn năm nay chưa có người quét dọn, hễ bước lên lại phát ra tiếng lạo xạo. Cũng may, buổi đêm gió Bắc thổi rất mạnh, lạnh thì có lạnh, nhưng tiếng lá trúc xào xạc như sóng biển có thể giấu được tiếng chân người.

Cố Tư Văn mặc áo bông co ro trên lưng ngựa, hai tay ôm lấy vai run rẩy nói lập bập: “Lần này ngu rồi, nếu không bỏ bỏ bỏ lại lá cờ kia, giờ còn có cái mà đáp, ngươi ngươi ngươi không lạnh à?”

Thể chất An Long Nhi vốn dĩ rất tốt, sau ba năm tu đạo ở phủ Thiên Sư, nội công đạo gia đã đạt tới trình độ tinh thuần vô song, thời tiết này đối với cậu vẫn chưa coi là lạnh. Để tiện hoạt động, cậu không mặc áo bông, chỉ khoác một chiếc áo choàng bên ngoài áo dài, xăm xăm đi đón đầu cơn gió Bắc. Cậu bảo Cố Tư Văn: “Ta không lạnh, ngươi cẩn thận một chút đi, Đại Phong Môn là thác lớn, đường lên trên có thể sẽ rất trơn.”

“Bên bên dưới đã lạnh thế này rồi, lên trên đó lại còn không chết chác à… cứu tôi với…” Cố Tư Văn không ngừng càu nhàu, nhưng vẫn bám sát theo An Long Nhi, lại một cơn gió lớn thổi qua, cậu ta ngẩng đầu nhìn lên. Sau khi đám mây mù trôi đi, bầu trời chi chít ánh sao sáng. An Long Nhi cũng ngước nhìn sao trời, sao đêm nay đẹp lạ thường, có lẽ vì trong khe núi quá tối tăm làm nổi bật ánh sao, nhưng cũng có thể là do một nguyên nhân khác.

Hai mươi năm nay, thiên vận là cửu tử hữu bật hỏa vận, qua giờ Tý, thì chính là năm Canh Tuất tháng Mậu Dần ngày Bính Ngọ, sự phối họp giữa ngày tháng và thiên vận, khiến ngày này trở thành ngày có hỏa khí mạnh nhất, phù họp với thiên vận nhất, là thời điểm quan trọng để hoàn thành việc lớn, An Thanh Nguyên chọn ngày này để đến núi Nam Côn dường như không được họp với lẽ thường cho lắm. Cứ theo thời gian trảm long lần trước mà tính toán thì hôm đó là ngày âm tà hung sát nhất trong cả năm, bây giờ y muốn lặp lại chuyện xấu đó, nhưng lại chọn một ngày tốt, khiến người ta có cảm giác kẻ xấu này không chuyên nghiệp chút nào, An Long Nhi cũng không đoán ra trong lòng An Thanh Nguyên đang tính toán chuyện gì, đành lên dốc Thập Tự xem sao.

Đường núi khó đi, càng lên trên lại càng không có đường, An Long Nhi dẫn Cố Tư Văn men theo con sông nhỏ trong núi chầm chậm leo lên mới không mất nhiều công sức chặt quang các bụi cây bụi gai ven đường. Vòng vèo một hồi, đến dưới chân một ngọn thác lớn, Cố Tư Văn ngước nhìn lên, buột miệng thốt: “Đẹp quá đi mất!”

An Long Nhi ngẩng đầu nhìn lên, đó là một thác nước cao trăm trượng, chỉ nhìn độ cao cũng đủ khiến người ta thấy choáng váng, nếu ở trên đỉnh tháp hất một gáo nước xuống dưới, nước sẽ bắn tung tóe ra rồi mất tăm mất dạng. Vì đã vào mùa đông, lượng nước cũng không nhiều lắm, từ trên thác quanh co đổ xuống, dòng nước trắng xóa trên vách đá đen ngòm vạch nên một con đường lớn uốn lượn và sống động.

An Long Nhi cũng không kìm được buột miệng khen: “Quả nhiên là đẹp, không ngờ đồ vô văn hóa như nhà ngươi cũng biết thưởng thức cảnh đẹp nhường này.”

“Tất nhiên là biết thưởng thức rồi, ngươi xem, thật giống như một mỹ nữ, bên trên là đầu và mái tóc dài, ở giữa là ngực…”

Nghe Cố Tư Văn nói vậy, An Long Nhi suýt chút nữa rơi xuống ngựa, có điều được chỉ điểm, lại ngước nhìn thác nước, quả nhiên thấy giống một thiếu nữ thân hình yểu điệu mẽm mai.

Hai người men theo ngọn thác mà dắt ngựa lên núi, khó nhọc leo lên được đỉnh thác, lúc này mới thực sự hiểu được tại sao nơi này gọi là Đại Phong Môn. Từ nơi đây nhìn xuống là vùng đất phía Nam Lưỡng Quảng rộng mênh mông, hai bên ngọn thác là núi cao ngất trời, ở giữa có một khe núi, mùa hè gió Nam từ đây thổi vào, mùa Đông gió Bác từ đây thổi ra, Cố Tư Văn lớn tiếng nói giữa tiếng gió vù vù: “Thì ra Đại Phong Môn có ý này, thật đúng là không ngờ đến đấy…”

Hai người không có nhiều thời gian để ngắm phong cảnh, An Long Nhi dẫn đường, men theo bờ, đi ngược dòng con sông nhỏ lên núi. Cố Tư Văn đã lạnh đến mức mụ mị cả đầu óc, phải không ngừng nói chuyện với An Long Nhi để phân tán tinh thần.

“Sao lại cứ phải đi men theo dòng nước thế, vì ở đây tre trúc ít dễ leo hơn à?”

“Chúng ta lên núi là để ngăn cản việc trảm long, vì vậy cần phải tìm được long mạch.”

An Long Nhi giải thích xong, Cố Tư Văn vẫn không biết bạn mình đang nói gì: “Men theo dòng nước là để tìm long mạch?”

“Đúng vậy.” An Long Nhi nói: “Long mạch chân long đều có dòng nước tương hỗ, chỉ cần tìm được dòng nước chảy cùng hướng với hướng núi, long mạch chính là ở hai bên dòng nước ấy.”

Cố Tư Văn sực hiểu ra, nhìn đường nét đen như mực của núi non ở hai bên, lẩm bẩm tự nói một mình: “Chậc, bên này có thể là long mạch, bên kia cũng có thể là long mạch, An Thanh Nguyên sẽ ra tay ở nơi như thế này đây.”

“E hèm, trảm long không giống với tầm long điểm huyệt, phong thủy Dương Công cứu nhân độ thế chuyên tìm đất lành, còn phong thủy trảm long của An Công lại phải tìm đến hung địa.” An Long Nhi đã xem qua thế núi trên bản đồ, đoán rằng nhất thời cũng không đến được dốc Thập Tự, nên chậm rãi giải thích: “Con sông mà chúng ta đang đi men theo này nhỏ quá, kỳ thực không thể gọi là sông được, trong phong thủy người ta gọi là giới thủy. Những nơi có dòng nước chảy qua giữa hai ngọn núi đều gọi là giới thủy, là đất đại hung không thể điểm huyệt xây nhà, chỉ cần không sử dụng thì cũng không có gì đặc biệt; nhưng đạo giới thủy này và đại long mạch của núi cửu Liên đều đi theo hướng từ Đông Bắc tới Tây Nam, chạy về phía Quảng Châu, giới thủy này chính là tuyến đường chảy ra của khí chân long, chúng ta cứ đi lên đến chỗ địa hình sụt xuống do có mấy đạo giới thủy giao nhau, đấy chính là nơi hung khí từ bốn phương tám hướng tụ hội về. Nếu quả có một nơi như thế, chỗ đó hẳn là tử huyệt của long mạch, rất có khả năng cũng chính là dốc Thập Tự được nhác đến trong mật thư.”

Cố Tư Văn nửa tin nửa ngờ theo An Long Nhi tiếp tục đi lên trên, quả nhiên thấy núi ở hai bên dốc xuống phía dưới, nếu tiếp tục đi lên nữa, dốc núi sẽ trùng với giới thủy mà họ đang đi theo. Lúc này An Long Nhi nói với Cố Tư Văn: “Chắc là gần đến dốc Thập Tự rồi, giờ không thể đi men theo giới thủy nữa, chúng ta buộc ngựa ở đây, đi bộ lên dốc núi quan sát tình hình giới thủy; từ giờ cũng đừng nói chuyện nữa, có thể An Thanh Nguyên đã ở đây rồi.” Nghe An Long Nhi nói vậy, vẻ co ro mệt mỏi vừa nãy của Cố Tư Văn lập tức biến đâu mất, cậu ta xốc lại tinh thần, gật gật đầu, buộc chặt ngựa rồi theo An Long Nhi lên dốc núi.

Trên dốc núi không có đường, chỉ toàn là tre trúc mọc san sát, hai người chầm chậm bước thấp bước cao bên trong rừng trúc, rốt cuộc cũng đến được gần chân dốc bên kia, trông thấy bên dưới dốc quả nhiên là một khu đất trống sụt xuống, xung quanh khu đất là bốn ngọn núi, giữa bốn ngọn núi có bốn đạo giới thủy, trông giống như một cái rãnh chữ thập toác ra phía trên chiếc bánh bao hấp chín, chia cái bánh làm bốn mảnh, trong đó có hai đạo giới thủy một cao một thấp đem theo một dòng suối nhỏ từ trên núi chảy xuống rồi chuyển hướng ở bên dưới khu đất.

Mấy chục tên binh sĩ đang lắp ghép một bình đài bằng gỗ, kiểu dáng giống như An Long Nhi đã từng trông thấy trên núi Đỉnh Hồ, tám góc bình đài có tám cột gỗ, An Long Nhi biết trên tám cái cột này sẽ trói tám đứa trẻ, lát nữa An Thanh Nguyên sẽ bước chân theo canh bộ, lần lượt đâm chết chúng để lấy máu, đổ vào tử huyệt, tiến hành trảm long. Bên cạnh bình đài là một hàng trẻ con mặc áo bông đang ngủ thiêm thiếp, hẳn bọn chúng chính là người sẽ phải chết, giờ bị đổ thuốc mê cho bất tỉnh nhân sự rồi đưa lên núi sử dụng.

