Địa hình vùng núi phía Bắc Quảng Đông rất giống vùng núi ở Quảng Tây, nên quân Thái Bình vốn quen dã chiến ở Quảng Tây có ưu thế lớn. Từ Thiều Châu theo dòng Vũ Giang đi về phía Tây Bắc, chẳng mấy chốc sẽ lọt vào dãy núi Dao, Vũ Giang quanh co uốn lượn ở đây, tạo thành vô số dòng chảy xiết và ghềnh thác hiểm trở, buộc quân Thanh phải bỏ thuyền đi bộ, lần theo đường núi truy kích. Dọc đường, nữ quân cứ đi thong thả, liên tục huy động các toán quân nhỏ đặt gỗ lăn đá rơi tên độc cạm bẫy, dùng đủ mọi chiêu thức kỳ quặc phục kích dồn dập, khiến quân Thanh thương vong nặng nề, mệt mỏi khôn xiết. Quân Thanh vừa đuổi theo vừa bị tấn công, chưa kịp trông thấy đối thủ đã thua trận, cứ tiếp tục đánh như thế, e rằng chưa ra khỏi tỉnh Quảng Đông đã bị tiêu diệt toàn quân, bởi vậy việc cấp bách hiện giờ là phải mau mau đuổi kịp cánh chủ lực của quân Thái Bình để quyết chiến.
Hồng Tuyên Kiều và Lục Kiều Kiều cũng ý thức được tâm thế của quân Thanh, đối thủ càng muốn đánh nhanh thì họ càng không để đối thủ thỏa nguyện, khi tính toán thấy sĩ khí và sức chiến đấu của quân Thanh đã tiêu hao đến mức có thể giao tranh chính diện, họ mới quyết định chọn một trận địa có thể cố thủ, dẫn dụ cánh quân chi viện này tới rồi diệt sạch, đương nhiên nhiệm vụ chọn trận địa do Lục Kiều Kiều đảm nhận.
Hồng Tuyên Kiều lãnh đạo quân lính mai phục giữa núi cao nước xiết của Cửu Lũng Thập Bát Than, Lục Kiều Kiều dẫn tiền đội gấp rút tiến lên. Nguyệt Quế Hương Quế và Lục Kiều Kiều cưỡi ngựa đi đầu đoàn quân, từ miệng những tướng lĩnh khác, họ đã biết Lục Kiều Kiều thường đem thuật phong thủy áp dụng vào chiến trận nên lúc này cũng ríu rít bàn luận chuyện này với cô.
Hương Quế nhỏ tuổi lắm lời hơn, hỏi Lục Kiều Kiều đi giữa: “Lục tướng quân, có phải bây giờ chúng ta đang đi theo long mạch không?”
Lục Kiều Kiều cầm một trái ớt đỏ rực, nhẩn nha dùng răng cửa nhấm từng tí một, xuýt xoa hít vào một hơi khí lạnh: “Giờ thì không.”
“Lúc ở Quảng Tây, nghe nói cô đi ngược lại long mạch mà tấn công, sao lần này không làm thế?”
“Xuỵt… Lần trước là phá vây, lần này là dẫn dụ để tấn công, chiến lược khác nhau thì thuật phong thủy áp dụng cũng khác nhau, giống như con người muốn nhiều tiền hay đông con, lại phải dùng những chiêu thức phong thủy khác nhau đó…”
Nguyệt Quế nhìn gương mặt đỏ lựng lên vì cay của Lục Kiều Kiều, hỏi: “Lục tướng quân thích ăn cay ư?”
“Xuỵt… Cũng bình thường, hồi xưa tôi hút thuốc phiện, sau này mới cai, song để lại cái tật là miệng không thể nào ngơi, hễ nhạt miệng là khó chịu, trước đây có xì gà hút tạm còn đỡ, hiện giờ ngay ô mai cũng hết, đành phải ăn ớt… Đúng rồi, khi nào đến thị trấn, nhớ mua hộ tôi mấy gói ô mai khô.”
Hương Quế cũng chen vào hỏi: “Nếu cả ớt cũng không có thì ăn dúm muối được không?”
Lục Kiều Kiều phun miếng ớt ra, mắng: “Phì, cô muốn mặn chết tôi à, mặn thì không được!”
Hai chị em Nguyệt Quế Hương Quế và các nữ binh quanh đó nghe Lục Kiều Kiều nói vậy đều bật cười, Hương Quế lại hỏi: “Bước tiếp theo chúng ta làm gì đây?”
“Tìm một nơi giao chiến với bọn chó Thanh, giữ chân chúng ở Quảng Đông.”
“Giờ chẳng phải ta vẫn liên tục phục kích chúng trong núi đấy ư?” Nguyệt Quế ngạc nhiên hỏi.
Lục Kiều Kiều tay vẫn cầm quả ớt, đáp: “Phục kích trên đường mòn thế này chỉ tiêu diệt được quân tiên phong của chúng thôi, sao đánh tan được quân chủ lực, huống hồ núi Dao có rộng đến mấy chăng nữa, cũng chỉ đi mấy ngày là hết, sau khi ra khỏi núi, bọn chó Thanh sẽ đuổi riết hơn, nếu để chúng bắt kịp mới đánh thì chúng ta lại thành ra bị động, có hiểu không?”
Hương Quế vỗ tay đồm độp nắc nỏm: “Lục tướng quân lợi hại quá, nhất cử nhất động của bọn chó Thanh đều bị cô đoán được cả.” Các nữ binh cũng rộ lên phụ họa, trong tiếng tán dương bái phục, Lục Kiều Kiều tươi cười đưa quả ớt vào miệng, cắn một miếng thật to.
“Á…” Thình lình cô thét lên đau đớn, mọi người vội xúm vào hỏi: “Lục tướng quân, xảy ra chuyện gì thế?”
Lục Kiều Kiều lè lưỡi thở hổn hển: “Chết mất… Ăn phải quả cay quá, cho tôi xin ít nước nhanh lên.”
Nguyệt Quế đưa cho cô một bình nước, miệng nhắc: “Uống vào còn cay hơn đấy.” Song Lục Kiều Kiều đã đón lấy dốc vào miệng, mọi người thấy cô uống nước xong còn nhăn nhó hơn, đều rất thông cảm. Hai mắt Lục Kiều Kiều ầng ậng nước, mặt đỏ bừng lên, qua màn nước mắt, cô trông thấy thung lũng trước mặt bỗng rộng hẳn ra, Vũ Giang bên cạnh vẫn là chín khúc liên hoàn, song hai bên bờ lại hiện ra một dải đất bằng rộng lớn, bên bờ Đông còn có một thị trấn nhỏ, sau trấn là một ngọn núi sừng sững cao ngất, sườn núi dốc đứng hệt như một bức tường, không hề có đường lên, có điều Lục Kiều Kiều biết đây là ảo ảnh, trong thiên hạ chẳng có ngọn núi nào không leo lên được.
Các nữ binh cũng trông thấy cảnh tượng kỳ lạ trước mắt, Nguyệt Quế mừng rỡ buột miệng: “Chúng ta ra khỏi núi Dao rồi.”
Lục Kiều Kiều chỉ tay về phía thị trấn nhỏ dưới núi, nheo mắt lại nói không ra lời. Hương Quế liền hỏi: “Lục tướng quân muốn dựng trại ở đây ư?”
Lục Kiều Kiều thổn thức đáp: “Không phải chúng ta, đây là chỗ bọn chó Thanh dựng trại, chúng ta phải dựng trại phía trên kia.” Dứt lời cô chĩa ngón tay lên trên, mọi người đều ngẩng đầu trông, thấy một con gà đá thiên nhiên rất lớn nằm trên vách núi dốc đứng không có đường lên.
Hương Quế nói: “Chúng ta thật tốt với bọn chó Thanh quá, còn tìm luôn chỗ dựng trại hộ chúng nữa.”
Lục Kiều Kiều cuối cùng đã thấy đỡ cay, hổn hển tiếp lời: “Cô không tìm nơi đóng quân cho chúng, sao chúng an tâm ở lại đây được.”
Lục Kiều Kiều dắt theo mấy người đi xem xét khắp trên dưới núi một vòng, cảnh tượng nhìn thấy trong núi còn khiến họ rúng động hơn lúc nhìn từ xa, thì ra đằng sau vách núi dựng đứng cao mấy trăm thước này còn có một vách núi khác, nhìn ngang trông như chiếc bình phong song nhìn nghiêng lại như cây cột trụ, càng giống một thanh kiếm khổng lồ chém ngang quần thể núi. Dưới chân núi có đường mòn đi lên, đứng phía trên có thể nhìn bao quát cả dòng Vũ Giang và thôn làng bên dưới. Đường lên núi rất hiểm trở, có thể hình dung là một người giữ ải, vạn người đừng hòng qua, đủ thấy ai chiếm được mỏm núi này trước, kẻ đó sẽ nắm được con đường giao thông giữa Quảng Đông và Hồ Nam.
Vừa leo xuống núi, Lục Kiều Kiều lập tức chỉ huy nữ quân mau chóng chiếm lĩnh thôn làng bên dưới. Dân cư trong làng thưa thớt chưa đầy một trăm hộ, mấy hội quán cao rộng đều đã cháy đen, chỉ còn tường đổ vách nghiêng, song nhìn bao nhiêu chỗ trống trong quán, cũng đủ thấy nơi này từng một thời thịnh vượng. Hỏi han dân chúng, họ biết được nơi này tên là trấn Bình Thạch, ngọn núi sau trấn vì có con gà đá khổng lồ trên đỉnh mà thành tên, gọi là núi Kim Kê; vách núi hình dạng như thanh kiếm ẩn phía sau tương truyền là hóa thân của rồng đực, được gọi là đỉnh Nhất Tự.
Lục Kiều Kiều nóng lòng mở chiến trường mới, song cô vẫn nhớ Phạm Trọng Lương từng rát cổ bỏng họng bảo mình: “Kẻ được lòng dân thì được thiên hạ”, hai quân giao chiến, không thể biến dân chúng thành kẻ bị hại. Bèn sai binh lính đi trước phát cho mỗi hộ gia đình một trăm lạng bạc tiền trợ cấp, thông báo với họ nơi này sắp xảy ra giao tranh, bảo họ lập tức di dời ngay, tìm một nơi khác an cư lạc nghiệp. Món tiền ấy đủ để một gia đình nông dân sống năm năm thậm chí lâu hơn, mua mười mấy mẫu đất hoặc mở một cửa tiệm kiếm sống cũng không thành vấn đề, một số hộ nhận tiền liền đi ngay, song cũng có những hộ vì đủ các nguyên nhân mà không muốn đi. Đối với những người khăng khăng không muốn đi, Lục Kiều Kiều cũng chẳng quản được, nói như cô thì đường là do mình chọn, đã được người ta phát tiền, chỉ cho đường sống mà không chịu đi, thôi đành mặc họ nghe theo mệnh trời vậy.