An Long Nhi và Cố Tư Văn ngồi chồm hỗm trong chỗ tối, căng thẳng tìm kiếm bóng dáng của An Thanh Nguyên, nhưng tìm mãi cũng chưa thấy đâu. Đến khi bình đài ghép xong, sắc trời dần hửng sáng, mới trông thấy trên con đường nhỏ ở ngọn núi đối diện có hai thớt ngựa đi xuống, trên ngựa lần lượt là Quốc sư An Thanh Nguyên cao lớn anh tuấn, mặc áo lông hoa lệ, và ngự dụng phong thủy sư Kim Lập Đức, người lùn nhỏ nhưng nhanh nhẹn.

Kim Lập Đức có tướng mạo điển hình của người Quảng Đông, cũng sở hữu tính cách điển hình của người Quảng Đông, mấy năm trước An Long Nhi từng nhiều lần giao thủ với y, đều được y ngoài đánh trong thả mà giữ cho tính mạng. Cậu hiểu rất rõ, đây là một viên quan chỉ lăn lộn để kiếm miếng cơm ăn, chốc nữa ra tay ám sát An Thanh Nguyên, y sẽ không thực sự ngăn cản mình.

Hai người chậm rãi lại gần bình đài trảm long, Kim Lập Đức bước lên trên xem xét, đoạn nói: “Bao giờ thì ra tay?”

Kim Lập Đức và An Thanh Nguyên đều không chú ý một điều, nói chuyện ở khu đất sụt lún này, âm thanh sẽ truyền đều tới bốn vách núi xung quanh, mà buổi sáng sớm lại vừa khéo đúng lúc gió thổi yếu đi, giọng nói của y tuy không lớn, nhưng truyền đến tai An Long Nhi hết sức rõ ràng.

An Thanh Nguyên xuống ngựa đi tới giữa bình đài, vừa kiểm tra các rãnh máu chằng chịt trên bề mặt vừa nói: “Đợi một lúc nữa đã, đừng vội ra tay, hôm nay là ngày lành, để xem ý trời thế nào.”

Kim Lập Đức lộ vẻ bất lực nói: “Quốc sư, tám mạng người đấy, có thể không giết thì đừng giết.”

An Thanh Nguyên khẽ cười nhạt: “Đúng là mâu thuẫn… ài, trong Đại Nội đã có Ngũ giáo đại lạt ma dẫn người lập kết giới hộ pháp rồi, nhưng hoàng thượng vẫn trong tình trạng nguy kịch, hôm nay là ngày đại cát, song lại là ngày nguy hiểm nhất trong Bát tự của hoàng thượng.”

Kim Lập Đức cũng nói: “Tôi thấy lần này khó mà qua được, vừa nãy trên đỉnh núi cũng thấy cả còn gì, ngày đại cát mà Tử Vi đế tinh lại ảm đạm vô quang, xung quanh các sao Tặc tinh sáng rực, thật tình không biết Đại Thanh tiếp sau đây sẽ như thế nào.”

“ở đây nói vậy thì không sao, một khi xuống núi chớ có mà nói bừa.” An Thanh Nguyên kịp thời nhác nhở Kim Lập Đức, sau đó lại nói: “Nếu hoàng thượng khỏe lên thì long mạch này vẫn phải trảm. Đạo Quang gia là vị hoàng đế tốt, cần chính yêu dân, chỉ tại quốc vận không ra gì đã ép ngài đến đường cùng, muốn tiến không được mà muốn thoái cũng chẳng xong. Chúng ta là phận bề tôi, phải phò trợ ngài một tay, lo hết những chuyện bên dưới, quét sạch con đường phía trước rồi, miệng vàng của ngài mở ra mới có nơi ra sức…”

“Thế còn…” Kim Lập Đức hỏi mập mờ, ý rằng ngộ nhỡ hoàng đế chết rồi thì nên tính sao?

An Thanh Nguyên đáp: “Lúc quốc gia có đại tang không nên chuốc thêm nhiều chuyện, long mạch trảm xong sẽ gây ra tai họa núi lở đất sụt trong phạm vi trăm dặm. Nơi này là đất trảm long, một khi ra tay sẽ chia núi Nam Côn thành bốn quả núi theo đường giới thủy. Trảm là trảm long khí trong long mạch, nhưng chết lại là người chết, vả lại…”

“Cái gì?” Kim Lập Đức đợi hồi lâu không nghe thấy câu tiếp theo, chỉ thấy An Thanh Nguyên ngẩng đầu nhìn trời, sau đó chầm chậm bước xuống bình đài, đi về phía An Long Nhi và Cố Tư Văn đang ấn náu. Chỗ này cách xa đám binh sĩ đang làm việc, nhưng lại khiến An Long Nhi nghe rõ hơn đoạn đối thoại giữa hai người bọn họ.

Cố Tư Văn chậm rãi cầm cây thương lên, đưa mắt ra hiệu với An Long Nhi, An Long Nhi đưa tay ẩn cậu ta xuống.

An Thanh Nguyên từ từ nói: “Hoàng đế mới có thể lo cho nước cho dân giống như Đạo Quang gia hay không? Mục tướng liệu có còn đứng vững được trong triều đình mới hay không?… Lão Đức, ngươi cũng biết đấy, cùng làm một việc, có lúc là công lao, cũng có lúc lại là tội tình, trảm long ở Quảng Đông vốn là một nước cờ hiểm, nếu không có Mục tướng ủng hộ, phủ Quốc sư cũng không dễ làm việc đâu, không khéo lại còn…”

“Phải, phải, phải, để xem đã.” Kim Lập Đức ngầm hiểu ra, vội vàng phụ họa theo.

An Long Nhi và Cố Tư Văn nghe tới đây đều đã hiểu, thì ra An Thanh Nguyên hôm nay không nhất định phải giết người trảm long, y đang đợi một biến cố lớn trên triều, chuẩn bị theo gió mà trở cờ.

An Thanh Nguyên và Kim Lập Đức vừa đi vừa nói chuyện, cũng không rời khỏi bình đài trảm long. Bọn họ cắt đặt mấy chục tên binh sĩ hạ trại nghỉ ngơi, bản thân thì ở giữa núi rừng nhóm lửa lấy nước suối đun trà, có vẻ rất thanh nhàn thong thả.

An Long Nhi và Cố Tư Văn nghe đối phương nói chuyện, trong lòng đều nảy sinh cảm giác tò mò, qua ngày hôm nay sẽ có thay đổi gì nhỉ? Hết ngày hôm nay, An Thanh Nguyên sẽ không trảm long nữa sao? Hiện tại không phải thời cơ tốt nhất để xông xuống dưới hạ thủ, họ vẫn phải mai phục trong rừng trúc này cùng đợi với An Thanh Nguyên.

Bọn An Long Nhi và Cố Tư Văn cũng giống như Kim Lập Đức, đều chỉ biết được suy nghĩ mà An Thanh Nguyên nói ra miệng, còn những suy tính sâu hơn một tầng thì họ An tuyệt đối không bao giờ nói cho bất cứ ai. Ba năm trước, y lỡ tay mở ra long huyệt trên đỉnh núi Phù Dung, làm huyệt ngầm Tiềm long thôn kim bên dưới đáy hồ của huyệt Ngũ xà hạ dương lộ ra, để Lục Kiều Kiều táng cha của Hồng Tú Toàn vào thiên tử long huyệt. Có thể nói cái thiên tử long huyệt này là từ y mà ra. Sau khi có được Trảm long quyết, theo lý lẽ ra y phải phá mộ tổ của Hồng Tú Toàn trước tiên, giải quyết mối đại họa do chính mình gây ra trong quá khứ, nhưng ba năm bị biếm làm thứ dân đã khiến y nếm đủ mùi đau khổ, sau khi trải qua trăm đắng ngàn cay mới trở về vị trí quốc sư, An Thanh Nguyên y đã lý giải được sâu thêm một tầng nữa về đạo lý cầu sinh trong chốn quan trường.

Hiện giờ, An Thanh Nguyên đã hiểu, làm việc là để cho hoàng thượng xem, bất luận một viên quan tận tâm tận lực bán mạng cho Đại Thanh đến thế nào, hoàng thượng biết được cũng chẳng buồn xót thương y; nhưng nếu có thể dẹp yên chuyện khiến hoàng thượng nhức đầu nhất, thì đây chính là đường tắt để thăng quan tiến chức. Chỉ cần không ai nhìn ra được long huyệt thiên tử trên núi Phù Dung là họa do y gây ra, cái huyệt này có thể chính là quân bài để y tiếp tục thăng chức. Nếu sau khi Hồng Tú Toàn làm ra chút thành tựu nho nhỏ, y mới ra tay chặt đứt long mạch của nhà họ Hồng, vậy thì y sẽ là công thần đã vì Đại Thanh mà xoay chuyển tình thế.

Hoàng đế Đạo Quang có một đống con trai, nhưng chỉ có hai hoàng tử nay đã mười lăm mười sáu là thích hợp kế thừa ngôi vị, những đứa con khác đều chỉ là lũ trẻ năm ba tuổi còn chưa ráo máu đầu. Một đứa trẻ mười mấy tuổi đầu kế thừa ngôi vị làm sao biết trị lý quốc gia, trên thực tế, hoàng quyền sẽ rơi vào họ nhà mẹ và thầy giáo của hai hoàng tử; khi hoàng đế Đạo Quang băng hà, hai đàng liệu có vì tranh giành ngôi vị mà chém giết lẫn nhau? Ai sẽ giành được ngôi đế? Tất cả đều là những vấn đề mà An Thanh Nguyên cần phải suy tính đến.