Lục Kiều Kiều thu mua đủ lương thực trong trấn Bình Thạch, dẫn tiền quân lên núi Kim Kê dựng trại xong xuôi, mới thấy lính canh đưa Hồng Tuyên Kiều hối hả lên núi. Nhìn Hồng Tuyên Kiều mũ áo xộc xệch, mình đầy bụi đất, đủ thấy dọc đường đã phải xông pha chiến đấu vất vả. Lục Kiều Kiều dang hai tay chạy về phía Hồng Tuyên Kiều, ôm chầm lấy cô: “Chị vất vả quá, các chị em vẫn ổn cả chứ? Có thương vong không?”
Gương mặt mệt mỏi của Hồng Tuyên Kiều đầy vẻ tự tin, cô giật tấm khăn đỏ trên đầu xuống, để mái tóc dài bay tung trong gió núi, vừa thở vừa vui vẻ đáp lời: “Mọi người ổn cả, tôi dẫn hết bọn họ về rồi, chúng ta thắng liên tiếp, bọn chó Thanh ít nhất cũng bị diệt mất tám trăm tên… Ồ, chỗ này cô chọn đẹp đấy, phong thủy thế nào?”
Lục Kiều Kiều mím môi cười, nói qua kẽ răng: “Hừ hừ, có lẽ là kém nhất thiên hạ.”
“Sao lại thế, mau nói cho tôi đi.”
“Chị có mệt không?”
“Không mệt.”
“Vậy chúng ta lên đỉnh Nhất Tự đi.” Đoạn Lục Kiều Kiều kéo Hồng Tuyên Kiều từ doanh trại trên núi chạy xuống, rồi lại trèo lên vách tường thiên nhiên cao mấy trăm thước kia.
Có một con đường dẫn thẳng lên đỉnh núi dài chừng một dặm, song rộng chưa đầy hai trượng, chỗ hẹp nhất chỉ có một trượng. Nếu ở dưới đất thì đường rộng một trượng có thể nhắm mắt chạy ào qua, nhưng trên đỉnh núi cheo leo thế này, kẻ nhút nhát có khi còn chẳng có gan bò. Hai người tay nắm tay đi trên ngọn đao khổng lồ, hai bên bờ đều là vực thẳm dựng đứng, bốn bề quanh vực lại có vách đứng bao quanh, họ thong thả lên đến đỉnh Nhất Tự, thấy cả trấn Bình Thạch và dòng Vũ Giang đều thu vào tầm mắt.
“Chị nhìn mà xem, trấn Bình Thạch dựa vào núi Kim Kê, song núi Kim Kê lại là nơi hiểm yếu, vách núi dựng đứng, hình thế dựa núi tuột xuống này là đại kỵ trong phong thủy, khiến trấn này không sinh sôi đông đúc được, hễ hưng vượng lên một chút sẽ xảy ra tai họa dẫn tới tử thương.”
Hồng Tuyên Kiều trỏ dòng Vũ Giang bên ngoài trấn Bình Thạch hỏi: “Kiều Kiều, tôi từng nghe cô nói nơi nào có sông chảy qua phía trước thì dễ phát tài, chỗ này không vượng nhân khẩu, ít ra cũng được vượng tài chứ?”
Lục Kiều Kiều đứng trên đỉnh núi cao chót vót, phóng mắt nhìn ra tận chân trời, hít sâu một hơi, rồi lại móc một quả ớt nhỏ trong ngực áo ra, cắn từng mẩu một, vừa nhấm nháp vừa thâm trầm đáp: “Lý thuyết là vậy, nhưng phong thủy đâu có đơn giản thế. Trước cửa có nước chảy qua, song dòng nước phải trong, chảy chậm, mới tiện cho thuyền bè qua lại và con người sử dụng. Chị cứ nghĩ mà xem, nếu Vũ Giang và Trinh Giang trước phủ Thiều Châu chảy nhanh như tên bắn, thuyền vừa hạ thủy đã bị đẩy về phía hạ du thì còn ai dám đến chỗ lão già họ Phạm ấy làm ăn buôn bán nữa.”
Hồng Tuyên Kiều gật đầu: “Ừ nhỉ, có lý lắm, dòng Vũ Giang bên dưới quả nhiên chảy xiết hơn đằng Thiều Châu nhiều.”
Lục Kiều Kiều xòe tay ra mời Hồng Tuyên Kiều: “Có chín có xanh, chị muốn ăn không?” Hồng Tuyên Kiều là người Quảng Đông, sợ nhất ăn cay, lập tức lắc đầu quầy quậy. Lục Kiều Kiều thu lại nắm ớt nói: “Hương Quế lại quên mua ô mai cho tôi… Có điều đây không phải vấn đề, nước từ trên núi đổ xuống chảy xiết chẳng qua chỉ khiến đời sống dân chúng hơi quá yên ả thôi, có phong cảnh đẹp nhường này thì nghèo một chút cũng chẳng có gì đáng buồn, vấn đề ở chỗ đây là nơi sẽ xảy ra giao tranh, phong cảnh đẹp đến đâu chăng nữa cũng không hợp để ở.”
“Dựa vào đâu mà nhìn ra được điểm này?”
Lục Kiều Kiều áo đỏ bay bay, trỏ tay xuống đất, trông như một nàng tiên bé nhỏ đứng trên không chỉ tay mắng mỏ con rồng lớn: “Vấn đề nằm ngay dưới chân chúng ta đây, đỉnh Nhất Tự này hệt một ngọn đao dựng thẳng giữa núi, dân bản xứ kể, nơi này khi trước còn một cái tên khác, gọi là đỉnh Long Đầu, họ cho rằng đó là một con rồng đực, vì nhìn trộm tiên nữ thay áo nên bị Nam Cực tiên ông trấn tại đây.”
Hồng Tuyên Kiều đến muộn, không được nghe kể truyền thuyết này, bèn cười nói: “Ha ha, không ngờ chúng ta đang giẫm lên thân thể một con rồng háo sắc.”
“Rất háo sắc, nhưng như thế càng thể hiện bản sắc của rồng đực.” Lục Kiều Kiều giải thích: “Âm dương hòa hợp đực cái giao hòa là đạo lý lớn trong trời đất, nếu đàn ông chẳng ngó ngàng gì đến đàn bà thì… hì hì…” Hồng Tuyên Kiều vội cắt ngang tràng cười mờ ám của cô: “Cô giảng phong thủy đi, đừng nói chuyện nam nữ nữa.”
“Ừm, nói theo phong thủy thì, long mạch thấp và to là cái, cao và mảnh là đực, cao mảnh đến cực điểm sẽ thành đỉnh núi dựng đứng chọc trời như đao thế này. Người dưới trấn đâu phải bỗng dưng đặt ra truyền thuyết rồng đực nhìn trộm mỹ nhân thay đồ, rõ ràng là thời xưa từng có phong thủy sư đi ngang qua xem phong thủy, đưa ra kết luận, song truyền qua bao đời, chuyện phong thủy lại thành ra phong tục. Âm dương lên đến tột cùng sẽ sản sinh ra sát khí, khẩu quyết phong thủy xưa từng nói: ‘Chớ tìm rồng lưng kiếm, sát sư sẵn ở trong’, dưới chân ta chính là rồng lưng kiếm, trước mắt là đất sát sư…”
Hồng Tuyên Kiều kinh ngạc nhìn Lục Kiều Kiều: “Thật ư? Người xưa đã có nhận xét về dạng núi này rồi sao?”
Lục Kiều Kiều chắp tay sau lưng, ưỡn ngực đứng thẳng, quay lại nhìn Hồng Tuyên Kiều đáp: “Con người sống trên đời chẳng qua chỉ vỏn vẹn mấy chục năm, song sông núi đất đai ngàn năm chẳng cạn vạn năm chẳng dời, trong thiên hạ có phong thủy ở đâu mà người xưa chưa xem qua? Nhất định từng có một phong thủy sư đứng ngay chỗ chúng ta đứng đây, xem xét mảnh đất này như chúng ta vừa nãy, tính toán mọi chuyện dữ lành ở đây.”
Hồng Tuyên Kiều nhìn gương mặt nghiêm trang của Lục Kiều Kiều, đôi má trắng muốt đẹp như ngọc, hàng mi dài cong cong khẽ động trong gió núi, như thể kết tinh trí tuệ của các phong thủy sư bao đời, lờ mờ sáng lên dưới ánh tà dương. Hồng Tuyên Kiều khẽ cười nói: “Suýt nữa cô làm tôi ngã xuống núi rồi đấy. Đã thu xếp ổn thỏa cho dân chúng dưới núi chưa?”
Lục Kiều Kiều lại nở nụ cười nghịch ngợm: “Tôi đã phát bạc cho họ, những ai muốn đi đều đi cả rồi. Quân Thanh đuổi đến rồi ư?”
“Quân tiên phong của chúng nửa ngày nữa sẽ đuổi đến, chắc sáng mai chúng đã đóng trại trong trấn rồi.”
“Vậy tối nay các chị em cứ kê cao gối mà ngủ.”
Núi Kim Kê thoạt trông có vẻ không có đường lên, trên đỉnh cũng chẳng lấy gì làm rộng rãi, không thể bày binh bố trận, song thực ra đều ngược lại. Tại ba hẻm núi Bắc, Nam, Tây dẫn vào núi Kim Kê, chỉ cần chưa đến trăm người là thủ vững như thành đồng, trên núi lại có khoảnh đất bằng rộng rãi và khe suối, cũng có sơn động thiên nhiên và cây cối, khiến Lục Kiều Kiều cơ hồ cảm thấy mình có thể ở lại đây cả đời. Nữ quân mau chóng bố trí đội hình kiểm soát Vũ Giang, trấn Bình Thạch và hẻm núi, chuẩn bị sẵn sàng, chỉ đợi quân Thanh đến.
Mấy ngày sau, quả nhiên trông thấy trong trấn Bình Thạch cắm đầy cờ rồng đủ màu của quân Thanh, năm ngàn quân Thanh đã kéo đến. Từ chân núi đến Vũ Giang, nơi xa nhất cũng chưa đầy hai dặm, trấn Bình Thạch lại nằm ở mảnh đất hình tam giác hẹp và dài này, từ núi Kim Kê đến trấn Bình Thạch, chỉ một khẩu pháo nhỏ cũng đủ khống chế toàn cục. Hồng Tuyên Kiều chỉ huy quân lính chĩa mấy khẩu pháo nhỏ ít ỏi trong quân về phía trấn Bình Thạch khai hỏa, đạn pháo chuẩn xác rơi đúng vào trấn, tuy lực sát thương chẳng là bao, nhưng sức uy hiếp rất lớn, quân Thanh tức thì rối lên như kiến bò chảo nóng, bỏ chạy tán loạn. Bấy giờ chúng mới phát hiện ra vị trí quân Thái Bình, cũng nhận ra cái giá quá cao của việc lười nhác không chịu dựng doanh trại mà chui vào nhà dân ở nhờ, vội kéo hết đội ngũ vừa dựng trại sang bờ bên kia Vũ Giang, để tránh đạn pháo thỉnh thoảng lại bắn vào, không ngày nào được yên ổn.
Các nữ tướng đứng trên núi trông thấy quân Thanh nhốn nháo chuyển nhà bèn nôn nóng xin dẫn quân đánh xuống thừa thắng truy kích, nhưng đều bị Hồng Tuyên Kiều và Lục Kiều Kiều cự tuyệt. Trong tình hình địch đông ta ít, bất ngờ đánh xuống cũng chẳng thể thắng to, huống hồ quân Thanh lại có viện binh cứu trợ liên tục, còn nữ quân của Hồng Tuyên Kiều chỉ đơn độc tác chiến, chết người nào mất người nấy. Tuy quân Thái Bình xưa nay vẫn có tập quán vừa tiến quân vừa truyền đạo trưng binh, quân đội càng đánh càng đông, song nữ quân lại không muốn vừa đánh vừa có người lạ gia nhập, nên chỉ mong bảo vệ được các binh sĩ của mình. Nếu liều mạng với quân Thanh mấy trận, dẫu diệt hết được quân Thanh dưới núi, thì một cánh quân Thanh khác lại kéo đến, chi bằng cứ đóng quân tại đó kéo dài thời gian, ngày ngày phung phí tiền của phủ Quảng Châu, khiến phủ Quảng Châu xót của không phái thêm viện binh đến nữa. Thực ra còn một nguyên nhân quan trọng khác là, Lục Kiều Kiều không muốn giết nhiều người ở đây. Cho là bản tính phụ nữ thiện lương cũng được, mà bởi chiến lược cũng xong, chưa chừng còn vì cô xúc động trước những lời của Phạm Trọng Lương, thậm chí có thể chỉ là vì A Đồ cách cách đang ở trong đám quân Thanh dưới núi, tất cả những điều ấy đều khiến Lục Kiều Kiều nảy ra ý nghĩ muốn đóng trại tại đây nửa năm.
Quân Thanh phản công rất nhanh, sau khi đóng trại tại bờ bên kia lập tức vượt sông chia binh làm mấy đường đồng loạt tấn công lên núi. Lúc chúng vượt sông, Lục Kiều Kiều đã đứng trên đỉnh Nhất Tự giúp chúng đếm quân, phát hiện binh lực tấn công lên núi không nhiều, rõ ràng chỉ mang tính thăm dò. Quân Thanh lên núi cũng chẳng gặp nhiều quân Thái Bình, chỉ thấy đá lớn rào rào trút xuống con đường hẹp dốc đứng dẫn lên núi, vô duyên vô cớ gây ra vô số thương vong mà không sao tấn công nổi mấy con đường quanh co kia, đành hậm hực thu quân. Qua quá trình phân tích, tướng lĩnh quân Thanh cho rằng, giặc tóc dài trên núi không quá một ngàn người, cũng không có nhiều thuốc súng và đại pháo, bằng không hẳn đã dùng súng và pháo bắn xuống, chứ đâu phải lăn đá ném, đằng nào cũng không tấn công lên được, chi bằng nổ pháo, bèn huy động toàn bộ pháo từ bờ bên kia Vũ Giang bắn lên núi Kim Kê.
Bấy giờ hai ngàn nữ binh đã tìm được chỗ nấp tránh pháo, Lục Kiều Kiều ngồi trong sơn động, tay cầm giấy bút ghi lại mật độ đạn pháo, ước lượng hỏa lực thực sự của đối phương. Hồng Tuyên Kiều cũng ngồi bên cạnh tự lập một bản ghi chép riêng về mật độ đạn pháo, để sau khi hết đợt pháo kích, đôi bên sẽ đối chiếu lại con số. Tiếng pháo nổ ầm ầm bên ngoài kéo dài suốt hơn một canh giờ, phần lớn đạn pháo đều rơi vào khe núi, sơn động trên đỉnh núi không bị rung chấn nhiều, có điều sóng âm và sóng khí thỉnh thoảng lại ập vào khiến người ngồi bên trong khó chịu. Hồng Tuyên Kiều quan tâm hỏi: “Cô vẫn ổn chứ? Nếu không chịu nổi thì trốn vào trong đi, khỏi ù tai.”
Trong tiếng pháo nổ ầm ầm, Lục Kiều Kiều không nghe rõ Hồng Tuyên Kiều nói gì, chỉ xua xua tay ý bảo không sao. Cô viết lên mặt giấy: pháo không nhiều lắm, song bắn dồn dập. Hồng Tuyên Kiều gật đầu.
Lục Kiều Kiều lại viết: quân ta không đánh không hàng không hòa không lui, quân Thanh sẽ không tấn công ồ ạt, cũng không tăng thêm quân, cứ kéo dài nửa năm.
Hồng Tuyên Kiều lại gật đầu, cũng viết lên giấy: nếu chỉ cố thủ thì quân ta sẽ thương vong rất ít.
Lục Kiều Kiều viết: tôi đã tính được, Thiên quân tấn công lên phía Bắc rất thuận lợi, chúng ta có thể phái khoái mã lên phía Bắc liên hệ với Thiên vương.
Hồng Tuyên Kiều phát hiện ra bút đàm quả rất thú vị, nên dù tiếng pháo đã ngớt dần, cô vẫn viết lên giấy: tốt lắm, tôi chỉ sợ cố thủ nửa năm không đủ lương thực.
Lục Kiều Kiều viết đáp lại: ha ha ha…
Hồng Tuyên Kiều ngẩng lên trông thấy gương mặt thản nhiên như không của Lục Kiều Kiều, cảm thấy vô cùng kỳ lạ, bèn ngạc nhiên buột miệng: “Cô cười đấy à?”
Lục Kiều Kiều nghe thấy tiếng pháo bên ngoài đã nhỏ đi, liền mở miệng đáp: “Có cười mấy tiếng, tôi nói tôi đã chuẩn bị sẵn lương thực rồi, chị cứ đợi xem.”
Hồng Tuyên Kiều đứng dậy bảo Lục Kiều Kiều: “Có tiền mua tiên cũng được, cô là tay giàu có cự vạn, theo lý mà nói có chuyện gì mà cô không ước chừng được, cơm gạo của mọi người trông cả vào cô đấy. Tôi đã điểm qua, quân Thanh có tám khẩu pháo lớn, mười bốn khẩu pháo nhỏ, đội pháo trong quân áng chừng hai trăm người, tại Cửu Lang Thập Bát Than đã tiêu diệt mấy trăm người, hiện giờ quân Thanh dưới núi chỉ có khoảng bốn ngàn người thôi.”
“Ừm, tôi cũng đếm được chừng ấy, thường sau khi bắn pháo xong chúng sẽ chuẩn bị đánh lên đấy, ta mau ra sẵn sàng cố thủ thôi.” Đoạn Lục Kiều Kiều buông giấy bút cùng Hồng Tuyên Kiều chạy ra ngoài, nghĩ ngợi một thoáng, cô lại nói thêm: “Phải rồi, vấn đề cơm gạo chẳng cần dùng đến tiền đâu.”
Hồng Tuyên Kiều cười đáp: “Đừng nói nữa, cuộc thi nhổ củ cải sắp mở màn kìa.”
Hai cô cùng chị em Hương Quế Nguyệt Quế, mỗi người dẫn theo một toán quân nhỏ vội vã đến khe núi, ở đầu mút con đường mòn dài mà hẹp đã chuẩn bị sẵn một lượng lớn đá tảng, bốn đội nữ binh chia ra bốn góc âm thầm đợi quân Thanh tấn công. Chẳng bao lâu sau, quả nhiên thấy một toán quân Thanh cầm khiên theo đường núi hối hả công lên, Lục Kiều Kiều hưng phấn reo: “Chúng tôi đánh trước, chúng tôi đánh trước.” Đoạn dẫn hai mươi lăm người chạy đến bên đống đá, đợi đúng lúc quân Thanh đi đến khúc quanh, cả nhóm đồng loạt cầm gậy, hò dô nạy đá lăn xuống núi.
Tức thì năm sáu khối đá to bằng quả bí đao ầm ầm lăn xuống theo đường núi, nhằm đúng vào toán quân Thanh cầm khiên đi trước, lập tức trong đám quân Thanh vang lên tiếng thét kinh hoàng, rồi một hàng binh lính đổ lăn lông lốc từ sườn núi xuống như củ cải, trên núi rộ lên tiếng reo như chim hót của các cô gái, Lục Kiều Kiều hô lớn: “Mười một tên! Mười một tên! Ha ha ha…”
Hương Quế đứng xem cũng đầy lòng hăng hái, dẫn đội của mình chen lên trước: “Đợi đấy, Hương Quế Thiên quân chúng ta đến đây!”
Đợt công kích này của quân Thanh dồn dập hơn, đội của Hương Quế cũng lăn xuống nhiều đá hơn, tiếng thét thê thảm của đàn ông dưới núi hòa cùng tiếng reo hò của phụ nữ trên núi thành một khúc sơn ca đầu hạ khiến người nghe bồn chồn không yên, Hương Quế và các đồng đội ôm nhau reo lên: “Hai mươi lăm rồi! A ha…” Đoạn vừa reo vừa chạy khắp nơi.
Hồng Tuyên Kiều lầm bầm chửi: “Đám bà tám này rõ là tốt số, cứ đợi xem ta đây.” Hồng Tuyên Kiều và các đồng đội chạy đến bên đống đá, cô chõ xuống núi nói to: “Bọn chó dưới kia, trên này toàn đàn bà con gái mà các ngươi còn đánh không lại, đúng là đồ vô dụng!”
Từ “vô dụng” cứ vẳng đi vẳng lại trong khe núi, bầy chó dưới núi nghe mà đau lòng rơi lệ. Hồng Tuyên Kiều nói xong bèn khuân một tảng đá lớn ném xuống con đường núi không một bóng người, hòn đá vừa lăn xuống, quả nhiên tiếng la hét lại rộ lên bên dưới. Quân Thanh không sao nhịn nổi thái độ kỳ thị giới tính này, nhao nhao thề xông lên núi xốc lại uy phong, rất nhiều người lao lên trong đợt tấn công này, song kẻ tham sống sợ chết còn nhiều hơn, đội Hồng Tuyên Kiều lăn xuống nhiều đá hơn, nhưng không phá nổi kỷ lục của đội Hương Quế, khiến cô không khỏi cụt hứng, để giữ vững sĩ khí, Hồng Tuyên Kiều vội vung tay hô lớn: “Chúng ta gấp đôi đội Lục tướng quân!”
Cả đội Hồng Tuyên Kiều lập tức hô “giết” váng trời, khí thế ngùn ngụt xuyên cả cầu vồng, khi Lục Kiều Kiều che mặt la thảm thì đội Nguyệt Quế cũng bừng bừng uy thế bước lên.
Trận ấy đánh từ sáng đến chiều chưa dừng, quân Thanh ngoan cố liên tục tấn công hơn ba mươi đợt, vốn định làm tiêu hao thể lực và lượng đá của đối phương, song thể lực của đám giặc cái tóc dài dường như vô cùng vô tận, trước mặt là núi đá, muốn làm tiêu hao lượng đá lại càng không thể. Quân Thanh điều động toàn quân vượt sông tấn công lên núi, song chỉ thấy trên núi khiêng xuống hàng loạt binh sĩ toác đầu chảy máu, gãy xương bầm giập, giặc tóc dài chẳng tổn thương một cọng tóc, cứ đánh thế này chẳng mấy hôm nữa, doanh trại quân đội sẽ thành ra trại bó xương quy mô lớn. Tướng Thanh bèn quyết định thay đổi chiến lược, học theo Gia Cát Lượng phóng hỏa Xích Bích năm xưa. Đến tối, mấy trăm lính Thanh cầm đuốc, xếp thành các hàng dài như những con rồng lửa khổng lồ uốn lượn xông lên lưng chừng núi phóng hỏa.