Phủ Quốc sư xưa nay vẫn được Trung đường Mục Chương A quyền nghiêng triều đình ngấm ngầm ủng hộ, nếu Mục tướng vì tranh chấp quyền vị mà phải hạ đài thì chẳng khác nào phủ Quốc sư bị giải thể, trong thời điểm luân chuyển quyền lực này mà ra tay trảm long hay làm bất cứ chuyện gì cũng đều là một sự lãng phí tinh lực; vả lại, mấy năm gần đây Hồng Tú Toàn không xuất đầu lộ diện ở Quảng Đông, kết cục này chính là uy lực của phong thủy Long quyết của An công ư? Với lòng hiếu kỳ đặc biệt của phong thủy sư, An Thanh Nguyên cũng đang hết sức mong đợi vụ mưu phản xảy ra, sự mong đợi của y dành cho Hồng Tú Toàn không thấp hơn Lục Kiều Kiều chút nào. Nắm trong tay Trảm long quyết và trảm long là hai việc hoàn toàn khác nhau, cho dù trảm long để thiên hạ thái bình thì làm việc cũng phải xem thời cơ, có tiết tấu, vào thời điểm này, y nhất định không ra tay trảm sát long mạch nhà họ Hồng.

Lúc này có việc quan trọng hơn cần phải làm, còn y thì đang ung dung chờ đợi.

Nhìn An Thanh Nguyên và Kim Lập Đức uống trà sớm pha bằng nước suối, ăn những món điểm tâm ngon lành tinh xảo, An Long Nhi và Cố Tư Văn đều đói sôi bụng. Khó khăn lắm mới chịu đựng được đến gần trưa, bọn họ trông thấy An Thanh Nguyên và Kim Lập Đức đi lên bình đài trảm long, ung dung dựng một cái giá hình tam giác, trên giá dùng la kinh đè lên một tờ giấy bùa có viết Bát tự. An Thanh Nguyên lấy trong người ra một chiếc đồng hồ quả quýt bằng vàng xem giờ, sau đó cầm bút chấm chu sa viết lên tám cây cột gỗ ở xung quanh bình đài tám đạo bùa; Kim Lập Đức giúp y buộc dây đỏ lên tám cây cột, đầu còn lại của tám sợi dây đều buộc lên giá tam giác.

Giờ Ngọ vừa tới, An Thanh Nguyên tung mình nhảy lên cột gỗ ở phía Đông, hai tay kết ấn lẩm nhẩm niệm chú. Giờ Ngọ ngày hôm nay là thời khắc hỏa khí mạnh nhất trong cả ngày, hoàng đế Đạo Quang có Bát tự kỵ hỏa, nếu không vượt qua được canh giờ này ắt sẽ về chầu ông bà ông vải, ở chính giữa của Thiên sư Linh ứng trận mà An Thanh Nguyên bày ra, chính là Bát tự của Đạo Quang mà y phải dùng nhiều vàng bạc hối lộ mới có được, vì vậy, ở bên trong kết giới của An Thanh Nguyên, Linh ứng trận và sự sống chết của hoàng đế Đạo Quang sẽ tương thông với nhau.

Dưới ánh mặt trời nóng bỏng, tám sợi dây đỏ phát ra ánh sáng đỏ chói mắt. An Long Nhi biết trận thế này có ý nghĩa gì, cậu chỉ không biết kết quả cuối cùng của trận pháp mà thôi. Bởi An Long Nhi xưa nay không để ý đến việc triều đình, cho dù thế nào cũng không thể biết được sợi dây cuối cùng còn lại đại diện cho hoàng tử nào, cậu chỉ quan tâm An Thanh Nguyên sau này có tiếp tục trảm long nữa hay không thôi.

Trong tiếng gió và tiếng niệm chú, tám sợi dây đỏ lần lượt bốc cháy, Kim Lập Đức lùi ra xa nấp sau thân cây, chỉ sợ trên bình đài sẽ xảy ra nổ lớn. Lúc này, một trận gió quái dị không thể xác định phương hướng chợt ào qua, trên bình đài đột nhiên phát ra tiếng gỗ nổ tanh tách, bảy cây cột gỗ cùng lúc gãy đôi, vụn bắn tung tóe. Trước khi cây cột gỗ dưới chân gãy lìa, An Thanh Nguyên đã kịp thời nhảy vọt lên không trung, vừa đáp xuống chính giữa bình đài lập tức kiểm tra la kinh. Kim trên la kinh dừng ở hướng chính Bắc, đầu mũi kim chìm xuống dính vào đáy thiên trì, đây là hiện tượng trầm kim trong La kinh bát kỳ, đại biểu điềm đại hung và tử vong không thể tránh khỏi, mà vị trí đầu kim chỉ chính là kẻ thất bại và nạn nhân thực sự.

Kim Lập Đức cũng chạy lên bình đài xem la kinh, y và An Thanh Nguyên thoạt nhìn qua đã hiểu ngay kết quả cuối cùng. Cột gãy chứng tỏ hoàng đế Đạo Quang đã băng hà, hướng chính Bắc mà đầu mũi kim trầm xuống đại diện cho Lục a ca Dịch Cân tuổi Tý, được dòng chính nhà Trung đường Mục Chương A ủng hộ, cũng có nghĩa là tương lai của phủ Quốc sư xuất hiện nhân tố không ổn định, đã như vậy thì việc trảm long phải tạm thời dừng lại, đợi xem rõ tình hình rồi mới có thể ra tay.

An Thanh Nguyên canh cánh lo âu, Kim Lập Đức lại ngấm ngầm mừng rỡ, bọn họ cùng đi tới trước cây cột duy nhất không bị gãy ở phía Bắc cẩn thận quan sát, cây cột gỗ ấy toác ra thành mấy mảnh, nhưng lại không gãy lìa, sợi dây đỏ chùng hẳn xuống nối liền với Bát tự của hoàng đế Đạo Quang.

An Thanh Nguyên khẽ nói: “Là Tứ a ca Dịch Chú…”

“Ngài xem, vết nứt trên cột tán loạn, toác ra đến tận dưới chân cột, xem ra vẫn là một tên hôn quân rồi.” Kim Lập Đức quan sát hình thái tàn lưu của cột gỗ để bói, đây là thuật chiêm bốc đã có từ thời thượng cổ, các vu sư thời cổ đốt mai rùa cho nứt ra, rồi dựa vào những đường nứt ấy để đọc ra lời tiên tri, chính là cùng một nguyên lý với việc Kim Lập Đức nhìn đường nứt trên cây gỗ để đưa ra tiên đoán.

“Mục tướng và đám người ủng hộ Tứ a ca xưa nay vẫn không hòa họp cho lắm, sau này không dễ làm việc rồi. Truyền lệnh của ta, chỉnh đốn lại đội ngũ, trở về Quảng Châu đợi tin tức.”

Kim Lập Đức vui vẻ tập họp nhân mã xuống núi, An Long Nhi và Cố Tư Văn mai phục trong rừng tre không nghe được vừa nãy bọn họ rì ràm gì với nhau, cả hai lại sinh ra luống cuống, người ta không trảm long nữa rồi, liệu có nên xông ra ám sát mệnh quan triều đình nữa không?

An Long Nhi và Cố Tư Văn đều không dám làm bừa, chợt nghe thấy trên bầu không vang lên một tiếng hú dài, sau lưng có tiếng người dưới đất bò dậy. Hai người ngoảnh đầu lại nhìn, thấy cả bề mặt con dốc sau lưng đang nhúc nhích, cũng không biết có bao nhiêu người từ đầu tới giờ vẫn luôn ấn nấp dưới lòng đất nữa. Hai người không ngờ được lại có biến cố này, An Long Nhi còn đang cân nhắc thiệt hơn, Cố Tư Văn đã thình lình đứng bật dậy nói: “Giết để xông ra cũng là giết, giết để đánh vào cũng là giết, tên nhãi nhép kia, đợi ông mày đánh giết xông vào đấy trừ hại cho dân!” Dứt lời, cậu ta gàm lên một tiếng, vung trường thương nhảy xuống dốc núi, lao về phía An Thanh Nguyên.

Đã đến nước này, An Long Nhi cũng không suy tính được gì nữa, đành phải theo Cố Tư Văn lao tới chỗ An Thanh Nguyên.

An Thanh Nguyên đứng bên cạnh bình đài thu dọn đồ uống trà, những binh sĩ khác và Kim Lập Đức đang ở đằng xa xếp thành hàng, trước biến cố bất ngờ không kịp chạy tới bên cạnh bảo vệ y. An Thanh Nguyên vừa ngẩng đầu lên trông thấy An Long Nhi và Cố Tư Văn, trong mắt thoáng lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng Quốc sư đã dạn dày chiến trận tuyệt đối không bị đòn đột kích của hai người làm cho rối loạn. Y xoay người lùi lại hai bước, kiếm đã rút ra cầm trên tay, vừa hỏi một câu “Các ngươi đến làm gì?” thì đã tiếp chiêu với trường thương của Cố Tư Văn. Thái Ất kiếm pháp của An Thanh Nguyên là võ công độc bộ thiên hạ của phủ Thiên Sư, lưỡi kiếm ba thước dùng nhu chế cương, có thể nói là khi công thì không gì không phá nổi, khi thủ thì kiên cố vô song, sau khi gạt mũi thương của Cố Tư Văn ra, trường kiếm tựa như con rắn bạc dưới ánh mặt trời, lấp lóe linh quang, dính luôn vào cán thương, thừa thế Cố Tư Văn rút thương về mà cắt tới bàn tay cầm thương phía trước của câu ta.