Lục Kiều Kiều và các tướng vừa tắm rửa xong, đang ăn tối ngắm cảnh, trông thấy rồng lửa xuất hiện dưới núi, tâm trạng ủ ê vì tranh tài thất bại ban sáng của cô chợt tan biến sạch. Lục Kiều Kiều cười rung cả người, suýt phun hết cơm trong miệng ra, khó khăn lắm mới nuốt được miếng cơm quý giá vào bụng, chìa cái bát gỗ đã liếm sạch về phía các nữ tướng bên cạnh: “Phát tài, phát tài rồi, dám chơi dám chịu nào! Hương Quế thua năm lạng bạc, Nguyệt Quế nửa lạng, giờ binh đao loạn lạc không nhận tiền đồng, nên năm trăm đồng kia của cô đổi thành nửa lạng bạc, Hồng Thừa tướng hai lạng, mấy chị Tư mã đằng sau kia cũng nộp tiền ra đây nhanh lên… Tôi đã bảo chúng định dùng kế hỏa công rồi đấy thôi, ha ha, ha ha ha…”
Hồng Tuyên Kiều móc ra mấy miếng bạc vụn ném vào bát, hậm hực nói: “Cá cược thế này chẳng công bằng gì cả, ả yêu tinh này biết xem bói, tính được thời điểm bọn chó Thanh phóng hỏa đốt núi mới cá cược với chúng ta, lần sau không chơi với ả nữa.” Lục Kiều Kiều mặt mày rạng rỡ nhét hết bạc vụn và ngân phiếu trong bát vào hầu bao, mặc cho tiếng oán dậy đất, cô thoăn thoắt chạy đến nơi vừa so tài nhổ củ cải.
Lục Kiều Kiều và các tướng đã dự liệu trước được quân Thanh sẽ giở trò này, nhớ lại chuyện năm xưa trên núi Kê Đề, phủ Quốc sư dẫn nước vào minh đường để phá huyệt phong thủy, nên vừa lên núi Kim Kê, cô đã dùng ống tre bắc thành mấy chục ống dẫn nước trên không, dẫn nước từ dòng suối sau núi đến khe núi. Lúc này nữ binh canh giữ trên đỉnh núi bèn nối thông ống dẫn và dòng suối, lập tức tất cả ống dẫn nước khắp núi đều tràn trề nước, các nữ binh trên khe núi chĩa những ống dẫn phun nước xuống dưới, chỉ trong chốc lát, hết thảy khe núi đều đổ mưa to như trút, ngọn lửa quân Thanh vừa nhen lên cũng như hàng dãy đuốc sáng chúng cầm lần lượt tắt ngấm, trong bóng tối mịt mùng, trên núi lại truyền đến tiếng đá lăn khủng khiếp, quân Thanh ướt như chuột lột vội vã vứt đuốc bỏ chạy, ai cũng lo nếu lần này lại gãy xương, chỉ e thuốc thang trong quân doanh chẳng còn đủ dùng nữa.
Cuộc chiến vui vẻ diễn ra được mấy ngày, sức chiến đấu của quân Thanh nhanh chóng bị lượng lớn thương binh kéo tụt, hai quân bước vào giai đoạn giằng co khá bình lặng. Trừ những lúc thỉnh thoảng nổ pháo bắn lên núi, quân Thanh cũng không tiến hành tấn công quy mô lớn nữa. Chúng dường như cũng hiểu, lương thực thiếu thốn là mối lo lớn nhất của quân Thái Bình, nếu bao vây đủ lâu thì không đánh mà thắng chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.
Có điều, quân Thanh không biết Lục Kiều Kiều đã lường trước được vấn đề lương thảo, lần đầu tiên lên núi xem xét địa hình, cô đã cân nhắc tới những khó khăn sẽ gặp phải nếu bị bao vây. Trải qua hai trận phá vây ở trấn Kim Điền và thành Vĩnh An Quảng Tây, Lục Kiều Kiều hiểu rất rõ một khi bị vây hãm sẽ xảy ra những tình huống khốc liệt nào, nếu không có súng ống đạn dược, vẫn có thể lợi dụng địa hình để chiến đấu, nhưng không có lương thực và muối ăn thì chẳng cách nào giải quyết được. Bởi thế ngay khi đến trấn Bình Thạch, Lục Kiều Kiều đã dốc túi thu mua hết muối và lương thực trong trấn, song như vậy cũng không đủ cho một cuộc chiến giữ trận địa trường kỳ, theo sách lược của cô, tốt nhất là tự trồng lấy lương thực.
Trên núi Kim Kê trừ đá sỏi còn có gò đất và suối, có thể trồng trọt. Trong lúc giằng co với quân Thanh, ba quân tiền, trung, hậu của nữ quân cũng luân phiên luyện binh và trồng trọt. Phần lớn nữ quân là con em nông dân, coi trồng trọt là cuộc sống, cũng là hưởng thụ, trước đây ở quê, họ ngày đêm quần quật ngoài đồng, song lúa gạo làm ra đều phải đem nộp tô, còn bây giờ lại được dùng cho mình, nên ai nấy càng hăng hái gieo trồng. Giờ đương độ cuối xuân đầu hạ, giữa nơi non nước đẹp đẽ như cảnh tiên ở chốn nhân gian, các nữ binh đã trồng đủ loại cây trên những địa hình khác nhau, nào lúa nước, nào khoai lang, bứng cả dưa và trái cây từ dưới núi lên đây, nhìn bao giống hoa màu trong lòng đất nảy mầm rồi phát triển từng ngày, họ cũng mừng vui như được bước lên một thiên đường nho nhỏ.
Lục Kiều Kiều cũng rất thích cuộc sống ruộng vườn giữa lưng chừng núi này, mỗi ngày sau khi thao luyện sĩ binh, cô lại cùng mọi người xuống đồng lao động, tới khi mặt trời lặn thì chia nhau những trái quả mình trồng được, khiến cô thấu hiểu sâu sắc niềm vui của người nông dân nếu một ngày tất cả đều có ruộng đồng trù phú.
Lúc ăn cơm tối, cả bầu trời ngập đầy ráng đỏ, trên chiếc bàn gỗ dưới gốc đại thụ, ngoài cơm và các món ăn còn có canh cá tươi, Hồng Tuyên Kiều uống ừng ực hết một bát rồi cảm thán thốt lên: “Cá trong núi ngọt hơn cá nuôi bình thường nhiều, Lục tướng quân khéo thật, còn nghĩ ra cả việc đào ao trong núi nuôi cá nữa, bây giờ dù các chị em không có cơm ăn, cũng không đến nỗi gầy gò vàng vọt.”
Lục Kiều Kiều cũng uống một bát canh, mãn nguyện khen: “Khà… Dễ chịu quá, mấy bữa nữa đu đủ ra quả, bỏ vào nấu cùng canh cá, lợi sữa lắm đấy.” Các nữ tướng đang uống canh nghe nói đều phá lên cười.
Chợt tiếng sáo theo gió chiều đưa lại, chầm chậm len qua tiếng cười đùa của các nữ binh, mọi người đều lặng đi lắng tai nghe, Hương Quế vừa ăn vừa nói: “Tô Tam Nương lại thổi sáo kìa, trước đây cô ấy cũng từng thổi cho chúng ta nghe.”
Hồng Tuyên Kiều dừng đũa lắng nghe, thấy tiếng sáo chậm rãi mà biến ảo, khiến người ta buồn đau khôn tả, cô đột nhiên sầm mặt nói: “Tam Nương không thể thổi sáo được, để tôi đi tìm cô ta.” Dứt lời liền buông bát đũa chạy về hướng tiếng sáo, mọi người không biết xảy ra chuyện gì, đều lũ lượt chạy theo. Hồng Tuyên Kiều nhanh nhẹn băng qua mấy doanh trại nữ binh, khiến các nữ binh đang ăn tối cũng ngỡ có chuyện, lần lượt dừng lại đứng dậy nhìn theo Hồng Tuyên Kiều chạy như bay về phía Tô Tam Nương.
Hồng Tuyên Kiều trông thấy Tô Tam Nương đang ngồi trên một tảng đá lớn nhô ra ở rìa vách núi, trước mặt là đỉnh Nhất Tự và vực sâu phía dưới, lặng lẽ nâng sáo thổi, ráng chiều ánh lên bên má hệt như tiên nữ hạ phàm. Tô Tam Nương là mỹ nữ được toàn quân Thái Bình công nhận, vẻ đẹp của Hồng Tuyên Kiều thiên về mạnh mẽ, mê hoặc lòng người, không chỉ đẹp mà còn hào sảng phóng khoáng, song Tô Tam Nương nhàn nhã an tĩnh kia, so về dũng mãnh và mưu lược trong tác chiến cũng chẳng thua gì Hồng Tuyên Kiều. Thường ngày cô trầm lặng ít nói, mọi người chỉ biết cô là hương chủ của Hồng môn, đem theo một ngàn quân Hồng môn gia nhập quân Thái Bình, song xưa nay chưa từng nghe cô nhắc đến thân thế hay chồng con. Tô Tam Nương có địa vị có chiến công, chuyện cô không muốn nói cũng chẳng ai dám hỏi, nhưng hôm nay, trong tiếng sáo của cô, Hồng Tuyên Kiều lại cảm nhận được nỗi u oán và nhung nhớ khôn nguôi.
Vừa bước tới sau lưng Tô Tam Nương, Hồng Tuyên Kiều lập tức vỗ tay bồm bộp mấy tiếng làm rối loạn điệu sáo, tiếng sáo ngừng bặt. Cô nói khẽ: “Tô giám quân, dưới núi có do thám của bọn chó Thanh, tiếng sáo u buồn sẽ làm rối lòng quân, tăng thêm can đảm cho địch, tôi nghĩ sau này không nên làm vậy nữa.”
Tô Tam Nương đứng dậy, điềm tĩnh cười với Hồng Tuyên Kiều: “Thực xin lỗi Hồng thừa tướng, Tam Nương vi phạm quân quy, nay đã biết tội, sau này không dám tái phạm nữa.” Dứt lời vái một vái thật dài rồi nghiêng mình đi thẳng. Hồng Tuyên Kiều gọi với: “Tô giám quân xin dừng bước.”
Tô Tam Nương dừng lại, cũng không ngoái đầu: “Hồng thừa tướng muốn trị tội tôi ư?”
Hồng Tuyên Kiều ngoảnh đầu nhìn, thấy Lục Kiều Kiều và Hương Quế Nguyệt Quế đã đuổi đến, các nữ binh đang đứng từ xa nhìn về phía họ. Cô cười bảo Tô Tam Nương: “Đời nào? Tôi chỉ muốn mời Tô giám quân đến soái doanh một chuyến.”
Mọi người thong thả men theo khe núi đi đến dưới gốc đại thụ đang bày mâm cơm ở soái doanh trung quân, Lục Kiều Kiều biết Hồng Tuyên Kiều muốn tâm sự khuyên nhủ Tô Tam Nương, bởi nếu một người có điều canh cánh trong lòng, cứ kìm nén mãi tất sẽ bộc phát không phải lúc, muốn Tô Tam Nương về sau không vi phạm quân lệnh nữa, thay vì trừng trị, chi bằng để cô thổ lộ ra cho vơi bớt nỗi niềm. Lục Kiều Kiều bảo Nguyệt Quế lấy một vò rượu trong động ra, cô đón lấy cầm trong tay, nói với Tô Tam Nương: “Chúng ta tòng quân bấy lâu, chỉ những lúc bàn bạc việc quân mới tụ họp lại, hôm nay chiến sự đã hơi yên, hay là uống mấy bát rượu chuyện gẫu, được không?”
“Lục tướng quân có lệnh, Tô Tam Nương đương nhiên phải theo.” Lời lẽ của Tô Tam Nương vừa khách sáo vừa xa cách.
Đợi rót rượu xong, Lục Kiều Kiều cười nói: “Rượu này ủ bằng hoa quế Quảng Đông, uống vào thơm ngọt nhưng ngấm lâu đấy, mọi người uống từ từ thôi, nào, chúc…”
Tô Tam Nương dè dặt cười, đón lấy bát uống cạn, thấy vò rượu hoa quế đột nhiên vơi mất một bát, giọng Lục Kiều Kiều cũng trôi tuột xuống theo bát rượu Tô Tam Nương dốc vào miệng: “Ấy… Chúc gì bây giờ?”
Hồng Tuyên Kiều là thủ lĩnh toàn quân, những lời này không thể nói sai, bèn giơ bát lên nói: “Chúc cho Thiên quốc sớm được thành lập, thiên hạ thái bình, mọi người đều được sum họp gia đình.” Dứt lời cũng uống một hơi cạn bát.
“Tôi muốn chong chóng về nhà.” Hương Quế nói đoạn uống ngay một ngụm, Nguyệt Quế nghĩ ngợi một thoáng, chẳng nói năng gì, cũng uống một ngụm.
Lục Kiều Kiều thấy bầu không khí rất tệ, bèn thở dài rót cho mình một bát. Uống xong, cô lẩm bẩm: “Cứ đà này, vò rượu chẳng mấy chốc là hết bay, các cô không được say đâu đấy.” Cô rót rượu cho Tô Tam Nương, tiện thể ngẩng lên hỏi: “Cặp mắt Tam Nương đẹp quá, đầu mắt cong cong đuôi mày nhọn, cô là con gái cả ư?”
Tô Tam Nương cười đáp: “Ha ha, từng nghe nói Lục tướng quân là tiên nữ, quả nhiên danh bất hư truyền, tôi đúng là con cả.”
Hồng Tuyên Kiều ngạc nhiên hỏi: “Vậy tại sao cô lại tên là Tô Tam Nương?”
Tô Tam Nương khẽ nhếch khóe môi lên, cũng coi như mỉm cười, hỏi tiếp: “Lục tướng quân có nhìn ra được chăng?”
Lục Kiều Kiều giương mắt nhìn chằm chằm mặt Tô Tam Nương, mọi người đều tò mò đổ dồn ánh mắt vào Lục Kiều Kiều, đợi cô nói ra kết quả. Lục Kiều Kiều ngắm nghía một hồi, chợt bật cười: “Trời tối quá, không nhìn ra được, mọi người uống rượu đi thôi.”
Hồng Tuyên Kiều vội đoạt lấy bát rượu trong tay Lục Kiều Kiều: “Không được uống, nhất định cô đã thấy gì rồi, còn không nói thì, tối nay đừng hòng uống rượu.”
“Ái chà, các chị đem tôi làm trò cười rồi, tôi không nhìn ra cũng có gì lạ đâu, để Tam Nương nói ra chẳng phải cũng thế ư?” Lục Kiều Kiều vừa dài giọng ra vẻ vô tội, vừa nhìn vào mắt Tô Tam Nương, thấy cô đang như cười mà không phải cười, nhìn mình với vẻ thách thức. Hương Quế đứng bên cũng lắc lắc vai Lục Kiều Kiều: “Chị Kiều nói đi, nói sai Tô giám quân cũng chẳng để bụng đâu mà, phải không?” Tô Tam Nương gật đầu.
Lục Kiều Kiều nói: “Trời tối quá, không chắc tôi nhìn chuẩn được đâu, chúng ta chỉ uống rượu chuyện gẫu, nói sai điều gì cũng không phải chịu trách nhiệm nhỉ.”
“Lục tướng quân xin cứ nói.” Dứt lời, Tô Tam Nương ngồi ngay ngắn xuống phiến đá, đối diện với Lục Kiều Kiều, vẻ như đợi người ta xem tướng cho.
Lục Kiều Kiều liền nói: “Vì cô là con cả, nên tôi từng nghĩ có khi nào cô là người thiếp thứ ba của nhà họ Tô không, song cô lại trán vuông cằm tròn, có tướng vợ cả; sơn căn trên sống mũi giữa hai mắt cao thẳng, mũi là Phu tinh của phụ nữ, sống mũi cao thẳng là Phu tinh mạnh mẽ, lấy chồng sớm, bởi thế tôi đoán cô đã xuất giá từ thời niên thiếu, là vợ cả, đúng không?” Tô Tam Nương mỉm cười gật đầu.
Lục Kiều Kiều lại nói: “Tuy Phu tinh của cô đẹp thực, song lại bị một nếp nhăn ở Ấn đường đâm thẳng vào, kim treo phá Ấn, Phu tinh bị khắc, hẳn là trước năm hai mươi tuổi, chồng cô đã rời xa cô. Nếu chẳng phải cô là con cả mà lại lấy tên Tô Tam Nương, tôi sẽ cho rằng chồng cô vẫn còn tại thế, chỉ là đang đi xa, song dựa vào tên cô, cùng nỗi oán hận thấp thoáng trong tiếng sáo ban nãy, tôi đoán rằng chồng cô đã qua đời, tên cô được lấy theo tên chồng cô, anh ta tên Tô Tam, nên cô tự xưng là Tô Tam Nương để tưởng nhớ phu quân.”
Mọi người nghe Lục Kiều Kiều phán đoán đều im bặt nhìn nhau, chẳng ai dám nói nửa lời. Hồng Tuyên Kiều dè dặt hỏi nhỏ: “Thực vậy ư?” Một cơn gió núi thổi qua, mấy sợi tóc mai dài của Tô Tam Nương phất ngang gương mặt văn nhã, cô thản nhiên cúi mắt nhìn xuống, cầm bát lên hớp một ngụm, chẳng nói chẳng rằng. Mọi người đều nhận ra, cô đã ngầm thừa nhận lời nói của Lục Kiều Kiều.
Nguyệt Quế vội đến bên cạnh Lục Kiều Kiều, ngồi thụp
xuống, ánh mắt lộ vẻ lo âu: “Chị Kiều nhìn ra được chuyện sống chết của chồng cô ấy, chị xem hộ chồng em được không?”
Lục Kiều Kiều không nhìn Nguyệt Quế, chỉ cúi đầu uống một hớp rượu. Cô biết trong lúc phá vây ở thành Vĩnh An, chồng Nguyệt Quế chặn hậu, đã mất tích dưới sự truy kích của quân Thanh, bấy lâu vẫn bặt vô âm tín. Dựa trên tướng mạo Nguyệt Quế, cô nhìn ra chồng cô ấy đã chết, chỉ là sợ Nguyệt Quế đau lòng, cũng muốn giữ lại cho cô một tia hy vọng, nên xưa nay không hề nói ra. Nguyệt Quế thấy Lục Kiều Kiều im lặng, lại càng kích động lắc tay cô gặng hỏi: “Có phải anh ấy chết rồi không? Chị Kiều, chị nói cho em biết đi, có phải anh ấy chết rồi không!”
Mọi người đều đã uống chút rượu, nhưng đối mặt với vấn đề ai ai cũng muốn hỏi này, lòng lại thấy lạnh run. Nguyệt Quế cứ khăng khăng vừa lay vừa vặn hỏi, song Lục Kiều Kiều chỉ im lặng.
“Tô Tam ca là hương chủ Hồng môn, đã bị bọn chó Thanh giết chết.” Tô Tam Nương lên tiếng cắt lời Nguyệt Quế, cũng phá tan bầu không khí lặng phắc nặng nề: “Tôi bèn bán quách quán rượu của chúng tôi, dẫn theo các huynh đệ trong đường khẩu khởi nghĩa… báo thù cho chồng.”
Nguyệt Quế nhũn chân ngồi phệt xuống đất, đôi mắt thất thần ứa lệ, Hương Quế kêu một tiếng: “Chị!” rồi chạy đến ôm chầm lấy cô. Tô Tam Nương bèn rót một bát rượu đưa đến trước mặt Nguyệt Quế: “Cô khóc đi, khóc mãi sẽ cạn nước mắt…”
Lục Kiều Kiều nhìn Tô Tam Nương, thấy mắt cô ráo hoảnh, không một gợn nước, gương mặt đẹp dịu dàng như hoa chỉ toát lên vẻ bình thản đáng sợ.
Hồng Tuyên Kiều lần lượt ôm lấy vai các chị em: “Đừng nghĩ nhiều nữa, mọi người về ngủ đi, nửa đêm còn phải đi tuần nữa. Về đi về đi.”
Tô Tam Nương cáo từ, trở về doanh trại tiền quân, Hương Quế cũng dìu Nguyệt Quế đi. Hồng Tuyên Kiều và Lục Kiều Kiều đi đến bên rìa vách núi, nhìn xuống vực sâu không đáy dưới chân, như nhìn vào tương lai không thể dự đoán. Hồng Tuyên Kiều hỏi mà như độc thoại:
“Tô Tam Nương đã báo được thù rồi chứ?”
“Những chuyện có thể đoán ra nhờ xem tướng, đều được định sẵn ư?”
“Sinh tử đã định, cũng sẽ có ân cừu phải không?”
Lục Kiều Kiều cũng nheo mắt nhìn xuống vực núi tối om, buồn bã đáp: “Chị đừng nghĩ ngợi quá nhiều…”
“Chồng tôi thì sao?” Giọng Hồng Tuyên Kiều khẽ đến nỗi gần như không thể nghe thấy.
Hai người không nhìn nhau, cũng chẳng nói năng gì, chỉ nhắm nghiền mắt nghe kỹ đủ thứ âm thanh theo gió truyền tới, như đang đợi trời cao ban đáp án cho mình.
Một lúc lâu sau, Lục Kiều Kiều đột ngột quay người, chắp tay sau lưng, đi thẳng vào hang động tối om, ném lại một câu rất khẽ, đến nỗi Hồng Tuyên Kiều còn chẳng nghe rõ được: “Anh ấy chết rồi.”