Cố Tư Văn buông tay trước tránh lưỡi kiếm, tay phía sau kéo nghiêng cán thương làm trường kiếm chệch đi, rút thanh đao ở thắt lưng ra chém vào chỗ sơ hở của An Thanh Nguyên. An Long Nhi cũng cùng lúc phóng tới, nhất loạt tấn công An Thanh Nguyên, chỉ mong hạ sát y nhanh nhất có thể, như vậy mới còn thời gian mà đối phó với không biết bao nhiêu binh mã từ phía sau ập tới kia. Nhưng An Thanh Nguyên lại không biến chiêu hay đánh trả, mà phi thân lùi lại, nhảy ra khỏi vòng chiến, co người lách vào bên dưới bình đài trảm long. Cố Tư Văn thấy đối phương vẫn chưa bại đã tìm chỗ ẩn nấp, biết rằng nhất định có gì gian trá, cũng không kịp nói với An Long Nhi, vội vứt bỏ trường thương rồi lăn theo xuống bên dưới bình đài. Sàn bình đài trảm long này cách mặt đất ba thước, người có thể lom khom bước đi ở phía dưới gầm, Cố Tư Văn vừa chui vào đã trông thấy An Thanh Nguyên ngồi xổm bên trong, liền cầm đao toan xông về phía y, song chưa kịp nhấc chân lên đã nghe bên ngoài có tiếng súng nổ loạn xạ. Cố Tư Văn lập tức dừng lại nằm rạp xuống đất, trong lòng thầm nhủ: “Tên khốn kiếp này đúng là cáo già trong các loại cáo già, thế mà cũng bị hán ta tính được.”

Lúc súng nổ, An Long Nhi liếc mắt thấy Kim Lập Đức và mấy chục tên binh sĩ không có vũ khí bỏ chạy tán loạn, cũng vội vàng lăn xuống bên dưới bình đài. Từ bên trong nhìn lên trên, có thể thấy phía trên bình đài được trải bằng nhiều tầng ván gỗ kẹp với thảm dày, súng Tây không thể bán xuyên qua được, xem ra An Thanh Nguyên đã chuẩn bị sẵn nơi này để đề phòng súng Tây. Cậu còn trông thấy An Thanh Nguyên tay phải cầm kiếm, tay trái cầm một khẩu súng ngắn đang chĩa vào Cố Tư Văn. Cố Tư Văn kêu lên: “Ta trúng một viên đạn cũng không chết được đâu, Long thiếu gia mau giết hán đi!” Dứt lời, cậu ta lại vung đao xông về phía An Thanh Nguyên.

An Thanh Nguyên gầm lên quát: “Dừng lại, người bọn chúng là nhằm vào ta, các ngươi đừng có qua đây!”

Loạt súng thứ hai vang lên, bắn vào bề mặt bình đài và mặt đất ở xung quanh, ba người lại đồng thời nhích thêm một chút vào giữa, nhưng vẫn cầm đao cầm súng gầm ghè nhau, ánh mắt không rời khỏi đối phương. An Long Nhi biết tại sao An Thanh Nguyên lại chĩa súng vào Cố Tư Văn, vì ở đây cậu hoàn toàn có thể tránh đạn rồi tấn công y, nhưng Cố Tư Văn thì không nhanh bằng đạn ra khỏi nòng, chỉ cần chĩa súng vào Cố Tư Văn, An Long Nhi nhất định không dám làm bừa. Thêm nữa, những lời An Thanh Nguyên vừa nói cũng không giống như đang đùa cợt, đám người mai phục nổ súng bên ngoài kia không thể nào là người của y được, bằng không y chỉ cần lăn ra phía ngoài bình đài, để các tay súng đồng loạt khai hỏa về phía bọn cậu thì đã hoàn thành nhiệm vụ rồi, cần gì phải chen chúc vào đây cùng chịu khổ.

Suy nghĩ này nhanh chóng được chứng thực, khi họ chen vào giữa bình đài tránh được loạt đạn thứ hai, từ bên dưới liếc nhìn ra ngoài, đã thấy mười tay súng quỳ một chân phía trước bình đài, xếp thành hàng nhắm vào bên trong mà nổ súng. Không biết ai hét lớn một tiếng “chạy mau”, ba người cũng không hơi đâu uy hiếp nhau nữa, lập tức từ các hướng khác nhau lăn ra khỏi bình đài. Tốc độ của An Long Nhi nhanh nhất, vừa lăn khỏi gầm bình đài đã bổ tới mười tên vừa nhả đạn, một làn gió đen lướt qua mười cây súng, một hàng các tay súng làn lượt gục xuống, tên nào tên nấy đều buông súng, ôm hai tay bị đao chém kêu gào thảm thiết, chạy lên trên dốc núi.

Nhưng cả bọn đều đoán được loạt đạn tiếp theo sẽ lập tức bán tới, vì vậy lại cùng lúc nấp trở lại bên dưới bình đài, khấu súng của An Thanh Nguyên vẫn chĩa vào Cố Tư Văn, Cố Tư Văn tức giận chửi đổng một tiếng, mặc kệ An Thanh Nguyên dọa nạt, vẫn rùn người giương đao đâm về phía y.

An Thanh Nguyên đột nhiên hét lớn: “Mau dừng tay, dựng tấm ván dưới đất lên!”

An Long Nhi và Cố Tư Văn đang đâm về phía An Thanh Nguyên, cùng lúc trông thấy sau lưng y có một hàng các tay súng đang quỳ một chân, cũng trông thấy An Thanh Nguyên kéo ra một vòng sắt dưới đất, dựng lên một tấm ván hai lớp che chắn toàn thân; hai người đều không ngu ngốc, hiểu được sau lưng mình nhất định cũng có một hàng tay súng khác, vì vậy lập tức ném đao xuống đất, thuận tay mò xem có vòng sắt nào hay không, sau khi làn lượt sờ thấy vòng sắt liền kéo dựng tấm ván lên, ngay sau đó, họ nghe thấy phía ngoài bình đài vang lên một loạt tiếng súng, ván gỗ trên tay liên tục bị đập mạnh vào, chẩn động đến nỗi toàn thân ba người đều run lên bần bật.

ở giữa bình đài có một ống tre vốn được chuẩn bị để sau khi giết đám trẻ con thì dẫn máu chảy xuống đất, hiện giờ ba người đều rút về bên cạnh ống tre này, lưng dựa lưng đề phòng đòn tấn công từ bên ngoài, đao thương vứt dưới đất cũng không ai nhặt lên. Sau mấy chục tiếng súng liên tiếp, phía ngoài bình đài vang lên giọng Mục Thác: “Không cần bắn nữa, mang thuốc nổ đến đây!” Ba người vừa nghe thấy câu này, lập tức trợn tròn mắt lên nhìn nhau, An Long Nhi và Cố Tư Văn chẳng để ý đến An Thanh Nguyên nữa, đang định giương ván gỗ lên xông ra ngoài thì An Thanh Nguyên lại quát lớn: “Đừng xông ra, xông ra là đụng súng Tây đó! Xem ta đây!”

An Thanh Nguyên một tay đỡ tấm ván chắn, một tay nắm vào ống tre ở giữa bình đài kéo xuống dưới một cái, một mũi tên lửa rít lên, từ bên trong ống tre bắn vọt lên giữa không trung rồi nổ tung, An Long Nhi nghe thấy một loạt súng còn dữ dội hơn từ khắp bốn phương tám hướng, phía ngoài bình đài, tiếng kêu thảm thiết thấu tận trời xanh. Tựa hồ một lúc lâu sau, tiếng súng mới ngừng lại, bên ngoài bình đài cũng không còn tiếng kêu la hay nói chuyện gì nữa, chỉ có một hai tiếng rên rỉ yếu ớt.

Nguy cơ bên ngoài bình đài đã được giải quyết, An Thanh Nguyên là người trước tiên lăn ra ngoài, liên tiếp nhảy lên hụp xuống vài cái đã lùi ra xa năm sáu trượng, vừa chạm đất liền lập tức xuống tấn, hai tay nâng súng, chỉ vào Cố Tư Văn cũng lăn ra bên ngoài cùng lúc với y từ một hướng khác. Y không mong có thể bán chết Cố Tư Văn hoặc An Long Nhi mà chỉ muốn trấn áp đòn tấn công của An Long Nhi, kéo dài thời gian đến lúc đội súng Tây mà mình sắp xếp nạp lại đạn, rồi dùng hỏa lực mạnh nhất tiêu diệt cậu. Trên đời này chỉ có hai người sở hữu năng lực trảm long, trong suy nghĩ của An Thanh Nguyên, người biết trảm long còn lại nhất định phải chết.

Khinh công của An Long Nhi có giỏi đến mấy cũng không dám so tốc độ với ngón tay lẩy cò súng của An Thanh Nguyên, cậu vội bỏ đường tấn công trực tiếp, lướt ra chắn trước mặt Cố Tư Văn, rồi tung mình vọt qua bình đài trảm long, dồn hết tốc lực bổ về phía An Thanh Nguyên.

Ba người xếp thành một đường thẳng, từ góc độ của An Thanh Nguyên chỉ có thể nhìn thấy một mình An Long Nhi, thân thể Cố Tư Văn đã được An Long Nhi che khuất hoàn toàn, nếu đao của cậu đủ nhanh, có khi tới lúc chết An Thanh Nguyên cũng không thể nhìn thấy Cố Tư Văn được.

Trong khoảnh khắc ngán ngủi đó, Cố Tư Văn đã đoán được ý đồ của An Long Nhi, vội thất thanh kêu lên: “Đừng!” Đồng thời cùng với An Long Nhi xông thẳng lên trước. Tiếng súng nổ vang, đạn chì vọt ra khỏi nòng súng của An Thanh Nguyên, An Long Nhi lại lao nhanh hơn nữa, đao giơ trước mặt chém thẳng ra phía trước…

Cậu trông thấy tất cả động tác ngón tay của An Thanh Nguyên, trông thấy vẻ lạnh lùng trong ánh mắt y, hướng chỉ của nòng súng và đường đạn cũng nằm trong dự đoán, nếu cậu lách người né tránh, viên đạn này át sẽ bắn trúng người huynh đệ phía sau; nhưng nếu viên đạn này không thể lập tức khiến cậu mất đi tri giác mà ngã xuống, vậy thì hôm nay chính là ngày chết của An Thanh Nguyên y.