Lục Kiều Kiều đã nghĩ ngợi rất kỹ mới nói cho Hồng Tuyên Kiều biết tin tức về cái chết của Tiêu Triều Quý mà cô thấy được từ tướng mạo Hồng Tuyên Kiều. Cô biết Hồng Tuyên Kiều không yêu Tiêu Triều Quý, sau hôn lễ ở Vĩnh An, vợ chồng họ gần nhau thì ít mà xa nhau thì nhiều, Hồng Tuyên Kiều luôn viện cớ việc quân bận rộn để tránh né không gặp họ Tiêu, Tiêu Triều Quý chẳng mấy chốc cũng cưới thêm vợ bé trong thành Vĩnh An. Sau khi phá vây ở Vĩnh An, Hồng Tuyên Kiều lại chủ động đề nghị dẫn quân từ Quế Lâm xuống Quảng Đông, chặn đánh không cho viện binh của quân Thanh tiến lên phía Bắc, dường như cũng tránh chiến đấu cùng Tiêu Triều Quý, song sự sắp xếp này vừa khéo hợp ý Lục Kiều Kiều.
Sau khi Jack bỏ đi, trong lúc lập đàn làm phép cầu mưa ở cửa Bắc thành Vĩnh An, Lục Kiều Kiều đã trảm cả bạch long lẫn xích long, vứt bỏ khả năng sinh sản để đẩy nội công nữ đan lên cảnh giới tối cao, đồng thời cũng chuyển bát tự của mình vào một con bù nhìn rơm, nhằm thoát khỏi sự sắp đặt của số mệnh, chẳng nề đặt bản thân vào hiểm cảnh không thể đoán trước sinh tử. Nhưng đây không phải mục đích cuối cùng của cô, điều cô muốn nhất là trở về quê Cát An làm một chuyện, hơn nữa phải đem cả đại quân cùng về. Bởi vậy khi Hồng Tuyên Kiều đề xuất muốn đem nữ quân rời khỏi chủ lực của quân Thái Bình, Lục Kiều Kiều chẳng cần tính quẻ, lập tức tán thành cả hai tay, sau khi thống nhất, hai người bèn dẫn theo hai ngàn nữ binh tinh nhuệ xuống Quảng Đông.
Mấy ngày nay, Lục Kiều Kiều không thấy tâm trạng Hồng Tuyên Kiều thay đổi nhiều, chỉ là ít nói ít đùa hơn trước, khi luyện binh lại nghiêm khắc hơn, bản thân siêng năng luyện công hơn. Nhìn những thay đổi lạ lùng ấy của Hồng Tuyên Kiều, Lục Kiều Kiều cũng chẳng đoán nổi rốt cuộc cô vui hay buồn, có lẽ là cả hai. Đa phần người nhà của các nữ binh đều ở trong quân Thái Bình, Lục Kiều Kiều xem tướng họ, thấy càng lúc càng nhiều người mang khí sắc có người thân tử vong, cô không dám nói ra e nao núng lòng quân, song hoàn toàn có thể hình dung tình trạng thê thảm của quân Thái Bình ở Hồ Nam.
Sau đó, tin vui đánh hạ thành trì từ phía quân chủ lực liên tiếp được truyền tới, theo tin báo về, họ cũng biết được quân Thái Bình đã tiến về phía Đông men theo dòng Trường Giang, áp sát trấn Vũ Xương, một nơi trọng yếu của Giang Nam. Từ Thiều Châu Quảng Đông đi lên phía Bắc, men theo dòng Vũ Giang có thể đến Hồ Nam, men theo Trinh Giang có thể đến Giang Tây, khi quân Thái Bình vượt qua Hồ Nam đánh đến Vũ Xương ở Hồ Bắc, cánh quân Thanh bị nữ quân giữ chân ở núi Kim Kê Vũ Giang cũng không cần phải tiến lên phía Bắc đến Hồ Nam nữa, tin tức này đưa đến, cũng ngầm báo với họ một điều, nhiệm vụ giữ chân địch ở núi Kim Kê đã hoàn thành một nửa.
Vấn đề là vẫn còn một bộ phận quân Thanh ở phủ Thiều Châu chia binh theo dòng Trinh Giang lên phía Bắc kéo vào Giang Tây, rồi tiếp tục đi lên hội quân với cánh quân giữ thành Vũ Xương, bởi vậy muốn hoàn thành nhiệm vụ, nữ quân phải đến Giang Tây chặn đánh hoặc truy kích quân Thanh tại đó, sau cùng sẽ hội quân với quân Thái Bình. Hiện giờ điều bọn họ cần suy tính là làm sao để xuống núi tiến đến Giang Tây, Lục Kiều Kiều cũng phải đích thân trở về Cát An hoàn thành tâm nguyện.
Càng muốn đi, càng không thể để toán quân Thanh dưới núi biết mình muốn đi, bằng không dù có xuống núi phá được vòng vây, cũng sẽ bị quân Thanh lẵng nhẵng bám đuôi truy kích, như vậy thì xuống núi còn ý nghĩa gì, lại đánh mất luôn thế chủ động và bí mật trong quân sự. Suốt mấy ngày, Lục Kiều Kiều đứng trên đỉnh Nhất Tự quan sát tình hình doanh trại quân Thanh, phát hiện đội vận lương trước đây vẫn liên tục ra vào đã ngớt hẳn đi, lương thực chuyển đến cũng giảm đi rất nhiều, trong cuộc chiến tiêu hao lương thực này, xem ra quân Thanh đã bắt đầu thất thế. Lục Kiều Kiều và Hồng Tuyên Kiều bàn bạc với nhau, vạch ra một kế hoạch đánh úp rất táo bạo.
Vào một đêm trăng mờ gió lặng, hai trăm nữ binh vận áo đen, võ công cao cường mang theo một lượng lớn địa lôi hỏa dược, dưới sự chỉ huy của Tô Tam Nương lẻn vào doanh trại quân Thanh, nhét địa lôi vào kho lương kích nổ, ngọn lửa đẹp đẽ bùng lên thiêu đốt suốt một đêm, doanh trại quân Thanh biến thành biển lửa. Quân Thanh thương vong không nhiều, song những kẻ sống sót còn đau khổ hơn người tử thương, bởi ngày ngày phải ôm bụng rỗng, đợi ít nhất nửa tháng nữa lương thực tiếp tế từ phủ Quảng Châu mới tới, cứ đà ấy, mấy ngàn gã đàn ông chẳng mấy mà chết đói, quân Thanh đành tìm tới các huyện trưng thu lương thực. Cả vùng núi Bắc Quảng Đông vốn nghèo xơ xác, lại bị quân Thanh hạch sách đủ thứ suốt mấy tháng nay, đã chẳng còn lương thực dự trữ nữa, đám quan quân đi trưng thu sau khi trút giận một phen cũng đành ra về tay trắng. Chủ tướng quân Thanh thẹn quá hóa giận, lập tức phát động một đợt tấn công lên núi Kim Kê báo thù, hòng lấy lính đói đánh lên núi cướp lương, song nước cờ này cũng đã nằm trong tính toán của Lục Kiều Kiều.
Các khe núi trên núi Kim Kê đã chuẩn bị sẵn đá tảng, còn sắp sẵn một món quà hay ho hơn cả đá tảng để tặng quân Thanh, chỉ đợi chúng tới lấy.
Lục Kiều Kiều và Hồng Tuyên Kiều mỉm cười đứng bên đống củ cải cao bằng người, nhìn toán quân Thanh xếp thành một hàng dọc dũng mãnh chém giết xông lên núi, cờ lệnh vừa phất, các nữ binh liền nhặt củ cải ném xuống tới tấp, thoạt đầu, đám lính Thanh còn kêu la tháo chạy, sau đó chợt nghe rộ lên tiếng hoan hô: “Đừng sợ, đừng sợ, là củ cải mà! Bọn giặc cái trên núi chỉ ném củ cải xuống thôi, các anh em xông lên nào!”
Song lần này đám quân Thanh xông lên đâu được may mắn thế, nghênh đón chúng là hàng loạt đá tảng hàng thật giá thật, lính Thanh đã bỏ khiên, chỉ vận đồ nhẹ ùa lên, lập tức bị đánh ngã rất nhiều. Có điều toán lính vây đánh núi Kim Kê là quân Bát Kỳ, không vì thất bại một đôi lần mà dễ dàng thoái lui, đội súng Tây phía sau dưới sự yểm hộ của đội khiên tức thì xông lên phản kích. Nào ngờ nữ quân tại các công sự phòng ngự ở khe núi cũng rút súng ra bắn trả. Loại súng này có từ thời Minh, khác súng Tây ở chỗ chỉ bắn ra đạn sắt chứ không phải đạn chì chuẩn xác, nòng súng dài như kèn xô na song ngắm bắn cũng chẳng chính xác, có điều hàng loạt người cùng nổ súng như vậy cũng gây được uy lực đáng sợ trong đánh giáp lá cà.
Lửa từ họng súng kèm theo đá lớn đổ ập về phía đội súng Tây của quân Thanh, các binh sĩ bị đá đập trúng phải chịu đau, nhưng những kẻ bị súng bắn trúng lại thấy thân thể không bị thương nặng như dự kiến, tựa hồ lửa đạn chỉ là hư trương thanh thế. Chúng phát hiện chỗ khôi giáp bị bắn trúng dính đầy những đốm trắng, trên mặt đất cũng rải đầy tấm và bỏng nổ, nhặt lên bỏ vào miệng nhai thấy thơm ngát. Bấy giờ chúng mới cảm thấy giặc tóc dài trên núi có điểm bất thường, dù không có đạn sắt cũng không thể nào lấy thóc lúa ra đánh trận chứ, rõ ràng là khoe khoang mình có thóc gạo đầy bồ, quả thật khinh người quá lắm. Nghĩ vậy, các tướng lại hăng hái tinh thần, xua quân tiếp tục đánh lên núi.
Quân Thanh hừng hực khí thế đánh lên núi, khi đi tới khúc quanh nguy hiểm dễ bị phục kích, ai nấy đều hết sức cẩn thận, sẵn sàng tránh đá, song lại không khỏi mong đợi sẽ có củ cải ném xuống, lần này chẳng rõ sẽ là đá tảng hay củ cải đây?
Chợt trên đầu vang lên mấy tiếng gà kêu, rồi một con gà mái mập ú bay thẳng về phía chúng. Một tay thiện xạ Bát Kỳ đói rã họng không nhịn nổi giơ súng bắn một phát, trong tiếng súng nổ giòn tan, con gà mái tức thì rơi xuống, khiến cả đám lính Thanh trợn tròn mắt nhìn. Chẳng bao lâu sau, tiếng reo mừng lại lao nhao rộ lên, mười mấy con gà mái béo mập lần lượt bay ra, lập tức trong khe núi vang lên một đợt súng, cả đám gà đều bị quân Bát Kỳ bắn hạ, trên núi rào lên một tràng vỗ tay nhiệt liệt, các nữ binh cũng không ngớt lời tán thưởng tài thiện xạ của lính Bát Kỳ. Cả đám binh lính hối hả nhặt gà, vui đến nỗi cười toe toét. Có điều tiếng súng vừa dứt, nguy hiểm liền ập tới, lần này bay xuống lại là đá tảng, đội súng Tây vội vã xách gà vừa chạy vừa lăn xuống núi, đánh chết cũng không chịu tấn công lên nữa, chỉ nhăm nhăm muốn chén một bữa gà nướng trước đã.
Cuộc chiến không công bằng như vậy chẳng thể kéo dài quá lâu, cái gọi là tấn công mang tính báo thù về lý thuyết đã hoàn thành, chẳng mấy chốc, quân Thanh bèn thu binh vượt sông về trại, báo cáo tình hình chiến trận hôm nay lên tổng binh.
Mấy tháng trước, để phát binh chi viện phương Bắc, Thiên tổng Bố Thái đã được tạm thăng lên chức tổng binh, đẩy ra chiến trường, sau khi nghe các tướng lĩnh chỉ huy báo cáo xong, ông ta hối hả trở về trướng trung quân. Trong trướng đã bày một nồi lớn gà hầm củ cải, mùi mỡ gà thơm ngào ngạt, A Đồ cách cách và mấy a ca đang ngồi bên bàn gắp lấy gắp để thịt gà bỏ vào cháo, thấy Tổng binh Bố Thái bước vào tất cả đều dừng đũa.
Thiên tổng Bố Thái cau mày nhìn nồi gà hầm, âm thầm vắt óc nghĩ kế hoạch tiếp theo. Ông dùng hai ngón tay bốc một miếng gà bỏ tọt miệng, nhai kỹ một hồi, nuốt cả xương vào bụng rồi thè lưỡi liếm mép nói: “Mùi vị không giống gà Thanh Viễn nhỉ.”
A Đồ cách cách nói ngay: “Đây là gà trống thiến bản địa, mỗi con nặng năm sáu cân đấy, thịt hơi dai nên chúng con đem hầm củ cải, nhưng mỡ rất thơm, củ cải cũng ngon lắm.”
“Củ cải cũng là từ trên núi ném xuống ư?” Tổng binh Bố Thái dứt lời lại nếm một miếng củ cải, lập tức thấy miệng ngọt thanh, suýt nữa thốt lên khen ngon. Ông trợn mắt nuốt chửng miếng củ cải, bắt gặp A Đồ cách cách và mấy a ca đều đang gật đầu với mình.
Tổng binh Bố Thái mấy ngày nay đã mệt nhoài vì chuyện bị đốt lương, đến giờ mới có được miếng ăn ngon, mà còn là lương thực của quân địch phải đổi bằng mạng sống của biết bao tướng sĩ, nghĩ vậy, ông lại đau đớn rã rời ngồi xuống, chẳng còn lòng dạ nào ăn nữa. Đàn con thấy cha không ăn, cũng chẳng ai dám động đũa.
Tổng binh Bố Thái gỡ mũ giáp đội đầu ném lên bàn, bực bội nói: “Các con cứ ăn đi, ta không bụng dạ nào ăn nữa.”
A Đồ cách cách khẽ hỏi dò: “Cha ơi, hay là ta lui binh đi?”
Nào ngờ Tổng binh Bố Thái vừa nghe liền ngồi thẳng dậy quát lớn: “Mày đùa kiểu gì đấy!”
A Đồ cách cách cúi đầu lầm bầm: “Không đánh lên núi được, mấy nghìn người đói khát, lại không trưng thu được lương thực, mà người bị thương rất nhiều…”
Tổng binh Bố Thái ngoảnh lại nhìn xem có người ngoài nào bước vào trướng trung quân không, rồi mới ghé sát mặt A Đồ cách cách đáp khẽ: “Chúng không lui binh trước, ta làm sao lui binh? Dù thế nào ta cũng phải tấn công lên núi, còn viết báo cáo gửi lên, mới có thể về Quảng Châu trình báo được.”
A Đồ cách cách ghé sát lại gần hơn: “Cha à, chi bằng… để con lên núi bảo họ đi, được không?”
Tổng binh Bố Thái lại dựng thẳng người dậy, trợn trừng mắt nhìn A Đồ cách cách, ánh mắt đầy vẻ nghi hoặc và khó hiểu.
A Đồ cách cách đứng dậy đến bên cạnh Tổng binh Bố Thái, thì thầm vào tai ông: “Lúc con bỏ nhà ra đi, từng kết bạn với thủ lĩnh của cánh quân tóc dài này, con sẽ bảo họ rằng cha không đuổi đánh họ nữa, để họ đi suốt đêm rời khỏi nơi này, sau đó cha tấn công lên núi, như vậy quay về có thể viết chiến báo rồi… Cha đừng nghĩ ngợi nhiều nữa, chuyện này càng nhanh càng tốt, ít nhất ta phải lui về phủ Thiều Châu mới có lương thảo được.”
Thiên tổng Bố Thái đảo mắt một vòng, trông thấy mấy a ca lại bắt đầu ăn gà, bèn hạ giọng bảo: “Để lại cho ta một ít. A Đồ, con đi mau đi… Ấy, ăn no đã hẵng đi nhé.”
Gương mặt A Đồ cách cách lập tức lộ ra nụ cười mừng rỡ, cô cắn một miếng gà ngậm trong miệng rồi ôm mũ giáp ra khỏi doanh trại, vượt sông lên núi Kim Kê.
Băng qua Vũ Giang chính là trấn Bình Thạch, ngẩng đầu liền trông thấy núi Kim Kê cao ngất chọc trời, A Đồ cách cách cởi khôi giáp trên người, bỏ cả đao và cung tên, chỉ mặc một bộ kỳ bào bó chẽn, chạy như bay lên núi, được nữ binh canh phòng chỉ dẫn, chẳng bao lâu cô đã đến trước đại doanh trung quân của nữ quân. Lục Kiều Kiều đang thao luyện binh sĩ tại vạt đất bằng trên đỉnh núi, chợt thấy A Đồ cách cách một mình lên núi, không giấu được vẻ kinh ngạc:
“Thỏ con? Em vẫn ở đây ư?”
A Đồ cách cách đỏ bừng mặt chạy đến trước Lục Kiều Kiều, hổn hển nói: “Chị Kiều, em muốn lên gặp chị từ lâu rồi kia, lần trước ở phủ Thiều Châu, em bị chị bắn rơi xuống nước, chưa kịp nhìn kỹ chị, thì ra càng lúc chị càng trẻ thế này.”
Lục Kiều Kiều phổng mũi vì được khen, cười hì hì đáp: “Đâu có đâu có, chẳng qua phong thủy núi này tốt, chúng ta ăn sung ở sướng nên mới béo trắng ra thôi, ha ha ha… Em lớn lên cao hơn cả chị rồi, trông ra dáng con gái lắm, mặt mày lại hồng hào…” Vừa nói, Lục Kiều Kiều vừa đưa tay vuốt má A Đồ cách cách, coi cô như một đứa bé. A Đồ cách cách thầm nghĩ, cao hơn Lục Kiều Kiều có khó gì, xưa nay Lục Kiều Kiều chỉ cao chừng bốn thước rưỡi, dung mạo hiện giờ còn trẻ hơn cả mấy năm trước, người không biết còn tưởng cô mới mười sáu mười bảy tuổi.
“Nào, ta ra chỗ nào mát mẻ chuyện trò đi.” Lục Kiều Kiều kéo tay A Đồ cách cách đi về phía hang động vẫn thường bàn bạc quân cơ. A Đồ cách cách ngoái lại nhìn đám nữ binh đang thao luyện, thấy họ bày binh bố trận ngay ngắn chỉnh tề, thao diễn trận pháp thiên biến vạn hóa, cô nhìn mà chẳng hiểu gì hết; động tác của các nữ binh đều mạnh mẽ, tiếng hô “giết” vang trời, Hồng Tuyên Kiều đứng trên bệ điểm tướng, thắt lưng cắm cờ lệnh ngũ sắc, oai phong lẫm liệt, thoạt nhìn cũng biết đây là một đội quân thép đánh đâu thắng đó, so với bốn ngàn tên lính Bát Kỳ nghiện rạc dưới núi quả là một trời một vực.
A Đồ cách cách đi theo Lục Kiều Kiều, len lén nói: “Chị Kiều à, em không có thời gian hàn huyên lâu với chị đâu, quân lính Bát Kỳ dưới núi do cha em chỉ huy, hiện giờ lương thảo không đủ, giặc tóc dài đã đánh đến Vũ Xương, chúng em không thể cứ đóng quân bao vây nơi này nữa…”
“Hở? Các người cũng biết đã đánh đến Vũ Xương, sao còn không đuổi theo truy sát?”
A Đồ cách cách biết Lục Kiều Kiều đang châm chọc, đành cười trừ đáp: “Em đã chứng kiến tài điều binh của chị Kiều rồi, chị cần gì chế nhạo chúng em nữa. Cha em vốn là quân phòng ngự Quảng Châu, không phải đi xa chinh chiến, nhưng triều đình hiện giờ điều binh khiển tướng loạn cả lên, nên cha em mới bị phong quan đẩy ra chiến trường, nào ngờ lại gặp phải chị. Hiện giờ dưới núi đã cạn lương, chúng em phải mau chóng lui về Lạc thành hoặc Thiều Châu mượn lương, nhưng nếu rút lui như vậy, trở về cha em sẽ bị trị tội, bởi thế em muốn xin chị dẫn quân xuống núi trước, sau đó để cha em lên núi dạo quanh một vòng, quân Bát Kỳ sẽ lập tức lui về Quảng Châu trình báo.”
Nghe A Đồ cách cách nài nỉ, Lục Kiều Kiều cười thầm trong bụng, nhưng chỉ lặng thinh không nói, dắt A Đồ cách cách đến bên một chiếc bàn trước hang động ngồi xuống, ung dung pha một ấm trà: “Chúng ta không định xuống núi đâu, em cũng biết đấy, đại quân di chuyển phiền phức lắm, các người chẳng có lương thảo gì, hóa ra lại nhẹ nhàng nhanh nhẹn, chúng ta ở đây đầy đủ cả ba quân, súng pháo quân lương cái gì cũng chất thành đống, đâu phải nói đi là đi được. Em thấy đấy, chúng ta toàn đàn bà con gái, nếu rời khỏi đây thì biết đi đâu? Chẳng phải lại đến Vũ Xương đánh trận với đàn ông ư? Ai muốn liều mạng ngu ngốc thế chứ, trên núi Kim Kê, chúng ta có thể trồng trọt nuôi gà nuôi cá, tự cung tự cấp, ngày nào thiên hạ còn chưa dứt nạn binh đao thì chúng ta chưa xuống núi.”
A Đồ cách cách nghe Lục Kiều Kiều nói vậy, cơ hồ muốn khóc òa lên, lắc lắc tay Lục Kiều Kiều vật nài: “Chị Kiều ơi, cha em là người thật thà, chị đừng trêu chọc ông ấy nữa, mấy ngày nay dưới núi chỉ há mồm chờ ăn, hôm qua chị còn tặng cho họ mười mấy con gà, ăn rồi bụng càng đói hơn…”
Lục Kiều Kiều và các thân binh bên cạnh nghe thấy câu này liền cười phá lên, Lục Kiều Kiều cười đến nỗi thở không ra hơi, hổn hển hỏi: “Em cũng ăn gà ư? Mùi vị thế nào?”
“Thơm lắm, nhưng thịt hơi dai…” A Đồ cách cách không cười nổi, đỏ bừng mặt thật thà đáp.
“Lát nữa sẽ cho em thêm mấy con nữa, lúc hầm nhớ đổ thêm ít giấm, thịt gà sẽ mềm.” Lục Kiều Kiều dứt lời, lại không nhịn được cười phá lên.