An Thanh Nguyên thấy hình ảnh An Long Nhi dường như đột nhiên phóng đại lên trước mặt mình, viên đạn lọt vào ánh đao do cậu nghiến răng chém ra rồi tách thành hai đốm lửa, bắn chệch sang hai bên. An Thanh Nguyên cả kinh thất sắc, trong lòng chợt dâng lên một ý nghĩ khủng khiếp: Đối phương đã chém bay cả đạn! Đây là màn cuối cùng rồi hay sao?

Khẩu súng giương lên vẫn còn chưa rụt về, một luồng gió lạnh đã phạt chéo qua đầu An Thanh Nguyên, thân thể y không có chỗ nào kịp nhúc nhích, chỉ biết trợn tròn mắt lên nhìn gã thiếu niên tóc vàng có vết sẹo trên mặt vung đao chém xả vào mình… “Pằng!” Có tiếng súng nổ ở phía xa, một viên đạn xuyên qua vai trái của An Long Nhi, tay trái cậu lập tức mất đi sức mạnh, không khống chế được rũ xuống, cùng lúc đó, một cái bóng từ bên cạnh lao tới cực nhanh đấy An Thanh Nguyên ngã ra đất; một đao của An Long Nhi chém vào khoảng không, cậu đang định xông lên truy sát, thì bị Cố Tư Văn từ phía sau kéo giật áo choàng rơi xuống đất, cậu ta hét lên: “Xung quanh toàn là súng thôi, chạy mau!”

An Long Nhi bấy giờ mới ngẩng đầu lên nhìn, thấy An Thanh Nguyên đang được một tên cầm đao yểm hộ nhanh chóng rời khỏi khu vực gàn bình đài trảm long, thân hình cao gầy của gã đao thủ khiến An Long Nhi nhớ ra ngay, y chính là Vương linh quan sở trường dùng Kỳ môn Độn giáp bày trận của Khâm thiên giám, Sơn Đông khoái đao Lục Hữu. An Long Nhi đã được nếm mùi kỳ môn ảo trận mà y bày bố, trận thế súng Tây vừa đông đảo vừa bí mật ngày hôm nay do y sắp xếp cũng không có gì lạ cả. Nhìn theo hướng viên đạn chì bán tới, chỉ thấy một người ngồi dưới đất vừa thu khẩu súng còn đang bốc khói về, An Long Nhi phát hiện ra người này rất quen, nhưng nhất thời cũng không nhớ đã gặp ở đâu; cậu lại đưa mắt nhìn quanh, thấy trên bốn dốc núi quây như bốn bức tường xung quanh bình đài trảm long đều có quân Thanh cầm súng xếp thành đội thành hàng, binh sĩ từ ba hướng đang nhồi hỏa dược lắp đạn, có thể thấy vừa rồi khi bắn bừa một trận, bọn chúng đã xả hết sạch đạn; nhóm binh sĩ ở hướng còn lại do một viên quan chỉ huy, cầm súng gán lưỡi lê từ trên dốc núi thừa thế xông thẳng tới, bốn phía xung quanh bình đài toàn xác người và súng ống, kể cả Mục Thác trên người mặc áo chẽn vàng cũng nằm gục trong đó.

Đội quân này không giống như đội thân binh Thiên tổng Bố Thái dẫn đi tìm con gái, bọn chúng đang thực hiện một cuộc vây giết có tổ chức và mục đích rõ ràng, An Long Nhi tay trái đã trúng đạn bị thương, có ham chiến mấy cũng không thể giành thêm lợi thế gì nữa, hai người bèn nhân lúc đội súng Tây còn chưa kịp lên đạn, nhanh chóng đột phá vòng vây chạy xuống núi, phi ngựa như bay về Quảng Châu, lần này cũng không tránh khỏi lại phải chuyển nhà ẩn trốn ngay trong đêm.

An Thanh Nguyên lách vào trong rừng tre, nhìn bóng dáng An Long Nhi và Cố Tư Văn biến mất bên dưới dốc núi, y cầm lấy thanh đao trên tay Lục Hữu, dùng đốc kiếm gõ vào phát ra tiếng đinh đinh đang đang chói tai, các đội binh sĩ vừa nghe tín hiệu đều thu binh, tập trung về xung quanh bình đài.

An Thanh Nguyên bước tới ngồi xuống bên cạnh Mục Thác, giơ tay lật người đối phương cho nằm ngửa mặt lên trời, thấy trước ngực họ Mục đã trúng đạn, máu vẫn không ngừng chảy ra. Mục Thác đờ đẫn nhìn An Thanh Nguyên, bàn tay đột nhiên giơ lên tóm lấy vạt áo y, hỏi: “Tại sao… ngươi lại biết được…”

An Thanh Nguyên trả lời y: “Ngươi muốn bán đứng người khác thì cũng có người muốn bán đứng ngươi thôi, ta sớm đã biết ngươi không muốn ta phục chức, lại luôn muốn giết ta, lần này ta đến núi Nam Côn chính là để dẫn dụ ngươi ra đó.”

Mục Thác nhìn ra phía sau lưng An Thanh Nguyên, Chương Bỉnh Hàm chầm chậm bước ra, y biết người bán đứng mình chính là tên họ Chương này, đau đớn nhám mát lại, thở hắt ra một hơi, đoạn nói: “Ngươi… ngươi không trảm long nữa sao?”

“Long mạch làm loạn thiên hạ đương nhiên phải trảm, chỉ có điều không phải hôm nay, cũng không phải ở chỗ này, Đại Thanh của ngươi ta sẽ trông chừng tử tế, ngươi cứ yên tâm mà đi đi.”

Mục Thác thực sự nghe không hiểu ý tứ của An Thanh Nguyên, y lại hỏi: “Ngươi… rốt cuộc… muốn làm gì?”

“Với trí tuệ của ngươi làm sao mà hiểu được chứ?” An Thanh Nguyên thở dài một tiếng, đứng dậy vẫy vẫy tay với Lục Hữu, rồi lại chỉ vào đầu Mục Thác. Lục Hữu cầm lấy một khẩu súng của tên binh sĩ bên cạnh, nhám vào đầu Mục Thác bóp cò.

Trong lúc mấy tên đội trưởng cắt đặt binh sĩ đi thu dọn chiến trường, An Thanh Nguyên bước tới bên cạnh gã đàn ông ngồi dưới đất kia, ngồi xuống vỗ vỗ vai y nói: “Khâu đại nhân, cám ơn vừa nãy ngươi nổ súng cứu ta.”

Người này tên Khâu cẩn Ngôn, là cao thủ phong thủy phái Thiên tinh được điều từ Khâm thiên giám ra phối hợp phá hoại các huyệt phong thủy ở tỉnh Quảng Đông. Bốn năm trước trong trận chiến ở núi Kê Đề, y bị Lục Kiều Kiều bán gãy chân phải, còn bị tống vào đại lao nha môn, không được điều trị kịp thời nên đã bất hạnh tàn phế, sau đó triều đình thấy y không còn tác dụng gì nữa, bèn lấy lý do bệnh tật ban cho y được từ chức về quê dưỡng lão. Sau khi về quê, họ Khâu đã dốc hết gia sản đi nhiều nơi tìm thầy chạy thuốc, song vẫn không trị dứt được. Khoảng thời gian An Thanh Nguyên bị bãi quan, y đi tìm Khâu Cẩn Ngôn làm trợ thủ phối hợp nghiên cứu phương pháp trảm long, mới phát hiện ra trong mấy năm hành động bất tiện này, Khâu cẩn Ngôn không hề buông thả bản thân, còn luyện được khả năng bắn súng rất khá, điều này khiến An Thanh Nguyên vui mừng khôn xiết. Khi vừa được phục chức, An Thanh Nguyên lập tức lấy lý do nhân tài hiếm có, ra sức đảm bảo cho y trở về phủ Quốc sư, hôm nay được Khâu cẩn Ngôn cứu khỏi đao của An Long Nhi, An Thanh Nguyên lại càng thêm cảm kích không thôi. Khâu Cấn Ngôn khẽ cười một tiếng, nói: “Quốc sư nói gì vậy, tất cả đều đã được số mệnh sáp sẵn, nếu mệnh của Quốc sư đã như thế thì dù là thần tiên cũng khó cứu.”

An Thanh Nguyên không tranh cãi những vấn đề này với Khâu cẩn Ngôn, cười cười vỗ vai y nói: “Tính ra thì Khâu đại nhân nhìn được thấu triệt nhất nhỉ, ha ha…”

Kim Lập Đức đi tới bên cạnh An Thanh Nguyên hỏi: “Chuyến này giết luôn cả Mục vương gia rồi, làm sao ăn nói với bề trên đây?”

An Thanh Nguyên gọi cả Lục Hữu ở dưới chân dốc lên, nói: “Tứ a ca làm tiểu hoàng đế, phe của Mục tướng ắt sẽ lụn bại, Mục Thác là người bên Mục tướng, trước đây suốt ngày khoa tay múa chân làm tai mát cho triều đình, chúng ta làm việc gì cũng không tiện, giờ hắn chết rồi vấn đề cũng không lớn, vừa khéo coi như thanh lý môn hộ cho phủ Quốc sư. Đương nhiên, chúng ta cũng phải trả thù cho tiểu vương gia, trở về truyền lệnh toàn quốc truy nã An Long Nhi, tội danh là ám sát Mục Thác tiểu vương gia, lần này không hư trương thanh thế gì nữa, thông cáo các nơi, gặp người lập tức xử quyết tại trận.”

Mọi người đều biết đây là trút vạ lên đầu An Long Nhi, An Thanh Nguyên đã hạ quyết tâm giết chết An Long Nhi từ lâu, không cần phải nói thêm lời nào nữa.

An Thanh Nguyên lại nói: “Triều đình sẽ không để phủ Quốc sư không có quan viên người Mãn, nhưng hiện giờ hoàng thượng hãy còn nhỏ, không thể khống chế hết mọi chuyện trong triều, nếu xử lý cho tốt, triều đình sẽ không để ý mấy chuyện nhỏ nhặt này đâu. Ta và lão Đức, Lục Hữu lập tức về kinh lo liệu, móc nối quan hệ với đám người phe Tứ a ca, trước tiên giữ vững địa vị của phủ Quốc sư, sau đó sẽ liên hệ với các quan viên người Hán trong sáu bộ, thâm nhập vào nội các mới, hoàng thượng không thể đổi, nhưng mà… hiểu chưa hả?”

Kim Lập Đức nói: “Hiểu rồi hiểu rồi, thay triều đổi đại cái gì chứ, chỉ cần thiên hạ thái bình, ai nấy đều có cơm ăn, người Hán quản hay người Mãn quản cũng vậy cả thôi, nếu đã giống nhau thì cứ để người Hán quản là được rồi, chúng ta quen tay mà.”

Cả bọn nghe vậy đều bật cười thoải mái, An Thanh Nguyên vỗ vai Kim Lập Đức khen: “Ha ha, hiếm khi nào thấy lão Đức thẳng thắn như vậy đấy. Được rồi, Chương Phó sứ và Khâu đại nhân ở lại trấn giữ trong phủ Tổng đốc Lưỡng Quảng, kẻ nào có động thì trực tiếp ra tay luôn…” An Thanh Nguyên nói tới đây, liền giơ ngón tay khẽ cứa lên cổ mình một cái, hai người kia đều hiểu ý gật gật đầu.

Y lại dặn Khâu cẩn Ngôn: “Khâu đại nhân cũng đừng quá áp lực, trong quá khứ ngươi đã thanh lý nhiều mộ phần phản nghịch ở Quảng Đông, sau này Chương đại nhân cũng liên tiếp mấy năm thanh tẩy bọn thuật sĩ giang hồ, Quảng Đông hẳn là vấn đề không lớn, sự việc không nhiều, các ngươi giữ mình là quan trọng nhất, chỉ cần người không xảy ra chuyện gì, sau này các ngươi còn có việc lớn phải làm.”

Cả bọn đều biết An Thanh Nguyên để bọn họ ở lại, là vì Chương Bỉnh Hàm đã đứt cánh tay phải, còn Khâu cẩn Ngôn đã gãy chân, chưa nói đến chuyện ở kinh thành làm việc không tiện, ngay cả việc vào cung gặp mặt thánh thượng cũng thành vẩn đề. Vốn dĩ, trong luật lệ Đại Thanh sớm đã có quy định, những người tứ chi tàn khuyết, thân hình không lành lặn đều không được làm quan, càng khỏi phải nói đến chuyện vào cung nữa. Vì vậy An Thanh Nguyên không cho bọn họ lên kinh, hoàn toàn là để giữ lại quan chức cho họ, hai người tự nhiên hiểu được, trong lòng không khỏi ngấm ngầm cảm kích.

Lúc này, An Thanh Nguyên rút khấu súng ngắn giát ở thắt lưng ra, lại móc cả thuốc súng và đạn lắp vào, vừa làm vừa hỏi Chương Bỉnh Hàm: “Lúc trước sao không nghe ngươi nhắc An Long Nhi cũng tới?”

Trán Chương Bỉnh Hàm lập tức rịn mồ hôi lạnh, y biết An Thanh Nguyên đang hỏi tội, vừa nãy An Long Nhi xém chút nữa đã chém cái đầu họ An toác ra làm hai mảnh, y vẫn còn nhớ rõ như in. Chương Bỉnh Hàm run run giọng đáp: “Ty chức không báo cho nó đến, có thể là Mục Thác đã âm thầm báo tin cho bọn chúng tới hỗ trợ.”

“Vậy sao?” An Thanh Nguyên nhồi thuốc súng và đạn dược xong xuôi, dùng giấy vo viên nhồi vào nòng súng, nén chặt viên đạn xuống, một loạt các động tác liên hoàn này làm Chương Bỉnh Hàm nhìn mà tim đập thình thịch. An Thanh Nguyên giắt súng lại vào bên hông, nói tiếp: “Người làm việc lớn không thể có tư tâm, Chương đại nhân hẳn phải hiểu rõ điều này.”

Lời này của An Thanh Nguyên rõ ràng ám chỉ Chương Bỉnh Hàm ghi hận An Long Nhi một đao chặt đứt cánh tay, vì vậy muốn lợi dụng cơ hội này diệt trừ đối phương, nhưng suýt chút nữa đã phá hoại toàn bộ trận đánh lần này, khiến cho An Thanh Nguyên gặp phải hiểm nguy không cần thiết. Chương Bỉnh Hàm hiểu ý, lập tức quỳ một chân xuống nói: “Hạ quan không dám, xin Quốc sư minh xét.”

An Thanh Nguyên vội vàng đưa cả hai tay ra đỡ Chương Bỉnh Hàm dậy: “Đứng lên, đứng lên, ta chỉ khích lệ mọi người một chút thôi, phía Quảng Châu vẫn phải nhờ Chương đại nhân hao tâm tổn trí nữa kia. Ngoài ra, tốt nhất là tìm một biện pháp an toàn xử lý An Long Nhi đi, bằng không nếu chúng ta quay lại trảm long, nó sẽ lại xông ra phá đám đấy.”

Sau khi chạy về Quảng Châu, An Long Nhi lập tức chữa trị vết thương, cũng may Thiên Sư đạo tinh thông y thuật, chỉ cần có người phối họp băng bó, An Long Nhi hoàn toàn có thể tự kê đơn thuốc chữa thương cho mình, cả bọn đều biết không thể ở lại Quảng Châu thêm được nữa, Cố Tư Văn đề nghị tạm thời rời khỏi Quảng Đông tránh nơi đầu sóng ngọn gió, nhưng An Long Nhi lại muốn ở lại đất chín rồng này để phòng An Thanh Nguyên tiếp tục trảm long. Vì vậy, ba người thu dọn hành lý xong liền rời thành đi vào núi, ẩn cư ở Anh Thành nằm giữa dãy núi Hoạt Thạch trên long mạch quan trọng nhất Quảng Đông bên bờ Bắc Giang.

Từ Anh Thành đi xuống phía Nam là Thanh Thành và Quảng Châu, lên phía Bác qua Thiều Châu có thể vào Hồ Nam và Giang Tây, là yết hầu ra vào Nam Bắc của tỉnh Quảng Đông; Anh Thành cũng là một thành nhỏ có phong cảnh rất đặc biệt, dòng Bắc Giang chầm chậm chảy qua phía trước tòa thành, trong thành và khu vực núi non xung quanh toàn động đá vôi và những tảng đá hình thù kỳ quái, nước suối trong hang động không ngừng tuôn trào, đá núi thì trăm hình ngàn dạng, bấy giờ có người viết thơ tán tụng rằng: “Bước vào Tây Nam cảnh đẹp dàn, non nước Anh Châu tháng Thiều Châu.”

Cố Tư Văn vừa tới đây đã hết sức hưng phấn, suốt ngày cứ lải nhải rằng bị triều đình truy nã mới có lý do đi du lịch, bằng không giờ này vẫn phải ở bên bờ hồ Lộc ngoài thành Quảng Châu mà luyện cưỡi ngựa bắn cung rồi.

Lệnh truy nã An Long Nhi đã dán đến Anh Thành, tuy cậu mang tội giết vương gia Bát Kỳ danh chấn giang hồ, lập tức trở thành thần tượng mới nổi của Hồng môn, nhưng cái danh thần tượng này lại không vẻ vang bằng tờ lệnh truy nã Lục Kiều Kiều năm xưa. Vả lại, danh hiệu Phong Thủy Tiểu Thần Tiên An Long tiên sinh vừa mới gầy dựng được chút thành tựu không thể sử dụng nữa, vì vậy Cố Tư Văn phải xuất mã, dựng lại lá cờ Tiểu Thần Tiên dương danh lập vạn ở Anh Thành. Tiểu Thần Tiên hôm nay không còn là tên xem tướng giang hồ ăn nói lung tung như trước nữa, được An Long Nhi hướng dẫn, Cố Tư Văn đã bắt đầu học sử dụng phép xem tướng chính tông và có hiệu quả của phái Học Viện, cộng với miệng mồm khéo léo như bôi mỡ của phái Giang Tướng, thật là giả mà giả cũng là thật, nói theo lối của phái Giang Tướng thì chính là lửa cháy ngập trời, thực sự làm được đến trình độ lợi người lợi mình.

Sái Nguyệt trước giờ vẫn luôn thích cuộc sống bình lặng yên tĩnh, cô trông nom A Tầm và Đại Hoa Bối, cả ngày bận rộn việc nhà, mặt mày lúc nào cũng tươi tắn vui vẻ, được ở bên người trong lòng mình, dẫu có làm việc gì cũng đều sung sướng cả.

An Long Nhi vốn đã không phải người nói nhiều, đến Anh Thành cậu lại càng thêm u uất, bình thường ngoài lúc hỗ trợ cho Cố Tư Văn, cậu thường dẫn theo A Tầm lên núi. Mọi người cũng đã quen với thói xấu ban đêm không ngủ của cậu, chỉ cần không lãng phí đèn dầu, có một người canh đêm cho mà ngủ cũng không phải là chuyện xấu; nhưng thỉnh thoảng lại cõng A Tàm chạy lên núi mất tăm mất tích thì không được, tuy lúc về An Long Nhi có nói là đi tầm long điểm huyệt, chỉ cần tìm được huyệt tốt là sẽ có một khoản thu nhập không tệ, nhưng cả bọn vẫn lo lắng chuyện cậu dẫn theo một đứa bé, ngộ nhỡ trên núi gặp phải chuyện gì ngoài ý muốn thì không biết đâu mà lần.