“Còn việc của cha em…” A Đồ cách cách lo lắng hỏi.
Lục Kiều Kiều cười chán chê mới mỉm cười hiền hậu, nắm lấy tay A Đồ cách cách như chị gái nắm tay em, dịu dàng nói: “Hiện giờ đôi bên đang đánh trận, chị không thể tin bất cứ lời nào của cha em, thậm chí cũng không thể tin em, bởi thế chúng ta không thể phối hợp với em được. Có điều, nếu cha em thực sự cần một bản chiến báo để trở về có cái trình lên, văn thư của chúng ta sẽ viết cho em một bản, miêu tả rõ địa hình địa mạo trên núi cùng vị trí đóng quân của chúng ta, quay về em cứ dựa theo báo cáo giả ấy mà trình bày là được. Đương nhiên những gì tiết lộ cho em chỉ có chừng mực thôi, không thể miêu tả cách bày binh bố trận thực sự cho các người được, nhưng cũng sẽ có vài phần sự thật, quan lại ở Quảng Châu sẽ không nhìn ra được thật giả đâu.”
“Vậy…” A Đồ cách cách bối rối nhìn Lục Kiều Kiều, Lục Kiều Kiều vỗ vỗ lên tay cô bảo: “Thỏ con à, giờ chúng ta cái gì cũng có, các người cái gì cũng không có, đừng đề cập đến giá cả nữa, bằng không chọc cho mấy nghìn nữ binh này nổi giận, kéo xuống núi cướp trại thì bốn ngàn binh lính dưới kia chẳng biết còn bao nhiêu người về được Quảng Châu đâu. Em không phát hiện ra ư? Nửa năm nay chúng ta vẫn nương tay không chủ động tấn công, em nghĩ là tại sao nào? Vì chị đoán rằng em ở dưới núi, nếu Thiên quân không cẩn thận lỡ giết mất cô bé đáng yêu như em, chị sẽ áy náy lắm đó.”
A Đồ cách cách nhìn thấy vẻ chân thành trong mắt Lục Kiều Kiều, biết câu này không phải nói đùa, liền cảm kích gật đầu. Lục Kiều Kiều bèn gọi văn thư thảo chiến báo, A Đồ cách cách ghé lại ngồi xuống bên cô, hỏi: “Chị Kiều có biết A Văn ở đâu không?”
Lục Kiều Kiều kinh ngạc nhìn A Đồ cách cách, miệng há ra hồi lâu không thốt nên lời, khó khăn lắm mới nặn ra được một câu: “Em chịu khổ ở đây nửa năm nay là vì chuyện này ư?”
Thấy A Đồ cách cách chăm chú nhìn mình, Lục Kiều Kiều thở dài: “Em là người Mãn, cậu ta là đệ tử Hồng môn, chỉ chăm chắm phản Thanh phục Minh, hai người sao có thể ở bên nhau được?”
“Chẳng phải chị Kiều cũng thành thân với Jack đấy ư?”
“Nhưng nước Mỹ và Trung Quốc đâu có đánh nhau.”
“Nếu đánh nhau thì sao?”
Thấy A Đồ cách cách cứ vặn riết, Lục Kiều Kiều ấp úng đáp: “Vốn dĩ không đánh mà, nếu có đánh cũng chẳng liên quan gì đến chúng ta… Nói thế này vậy, chuyện của chị và Jack không giống chuyện của em, dù em có tìm thấy cậu ta, thì người ta cũng phải thích em mới được chứ?”
“Em đối tốt với cậu ta, sao cậu ta có thể không thích em?”
Lục Kiều Kiều bật cười: “Vậy… Em đối tốt với người ta là người ta phải thích em ư?”
“Đúng rồi, ai đối tốt với em em cũng sẽ thích người đó.” A Đồ cách cách hồn nhiên đáp.
Lục Kiều Kiều cau mày gãi đầu lẩm bẩm: “Thế này thì… phiền thật… người nhà em nhất định sẽ đánh chết em đấy…”
“Chị Kiều từng bảo chúng em, khi một người cam tâm tình nguyện làm trẻ mồ côi thì mới trưởng thành thực sự kia mà. Giờ em hiểu ý chị rồi.”
Lục Kiều Kiều lấy làm lạ hỏi: “Chị từng nói thế ư? Nói lúc nào cơ?”
“Trên núi Đỉnh Hồ, tháng Bảy năm Kỷ Dậu ấy.”
Lục Kiều Kiều nghiến răng gãi đầu rồn rột mấy cái: “Oh my God… Mấy câu này em đều nhớ cả, nói chuyện với em đúng là phải cẩn thận, cẩn thận.”
“Cha em nói sẽ không quản việc của em, chỉ cần là người em thích, ông đều chấp nhận hết.”
Lục Kiều Kiều thở hắt ra chống lưng nói: “Em tốt số thật đấy, còn được một người cha như vậy nữa, chính là người ở dưới núi ư?”
A Đồ cách cách ừm một tiếng, đoạn nôn nóng hỏi: “Chị Kiều, em muốn gặp A Văn lắm, chị biết cậu ta ở đâu thì nói cho em đi.”
“Thời gian chị gặp cậu ta còn ngắn hơn em mà, chị cũng chẳng nhận được tin gì về Long Nhi và A Văn, Long Nhi còn chủ động rời xa chị nữa.”
“Chị Kiều gieo quẻ như thần, chị bói hộ em một quẻ đi, em xin chị đấy.”
Lục Kiều Kiều bất lực hỏi: “Chị bói ra rồi em định thế nào đây? Đi tìm cậu ta luôn, không theo cha em về Quảng Châu?”
“Phải.” A Đồ cách cách kiên quyết đáp.
Lục Kiều Kiều nhìn vào mắt A Đồ cách cách, thấy ánh mắt cô đầy vẻ kiên định cố chấp. Lục Kiều Kiều gật đầu tán thưởng: “Con gái người Mãn muốn là làm, thỏ con quả nhiên là nữ nhân chân chính, nếu chị là đàn ông, hẳn cũng sẽ thích em. Chị sẽ đoán cho em một chữ, em chọn lấy một chữ đi.”
“Nơi này là núi Kim Kê, em muốn đoán chữ ‘kê’.”
Lục Kiều Kiều nghe nói phì cười: “Ha ha, chị thấy em thèm ăn gà đến phát điên rồi. Chữ kê bên trái là bộ hề, bên phải là bộ điểu, dưới chữ điểu có bốn chấm làm chân, bên trong có một chấm ý chỉ đứa trẻ trong lòng, bên cạnh cậu ấy bây giờ có bốn người lớn, một đứa nhỏ… Bốn người lớn một đứa nhỏ à?” Lục Kiều Kiều nói đến đây bỗng trầm ngâm. Cô ý thức được Cố Tư Văn đang ở cạnh những ai: Jack nhất định đã tìm thấy con gái, song vẫn chưa chia tay An Long Nhi và Cố Tư Văn, bọn họ cộng thêm Sái Nguyệt vừa đúng bốn người lớn, nếu lại thêm một đứa bé, chính là ứng với dịch tượng của chữ điểu.
A Đồ cách cách thấy Lục Kiều Kiều nói được nửa câu thì nín lặng, nôn nóng hỏi: “Chị Kiều, sao thế?”
“Không sao. Chữ hề bên trái thêm ba chấm là khe suối, suối là thủy tượng phương Bắc, chim là hỏa tượng phương Nam, chim bay qua khe suối hàm ý đi từ phía Nam lên phía Bắc.”
A Đồ cách cách hỏi: “Vậy em phải đi theo hướng đó để tìm A Văn ư? Liệu có tìm được không?”
“Hừ…” Lục Kiều Kiều buột ra tiếng cười bất đắc dĩ, đón lấy bức chiến báo nữ văn thư trình lên, xem qua rồi đáp: “Nếu em cứ khăng khăng muốn tìm cậu ta, thì phải chuẩn bị tâm lý gặp rồi sẽ càng đau khổ hơn, bên trong chữ hề có bộ ti, mấy người bọn họ có tình cảm thầm kín với nhau, nếu thay chữ hề bằng chữ khẩu thì thành chữ minh, ứng với loan phượng hòa minh[59], cậu ta và Sái Nguyệt có lẽ đã tình chàng ý thiếp, chẳng dung được em nữa rồi.”
A Đồ cách cách nghe nói liền biến sắc: “Không thể nào, Sái Nguyệt thích Long Nhi, đâu có thích A Văn!”
“Em hỏi vị trí của Cố Tư Văn, chữ kê này đoán về việc của Cố Tư Văn, chuyện tình cảm ấy rõ ràng có liên quan đến cậu ta. Thỏ con à, nên biết rằng lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, dù em yêu một người đến đâu, nhớ nhung người ta chừng nào chăng nữa, nhưng nếu xa nhau lâu ngày thì tình cảm sẽ nhạt nhẽo dần; ngược lại nếu ngày ngày kề cận, chỉ cần không có mâu thuẫn gì lớn, dần dà sẽ càng lúc càng thân quen, nhất là đàn ông và phụ nữ, thân quen rồi sẽ nảy sinh tình cảm.”
A Đồ cách cách quật cường đáp: “Em mặc kệ, hai năm nay em đã suy xét kỹ, rốt cuộc mình thích người thế nào, muốn sống một cuộc sống ra sao rồi. Em phải tìm A Văn hỏi cho rõ ràng, chị chỉ cần cho em biết phải đi về hướng nào để tìm thấy cậu ta là được.”
Lục Kiều Kiều trao bản chiến báo cho A Đồ cách cách, dặn dò: “Đường là do mình chọn lấy, em từng nói với chị, theo đại quân đi lên phía Bắc là lựa chọn của em, nên nếu em rời bỏ đại quân, sau này cũng đừng hối hận. Vừa rồi chị đã nói đấy thôi, bọn họ đang đi lên phía Bắc, cứ theo ý chim Nam bay lên phía Bắc đến bờ nước mà suy, hẳn bọn họ sẽ đến Trường Giang, gà lại là loài sống theo bầy, bởi thế rất có thể họ đang đến hội quân với cánh chủ lực của Thiên quân, hiện giờ em lên đường đến Vũ Xương, men theo Trường Giang sẽ gặp được họ. Có điều Thiên quân chuyên giết người Mãn, em đi như vậy chẳng phải là tự tìm chết ư?”
“Cởi bộ đồ này ra thì mọi người đều nói tiếng Hán, ai phân biệt được là người Mãn hay người Hán chứ, em chẳng sợ.” A Đồ cách cách nhận lấy chiến báo chắp tay chào Lục Kiều Kiều: “Cảm ơn chị Kiều chỉ dẫn, tuy A Đồ là người Mãn, nhưng mãi mãi sẽ coi chị như người chị tốt, em xuống núi đây.” Dứt lời liền chạy như bay xuống núi, Lục Kiều Kiều nhìn theo bóng cô, cười gượng.
Hồng Tuyên Kiều luyện binh xong đi tới trước hang động hỏi: “Cô bé đó tới đây làm gì vậy?”
Lục Kiều Kiều rầu rĩ đáp: “Tới tìm tội để mang.”