Sái Nguyệt sớm đã để ý xem bình thường An Long Nhi hay đi những nơi nào một mình, có lúc cậu đi tìm long mạch thật, nhưng cũng có khi chỉ ra sau núi ngồi thần người ra. Hôm ấy, An Long Nhi lại dẫn theo A Tầm ra sau núi, Sái Nguyệt thấy Cố Tư Văn ra ngoài tìm huynh đệ Hồng môn trong vùng uống rượu cũng không biết bao giờ mới về, bèn khóa cửa lai dẫn theo Đai Hoa Bối đi theo lên núi.

Giờ đang là mùa xuân ẩm áp, nhà nông bận bịu mùa màng, ánh mặt trời vừa chiếu xuống, hoa dại liền nở rộ khắp cả núi rừng, Sái Nguyệt vừa đi lên núi vừa hái những đóa hoa mình thích, lên đến lưng chừng núi liền trông thấy An Long Nhi đang cầm quyển sách, lặng lẽ ngồi đó, có điều mắt cậu không xem sách, mà chỉ một mực nhìn A Tầm trước mặt. Cô bé A Tầm tóc vàng mắt xám hệt như một con búp bê đang ngồi trên cái ổ bện bằng cỏ nghịch những viên đá nhỏ đẹp mắt. Đống đá màu sắc sặc sỡ ấy là bảo bối của A Tầm, bình thường đựng trong cái hộp sát tây nhỏ, đi đâu nó cũng mang theo. Những viên đá này, có một số là do cả bọn thường ngày thu nhặt về, còn phần nhiều là những lúc đi tàm long điểm huyệt, An Long Nhi phát hiện chúng vừa đẹp vừa kỳ lạ nên nhặt mang về. Cái ổ bằng cỏ ấy được bện rất dày dặn ngay ngắn, A Tầm ngồi bên trên giống như ngồi trên chiếc giường lớn vừa mềm vừa dày vậy.

An Long Nhi ngắm A Tầm ngồi chơi trong ổ, ngơ ngấn mỉm cười, hoàn toàn không nhận ra Sái Nguyệt đã đi tới bên cạnh. Sái Nguyệt không bao giờ tưởng tượng được, trong mắt An Long Nhi lại là cảnh tượng ngày mùa thu năm đó, dưới ánh tà dương bên bờ sông, Lục Kiều Kiều nằm cuộn mình trong ổ cỏ lười nhác hút thuốc phiện.

Sái Nguyệt đi tới bên cạnh cậu ngồi xuống, giơ một đóa hoa nhỏ ra trước mặt cậu, An Long Nhi thoáng ngây người, tức khắc quay đầu lại nhìn Sái Nguyệt, ngượng ngùng mỉm cười đón lấy bông hoa. A Tầm thấy Sái Nguyệt đến, vui vẻ cười lên khanh khách gọi: “Mẹ Nguyệt!” rồi giơ hai cánh tay ra muốn ôm lấy mẹ Nguyệt của nó, có điều chỉ lấy được một nắm hoa tươi, rồi bị Đại Hoa Bối liếm láp đày mặt.

Sái Nguyệt cười cười ngồi bên cạnh An Long Nhi hỏi: “Đang nghĩ gì thế?”

“Không có gì…”

Sái Nguyệt u uất nói: “Sao lại không có gì được chứ? Ngươi cũng đâu phải ngẫu nhiên mới thế này, có bao giờ ngươi nói cho chúng ta biết ba năm ấy đã trải qua những gì đâu.”

“Các ngươi cũng không hỏi…”

“Ta hỏi ngươi, ngươi có nói cho ta biết không?” Sái Nguyệt được đà lấn tới, ngoảnh đầu ngắm nhìn gương mặt nghiêng nghiêng đường nét rõ ràng của An Long Nhi. Thấy An Long Nhi không nói gì, cô tiếp lời: “Mẹ của A Tàm là người như thế nào?”

Sau một thoáng trầm mặc, Sái Nguyệt lại nói: “Vừa nhìn đã biết con bé là con của Jack, nhưng Jack và chị Kiều lại là vợ chồng…”

“Mẹ A Tầm là người tốt.” An Long Nhi ngắt lời Sái Nguyệt, nhưng Sái Nguyệt lại nói: “Ta không bảo chị ấy không phải là người tốt mà… các người quen nhau lâu lắm rồi phải không?”

An Long Nhi lắc lắc đầu, Sái Nguyệt nói: “Chúng ta vốn dĩ định cùng chị Kiều đi Vân Nam, nhưng sau khi tìm thấy A Tầm, ngươi lại đột ngột chuyển hướng quay về Quảng Đông, chúng ta tin tưởng ngươi, dù ngươi không nói ra nguyên nhân, ta và Cố Tư Văn cũng cam tâm tình nguyện đi theo ngươi, nhưng ta không cảm thấy ngươi đang làm một việc vui vẻ.”

An Long Nhi ngoảnh đầu nhìn sang hướng khác, ngón tay chậm rãi vân vê bông hoa đang cầm.

Sái Nguyệt đột nhiên hỏi: “Ngươi thích chị Kiều à?” An Long Nhi khẽ cười một tiếng, rồi lập tức thu lại nụ cười.

“Ta nhìn ra được…” Sái Nguyệt nói: “Lúc vừa mới gặp chị Kiều, ta cảm giác được chị ấy cũng rất thích ngươi.”

Bông hoa trên tay An Long Nhi bỗng dừng lại: “Ngươi nói cái gì vậy?” Giọng rất không tự nhiên.

Sái Nguyệt nói: “Ta biết ngươi đang phải gánh vác trách nhiệm rất lớn, có một số chuyện số mệnh đã định sẵn là ngươi phải đi làm. Trước khi gặp lại chị Kiều, ngươi rất bình tĩnh dũng cảm, lúc đó… ta thực sự đã bị ngươi làm cho mê mẩn. Sau khi gặp lại chị Kiều, chị ấy bố trí để ngươi đi trộm bản đồ long mạch, ngươi liền dụ rắn ra khỏi hang trước, sau đó để ta và cách cách dò đường, đến tối lại chia quân làm hai, chiếm lấy cao điểm và phóng hỏa trộm bản đồ, tất cả đều sắp đặt rất tốt. Ngươi thường nói, nếu chị Kiều gặp phải chuyện này, chị ẩy sẽ giải quyết thế nào? Sau đó ngươi luôn nghĩ ra được những cách rất hay. Thế nhưng, từ sau khi cứu A Tầm, ta không nghe thấy ngươi nói như vậy nữa… rồi ngươi cũng trở nên kích động, cứ như kẻ mất hồn vậy…”

An Long Nhi thở dài một tiếng, lại ngoảnh mặt sang phía khác.

Sái Nguyệt tiếp tục nói: “ở núi Phù Dung nếu như ngươi bị An Thanh Nguyên tính ra được đường lui, sau đó bố trí liên hoàn phục kích nghe còn hợp lý, nhưng vụ ám sát An Thanh Nguyên ở núi Nam Côn thì hình như quá mù quáng rồi. Đây phải chăng là vì ngươi không suy nghĩ giống như Lục Kiều Kiều nữa?”

An Long Nhi đáp: “Cô Kiều là cô ấy, ta là ta, ngươi đừng chập hai chuyện vào làm một.’ “Chị Kiều là người thông minh nhất, cái hay tại sao lại không học? Cố ý không học là vì ngươi quá coi trọng chị ẩy…”

“Không phải!” An Long Nhi đột nhiên phản bác: “Cô ấy không phải…”

“Không phải cái gì?”

An Long Nhi nhất thời tắc tị, Sái Nguyệt lại nói: “Ngươi thấy chị ấy đã có cuộc sống riêng của mình, ngươi muốn buông xuống. Đúng vậy, ngươi nên buông xuống đi, nhưng mà ngươi lại không làm thế, ngươi chỉ đang trốn tránh thôi.”

Giọng nói của Sái Nguyệt nhỏ vừa đủ nghe, nhưng trong lòng An Long Nhi lại như thể bị giáng một đòn mạnh mẽ.

“Ta đang trốn tránh?” An Long Nhi lấm bẩm tự nói một mình: “Trốn tránh cái gì?”

Hai người nhất thời đều chìm vào im lặng, gió xuân ấm áp thổi qua vạt tóc mái trước trán Sái Nguyệt, cả hai khẽ nhắm mắt lại cảm nhận thế giới của riêng mình. A Tầm thấy hơi lạnh, liền lẳng lặng bò vào lòng An Long Nhi, tay ôm cái hộp sắt tây xanh xanh đỏ đỏ. An Long Nhi mở mắt nhìn Sái Nguyệt, thấy cô vẫn đang khép hờ đôi mắt, từ vầng trán đến sống mũi vẽ nên một đường cong đẹp đẽ, khóe miệng hơi cong lên lúc nào cũng khiến người ta có cảm giác cô đang mỉm cười.

Sái Nguyệt mở mắt ra, thấy An Long Nhi đang nhìn mình liền đỏ bừng mặt, đưa tay ra ôm lấy A Tầm nói: “A Tầm, A Tầm, con mau mau lớn lên đi.”

An Long Nhi chậm rãi nói: “Ngươi muốn nói… ta đang trốn tránh không muốn trưởng thành?”

Giọng Sái Nguyệt vẫn lí nhí vừa đủ để An Long Nhi nghe thấy: “Ngươi và chị Kiều đã cùng trải qua rất nhiều chuyện phải không? Trước đây vẫn luôn là chị ấy dẫn dắt ngươi, nhưng hồi đó ngươi còn nhỏ, vì vậy cần phải dựa dẫm vào chị ấy. Giờ ngươi đã lớn rồi mà vẫn đắm chìm trong quá khứ, để chị ấy nghĩ hộ cho ngươi, chỉ tay giao việc cho ngươi, kể cả khi chị ấy không ở bên cạnh, ngươi cũng vẫn đặt chị ấy ở trong tim, sống theo lối suy nghĩ của chị ấy.”

An Long Nhi nhìn Sái Nguyệt nói: “Thế là sai à? Chúng ta chẳng phải ai cũng có người mà trong lòng mình cảm thấy quan trọng nhất hay sao?”

Sái Nguyệt nhìn sâu vào mắt An Long Nhi, đôi mắt thấp thoáng lộ vẻ bi thương, cô nói: “Để người quan trọng nhất đối với mình ở trong lòng, hoàn toàn không phải biến mình thành cái bóng của người ấy, mà phải đi bảo vệ người ấy, đúng không? Khi ngươi tách rời chị ấy và trí tuệ của chị ấy, ngươi sẽ giành lại được tự do mà chị ấy đã cho ngươi, chứ không phải là trói buộc.”

An Long Nhi nhìn cô một hồi lâu, đột nhiên bật cười nói: “Ha ha, ở đâu ra mà lắm lý lẽ thế.”

Đại Hoa Bối đã chiếm mất cái ổ bằng cỏ của A Tầm, đang nằm ngửa ra phơi nắng, Sái Nguyệt ôm A Tầm vào lòng nói: “Ngươi không muốn phá hoại cuộc sống hiện tại của chị Kiều, vì vậy mới mang theo A Tầm bỏ đi? Hay là ngươi muốn Lục Kiều Kiều và Jack đến tìm A Tầm, cho chị ấy chút phiền phức để chị ấy chú ý đến ngươi?”

Sắc mặt An Long Nhi sầm xuống: “Ta không tin cô Kiều sẽ chăm sóc tốt cho A Tầm, cô ấy có thể bỏ mặc sự sống chết của Lý Tiểu Văn, thì cũng sẽ không quan tâm tới sự sống chết của A Tầm, đây là con của Jack chứ không phải con cô ấy, cô ấy…” An Long Nhi phát hiện mình đã nói những lời không nên nói, vội im bặt.

Sái Nguyệt ôm A Tầm trong lòng khẽ đung đưa, nghiêng đầu nhìn An Long Nhi khẽ nói: “Đúng là vậy sao?”

Trong đầu An Long Nhi lúc này đày mâu thuẫn, cái gì là thật, cái gì là giả, cái gì là đúng, cái gì là sai, rốt cuộc mình đang nghĩ gì vậy? Cậu đứng dậy hít một hơi sâu, đoạn nói: “Phù… ta hiểu ý ngươi rồi, ta vẫn cần thêm chút thời gian. Trở xuống đừng nói những chuyện này nữa nhé, ta sẽ tự nghĩ thông suốt.”

Sái Nguyệt cười ngọt ngào, gật đầu nói: “ừm, đừng quên ngươi không chỉ có một mình, chúng ta lúc nào cũng ở bên cạnh ngươi.”

Lúc này, chợt thấy Cố Tư Văn đang ở dưới núi hò hét tìm người, Sái Nguyệt đứng lên lớn tiếng đáp: “Này! Chúng ta ở đây!”

Cố Tư Văn trông thấy vị trí của hai người liền chạy như bay lên núi, thở hổn hển nói không ra hơi: “Xảy ra chuyện lớn rồi! Ta vừa mới nghe tin từ đám huynh đệ bên đường khấu Hồng môn, Quảng Tây xảy ra chuyện lớn rồi, bọn họ đều chuẩn bị lên đường qua đó đấy!”

An Long Nhi và Sái Nguyệt kiên nhẫn lắng nghe hết câu chuyện của Cố Tư Văn mới biết đúng là đã xảy ra chuyện lớn bằng trời.

Thì ra hơn một năm sau khi họ cứu A Tầm ra khỏi đại bản doanh Kim Điền, Thượng Đế hội truyền ra lời tiên tri mà Hoàng Thượng Đế hạ phàm tuyên giảng: tháng Ba thiên hạ sẽ có ôn dịch hoành hành, đến tháng Tám nhà cửa bỏ hoang, có ruộng mà không có người cày, người nào tin theo Thượng Đế sẽ thoát khỏi ôn dịch, được cứu khỏi miệng hùm hang sói, không tin Hoàng Thượng Đế sẽ bị rán cán hổ vồ. Nào ngờ tháng Ba quả nhiên có ôn dịch, cũng không hiểu có thần tích gì xảy ra mà trong đại bản doanh Thượng Đế hội lại không hề bị lây nhiễm, đến tháng Tám, cuộc chiến giữa dân bản địa và dân ngụ cư ở Quảng Tây đã chuyển sang một mức độ xưa nay chưa từng có, thù hận đã thăng cấp đến mức đốt làng diệt tộc và xây dựng thành lũy quân doanh để đối kháng nhau, trong dân gian không ai không tin tưởng vào lời tiên tri và năng lực của Thượng Đế hội nữa.

Dân chúng một là không có cơm ăn chẳng thể sống nổi, hai là dẫu người có đủ cơm ăn ba bữa cũng không muốn bị rắn cắn hổ vồ, vì vậy lũ lượt dọn nhà bán ruộng mang theo vàng bạc gia nhập Thượng Đế hội, hội này liền khuếch trương nhanh chóng. Sau đó, bọn họ liên tục bị quân đội triều đình Đại Thanh ở huyện thành, nha môn tẩn công, nhưng binh sĩ Thượng Đế hội dưới sự chỉ huy của mấy viên mãnh tướng và quân sư, không ngờ lần nào cũng thắng, đánh cho quân Thanh thua liếng xiểng, hơn nữa càng đánh nhân số lại càng nhiều, rất nhiều các đoàn dân quân của người ngụ cư và đường khẩu Hồng môn trước đây bị đánh bại, đánh tan đều lần lượt kéo đến gia nhập.

Mấy tháng trước, Hồng Tú Toàn đã công khai tuyên bố khởi binh phản Thanh ở đại bản doanh Kim Điền, tự gọi mình là Thái Bình chân chủ, quân đội do giáo chúng tập hợp mà thành gọi là quân Thái Bình. Cây cao đương nhiên sẽ gọi gió lớn, cờ hiệu vừa mới dựng lên, chiêu nạp được không ít lộ anh hùng, nhưng cũng khiến triều đình Đại Thanh phái danh tướng Hướng Vinh dẫn đại quân đến trấn áp, trải qua mấy lần giao chiến, hai bên đều có thắng có thua, sĩ khí của quân Thái Bình dâng cao ngất trời, vì họ phát hiện ra mình hoàn toàn có thể phân cao thấp với quân đội chính quy của triều đình, quả đúng như danh ngôn của A Đồ cách cách, không đánh với người khác thì không biết mình có thể đánh hay như vậy. Hồng Tú Toàn thừa thế tự xưng là Thiên vương, lập quốc hiệu là Thái Bình Thiên Quốc, lấy Quảng Tây làm căn cứ, chính diện khiêu chiến với triều đình Mãn Thanh.

Cố Tư Văn thở hồng hộc, hơi sau không nối được hơi trước: “Tiên sư cha nó chứ… cái long huyệt mà chị Kiều đặt ở núi Phù Dung, thực… thực sự nảy ra hoàng đế rồi, vì vậy… ngươi, cái Trảm long quyết kia của ngươi chắc là hàng thật đấy, ngươi chớ có mà dùng bừa… Chúng ta có đi Quảng Tây làm việc lớn, tạo phản giành thiên hạ sau đó xưng vương xưng bá không? Các lộ huynh đệ Hồng môn đều qua bên đó khởi nghĩa cả rồi, chúng ta cũng coi như người của Hồng môn mà, có làm hay không?”

An Long Nhi nhìn Sái Nguyệt, Sái Nguyệt không hề bị ảnh hưởng bởi sự kích động của Cố Tư Văn, cô chỉ bình tĩnh đáp lại An Long Nhi bằng một nụ cười tín nhiệm. An Long Nhi hiểu ý cô, Sái Nguyệt chỉ hy vọng cậu có thể suy nghĩ bình tĩnh và độc lập, hiện giờ chính là lúc để thử đi con đường riêng của chính mình.

Cậu nhìn xuống tòa thành nhỏ bình lặng dưới chân núi ngẫm nghĩ một hồi, đoạn quay sang bảo Cố Tư Văn: “Ta không sợ chết, nhưng ta không thích đánh trận. An Thanh Nguyên nói trảm long là để cho thiên hạ thái bình, nhưng chuyện khiến người vô tội bị hại ta cũng sẽ không làm. Lúc chiến tranh, cả hai bên đều nói là vì thiên hạ thái bình, nhưng một khi đánh nhau thì kẻ thiệt hại nhiều nhất chính là dân chúng, cha mẹ ta chỉ là dân chúng bình thường, nhưng lại chết dưới họng súng Tây, đối với bọn họ, có thứ chính nghĩa với thái bình nào hay không?”

Cố Tư Văn nghe An Long Nhi nói vậy, đại khái cũng hiểu được tâm tư của bạn, vừa lau mồ hôi trên trán, vừa hỏi: “Vậy ngươi có dự định gì, dẫu sao cũng không thể ngồi yên ở đây chứ?”

An Long Nhi ngẫm nghĩ giây lát rồi nói: “Ta thì không cho rằng ngồi ở đây có gì không ổn, càng là những lúc thế này, ta lại càng phải ở lại đây. Ta không thể bỏ mặc A Tầm, cũng sẽ không dẫn theo A Tầm ra nơi nguy hiểm như chiến trường, ngoài ra, An Thanh Nguyên biết Hồng Tú Toàn xưng vương phản Thanh, ắt sẽ dẫn theo thuộc hạ trảm long, lúc này là thời cơ tốt nhất để giết y. Ta sẽ báo cho các huynh đệ bên núi Phù Dung, chỉ cần An Thanh Nguyên có động tĩnh gì, ta có thể lập tức lên đường tới đó.”

Cố Tư Văn nghe An Long Nhi nói xong cũng bình tĩnh lại phần nào, gật đầu nói: “Có lý, chúng ta đi làm việc mình nên làm, nói thực lòng, chuyện này có đổi người khác cũng không làm nổi, đành phải trông cậy vào Long thiếu gia nhà ngươi thôi.”

Chọn tập
Bình luận